Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp đánh giá ô nhiễm môi trường do việc xả các chất thải từ ao nuôi cá tra MS4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.12 KB, 18 trang )

\
Ministry of Agriculture & Rural Development

Báo cáo tiến độ
CARD Project 023/06 VIE

MS3: BÁO CÁO ĐIỀU TRA CƠ BẢN TẠI CẦN THƠ
VÀ AN GIANG

24 tháng 4 năm, 2009

1


Điều tra cơ bản đã được tiến hành vào tháng 10 và tháng 11 năm 2007 ở thành phố
Cần Thơ và vào tháng 2 và tháng 3 năm 2008 tại tỉnh An Giang để đánh giá ô nhiễm
môi trường do việc xả các chất thải từ ao nuôi cá Tra có liên quan đến sản xuất nông
nghiệp bền vững. Hai huyện của thành phố Cần Thơ là Ô Môn và Thốt Nốt và hai huyện
của tỉnh An Giang là Châu Phú và Phú Tân được lựa chọn dựa trên số lượng ao hầm nuôi
cá Tra có nhiều tại các nơi này. Các thông tin ban đầu có liên quan đén kỹ thuật , kinh tếxã hội và môi trường được ghi nhận bằng cách phỏng vấn nông dân và bổ sung bằng các
quan sát để đánh giá hoặc kiểm chứng các số liệu. Sau đó qua các tiếp xúc với các cán bộ
địa phương để thu thập các thông tin thứ cấp cần thiết. Có hai nhóm nông dân có số
lượng bằng nhau được chọn để tiến hành phỏng vấn là nhóm hộ trồng lúa đơn thuần và
nhóm hộ nông dân nuôi cá. Tổng số có 240 phiếu phỏng vấn được thu thập để phân tích
và đánh giá số liệu.
I. Khía cạnh về kinh tế - xã hội
Nông dân nuôi cá ở Cần thơ đa số có tuổi đời trẻ hơn những người chuyên canh tác
lúa (43 tuổi so với 49 tuổi); tuy nhiên sự chênh lệch về tuổi tác lại không thể hiện khi
điều tra tại tỉnh An Giang (Bảng 1). Tại tỉnh An Giang hộ nông dân nuôi cá cũng là
những người nông dân trước đây canh tác lúa, sau này họ chuyển sang nuôi cá để gia
tăng thu nhập cho họ. Ngược lại hộ nông dân nuôi cá đa số là dân nhập cư, họ đến thuê


mướn đất hoặc mua đất của cư dân địa phương điều này giải thích lý do tại sao họ có tuổi
đời trẻ hơn và có trình độ học vấn cao hơn hộ nông dân canh tác lúa.
Nghề canh tác lúa truyền thống đã có từ lâu đời ở đồng bằng sông Cửu Long. Hầu hết
nông dân nơi đây có hơn 20 năm kinh nghiệm trong canh tác lúa trong khi ngành thủy sản
nước ngọt chỉ mới phát triển mạnh trong những năm gần đây. Các số liệu về số năm kinh
nghiệm trong việc nuôi cá đã minh chứng rõ là lĩnh vực này chỉ mới phát triển chưa đầy
10 năm.
Qui mô nông hộ thì không có sự khác biệt nhau nhiều giữa 2 nhóm nông dân này. Qui
mô khỏang 5 người/hộ và số lao động cỏ trong hộ biến động từ 3-4 lao động. Đất đai sở
hửu của hộ trồng lúa tại cả 2 nơi Cần Thơ và An Giang đều cao hơn diện tích đất của các
hộ nuôi cá. Điều này có lẻ do tổng chi phí đầu tư cho việc nuôi cá cao hơn nhiều chi phí
cho việc canh tác lúa (Bảng 1).
Hầu hết nông dân tại Cần Thơ và An Giang có nhà đúc hoặc nhà tường (80-90%). Số
nhà lá ít hơn 10% của hộ trồng lúa nhưng có đến khỏang 15-20% của hộ nuôi cá. Do một
số hộ nuôi cá là dân nhập cư họ chỉ làm chòi tạm để ở trông coi cá vì họ có nhà ở nơi
khác.
Đồng bằng sông Cửu Long có lượng nước mặt dồi dào vì vậy việc nuôi cá chủ yếu
dựa vào nguồn nước sông, rạch. Kết quả điều tra cho thấy có khỏang 15-15% nông dân
quan tâm đến việc ô nhiễm nguồn nước. Nông dân tại An Giang và Cần Thơ còn so sánh
chất lượng nước ở thượng nguồn và vùng hạ lưu. Tiêu chuẩn đánh giá nước là tốt hoặc
trung bình bị đảo ngược tại 2 nơi này do nước trên thượng nguồn từ Canbodia chảy sangg
vẫn còn tốt cho việc nuôi cá vì ao nuôi chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nước
thải được xả trực tiếp vào sông rạch bởi khỏang 70% nông dân tại An Giang và khỏang
80% tại Cần Thơ. Số nông dân có ao lắng tương đối ít chỉ khỏang 5-8% và có khỏang
15-25% nông dân sử dụng nước thải từ ao cá cho canh tác lúa.

2


Bảng 1. Tổng quan về điều kiện kinh tế -xã hội của hộ trồng lúa và nuôi cá.

Cần Thơ
An Giang
Danh mục
Hộ nuôi cá Hộ canh tác Hộ nuôi cá Hộ canh tác
lúa
lúa
Tuổi của chủ hộ
43
49
47
47
Trình độ học vấn
7/12
5.5/12
5.7/12
5.8/12
Số năm kinh nghiệm
3.6
20
9.4
20
Số nhân khẩu/hộ
5.3
5.5
5.2
4.8
Số lao động/hộ
3.4
3.6
3.7

3.0
Diện tích sở hữu (ha)
0.6
1.2
0.58
1.50
Lọai nhà ở (%)
- Kiên cố
43
23
42
48
- Gạch
42
73
39
44
- Lá
15
4
19
8
Nguồn nước
Kênh rạch Kênh rạch Kênh rạch Kênh rạch
hoặc sông hoặc sông
hoặc sông
hoặc sông
Chất lượng nước (%)
- Tốt
30

55
51
46
- Trung bình
52
22
25
39
- Xấu
18
23
24
15
Nơi đổ nước thải
- Sông hoặc kênh
80
100
68
100
- Ruộng lúa
15
24
- Ao lắng
5
8
Biến động về chất lượng nguồn nước cũng là mối quan tâm cho nông dân (Bảng
2). Chất lượng nguồn nước thường tốt trong mùa lũ (táng 8 đến tháng 12) chủ yếu do lưu
lượng lớn làm hòa tan và rữa trôi các chất ô nhiễm. Chất thải từ ao cá là nguồn ô nhiễm
chính tại các vùng nông thôn ở Cần Thơ và An Giang. Hơn 50% cư dân nông thôn ở An
Giang dùng nước sông cho sinh họat và tại Cần Thơ với cùng tỉ lệ này người dân sử dụng

nước giếng khoan cho sinh họat. Số liệu này chỉ ra mức độ nghiêm trọng cho vấn đề ô
nhiễm nguồn nước buộc dân chúng phải sử dụng nước ngầm cho sinh họat. Hiểm họa cho
việc nuôi cá còn do thuốc sát trùng thải ra từ ruộng lúa. Hiểm họa càng cao hơn ở vùng
hạ lưu nơi thuốc trừ sâu được tích tụ lại.
Vào mùa mưa hoặc ngay sau mùa lũ chất lượng nguồn nước tưới được ghi nhận là
tốt tuy nhiên chỉ có khỏang 30% nông dân được phỏng vấn chấp nhận ý kiến này.
II. Hiệu quả kinh tế của canh tác lúa và nuôi cá.
Kết quả điều tra minh chứng rằng nuôi cá cho lợi nhuận cao hơn canh tác lúa vào
khỏang 410 triệu đồng/ha cho khi nuôi cá so với chỉ 9 triệu đồng /ha khi canh tác lúa.
Tuy nhiên tổng chi phí cho canh tác 1 ha cá Tra mất khỏang 1 tỉ 894,6 triệu đồng so với
12,1 triệu cho canh tác 1 ha lúa (Bảng 3).
Không có sự khác biệt lớn giữa Cần Thơ và An Giang về hiệu quả của canh tác
lúa và nuôi cá. Hầu hết hộ nuôi cá đều phải vay tiền từ ngân hàng hoặc láng giềng nhưng
canh tác lúa số nông dân vay tiền ít hơn 50% bởi vì tổgn chi phí đầu tư cho canh tác 1 ha
lúa thấp hơn nhiều so với nuôi cá (Bảng 4).

3


Bảng 2: Chất lượng nước tưới, dùng cho sinh họat và nước uống ở nông thôn
Danh mục
An Giang (%)
Can Tho (%)
1. Nước dùng cho sinh họat và để uống
Nước sông
57
17
Nước giếng khoan
13
57

Nước máy công cộng
30
26
2. Chất lượng nước dùng cho sinh họat
Tốt
46
80
Trung bình
18
13
Xấu
36
7
3. Lý do chất lượng nước xấu
Chất thải từ ao cá
91
37
Thuốc trừ sâu từ đồng ruộng
9
15
Khác
0
48
4. Thời điểm chất lượng nước tốt

62
58
Đông-Xuân
7
13

Quanh năm
7
5
Mùa mưa
28
17
Bảng 3: So sánh hiệu quả kinh tế trong canh tác lúa và nuôi cá ở Cần Thơ
Danh mục
Nuôi cá (X triệu
Trồng lúa (X
đồng)
triệu đồng)
Tổng chi/ha
1894.6
12.1
Năng suất/ha
170
6.9
Tổng thu /ha
2305
21.2
Lợi nhuận/ha
410.2
9.1
Lợi tức/hộ/năm
178
24.8
Bảng 4: Nguồn tín dụng cho sản xuất nông nghiệp.
Danh mục
Tỉ lệ nông dân trồng lúa vay tiền (%)

Tỉ lệ nông dân nuôi cá vay tiền (%)
Nguồn tín dụng
Ngân hàng
Tư nhân
Công ty (hàng hóa)
Mức lãi suất/năm (%)
Ngân hàng
Tư nhân
Công ty

T value
6.2**
6.2**
6.4**
4.9**
5.4**

Cantho
35
89

An Giang
44
95

32
3
65

63

4
33

14
43
26

14.6
48
27.6

4


Tỉ lệ nông dân tại An Giang tiếp cận được với nguồn vốn vay ngân hàng cao hơn
ở Cần Thơ (Bảng 4). Điều này có lẻ cơ cấu hạ tầng ở An Giang phát triển hơn ở Cần Thơ
hoặc hệ thống đường xá ở An Giang thuận lợi cho việc di chuyển hơn. Tuy nhiên về giao
dịch trả chậm giữa nông dân và doanh nghiệp phổ biến ở Cần Thơ hơn là tại An Giang có
lẻ do công nghiệp ở Cần Thơ phát triển lâu đời hơn là ở An Giang. Thông thường lãi suất
ngân hàng là 1% tháng, vay trả chậm là 2% và cho vay giữa cá nhân là 4%/tháng.
III. Phương thức nông dân canh tác lúa và nuôi cá
III.1 Sản xuất lúa
Việc sử dụng nông dược là điều không thể thiếu trong việc canh tác lúa để kiểm
sóat dịch bệnh nhưng việc lạm dụng hóa chất sẽ gây ra ô nhiễm đất, nước và trong chuỗi
lương thực. Số liệu điều tra ở bảng 5 cho thấy rằng rầy nâu và cháy lá là 2 đối tượng
thường gây hiểm họa cho sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long. 84% nông dân ở Cần
Thơ và 77% nông dân ở An Giang dùng thuốc phòng trừ rầy nâu. Thuốc phòng trị các
lọai côn trùng khác như sâu cuốn lá, sâu đục thân, bù lạch, bọ xít chỉ đứng tầm quan
trọng thứ yếu sau rầy nâu và chúng được sử dụng khỏang 16% nông dân ở Cần Thơ và
23% nông dân ở tỉnh An Giang. Hơn 50% nông dân ở An Giang và Cần Thơ mua thuốc

trừ nấm bệnh để phòng trừ bệnh cháy lá, các lọai bệnh khác cũng được nông dân sử dụng
nông dược để phòng trị nhưng tỉ lệ này thấp hơn 59%. Kết quả điều tra cho thấy rằng
90% nông dân ở Cần Thơ áp dụng đúng liều lượng qui định nhưng con số này tại An
Giang là thấp hơn chỉ có 77%. Thời điểm áp dụng thuốc cũng rất biến động tùy thuộc vào
thời điểm xuất hiện dịch bệnh. Đa số nông dân tại An Giang có khuynh hướng sử dụng
nông dược theo quan sát về sâu bệnh (80%) nhưng số nông dân tại Cần Thơ phun thuốc
theo định kỳ là (52%).
Về bảo vệ môi trường, qua kết quả điều tra cho thấy số nông dân ý thức thu gom
vỏ chai đựng hóa chất và bao bì qua sử dụng để tái chế hoặc chôn lấp là 70% tại An
Giang. Tuy nhiên việc đốt hoặc vất bừa bải qua kết quả điều tra cho thấy có 60% nông
dân ở Cần Thơ và 16% nông dân An Giang chọn phương cách này (Bảng 5). Điều này
cần nên tránh để giảm tác động ô nhiễm môi trường không khí, đất và nước.
Việc phổ biến và chuyển giao kỹ thuật cho nông dân là rất cần thiết để gia tăng
kiến thức quản lý canh tác lúa và nuôi cá. Công việc này được tiến hànhh thường xuyên
hàng năm. Có gần 70% nông dân ở Cần Thơ được tập huấn về sản xuất nông nghiệp
nhưng tại An Giang con số này ít hơn 50%. Ngòai ra nông dân còn có thể tiếp cận với kỹ
thuật mới qua nghe đài và xem tivi (Bảng 6). Giống lúa là một trong những yếu tố quyết
định để tăng năng suất lúa. Hầu hết nông dân tại hai nơi này đều biết phương cách tiếp
cận với các giống lúa mới (qua các viện, Trung tâm nghiên cứu, nông trường hoặc trao
đổi với các nông dân khác).
Hiểm họa nhất đối với môi trường là việc đốt rơm rạ trong hệ thống canh tác lúa 3
vụ mặc dù nông dân đã được dạy cho các phương cách khác để làm giảm tác động này
như canh tác nấm rơm, ủ phân hửu cơ, nuôi trâu bò bằng rơm rạ...). Thiếu hụt nguồn nhân
công trong nông nghiệp, không có đủ không gian và thời gian xử lý rơm rạ là những
nguyên nhân để không áp dụng được các phương cách quản lý bền vững trong sản xuất
(Bảng 6)

5



Bảng 5. Sử dụng hóa chất trong sản xuất lúa
Danh mục
1. Thuốc trừ sâu
Trừ rầy nâu (Bassa, Applaud, Actara, Apolo)
Khác (Karate, Furadan, Regent, Padan)
2. Thuốc trừ nấm bệnh
Cháy lá (Beam, Flash, Fuan, Trizole, Kasai,
Repsai)
Khác (Tilt, Anvil)
3. Liều lượng
Khuyến cáo
Cao hơn mức khuyến cáo
Thấp hơn mức khuyến cáo
4. Thời điểm áp dụng
Khi có xuất hiện
Định kỳ
5. Xử lý bao bì
Chôn
Đốt
Vất bỏ
Tái chế (bán)

Cantho (%)

An Giang (%)

84
16

77

23

60

52

40

48

90
8
2

77
26
7

48
52

80
20

60
20
15
5

16

5
9
70

Bảng 6: Tiếp cận thông tin về kỹ thuật sản xuất lúa (%).
Danh mục
Cantho
1. Nguồni thông tin
Qua đài, tivi
90
Không xem tivi hoặc nghe đài
10
Dự tập huấn
70
Chưa được tập huấn
30
2. Giống lúa
Tự để giống
33
Mua từ Viện, Trường, nông trường
32
Trao đổi với nông dân khác
35
3. Sử dụng phụ phẩm nông nghiệp (rơm, rạ)
Đốt
60
Bán cho trồng nấm
29
Nuôi gia súc
11


An Giang
93
7
47
53
47
21
32
92
5
3

III.2. Nuôi cá
Cá Tra được nuôi tại An Giang đã lâu nhưng việc canh tác này bị giới hạn do số
cá giống vớt được ngòai tự nhiên vào mùa nước nổi vào tháng 9 hoặc tháng 10 khi cá từ
biển Hồ trôi xuôi dòng đến Việt Nam . Ngành công nghiệp nuôi cá Tra chỉ phát triển
nhanh từ những năm sau 2000 khi trường Đại Học Cần Thơ phát triển kỹ thuật cho đẻ
nhân tạo cá Tra và một khi thị trường xuất khẩu cá Tra được thiết lập.

6


Do ngành công nghiệp nuôi cá da trơn là khá mới mẻ đối với nông dân cho nên
việc hổ trợ từ chính quyền về phổ biến kỹ thuật là rất quan trọng thông qua báo, đài, tài
liệu kỹ thuật hoặc thậm chí còn cử cả cán bộ kỹ thuật xuống tận nơi. Số liệu trong bảng 7
cho thấy rắng sự giúp đở này đối với nông dân nuôi cá là rất đáng kể. An Giang là tỉnhh ở
đồng bằng sông Cửu Long có diện tích và sản lượng cá da trơn lớn nhất. Nông dân nuôi
cá ở An Giang quan tâm nhiều hơn đến thông tin hoặc kỹ thuật hơn là nông dân tại Cần
Thơ (82% ở An Giang so với 75% ở Cần Thơ). Họ cũng nhận được sự trợ giúp về kỹ

thuật nhiều hơn ở Cần Thơ (Bảng 7). Nghề nuôi cá cần thêm nhân công cho công việc
thường nhật như cho ăn, bơm nước và ngay cả việc canh gác vào ban đêm và kết quả là
số nhân công thuê mướn tại An Giang cao hơn ở Cần Thơ.
Bảng 7: Thông tin tổng quát về nghề nuôi cá
Danh mục
Can Tho
An Giang
Tiếp cận thông tin (%)
75
82
Trợ giúp kỹ thuật (%)
42
60
Lao động làm thuê (%)
38
72
Lọai cá nuôi (%)
Cá Tra(%)
86
90
Cá khác
14
10
Chu kỳ nuôi cá (month)
Từ cá bột – cá hương
2.1
2.0
Từ cá hương đến cá thành phẩm
6.2
5.8

Độ sâu ao (m)
Cá hương
1.7
1.5
Cá thành phẩm
3.3
3.5
2
Mật độ /m
33
35
Chỉ số biến chuyển thức ăn
1.5
1.6
Hầu như không có sự khác biệt về thời gian nuôi, độ sâu ao cũng như mật độ thả
cá tại hai địa điểm này. Tuy vậy mật độ thả cá khá biến động giũa các nông dân thấp nhất
là 12 con và cao nhất là 60 con/m2. Kết quả phân tích cho thấy có mối tương quan thuận
giữa kích cở ao hoặc diện tích mặt nước với sản lượng cá thu họach (r = +0.842) nhưng
lại có mối tương quan nghịch giữa diện tích ao và chiều sâu ao cá (r = -0.365). Do nông
dân có diện tích ao lớn thì thu họach sản lượng cao hơn nông dân có diện tích ao nhỏ.
Mặt khác nông dân có diện tích ao nhỏ muốn tăng sản lượng thì phải tăng mật độ và đào
ao sâu hơn chính vì vậy có mối tương quan nghịch giữa mật độ và diện tích (r = -0.520).
Nông dân ở Cần Thơ thích dùng thức ăn viên trong khi nông dân ở An Giang
phần lớn dùng thức ăn tự chế do nguồn cá biển dồi dào từ tỉnh Kiên Giang. Kết quả là hệ
số biến chuyển thức ăn cho cá Tra tại An Giang thấp hơn ở Cần Thơ (dùng nhiều thức ăn
cho cá hơn tại An Giang) và con số này cũng tương tự như việc nuôi cá bằng thức ăn viên
tại Đồng Tháp là 1,47 (Pham quốc Nguyên 2008). Cần Thơ và Đồng Tháp có nhiều công
ty sản xuất thức ăn cho cá nằm gần khu vực các ao nuôi. Để làm thức ăn bánh (thức ăn tự
chế), hầu hết nông dân phải thêm vào một số các chất bổ sung dinh dưỡng bao gồm các
lọai vitamines, men và khóang ngòai các lọai vật liệu truyền thống như cám, tấm và bánh

đậu nành. Hầu hết nông dân cho cá ăn 2 lần/ngày (Bảng 8) thông thường vào buổi sáng
sớm và chiều tối. Trong khi đó một số người khác cho ăn 1 lần hoặc thậm chí 4 lần /ngày
nhưng điều này không phổ biến lắm ở đồng bằng sông Cửu Long. Về số lượng thức ăn
7


cung cấp cho cá hầu hết nông dân cho biết họ chỉ cung cấp vừa đủ thức ăn cho cá khỏang
1/10 trọng lượng cá vì thức ăn thừa có thể làm ảnh hưởng xấu chất lượng nước ao nuôi
(thối nước). Cách thông thường nông dân áp dụng để phát hiện sự thay đổi chất lượng
nước là quan sát màu nước.
Bảng 8: Lọai thức ăn và số lần cho cá ăn/ngày
Danh mục
Cần Thơ
An Giang
1. Lọai thức ăn (%)
Thức ăn viên (công nghiệp)
55
27
Bánh (tự chế)
37
58
Hổn hợp (viên+ bánh)
8
15
Sử dụng chất dinh dưỡng bổ sung
88
66
2. Lọai chất bổ sung
Vitamin
64

69
Enzyme
57
74
Khóang
23
36
3. Số lần cho cá ăn/ngày
Một lần
23
12
Hai lần
43
78
Ba lần
27
10
Bốn lần
7
0
4. Quan sát ao
Theo dõi thức ăn thừa
33
40
Thay đổi thức ăn
32
10
Nuôi cá Tra trong ao thường có tỉ lệ hao hụt cao. Kết quả điều tra cho thấy tỉ lệ
hao hụt cá con mới nở đến cá hương vào khỏang 50% và tỉ lệ hao hụt nuôi cá thương
phẩm cao hơn 20% (Bảng 9). Sự lan truyền bệnh do nguồn nước ô nhiễm và từ nguồn cá

giống là những nguyên nhân gây ra tỉ lệ tử vong cao. Có nhiều lọai bệnh trên cá Tra được
báo cáo (Bảng 10) chủ yếu là do ký sinh trùng và virút. Nông dân cho rằng nguồn cá
giống bị nhiễm bệnh là nguyên nhân chính nhưng thực ra nguyên nhân chủ yếu là do việc
vận chuyển cá giống trong bao bì chật hẹp làm cho cá bị xây xát dẫn đến nhiễm bệnh.
Trong lúc vận chuyển chúng thường bị xây xát do cá Tra có ngạnh rất nhọn trên đầu. Một
nguyên nhân khác nữa là do thay đổi môi trường đột ngột gây ra khi cá được thả xuống
ao mới để nuôi thương phẩm. Hai lý do nêu trên gộp lại làm cho tỉ lệ tử vong cao khi thả
nguồn cá mới. Cũng theo nông dân cho biết môi trường ao nuôi cũng ảnh hưởng đến tỉ lệ
sức khỏe cá nhưng điều này không quan trọng bằng 2 nguyên do vừa kể trên.
Các câu hỏi liên quan đến kế họach nuôi cá Tra trong thời gian tới, hầu hết nông
dân tại An Giang (85%) và tại Cần Thơ (68%) nói rằng họ không có dự định gì về phát
triển sản xuất cá Tra trong tương lai. Điều này cho thấy rằng nông dân không thực sự hài
lòng với nghề nuôi cá Tra do có quá nhiều điều không chắc chắn liên quan đến giá bán cá
thịt, giá cả vật tư đầu vào (giá thức ăn và giá hóa chất phòng trị bệnh và xử lý ao nuôi).
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, nông dân có trình độ học vấn thấp cần được trợ
giúp để sản xuất nhằm gia tăng thu nhập cho họ. Chỉ có khỏang 25% nông dân tại Cần
Thơ và 11% nông dân tại An Giang có kế họach mở rộng sản xuất trong tương lai. Lại
một lần nữa số liệu minh chứng rằng nghề nuôi cá Tra không thể thu hút nhiều người đầu
tư vào lảnh vực này. Kế họach xây dựng ao lắng hầu như đa phần không được nông dân
8


quan tâm khi được hỏi đến. Chỉ có vài nông dân miễn cưỡng trả lời trong lúc được phỏng
vấn mà trong thâm tâm họ chưa bao giờ nghĩ đến điều này.
Bảng 9: Tỉ lệ hao hụt phần trăm và nguyên do
Danh mục
Cantho
Tỉ lệ chết
Cá bột-cá hương
47

Cá hương-Cá thương phẩm
22
Nguyên nhân
Do bệnh
50
Do nguồn giống
37
Do môi trường
13
Tình trạng cá hiện tại
Bị bệnh
68
Ổn định
27
Không biết
5
Dự định sản xuất trong tương lai
Chưa có
68
Mở rộng sản xuất
25
Làm ao lắng
7

An Giang
52
24
32
57
11

72
24
5
85
11
4

Liên quan đến việc sử dụng hóa chất và các sản phẩm sinh học để xử lý ao nuôi
trong việc nuôi cá Tra. Hầu như có đến 50% nông dân tại cả 2 địa điểm khảo sát đều
dùng Vikong, BKC, Bioca, Yulai, Aquapure, Prawbac và một số các sản phẩm khác
(Bảng 10). Họ cũng dùng trụ sinh để kiểm sóat các bệnh do vi khuẩn gây ra trong đường
tiêu hóa của cá Tra. Một số các lọai trụ sinh thông thường như Amoxycilline, Cotrim,
Penicilline, Kanamycine, Oxamet và Tetracylline đã được dùng rộng rãi chủ yếu bằng
cách trộn vào thức ăn tại An Giang (96%) hoặc cho trực tiếp vào môi trường nước (40%
nông dân tại Cần Thơ áp dụng theo cách này). Theo nông dân thì các lọai trụ sinh này rất
hữu hiệu để trị bệnh cho cá Tra. May thay hầu như tát cả nông dân dùng kháng sinh đúng
theo liều lượng được khuyến cáo nếu không thì các hóa chất này sẽ trở thành vấn đề cho
môi trường nước và ngay cả đến thị trường xuất khẩu quốc tế. Vì mục đích sát trùng ao
nuôi và để trừ tảo, 93% nông dân ở Cần Thơ và khỏang 66% tại tỉnh An Giang dùng
copper sulphate, BKC, Vikong, Chlorine, juka và ngay cả muối ăn hoặc vôi bột (Bảng
10). Trong số các lọai này thì BKC và chlorine là 2 lọai hóa chất phổ biến được dùng tại
cả 2 nơi An Giang và Cần Thơ.
Quản lý chất lượng nước là việc làm thường xuyên trong suốt quá trình nuôi cá
Tra. Tất cả nông dân đều rải vôi hoặc muối ăn dọc bờ và đáy ao sau khi đào ao mới hoặc
sau khi sên ao củ. Liều lượng vôi và muối dùng xử lý biến động từ 300-400 kg/ ha. Ao
sẽ được giữ khô khoảng 3-5 ngày trước khi bơm nước vào để nuôi vụ mới. Hơn 95%
nông dân thay nước hoặc thường xuyên thêm nước vào ao (khoảng 1/3 thể tích nước
trong ao) và có vào khoảng 50% nông dân tại cả 2 địa điểm thực hành việc vệ sinh đáy ao
nhằm duy trì chất lượng nước trong ao được tốt bằng cách bơm bùn (chịnh) trong khi
nuôi cá nhằm loại bớt chất thải rắn tích tụ ở đáy ao. Tuy nhiên tất cả nông dân đều thực

hành việc bơm bùn đáy ao ra bên ngoài sau khi thu hoạch cá (Bảng 11). Việc bơm chất
thải trực tiếp vào nguồn nước là tiềm năng gây ra ô nhiễm môi trường. Hầu hết nông dân
9


đều có máy đo pH cầm tay để quan trắc chất lượng nước. Phương cách khác để biết chất
lượng nước tốt hay xấu là quan sát màu nước hoặc ngửi mùi nước. Nếu ao thiếu oxy thì
cá thường lên trên bề mặt vào lúc sáng sớm; bằng cách này nông dân có thể nhận biết ao
có đủ oxy hay không.
Bảng 10: Hoá chất dùng để xử lý nước ao cá.
Danh mục
Cantho
1. Hoá chất
Sản phẩm sinh học (%)
48
Kháng sinh (%)
72
BKC
21
Vikong
43
Copper sulfate
7
Chlorine
21
Others
8
Hiệu quả xử lý
100
2. Cách xử lý

Trộn vào thức ăn
60
Trực tiếp hoà vào nước
40
Tỉ lệ áp dụng
97
Bảng 11: Quản lý nước trong ao cá Tra.
Danh mục
Cải tạo ao (%)
Vôi (kg/ha)
Muối (kg/ha)
Sên ao (%)
Số ngày phơi ao
Châm thêm nước hoặc thay nước định kỳ (%)
Lượng nước thêm hoặc thay mỗi lần
Quan trắc chất lượng nước
pH
Màu hoặc mùi nước
NH3 và Oxygen
Thải bùn đáy
Bơm vét vệ sinh trong khi nuôi (%)
Sau khi thu hoạch (%)

An Giang
43
54
28
5
8
10

49
100
96
4
100

Cantho
100
425
325
100
3.5
98
1/3

An Giang
100
350
300
100
4
100
1/3

95
8
62

90
12

65

50
60

50
75

Số liệu điều tra về bệnh của cá Tra được trình bày trong bảng 12. Bệnh nghiêm trọng và
phổ biến trên cá da trơn làm cho cá chết phần lớn do vi khuẩn gây ra (khoảng 90%) .
Triệu chứng thông thường của bệnh do vi khuẩn gây ra là xuất huyết ở miệng, vây và
đuôi. Một số các bệnh khác như phù đầu và tuột nhớt nhưng chúng ít quan trọng hơn là
bệnh do vi khuẩn gây ra.

10


Bảng 12: Bệnh trên cá Tra, giai đọan xuất hiện và biện pháp phòng trị.
Danh mục
Cantho
An Giang
1. Triệu chứng
Xuất huyết
54,5
66,7
Phù đầu
10,2
6,4
Tuột nhớt
0,1

4
2. Giai đọan xuất hiện
Cá dưới 1 tháng tuổi
72
88
Cá từ 1-3 tháng tuổi
17
8
Cá trên 3 tháng tuổi
11
4
3. Hiệu quả phòng trị
Xuất huyết
92
82
Phù đầu
77
85
Tuột nhớt
100
95
IV. Điều tra về mô hình VAC ở thành phố Cần Thơ:
Một cuộc điều tra rộng rải về thực hành mô hình vườn-ao-chuồng (VAC) được
tiến hành ở vùng phụ cận thành phố Cần Thơ tại 2 quận Phong Điền và Bình Thủy nơi
vườn cây ăn trái được trồng trên vùng đất cao phù sa ven sông cạnh mương vườn hoặc ao
nuôi cá. Các lọai cây ăn trái trồng phổ biến nhất ở vùng này là nhãn, vú sữa, sầu riêng,
chôm chôm hoặc cam, chanh. Gia cầm được nuôi nhiều nhất là vịt ngòai ra còn có gà,
heo. Các lọai cá như cá rô phi, cá chép, cá mè trắng hoặc cá chép và cá tai tượng được
nuôi trong ao hoặc mương vườn. Các lọai cá này được nuôi ở mật độ thấp thường dưới
30 con//m2 và cvhúng không gây ô nhiễm cho môi trường. Các lọai cá da trơn khác ngòai

cá Tra như cá Trê Phi, Trê Vàng và Trê Trắng hoặc Trê lai giữa Trê Phi và Trê Vàng
thường được nuôi trong ao cho tiêu dùng nội địa. Nuôi cá Trê gây ô nhiễm nghiêm trọng
cho nguồn nước mặt nhiều hơn là các lòai cá Tra do nước thải từ các ao cá Trê chủ yếu
thải ra sông, rạch nhỏ. Đặc điểm điển hình của nước thải từ các ao nuôi cá Trê là nước có
màu đen, hàm lượng chất rắn lơ lững, BOD và COD rất cao và nước có mùi tanh (Bảng
14). Tác động môi trường lớn nhất của nước thải từ ao cá Trê gây ra là làm chết tất cả các
lòai cá tự nhiên khác (giảm đa dạng sinh học). Tuy nhiên bùn đáy ao cá Trê là không
đáng kể bởi vì cá Trê thường được nuôi trên ao cạn (khỏang <2m chiều sâu) với mật số
cao (vào khỏang 120-150 con/m2 diện tích mặt nước) do vậy chúng khuấy bùn đục nước
mà khi xả thải bùn được trộn vào nước đổ vào sông rạch. Thế nhưng các chất cặn sẽ lắng
tụ trên dòng kênh rạch lâu ngày làm cạn dòng sông và ngăn trở giao thông cũng như dòng
chảy.
Không có khác biệt nhiều về kích cở ao nuôi cá Trê ở tại 2 địa điểm được khảo sát
về mô hình VAC. Do ao nuôi cá Trê thường không lớn lắm cho nên công lao động trong
gia đình có thể đảm đương hầu hết các công việc liên quan đến việc nuôi cá. Cá Trê sau
khi nuôi khỏang 5-6 tháng thường đạt kích cở thương phẩm khỏang 200-250g/ con được
bán cho thương lái với giá dao động 12.000-20.000 đồng/kg. Các cở cá Trê lớn hơn hoặc
nhỏ hơn cở thương phẩm nói trên rất khó bán hoặc phải bán với giá thấp hơn. Cá Trê
thường được nuôi bằng thức ăn tự chế. Nông dân có thể chế biến lấy hoặc mua của các
nông dân khác chế biến sẵn với giá khỏang 2.500-3000 đồng/kg. Thành phần thức ăn

11


thường được pha trộn chủ yếu từ tấm, cám, cá biển vụn hoặc đầu và xương cá Tra sau khi
được ly trích mở.
Qua kết quả điều tra cho thấy hầu như tất cả ao cá Trê đều thải nước trực tiếp ra
sông rạch gây ra ô nhiễm nặng trong vùng tới mức mà các lòai cá tự nhiên khó có thể
sống còn và giao thông thủy thường bị tắc nghẽn do bùn lắng làm cạn đáy sông, rạch.
Mâu thuẩn phát sinh giữa các hộ nuôi cá Trê và cư dân quanh vùng thường khá gay gắt

do vậy khó có thể thuyết phục họ cộng tác được với nhau. Mặc dù chính quyền địa
phương đã có qui định nghiêm cấm việc thải trực tiếp ra sông rạch các chất thải từ ao
nuôi cá nhưng tình trạng này dường như vượt ngòai tầm kiểm sóat. Vì hầu hết các hộ
nuôi cá Trê thường không có ao lắng hoặc đất ruộng để thải vào đất cho nên vấn đề ô
nhiễm nguồn nước ở các vùng này là khá nghiêm trọng
Bảng 13: Thông tin tổng quát về nuôi cá Trê.
Danh mục
Bình Thủy
Phong Điền
Tiếp cận thông tin (%)
82
75
Hướng dẫn kỹ thuật (%)
64
50
Thuê lao động (%)
12
8
Lọai cá nuôi (%)
Cá Trê (%)
86
92
Cá khác (%)
14
8
Thời gian nuôi (tháng)
3.5-5
3.5-5
Ươm cá giống
1.2

1.3
Cá thịt
7.2
7.5
2
Diện tích ao (m )
500-3000
1000-3000
Chiều sâu ao (m)
Ươm cá giống
1.2
1.1
Nuôi cá thịt
1.8
1.6
Mật độ cá nuôi/m2
90-120
70-100
Hệ số biến chuyển thức ăn
3,5
3,6
Bảng 14: Chất lượng nước ao nuôi cá Trê.
Danh mục
Bình Thủy
BOD5 (200C)
120
TSS (mg/L)
312
DO (mg/L)
0.05

COD (mg/L)
128

Phong Điền
104
258
0.1
117

Mặc dù cá Trê có thể sống trong môi trường ô nhiễm cao, tuy nhiên chúng cũng
bị một số các lọai bệnh do vi khuẩn gây ra tương tự như cá Tra nhưng mức độ thiệt hại
thường thấp hơn nhiều so với cá Tra. Các hóa chất và chế phẩm sinh học dùng để nuôi cá
Trê thường giống như các lọai dùng cho việc nuôi cá Tra được trình bày trong bảng 15
dưới đây

12


Bảng 15: Hóa chất dùng để xử lý nưoiức ao nuôi và phòng trị bệnh cho cá.
Danh mục
Bình Thủy
Phong Điền
Chế phẩm sinh học: biozyme, US-zyme,
56
34
biomix (%)
Chế phẩm dùng xử lý nước và vệ sinh ao
76
82
BKC,

32
24
Vikong
16
22
Copper sulfate, potassium permanganate
39
48
Chlorine, formol
7
110
Xử lý đất (zeolite, vôi bột)
62
75
Cơ hội và thách thức của hệ thống VAC:
Do hệ thống VAC chủ yếu được thực hiện trên vùng đất cao ven sông. Đây là lọai
đát thịt có khả năng thấm rút nước cao thích hợp cho việc canh tác các lọai rau màu và
cây ăn trái. Trong mô hình VAC có nhiều cơ hội cho người dân thực hành tái chu chuyển
và tái sử dụng các chất dinh dưỡng có trong chất thải để tiết kiệm chi phí trong sản xuất
và đồng thời bảo vệ tốt cho môi trường. Tuy nhiên kết quả điều tra cho thấy rằng phân
hóa học lại được sử dụng trong sản xuất là chính vì thế rất khó tìm thấy người nông dân
nào sử dụng phân hữu cơ cho canh tác nông nghiệp mặc dù các phế phụ phẩm hữu cơ
trong nông nghiệp sẳn có rất nhiều như rơm rạ, lục bình, phân heo và bùn đáy ao cá. Điều
này một phần do mâu thuẩn của nông dân nuôi cá với các cư dân trong vùng như đã trình
bày ở phần trên và một phần là người dân bị yếu tố giới hạn về đất đai để có thể làm ao
lắng lọc nước và thu gom bùn, áp dụng chất thải trên đất canh tác hoặc ủ phân hữu cơ vì
các trang trại ở đồng bằng sông Cửu Long qui mô về diện tích tương đối còn nhỏ hẹp.
Kết quả điều tra trên hệ thống VAC cũng cho thấy người trồng rau màu không thích sử
dụng phân trùn được sản xuất từ phân trâu bò do họ phải chi phí nhiều hơn để thuê mướn
công nhân để nhổ cỏ cho dù nông dân vẫn biết lợi ích của việc sử dụng phân hữu cơ để

cải tạo đất và cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng và gia tăng chất lượng nông sản nhưng
việc thực hành ủ phân hoặc áp dụng phân hữu cơ chưa được chú trọng vì các lý do sau
đây:
- Tiêu tốn thêm nhiều thời gian;
- Hiệu quả trước mắt chưa được thấy rõ;
- Thiếu hụt lao động trong sản xuất nông nghiệp;
- Tăng chi phí vận chuyển và bón phân;
- Giá bán các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ gần như ngang bằng với các sản phẩm
dùng phân hóa học;
- Thiếu kiến thức để ủ phân hữu cơ.
- Chất lượng phân hữu cơ được bày bán trên thị trường có chất lượng không ổn
định và không đảm bảo.
Bên cạnh các trở ngại trong sản xuất về sử dụng phân hữu cơ nêu trên, người nông
dân cũng không biết về tác động đối với môi trường làm cho trái đất nóng lên do việc đốt
rơm rạ bởi vì vùng canh tác lúa 3 vụ nông dân thường phải đốt rơm rạ để thuận tiện cho
việc làm đất sau mỗi vụ thu họach lúa nhất là ở vụ Đông-Xuân và Hè-Thu. Cơ hội cho dự
án tham gia vào việc bảo vệ môi trường bằng cách huấn luyện cho nông dân biết cách tái
sử dụng các chất phế phụ phẩm hữu cơ từ nông nghiệp để làm phân bón và làm giảm

13


được sự phóng thích CO2 do việc đốt rơm . Qua các lớp tập huấn và các thí nghiệm trình
diễn tại chổ, nông dân sẽ nhận thức được vai trò của chất hữu cơ trong sản xuất nông
nghiệp đồng thời có ý thức hơn để bảo vệ tốt cho môi trường. Mục tiêu này là khả thi vì
giá vật tư đầu vào cho sản xuất nông gnhiệp như phân bón và thuốc trừ sâu không ngừng
gia tăng. Một cơ hội khác nữa là để khuyến khích nông dân nuôi trùn đất làm thực phẩm
cho các lòai thủy sản cao cấp hoặc tôm càng xanh trong các mương vườn và phân trùn
làm nguồn phân hữu cơ chất lượng cao.
V. Điều tra về tình hình sản xuất và tiêu thụ phân trùn

Phân trùn có mối liên quan trực tiếp đến việc nuôi trùn đất. Phân gia súc rất cần
thiết để làm phân hữu cơ lót nền và nuôi trùn đất. Vì thế hầu hết các trang trại nuôi trùn
đất (thông thường là nuôi trùn quế) được đặt gần nơi nuôi bò hoặc heo. Vùng đồng bằng
sông Cửu Long các trang trại nuôi trùn quế thường có vị trí ở các nơi cao ráo (không bị
ngập lũ) nơi mà trâu, bò hoặc heo được nuôi thuận lợi hơn. Tại thành phố Cần Thơ số
trang trại nuôi trùn quế không nhiều. Tình hình này cũng tương tự như ở tại An Giang do
phần lớn địa hình tỉnh này bị ngập lũ hàng năm mặc dù một số nơi thuộc vùng núi của
tỉnh cao nhất so với khu vực đồng bằng có nuôi số lượng bò lớn. Số liệu điều tra ở Cần
Thơ trong bảng 17 còn cho thấy số nông dân sử dụng phân hữu cơ trong sản xuất lúa là
không phổ biến chủ yếu bởi vì hiệu quả kinh tế thấp cho dù họ cũng đã được hướng dẫn
sử dụng phân hữu cơ. Nguyên nhân chủ yếu là nguồn phân bón hữu cơ trên thị trường có
chất lượng thấp và mặt khác do việc sử dụng thuần túy phân hữu cơ không đủ để cung
ứng hòan tòan đầu đủ các chất dinh dưỡng cho cây trồng. Tuy nhiên số nông dân ở tại
phong Điền và Bình Thủy áp dụng hệ thống VAC sử dụng phân hữu cơ cao hơn hơn các
nơi khác do nơi này nông dân trồng cây ăn trái và rau màu có giá trị cao hơn lúa chính vì
vậy cho dù có tốn thêm chi phí nhưng họ vẫn có lãi.
Bảng 16: Tình hình sản xuất và sử dụng phân hữu cơ tại Cần Thơ.
Danh mục
Mô hình VAC
Sản xuất lúa
Bình Thủy Phong Điền
Ô Môn
Thốt Nốt
Số trại nuôi trùn quế
5
1
2
1
Tự sản xuất phân hữu cơ
- Compost

14
11
5
8
- Phân hữu cơ
2
3
1
- Phân xanh
8
6
Áp dụng phân hữu cơ
42
38
12
27
Kiến thức về NN hữu cơ
65
72
28
16
Tỉ lệ tham dự tập huấn (%)
7
4
15
18
VI. Báo cáo về bệnh tật gây ra do ô nhiễm nguồn nước:
Khảo sát về các lọai bệnh do ô nhiễm nguồn nước đã hòan tất tại huyện Ô Môn và
Thốt Nốt của thành phố Cần Thơ và tại 2 huyện Châu Phú và Phú Tân của tỉnh An Giang.
Theo số liệu báo cáo Trung Tâm Vệ Sinh và Phòng dịch ở 2 uqận, huyện Ô môn và Thốt

Nốt trong khỏang thời gian năm 2006 và 2007 cho thấy bệnh sốt xuất huyết gia tăng.
Bệnh này bộc phát vào thời điểm cuối năm 2008 chủ yếu ở các tỉnh phía nam; tình trạng
dịch bệnh nghiêm trọng nhất tại 2 tỉnh An Giang và Đồng Tháp (Cục Y tế Dự phòng-Bộ
Y Tế, 2008). Số liệu trong bảng 17 cũng cho thấy bệnh tiêu chảy vào năm 2007 cao hơn
năm 2006.
14


Bệnh sốt thương hàn, tiêu chảy và bệnh lỵ ở huyện Phú Tân cao hơn ở huyện
Châu Phú và chúng có chiều hướng gia tăng hàng năm (Bảng 18). Điều này có lẻ liên
quan đến hệ thống đê bao khép kín ở Phú Tân nơi mà nước trong kênh rạch không được
thóat nước tốt. Như đã trình bày ở bảng 2 cho thấy đa số dân chúng tại tỉnh An Giang còn
phải dùng nước sông, rạch là nguồn cung cấp nước chính cho sự sống.
Bảng 17: Số liệu về dịch bệnh năm 2006 & 2007 tại quận/huyện Ô Môn và Thốt Nốt
Lọai bệnh
Ô Môn
Thốt Nốt
2006
2007
2006
2007
Sốt xuất huyết
179
237
246
546
Sốt thương hàn
2
0
Tiêu chảy

159
220
3210
2822
Bệnh lỵ
0
1
138
31
Bảng 18: Số liệu về dịch bệnh năm 2006 & 2007 tại huyện Phú Tân và Châu Phú
Phú Tân
Châu Phú
Disease
2005
2006
2007
2005
2006
2007
Sốt xuất huyết
112
300
495
411
595
438
Sốt thương hàn
169
153
71

Tiêu chảy
752
957
1502
189
187
200
Bệnh lỵ
202
250
463
21
10

pH

VI. Tác động của nước thải
Tác động của nước thải vào mùa khô và mùa mưa (đặc biệt trong mùa lũ) đã được
khảo sát tại cống thóat nước từ các ao cá ở các vị trí 100 mét ngược dòng chảy và 100,
200, 300, 400 và 500 mét xuôi dòng chảy mỗi 15 ngày/lần cho thấy pH nước trong kênh
cao hơn mọt ít so với trị số đo được sau khi mở cống (Hình 1); tuy nhiên giữa hai trị số
này không khác biệt nhau khi phân tích thống kê ở mức ý nghĩa (P<0.05) trong cả hai
mùa khô và mùa mưa.
Trong mùa lũ, sự khác biệt nhau ở các trị số pH thậm chí còn nhỏ hơn nhiều bởi vì nước
được pha lỏang ở mùa mưa cao hơn vào mùa nắng. Nhìn chung pH nước trong kênh sau
khi xả nước thải vẫn còn trong mức giới hạn cho phép sử dụng cho sinh họat (TCVN5492-2005).
7.5
7.4
7.3
7.2

7.1
7
6.9

Before
After

-100

0

100 200 300 400 500
m

Hình 1: pH nước trong kênh trước và sau khi mở cống xả thải nước ao cá vào kênh.

15


Ec (uS/cm)

Độ dẫn điện đo được trong kênh trước và sau khi xả thải khác biệt nhau có ý
nghĩa về thống kê, điều này cho thấy hàm lượng các chất hòa tan trong kênh tăng lên
sau khi mở cống xả các chất thải từ ao cá vào nguồn nước. Hình 2 cho thấy trị số EC
được đo ở các thời điểm khác nhau sau khi xả thải cao hơn lúc trước khi mở cống
thóat nước.
350
300
250
200

150
100
50
0

Before
After

-100

0

100 200 300 400 500
m

Hình 2: Độ dẫn điện của nước trong kênh trước và sau khi mở cống xả thải nước ao
cá Tra trong mùa khô.
Cũng tương tự như trị số pH, trị số EC đo trong mùa lũ không khác biệt nhau khi
phân tích thống kê so sánh các giá trị đo trước và sau khi mở cống.
Không như trường hợp của pH và EC, các trị số COD đo được trước và sau khi
mở cống xả thải rất khác biệt nhau khi phân tích thống kê cho dù ngay cả trong mùa
lũ. Thông thường trị số COD trong ao nuôi cá Tra vượt quá ngưỡng cho phép nước
dùng cho sinh họat ( < 10 mg/L) nhưng chúng vẫn còn trong mức giới hạn cho phép
về tiêu chuẩn nước nuôi trồng thủy sản được phép xả thải (35 mg/L mg/L).
80

COD

60

After

40

Before

20
0
0

100

200

300

400

500

Distance (m)

Hình 3: COD (mg/L ) của nước kênh trước và sau khi mở cống xả thải.
Nồng độ Ammonium cao ngay tại vị trí cửa cống và chỉ tiêu này có khuynh hướng
giảm dần theo khỏang cách tăng dần khi xa vị trí cống thải (Hình 4). Các nồng độ này
cao hơn mức cho phép về tiêu chuẩn của Việt nam về nước dùng cho sinh họat
(NH4< 0.5mg/L) theo tiêu chuẩn TCVN5492-2005 nhưng chúng vẫn còn chấp nhận

16



được theo thông tư 02 của Bộ Thủy Sản về tiêu chuẩn của nước thủy sản xả thải ra
nguồn nước. Nồng độ cao của ammonium góp phần làm cho hiện tượng phú dưỡng
nguồn nước trong sông rạch ở các khu vực xung quanh các ao nuôi cá là hiện tượng
thường thấy được trong vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Ammonia (mg/L)

0.0800
0.0600
After

0.0400

Before

0.0200
0.0000
0

100 200 300 400 500
Distance (m)

Hình 4: Nồng độ ammonium trong kênh đo được trước và sau khi mở cống xả chất
thải ao nuôi cá Tra.

TSS (mg/L)

Trong trường hợp của nitrite và nitrate, nồng độ đo được tại các vị trí trên kênh ở
các thời điểm vào mùa khô thấp hơn nồng độ cho phép về tiêu chuẩn của nước sinh

họat mặc dù trong mùa khô nồng độ các chất này thường tích tụ cao.
Riêng trị số TSS trong nước kênh sau khi nhạn nước xả thải khá cao (261± 64
mg/l) trị số này cao gấp 5 lần con số trước khi xả thải (54 ± 20 mg/l). Hình 5 cho thấy
hầu hết các trị số đo TSS ở nước kênh thường cao gấp 10-13 lần tiêu chuẩn cho phép
về nước sinh họat TCVN 5942-1995 (cột A- TSS nhỏ hơn 20 mg/l) và trị số đo thực
tế cũng cao hơn mức cho phép về nước thải thủy sản (dưới 80 mg/L) theo Thông Tư
02 của Bộ Thủy Sản qui định.

300
250
200
150
100

After
Before

50
0
-100

0

100 200 300 400 500
Distance (m)

Hình 5: Tổng chất rắn lơ lững trong kênh trước và sau khi xả chất thải ao nuôi vào
nguồn nước mặt.

17



VII. Kết luận
Nguồn lợi từ nuôi cá cao hơn tcanh tác lúa gấp nhiều lần nhưng rủi ro và các yếu
tố không lường trước cũng cao hơn nhiều. Tuy nhiên có dấu hiệu về ô nhiễm nguồn nước
ở nông thôn chủ yếu do chất thải ao nuôi cá được xả trực tiếp vào nguồn nước. Để giảm
thiểu ô nhiễm và bảo vệ sức khỏe cho con người, các lớp tập huấn về sử dụng hợp lý chất
thải bằng các phương thức xử lý hiệu quả và thiết thực là rất cần thiết nhằm gia tăng thu
nhập nông dân và nâng cao ý thức bảo vệ cho môi trường.
Sự hổ trợ từ phía chính quyền là rất cần thiết về phương diện kỹ thuật và tín dụng
cho nông dân do họ có trình độ thấp và đa số còn nghèo nên rất dễ bị tổn thương do các
rủi ro và đặc biệt là tình hình khủng hỏang kinh tế hiện nay. Nông nghiệp hữu cơ cần
được chú trọng để cải thiện chất lượng sản phẩm nông nghiệp đồng thời giảm oo nhiễm
nguồn nước bằng cách giảm lượng hóa chất sử dụng.
Cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn cần phải được cải thiện cũng như điều kiện vệ
sinh để đảm bảo cho sản xuất bền vững và cuộc sống tốt đẹp cho người nông dân.

18



×