Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Đánh giá chất lượng nguồn nước sinh hoạt tại khu vực trường Đại học Y Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.06 KB, 38 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khoẻ theo quan niệm hiện nay là một khái niệm tổng hợp về tình
trạng cơ thể liên quan mật thiết đến môi trường [13]. Trạng thái sức khoẻ của
con người là tiêu chuẩn tổng hợp nhất của tình trạng môi trường. Những chỉ
tiêu sức khoẻ của nhân dân được coi như tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng
môi trường. Một sự thay đổi của môi trường bên trong hay bên ngoài đều tác
động lên sức khoẻ ở mức độ nhất định. Cho tới nay, tình hình sức khoẻ, bệnh
tật và tử vong ở các nước vẫn bị chi phối bởi các yếu tố sinh học trong môi
trường: đất, nước, không khí và thực phẩm thiếu vệ sinh [3]. Việc cung cấp
nước đầy đủ về chất lượng và số lượng có một ý nghĩa quan trọng, nó sẽ làm
giảm đi 50% số tử vong của trẻ em và giảm đi 25% các trường hợp ỉa chảy
[38]. Năm 1990, UNICEF , cũng đã chỉ rõ, hàng năm tại các nước đang phát
triển có khoảng 14 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị chết, hơn 3 triệu trẻ em bị tàn tật
nặng là hậu quả của nhiễm bẩn nước, vệ sinh kém và ô nhiễm môi trường [34].
Theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới năm 1985 tại các nước châu á:
60% số người bị nhiễm trùng và 40% các trường hợp bị tử vong là do các căn
bệnh truyền qua nước [36].
ở Việt Nam, nhiều tác giả đã nghiên cứu chất lượng nguồn nước sinh
hoạt tại các khu vực dân cư cho thấy: 99% số mẫu nước sinh hoạt được nghiên
cứu tại tỉnh Thái Bình năm 1994 không đạt tiêu chuẩn cho phép về chỉ số
coliform, 93% số mẫu nước không đạt tiêu chuẩn fecal coliform [15]. Tại tỉnh
Yên Bái có 65,7% mẫu nước sinh hoạt được xét nghiệm năm 2000 không đạt
tiêu chuẩn [11]. Trong một nghiên cứu tại 6 bệnh viện tuyến tỉnh năm 2002 cho
thấy: có tới trên 40% số mẫu xét nghiệm nước sinh hoạt sử dụng trong các
bệnh viện được nghiên cứu không đạt tiêu chuẩn [7].
Hà Nội là một thành phố đông dân cư, tập trung nhiều nhà máy, bệnh
viện hàng ngày đang thải vào môi trường nhiều chất thải có nguy cơ gây ô
nhiễm. Trường Đại học Y Hà Nội cũng nằm trong thực trạng đó. Khu vực
trường Đại học Y Hà Nội là khu vực hỗn hợp bao gồm:
- Khu hành chính
- Khu ký túc xá của học viên và sinh viên là những người hàng ngày


công tác và học tập tại các bệnh viện, thường xuyên tiếp xúc với người bệnh.
- Khu các bộ môn: thường xuyên nhận và xử lý các bệnh phẩm có liên
quan tới người bệnh để phục vụ công tác đào tạo và nghiên cứu như: bộ môn
Vi sinh vật, Mô học, Sinh học, Labo trung tâm, Sinh hoá, Sinh lý, Sinh lý bệnh,
Khoa y tế công cộng…
*Như vậy liệu môi trường tại Đaị học Y Hà Nội có nguy cơ bị ô nhiễm
không? Cho tới nay vẫn chưa có nghiên cứu nào làm sáng tỏ câu hỏi trên. Vì
vậy để góp phần đánh giá môi trường tại khu vực trường Đại học Y Hà Nội,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm hai mục tiêu sau:
1- Đánh giá chất lượng nguồn nước sinh hoạt tại khu vực trường Đại học
Y Hà Nội thông qua các vi khuẩn chỉ điểm vệ sinh.
2- Xác định một số vi khuẩn gây ô nhiễm thường gặp trong nước.
Chương 1
tổng quan
1.1. Vai trò của nước sạch
Cũng như không khí và thực phẩm, nước rất cần thiết cho sự sống con
người và các sinh vật. Vấn đề cung cấp nước đầy đủ và sạch là một trong
những điều kiện cơ bản để bảo vệ sức khoẻ con người, thể hiện tính ưu việt
của xã hội, trình độ tiến bộ của sản xuất.
Vai trò chính của nước:
+ Nước là một thực phẩm cần thiết cho đời sống và nhu cầu sinh lý của cơ
thể. Nước chiếm thành phần quan trọng trong cơ thể con người (63%), trong
huyết tương và các phủ tạng có tỷ lệ cao hơn. Nước tham gia vào các quá trình
chuyển hoá các chất, đảm bảo sự cân bằng các chất điện giải, điều hoà thân
nhiệt. Trung bình một ngày mỗi người cần từ 1,5-2,5 lít nước. Những người làm
công việc nặng nhọc hay trong thời tiết nóng bức thì số lượng nước được hấp thụ cần
nhiều hơn để bù đắp số lượng nước bài tiết qua da, phổi, thận.
+ Nhờ nước mà các chất bổ được đưa vào cơ thể để duy trì sự sống. Nước
cung cấp cho cơ thể các nguyên tố cần thiết như: iod, flour, mangan, kẽm, sắt,
vitamin và các acid amin.

+ Nước cần thiết cho nhu cầu vệ sinh cá nhân, vệ sinh xã hội, cho cứu hỏa
và các yêu cầu xã hội khác.
Tuy nhiên nước cũng là môi trường trung gian lan truyền các bệnh dịch
như: thương hàn, tả, lỵ, viêm gan, bại liệt. Nước hoà tan các chất thải, các
chất độc hoá học, các chất phóng xạ, chất gây ung thư có thể tác hại đến con
người [24].
1.2. Tình hình ô nhiễm môi trường nước
1.2.1. Định nghĩa
Ô nhiễm nước là sự biến đổi các thành phần của nước khác biệt với trạng
thái ban đầu. Đó là sự biến đổi các chất lý, hoá, vi sinh và sự có mặt của chúng
trong nước làm cho chúng trở thành độc hại [24].
.Thay đổi về lý học: màu, mùi, vị, độ trong.
.Thay đổi về thành phần hoá học: các chất vô cơ, các chất hữu cơ, các
chất độc.
.Thay đổi về sinh vật: làm tăng hoặc giảm các vi sinh vật hoại sinh, xuất
hiện vi khuẩn và virut gây bệnh.
1.2.2. Nguyên nhân ô nhiễm nước bề mặt
Việc đẩy mạnh công nghiệp hoá và kỹ thuật canh tác nông nghiệp đã đưa
nền kinh tế phát triển không ngừng, tuy nhiên vấn đề chất thải gây ô nhiễm môi
trường cũng là vấn đề cấp bách cần được quan tâm. Chất thải từ các nhà máy, xí
nghiệp gây ô nhiễm môi trường phần lớn bị dồn chảy vào sông, hồ và cuối cùng
tích tụ ở đáy đại dương [12]. Tại Mỹ (1950) hơn 200 km
2
nước (tương đương
với 1/4 dòng chảy thường xuyên của Mỹ) đã cho chạy qua các nhà máy điện
nguyên tử và làm tăng nhiệt độ 10-12
0
C, phá vỡ nghiêm trọng hệ thống thuỷ
văn. Anwar và CS (1999) nghiên cứu về chất lượng nước uống ở Punjab cho
thấy 95,83% giếng khoan và 91,3% bể chứa nước bị nhiễm khuẩn [33].

Phần lớn các nước trên thế giới có sử dụng nước bề mặt, ở Anh là 2/3,
Mỹ là 1/2, Nhật đến 90% tổng nước sử dụng, ở một số nước khác như Cộng
hoà liên bang Đức và Hà Lan lại hoàn toàn sử dụng nước ngầm (vì nước bề
mặt đã bị ô nhiễm).
Nước ao, hồ, sông, suối (nước bề mặt) là nguồn nước ngọt quan trọng,
nhưng con người đã làm cho nguồn nước này bị ô nhiễm bởi những chất thải,
điều này ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sức khoẻ người dân. Các nguyên
nhân dẫn đến ô nhiễm nước bề mặt:
+ Do chất thải công nghiệp:
Theo tính toán của một số chuyên gia, cứ 1 m
3
nước bị ô nhiễm sẽ làm
cho 50-60 m
3
nước ngọt khác không sử dụng được. Trên thế giới hiện nay cứ
mỗi năm có tới 500 km
3
nước bị ô nhiễm trộn vào nước nguồn tự nhiên trên trái
đất, làm cho khoảng 2 tỷ người thiếu nước ngọt hợp vệ sinh [8].
Mặc dù các nước đã có những quan tâm đúng mức tới nguồn tài nguyên
nước: năm 1950, Mỹ thành lập ủy ban cố vấn về các nguồn tài nguyên nước,
năm 1956, ủy ban thanh tra quốc tế về nước được thành lập. Tuy nhiên quá trình
công nghiệp hoá diễn ra với tốc độ nhanh, các biện pháp bảo vệ môi trường chưa
đủ mạnh nên tình hình ô nhiễm nước ngày càng trở nên trầm trọng.
+ Do phát triển nông nghiệp :
Những thành tựu của khoa học kỹ thuật trên toàn cầu không chỉ thúc đẩy
ngành công nghiệp hoá phát triển không ngừng mà sự thâm canh tăng năng suất
nông nghiệp cũng luôn được cải tiến. Sản lượng nông nghiệp hàng năm đã được
nâng lên nhờ chất lượng giống và sử dụng các loại thuốc diệt trừ sâu bệnh.
Nhưng cũng chính điều này đã mang lại những hậu quả tai hại ghê gớm cho môi

trường và con người, nhất là các loại hoá chất trừ sâu diệt cỏ. Qua nghiên cứu
người ta đã thấy hàm lượng thuốc trừ sâu, diệt cỏ trong nước ở một số nước
như: Pháp đạt tới 1,6-6,4 mg/l, Mỹ, một số dòng sông hàm lượng thuốc trừ sâu,
diệt cỏ cao: DDT 11,3 mg/l, Aldrin 5 mg/l. Sông Detroit hàng ngày có tới 20
triệu tấn chất thải hỗn hợp trong đó có các chất diệt côn trùng, chất diệt cỏ, dầu
hoả và các chất phóng xạ đổ vào [14].
+ Do chất thải sinh hoạt:
Trong sinh hoạt hàng ngày con người cũng thải vào môi trường một lượng
rác thải đáng kể và đấy cũng là một trong những nguy cơ gây ô nhiễm nguồn
nước bề mặt. Qua phân tích mẫu nước tại 20 điểm của 18 con sông ở Kanagawa,
Nhật Bản từ 1987-1995 cho thấy 64,7% mẫu nhiễm V.cholerae, ở Nga 98% mẫu
xét nghiệm nước sông Cama có chỉ số E.coli 10
2
-10
4
/100ml nước [1].
+ Do chất thải y tế:
Song song với việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, vấn đề quản lý
chất thải bệnh viện ở một số bệnh viện ở các nước phát triển đã được thực hiện ở
tất cả các cơ sở y tế. ở Việt Nam, mặc dù Nhà nước và Bộ Y tế đã ban hành
hàng loạt các luật, các quy chế như: Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân, Luật bảo vệ
môi trường, Qui chế chống nhiễm khuẩn bệnh viện, Quy chế quản lý chất thải y
tế…[4], [6]. Nhưng công tác quản lý, xử lý chất thải bệnh viện vẫn còn nhiều
tồn tại. Có tới 47% các bệnh viện không có bể xử lý chất thải lỏng, 15 % bệnh
viện có hệ thống xử lý chất thải lỏng nhưng không hoạt động do hỏng vì không
có kinh phi bảo trì [19]. Như vậy, những bệnh viện không có hệ thống xử lý chất
thải, nước thải được thải vào hệ thống cống công cộng. Điều này sẽ góp phần
không nhỏ trong tình trạng ô nhiễm vi sinh vật từ bệnh viện ra cộng đồng, nơi có
dòng nước thải của bệnh viện chảy qua . Rác thải nếu không được phân loại mà
thải chung với rác thải sinh hoạt hoặc chôn lấp ngay tại bệnh viện cũng là một

yếu tố gây ô nhiễm môi trường [9].
1.2.3. Nguyên nhân ô nhiễm nước ngầm
Nước ngầm là một nguồn nước vô cùng quan trọng, nó là nguồn nước
sinh hoạt không thể thiếu ở mỗi quốc gia. Một số nước như Cộng hoà Liên
bang Đức, Hà Lan hoàn toàn sử dụng nước ngầm cho sinh hoạt. Nước
ngầm hầu như phân bố khắp nơi và an toàn (sạch) hơn so với nước bề mặt,
đặc biệt là các nguồn nước ở tầng sâu dưới lòng đất. Tuy nhiên nguồn nước
ngầm ở nhiều nơi trên thế giới cũng đang có nguy cơ bị ô nhiễm do khai
thác bừa bãi, quá mức của con người cũng như bị ô nhiễm bẩn do nước thải
công nghiệp, đô thị hoá và phát triển nông nghiệp [14].
+ Do công nghiệp:
Nguồn nước ngầm trên thế giới ở nhiều nơi nói chung đang bị ô
nhiễm nặng nề bởi chất thải công nghiệp. Tại Mỹ, chất thải độc được đưa
vào các hầm ngầm dưới đất. Năm 1981 cơ quan bảo vệ môi trường của Mỹ
EPA kiểm tra hơn 52.000 cái hầm, trong đó có 12.000 cái đã làm ô nhiễm
nước ngầm (do độ phóng xạ vượt quá ngưỡng). Năm 1980 kiểm tra 27.000
cái thì 8.000 cái nằm trong vùng đất thấm và hơn 1/2 số kiểm tra đã gây ô
nhiễm nặng nước ngầm. Hiện nay có khoảng 1/2 dân số Mỹ đang dùng
nước ngầm cho sinh hoạt, vì vậy đây là vấn đề rất hệ trọng [21].
Các nhà khoa học đã cho biết, có tới 55.000 các hợp chất hoá học
khác nhau được thải vào môi trường . Thành phần cơ bản của chúng là cặn
lơ lửng, acid, este, phenol, dầu mỡ và các chất hoá học Asen, thuỷ ngân,
xyanua, cadmium, một số chất phóng xạ và đồng vị phóng xạ cũng có thể
làm ô nhiễm nguồn nước ngầm [16].
+ Do nông nghiệp:
Việc lạm dụng các hoá chất công nghiệp ở một số khu vực nông
nghiệp gây ô nhiễm nguồn nước ngầm. Ví dụ chất nitrat có thể thấm dần
xuống đất từ 0,5- 1m mỗi năm cho đến khi chúng gặp được nguồn nước
ngầm. Hàng năm có hàng tấn nitrogen gây ô nhiễm nguồn nước ngầm bằng
con đường trực tiếp hay thẩm thấu, Halwani và CS 1999, [32]. Càng ngày

người ta càng sử dụng với số lượng lớn các hoá chất bảo vệ thực vật, loại
hoá chất phân huỷ rất chậm trong môi trường tự nhiên. Đây cũng là một
nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước ngầm. Theo báo cáo trước đây, nước
ngầm ở nhiều nơi đã nhiễm các hoá chất độc hại như: DDT, lindol, monitor,
wolfatox,...[29].
+ Do sinh hoạt:
Nước ngầm cũng có thể bị ô nhiễm trầm trọng do các hoá chất sinh
hoạt. Trong một nghiên cứu ở Philippines (1991), người ta đã thấy 50%
tổng số mẫu nước giếng khơi có chỉ số fecal coliform trên 101 [1]. Một số
tác giả cũng lưu ý đến sự ô nhiễm nguồn nước ở một số nơi và hiểm hoạ của
việc này. Poclkin (1987) khi nghiên cứu chất lượng nước các vùng hạ lưu
sông Cama (Liên Xô cũ ) vào mùa xuân hè đã thấy có 96% số mẫu có chỉ số
E.coli là 10
2
- 10
3
, độ nhiễm khuẩn được đánh giá là cao [20].
1.2.4. Tình hình nghiên cứu vi sinh vật gây ô nhiễm nguồn nước trên Thế giới
Trên thế giới đã có rất nhiều vụ dịch liên quan đến nguồn nước. ở
Hoa Kì năm 1971-1985 có 502 vụ dịch với 111.228 người mắc, 42% số vụ
dịch với 68% số người mắc là do nguồn nước công cộng, do nước bề mặt
chiếm 24% số vụ dịch và 32% các trường hợp mắc [31].
Cũng tại Hoa Kì, năm 1987, 88% vụ dịch ỉa chảy mãn tính kéo dài
nhiều tháng đều do nước bị ô nhiễm [31].
Từ năm 1985, WHO cũng đã đánh giá tại các nước châu á, 60%
người bị nhiễm trùng và 40% các trường hợp tử vong là do các căn bệnh
truyền qua nước [36].
Moe CL, 1991, nghiên cứu về ô nhiễm do fecal coliform trong các
mẫu nước giếng khơi nhận thấy: 65% số mẫu có số vi khuẩn lớn hơn 101 vi
khuẩn chỉ điểm/ 100ml [30].

1.2.5. Tình hình nghiên cứu vi sinh vật gây ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam
Nguyễn Đình Sỏi và cộng sự, 1994 tại Thái Bình kiểm tra 164 mẫu
nước giếng về vi sinh vật, chỉ số coliform không đạt tiêu chuẩn vệ sinh
chiếm hơn 99% và chỉ số fecal coliform vượt quá tiêu chuẩn chiếm gần
93% [15].
Nguyễn Đình Sơn và cộng sự, 1994: kiểm tra chất lượng vệ sinh các
nguồn nước ở Thừa Thiên Huế cho thấy: 1/2 số mẫu nước sông không đạt
vệ sinh [17] .
Phạm Thị Xá, Hà Ngư và cộng sự, từ tháng 1/1990-tháng 7/1992
nghiên cứu về vi sinh vật của 54 mẫu nước nguồn cung cấp cho thị xã
Thanh Hoá thấy tới 95,8% số mẫu không đạt tiêu chuẩn vệ sinh [27].
Tại một số tỉnh phía bắc: Hải Phòng, 1987, Trần Huy Bích cho thấy
tại vòi nước có 66% không đạt tiêu chuẩn vệ sinh [2].
Vũ Đức Vọng, 1992, nghiên cứu ở Tây Nguyên cho thấy nước bị nhiễm
bẩn các chất hữu cơ và vi sinh vật theo mức độ bẩn 52%, cấm dùng chiếm 8%
[26].
Còn theo nghiên cứu về tình trạng nước sinh hoạt của Đào Xuân
Vĩnh, Nguyễn Thế Vinh và cộng sự ở Tây Nguyên thấy 90,14% mẫu nước
suối và sông không đạt tiêu chuẩn vệ sinh [25].
Tại đồng bằng Sông Cửu Long, Lê Thế Thự, 1995, nghiên cứu các
nguồn nước bề mặt thấy fecal coliform từ 1,3-2,7.10
5
/100ml nước [20].
Theo Trương Xuân Liễu và cộng sự, 1994, tại 3 xã huyện Cần Giờ có
393 trường hợp bị tả nhưng vụ dịch đã được dập tắt nhanh chóng do đã xử
lý vệ sinh nguồn nước [10].
1.3. Các vi sinh vật có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước
Nước là môi trường trung gian vận chuyển mầm bệnh tới con
người. Các vi sinh vật có nguy cơ cao gây ô nhiễm nguồn nước như:
- Các vi khuẩn thuộc họ vi khuẩn đường ruột: Salmonella,

Shigella, Enterobacter, Klebsiella, E.coli.
- Vi khuẩn tả.
- Các vi khuẩn hay gặp trong nhiễm trùng bệnh viện:
Staphylococcus aureus, P.aeruginosa.
- Các virus : Virus viêm gan, ...
Song, trong đề tài này vì điều kiện và kinh phí có hạn nên
chúng tôi chỉ đề cập về lĩnh vực vi khuẩn.
1.4. Các chỉ điểm vi sinh vật đánh giá vệ sinh nước sinh hoạt
Trước đây để đánh giá một nguồn nước đạt chỉ tiêu về vệ sinh,
người ta thường dùng các vi sinh vật chỉ thị ô nhiễm như: E.coli (được áp
dụng theo phương pháp Vincent), Streptococcus, Clotridium [23], [36].
Năm 1984, Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo hai chỉ số:
coliform và fecal coliform để đánh giá chất lượng nước sinh hoạt [37].
Coliform là những trực khuẩn Gram(-), hiếu khí, kỵ khí tuỳ
tiện, không có nha bào, có khả năng lên men lactose, sinh axit, sinh hơi ở
nhiệt độ 37
o
C trong vòng 48 giờ. Coliform sống ở đường tiêu hoá của người
và động vật, chúng còn được tìm thấy cả trong môi trường đất, nước, rau
quả…. Nhóm coliform bao gồm các giống loài: E.coli, Citrobacter,
Enterobacter, Klebsiella, Serratia... chúng được coi là chỉ điểm vệ sinh quan
trọng. Sự có mặt của chúng chứng minh rằng biện pháp khử trùng là không
đạt hiệu qủa đối với nước đã xử lý, chứng minh nguy cơ chứa đựng các
mầm bệnh.
Fecal coliform là các vi khuẩn trong số các coliform, chúng có
thể phát triển và lên men được lactose ở nhiệt độ 40-45
o
C. Fecal coliform
bao gồm một tỷ lệ lớn E.coli, nhất là typ I và II. Fecal coliform có tác dụng
để chứng tỏ đã có sự ô nhiễm do phân người và động vật.

Ngoài ra để xác định nguồn nước bị ô nhiễm phân người và
động vật đã lâu người ta dựa vào vi khuẩn chỉ điểm Clostridium
perfringenes. Clostridium perfringenes là trực khuẩn, kỵ khí tuyệt đối, có vỏ,
không có lông và không di động, sinh H
2
S. Clostridium perfringenes cũng
được coi là một chỉ điểm vệ sinh vì thường được phát hiện thấy trong phân
người và động vật. Chúng là vi khuẩn có nha bào nên chịu được nhiệt độ
cao vì vậy có thể tồn tại lâu dài ở ngoại cảnh.
Trước tình hình ô nhiễm môi trường nước và ảnh hưởng của nó
tới sức khoẻ con người trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, khu
vực trường Đại học Y Hà Nội là khu vực hỗn hợp bao gồm khu ký túc xá
của học viên, sinh viên là những người hàng ngày công tác và học tập tại
các bệnh viện, thường xuyên tiếp xúc với người bệnh. Khu các bộ môn
thường xuyên nhận và xử lý các bệnh phẩm có liên quan đến người bệnh để
phục vụ công tác đào tạo và nghiên cứu. Vì vậy, vấn đề quản lý chất thải,
tình trạng môi trường có đảm bảo hay không đã gợi ý chúng tôi tiến hành
đề tài này.
Chương 2
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu: gồm 4 khu vực
+Khu vực hành chính, giảng đường, nhà ăn, nhà xe.
+Khu ký túc xá của học viên, sinh viên (các nhà E1, E2, E3,
E5).
+Khu các bộ môn có mối liên quan tới nguồn lây nhiễm.
+Bể đầu nguồn cung cấp nước.
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu
+Khu vực hành chính (nhà A1) lấy 4 mẫu. Nhà ăn lấy 2 mẫu, một
mẫu lấy từ vòi, một mẫu lấy từ bể chứa. Khu giảng đường <Hồ Đắc Di và

B3>: lấy 7 mẫu. Nhà xe lấy 1 mẫu.
Tổng cộng : 14 mẫu.
+Khu ký túc xá của học viên và sinh viên <các nhà E1, E2, E3, E5>,
mỗi nhà có 5 bể, mỗi bể lấy đại diện 1 mẫu. Riêng 2 nhà sinh viên E1, E2,
mỗi nhà lấy thêm 5 mẫu ở dụng cụ chứa nước dự trữ.
Tổng cộng: 30 mẫu.
+Khu các bộ môn:Các bộ môn Vi sinh vật, Sinh lý , Sinh lý bệnh, Hoá
sinh: mỗi bộ môn lấy 3 mẫu. Các bộ môn còn lại: Sinh học-Di truyền, Mô
học, Labo trung tâm, Dược lý, khoa Y tế công cộng: mỗi bộ môn lấy 2 mẫu.
Tổng cộng: 22 mẫu.
+Bể đầu nguồn cung cấp nước: 4 mẫu đã lọc hoàn chỉnh được bơm đi sử
dụng.
Tổng cộng: 4 mẫu.
*Vậy tổng số mẫu nghiên cứu: 70 mẫu.
2.2. Vật liệu
2.2.1. Dụng cụ lấy mẫu
- Lọ thuỷ tinh đã khử trùng, dung tích 100 ml.
- Đèn cồn.
2.2.2. Môi trường nuôi cấy và xác định vi khuẩn (của hãng Merck- Đức)
- Canh thang lactose loãng.
- Canh thang lactose đặc.
- Canh thang BGBL (Brilliant Green Bile Lactose).
- Thạch Wilson-Blair.
- Thạch máu.
- Thạch mềm.
- Macconkey.
- Môi trường Endo.
- Môi trường KIA.
- Môi trường Ure-Indol.
- Môi trường Citrat-Simon.

- Môi trường Manit di động.
- Môi trường Chapman.
- Môi trường thử nghiệm OF.
- Một số vật liệu và hoá chất khác.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Chúng tôi thu thập mẫu và xử lý mẫu theo trình tự:
2.3.1. Kỹ thuật lấy mẫu nước xét nghiệm
Theo thường quy kỹ thuật Y học lao động và Vệ sinh môi trường năm
1993 [18].
- Dụng cụ chứa mẫu: bình thuỷ tinh đã khử trùng.
- Thể tích mẫu: 100ml.
- Cách lấy mẫu nước từ vòi: mở nước chảy hết cỡ trong 2-3 phút.
Đóng vòi và khử trùng kỹ vòi nước. Mở lại cho chảy mạnh 1-3 phút rồi điều
chỉnh chảy vừa đủ để lấy mẫu. Khử trùng miệng bình thuỷ tinh và đóng
nút. Đối với các mẫu nước lấy từ bể, thùng chứa, sử dụng cốc mỏ vô trùng
múc rồi đổ vào bình chứa mẫu.
- Các mẫu được vận chuyển ngay về phòng xét nghiệm trong
vòng 2h.
2.3.2. Kỹ thuật xử lý mẫu và xác định các vi khuẩn chỉ điểm vệ sinh
Theo thường quy kỹ thuật Y học lao động và Vệ sinh môi trường năm
1993 [18].
2.3.2.1. Xử lý mẫu:
- Từ mỗi lọ đựng mẫu nước sinh hoạt, lấy 20ml ly tâm 2000
vòng/phút trong 5 phút. Lấy phần cặn cấy vào môi trường thạch máu và
Macconkey. Để 37
0
C /24h để xác định vi khuẩn có khả năng gây bệnh.
- Lấy 5ml mẫu nước đun cách thuỷ ở 80
0

C/5phút diệt tạp khuẩn để
xác định Clostridium perfringenes.
- Số mẫu nước còn lại xác định các vi khuẩn chỉ điểm vệ sinh.
2.3.2.2. Kỹ thuật xác định các vi khuẩn chỉ điểm vệ sinh nước sinh hoạt.
a/ xác định tổng số coliform bằng phương pháp MPN ( Most Probable
Number ): phương pháp 7 ống: 5 ống canh thang lactose đặc và 2 ống canh
thang lactose loãng.
- 5 ống canh thang lactose đặc: mỗi ống cấy 10ml nước ở đậm độ
nguyên.
- 1 ống canh thang lactose loãng cấy 1ml nước ở đậm độ nguyên.
- 1 ống canh thang lactose loãng cấy 1ml nước đậm độ 10
-1
hoặc 0,1ml
nước đậm độ nguyên.
- Để tủ ấm 37
0
C/48h đọc kết quả.
- Đọc kết quả bước 1: những ống lên men lactose sinh acid chuyển
màu môi trường từ tím sang vàng và sinh hơi được gọi là (+).
- Cấy chuyển bước 2: dùng que cấy hoặc pipet Pasteur cấy từng ống
(+) sang các ống canh thang BGBL. Mỗi ống cần thay pipet hoặc khử trùng
kỹ que cấy.
- Để tủ ấm 37
0
C /48h đọc kết quả.
- Đọc kết qủa bước 2: đọc các ống chuyển màu môi trường và sinh
hơi rồi tra bảng MPN để tính coliform tổng số trong 100ml mẫu nước.
b/ Xác định tổng số fecal coliform bằng phương pháp MPN.
- Từ những ống (+) ở môi trường lactose đặc và loãng trong phần xác
định tổng số coliform cấy chuyển sang môi trường BGBL và môi trường

Endo.
- Để tủ ấm 42,5 ± 0,5
0
C/ 24h đọc kết quả.
- Đọc kết quả: đọc kết quả và tính toán số fecal coliform (+) dựa vào
cả số ống canh thang BGBL (+) và môi trường Endo (+).
c/ Xác định Clostridium perfringenes:
Theo thường quy kỹ thuật Y học lao động và Vệ sinh môi trường năm
1993 [18].
- Thạch ống Wilson-Blair đun chảy hoàn toàn, để nguội 50-60
0
C,
thêm vô trùng 5 giọt sulfat sắt II 5%.
- Cấy 5ml mẫu nước đã được cách thuỷ 80
0
C trong 5 phút vào thạch
Wilson-Blair. Dùng pipet hút mẫu nước rồi cấy xuống tận đáy ống nghiệm.
Cần tránh tạo bọt khí khi cấy bằng cách vừa thả mẫu từ từ vừa xoay nhẹ
pipet và rút pipet lên dần dần. Trộn đều mẫu với môi trường. Làm lạnh
nhanh trong vòi nước cho đông thạch. Quấn giấy trên đầu ống thạch. Mỗi
mẫu cấy hai đậm độ khác nhau.
- Để tủ ấm 37
0
C/ 34h đọc kết quả.
- Đếm tất cả những khuẩn lạc đen, to bằng hạt đậu xanh do tạo thành
sulfat sắt.
- Tính toán số khuẩn lạc nuôi cấy trong 10ml mẫu nước.
2.3.3. Phương pháp phân lập và xác định các vi khuẩn gây bệnh
2.3.3.1. Phân lập và xác định các vi khuẩn đường ruột
Theo thường quy của WHO (Basic laboratory procedures in clinical

bacteriology, Geneva 1991) [36]. Đựơc tóm tắt như sau:
-Từ môi trường Macconkey, chọn khuẩn lạc nghi ngờ, lên men hay
không lên men lactose có trong môi trường, nhuộm Gram để xem hình thể
và tính chất bắt màu, đồng thời cấy chuyển vào môi trường xác định tính
chất sinh vật hoá học.
-Tính chất sinh vật hoá học của Salmonella, Shigella, Enterobacter,
Klebsiella gồm các tính chất sau:
Tính
chất VK
G
lucose
L
actose
H
ơi
M
R
V
P
I
ndol
H
2
S
D
i động
C
itrat
Simmo
n

E.col
i
+ +
/-
+ + - + - + -
Sam
onella
+ - - + - - + + -
Shig
ella
+ - - + - -
/+
- - -
Ente
robacter
+ +
/-
+
/-
- + - - + +
/-
Kleb
siella
+ + +
/-
-
/+
+
/-
- - - +

/-

+/-: Đa số là dương tính
-/+: Đa số là âm tính
Sau khi xác định tính chất sinh vật hoá học, ngưng kết với kháng
huyết thanh đa giá đặc hiệu.
2.3.3.2 Phân lập và xác định Staphylococcus aureus: theo thường quy
của WHO [36]. Được tóm tắt như sau:
- Từ môi trường thạch máu chọn khuẩn lạc nghi ngờ: khuẩn lạc
đục, dạng S, tan máu và có sắc tố vàng chanh.
- Nhuộm Gram: cầu khuẩn Gram (+) xếp từng đám.

×