Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN: PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.71 KB, 13 trang )

Lớp K1-TN1 Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
BỘ MÔN: PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN
-------------------------Câu 1: Hãy giải thích tại sao Phương thức quản lý nhà nước về công tác thanh
niên là một khoa học? (Tự nghiên cứu)
Câu 2: Trình bày đối tượng, nhiệm vụ và ý nghĩa của môn Phương thức quản lý
nhà nước về công tác thanh niên? (Tự nghiên cứu)
Câu 3: Hãy phân tích những nội dung cơ bản của Công tác quản lý nhà nước về công
tác thanh niên?
1.1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chính
sách, chương trình phát triển thanh niên và công tác thanh niên


Định nghĩa:


Ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều tiết những
vấn đề thực tiễn. Xã hội ngày càng phát triển đa dạng, đa chiều
với những mối quan hệ phức tạp, nhiều vấn đề liên quan trực
tiếp đến sự ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đang đặt ra cho
Nhà nước những vấn đề thực tiễn cần phải giải quyết trong quá
trình quản lý, điều hành.



Mục đích ban hành và tổ chức thực hiện


Văn bản quy phạm pháp luật nhằm thể chế hóa và bảo đảm thực


hiện các chính sách. Pháp luật là biểu hiện hoạt động của các
chính sách



Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo ra/phân
bổ/phát huy các nguồn lực nhằm phát triển đối tượng quản lý



Ban hành văn bản quy phạm pháp luật góp phần nhằm ổn định
trật tự xã hội, tạo cơ hội quản lý tốt và phát triển.



văn bản quy phạm pháp luật làm thay đổi các hành vi xử sự
không mong muốn và thiết lập các hành vi xử sự phù hợp.

Phương thức quản lý nhà nước về CTTN

Page 1


Câu 4: Hãy phân tích các hình thức quản lý nhà nước về công tác thanh niên, cho
ví dụ minh họa? * Khái niệm:
- Hình thức: Biểu hiện bên ngoài của nội dung
- Hình thức quản lý Nhà nước về Công tác Thanh niên: Biểu hiện ra bên ngoài của
hoạt động quản lý, cùng loại về nội dung, tính chất và phương thức tác động của chủ thể lên
khách thể, đối tượng quản
Căn cứ vào quan hệ của các hình thức quản lý với pháp luật, được chia làm 2 nhóm:

những hình thức pháp lý và không mang tính pháp lý:
* Hình thức pháp lý:
- Ban hành văn bản quản lý hành chính nhà nước
+ Là hình thức pháp lý quan trọng nhất nhằm thực hiện chức năng của mình.
+ Thông qua văn bản để nhà nước quy định các nguyên tắc ứng xử, quyền hạn, nghĩa vụ.
- Ban hành văn bản áp dụng pháp luật
+ Hoạt động chủ yếu của các cơ quan NN
+ Nội dung gồm một hay nhiều quy phạm pháp luật vào một trường hợp cụ thể
- Đặc điểm của hình thức pháp lý
+ Thứ nhất: Hoạt động này do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành
+ Thứ hai: Hoạt động không có tác động pháp lý trực tiếp nhưng gián tiếp phát sinh
những hậu quả pháp lý
+ Thứ ba: Hình thức này chỉ tiến hành khi phát sinh những điều kiện tương ứng được
quy định trong pháp luật
Ví dụ: Quốc hội ban hành Luật Thanh niên ngày 29 tháng 11 năm 2005.
* Hình thức không mang tính pháp lý:
- Áp dụng những biện pháp tổ chức trực tiếp là hình thức hoạt động không mang tính
pháp lý do chủ thể quản lý hành chính nhà nước tiến hành nhằm mục đích tạo điều kiện
thuận lợi để ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định quản lý.
- Tiến hành các hoạt động tổ chức trực tiếp gồm các hoạt động nghiên cứu, tổng kết và
phổ biến những kinh nghiệm tiên tiến, áp dụng các biện pháp cụ thể nhằm ứng dụng những
thành tựu của khoa học kỹ thuật vào quản lý, tổ chức kiểm tra, điều phối hoạt động, tổ chức
hội thảo, tổ chức phong trào thi đua, v.v..
Ví dụ: 2 phong trào "5 xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc" và "4
đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp" của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh năm 2007.


Câu 5: Hãy trình bày khái niệm phương pháp quản lý nhà nước trong lĩnh vực
công tác thanh niên, những đặc trưng cơ bản và yêu cầu của phương pháp quản lý nhà
nước về công tác thanh niên?

* Khái niệm:
Để hiểu được khái niệm Phương pháp quản lý Nhà nước về Công tác Thanh niên trước
tiên ta phải tìm hiểu khái niệm Phương pháp Quản lý Nhà nước:
Phương pháp quản lý nhà nước là những phương thức, cách thức, biện pháp mà chủ
thể quản lý áp dụng để tác động lên khách thể quản lý (hành vi của đối tượng quản lý) nhằm
đạt được những mục tiêu đề ra;
Phương pháp quản lý nhà nước là cách thức thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của
bộ máy hành chính nhà nước, cách thức tác động của chủ thể quản lý hành chính lên các đối
tượng quản lý nhằm đạt được những mục đích đặt ra.
* Những đặc trưng cơ bản của phương pháp Quản lý nhà nước về Công tác
Thanh niên:
- Chủ thể của Phương pháp là cơ quan quản lý nhà nước;
- Phương pháp quản lý nhà nước là phương tiện để chủ thể PP sử dụng;
- Mục đích sử dụng nhằm tác động đến đối tượng quản lý;
- Là hình thức biểu thị quyền lực nhà nước;
- Phương pháp QLNN gồm thuyết phục, cưỡng chế, mệnh lệnh;
- Mọi PP được thể hiện dưới những hình thức quản lý nhà nước.
* Những yêu cầu của phương pháp Quản lý nhà nước về Công tác Thanh niên:
- Có khả năng tác động tới đối tượng quản;
- Đa dạng, thích hợp để tác động lên những đối tượng khác nhau;
- Có tính hiện thực;
- Có khả năng đem lại hiệu quả cao;
- Phải mềm dẻo và linh hoạt;
- Phải có tính sáng tạo;
- Phù hợp với đường lối chinh trị quy định chương trình quản lý trong từng giai đoạn cụ thể.
Câu 6: Hãy phân tích nội dung và yêu cầu của phương pháp “Thuyết phục”, phương
pháp “Cưỡng chế” trong quản lý nhà nước về công tác thanh niên?


Thuyết phục là gì?



Là làm cho người khác thấy đúng, thấy hay mà tin theo, làm theo






Thuyết phục trong quản lý nhà nước về CTTN


Là một dạng hoạt động



Tiến hành qua thông tin, tuyên truyền, giáo dục…



Nhằm tạo ra thói quen sống và làm việc theo pháp luật

Phương pháp thuyết phục do chủ thể QL NN về CTTN nhằm thực hiện chức
năng của mình



Bản chất PP thuyết phục là làm cho đối tượng quản lý thấy rõ sự cần thiết và
tự giác thực hiện




PP thuyết phục được thể hiện bằng những hành động:


Giải thích, động viên, hướng dẫn, chứng minh… cho đối tượng tự giác
thực hiện



Yêu cầu: Tiến hành thường xuyên, liên tục, kiên trì
Kết hợp với các tổ chức xã hội, thông qua tổ chức xã hội để phát huy tính
nhiệt tình, sự sáng tạo và chủ động.
Thuyết phục phải được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau,
phương tiện đa dạng, phong phú



Khái niệm cưỡng chế


Cưỡng chế: là bắt buộc phải tuân theo bằng sức mạnh quyền lực



Cưỡng chế nhà nước: là sự bắt buộc phải tuân theo bằng sức mạnh quyền
lực nhà nước




2.2. Khái niệm phương pháp cưỡng chế nhà nước


Là cách thức bắt buộc bằng bạo lực của cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền đối với những cá nhân, tổ chức nhất định trong những trường hợp
pháp luật quy định buộc cá nhân, tổ chức đó phải thực hiện hay không thực
hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục tùng những hạn chế về mặt tài
sản hoặc tự do thân thể



ĐẶc Điểm: Chủ thể phải là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền



Đối tượng áp dụng là cá nhân, tổ chức nằm trong quy định của pháp luật




Các biện pháp cưỡng chế chỉ thực hiện khi đối tượng không tự giác chấp hành các
quyết định của chủ thể quản lý



Biểu hiện của phương pháp cưỡng chế là buộc đối tượng chấp hành các quyết định
đơn phương của chủ thể




Vai trò: Còn nhiều đối tượng phá hoại, vi phạm pháp luật



Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục kích động, lôi kéo thanh niên



Một bộ phận thanh niên không có ý thức chấp hành pháp luật



Phân loại: Cưỡng chế hình sự:


Áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội hoặc bị tình nghi phạm
tội.



Cưỡng chế dân sư:


Áp dụng đối với cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm dân sự, gây thiệt hại
cho nhà nước, tập thể hoặc thanh niên.



Cưỡng chế kỷ luật:



Áp dụng đối với những cán bộ công chức có hành vi vi phạm kỷ luật nhà
nước



Cường chế hành chính:


Áp dụng đối với cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm hành chính

Câu 7: Hãy nêu nội dung và yêu cầu của phương pháp “Hành chính”, phương
pháp “Kinh tế” trong quản lý nhà nước về công tác thanh niên?
* Khái niệm: Phương pháp quản lý nhà nước là những phương thức, cách thức, biện
pháp mà chủ thể quản lý áp dụng để tác động lên khách thể quản lý (hành vi của đối tượng
quản lý) nhằm đạt được những mục tiêu đề ra.
* Phương pháp hành chính:


- Khái niệm: Phương pháp hành chính là phương thức tác động tới cá nhân, tổ chức
thuộc đối tượng quản lý bằng cách quy định trực tiếp nghĩa vụ của họ qua những mệnh lệnh
dựa trên quyền lực nhà nước và phục tùng
- Đặc điểm của phương pháp hành chính:
+ Sự tác động trực tiếp của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng cách đơn
phương quy định nhiệm vụ và phương án hành động của đối tượng quản lý
Chủ thể quản lý có quyền đưa ra nhiệm vụ và phương án hành động của đối tượng
quản lý, có quyền kiểm tra việc thực hiện các mệnh lệnh của mình và có quyền áp dụng các
hình thức kỷ luật nếu mệnh lệnh của mình không được chấp hành
+ Phương pháp này được tiến hành trong khuôn khổ của pháp luật, các quyết định
hành chính được ban hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể quản lý do

pháp luật quy định.
- Yêu cầu của phương pháp hành chính:
+ Có khả năng tác động trực tiếp tới đối tượng quản lý
+ Đa dạng, thích hợp để tác động lên những đối tượng khác nhau.
+ Có khả năng đem lại hiệu quả cao.
+ Phải có tínhkỉluậtcao.
+ Phù hợp với đường lối chính trị quy định chương trình quản lý trong từng giai đoạn cụ thể.
* Phương pháp kinh tế:
- Khái niệm: Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động gián tiếp đến hành vi của
các đối tượng quản lý thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế tác động đến lợi ích của
con người.
- Đặc điểm của phương pháp kinh tế:
+ Phương pháp tác động gián tiếp đến đối tượng quản lý thông qua lợi ích kinh tế.
+ Phương pháp kinh tế được thể hiện trong việc sử dụng đòn bẩy kinh tế.
- Yêu cầu của phương pháp kinh tế:
+ Có khả năng tác động tới đối tượng quản lý
+ Có tính hiện thực.
+ Phải mềm dẻo và linh hoạt.
+ Phải có tính sáng tạo.
+ Phù hợp với đường lối chính trị quy định chương trình quản lý trong từng giai đoạn cụ thể.
Câu 8: Hãy nêu các công cụ cơ bản trong quản lý nhà nước về công tác thanh
niên, lấy ví dụ minh họa?


* Khái niệm: Công cụ quản lý nhà nước là tổng thể phương tiện hữu hình và vô hình,
được nhà nước sử dụng để tác động đến đối tượng nhằm thực hiện mục tiêu quản lý nhà nước.
* Các công cụ cơ bản:
1. Nhóm công cụ quy hoạch và phát triển thanh niên:
* Định nghĩa:
- Quy hoạch phát triển thanh niên là một quá trình nhận thức của chủ thể quản lý nhà

nước trước các vấn đề phát triển của thực tiễn
- Vận dụng các quy luật phát triển tự nhiên, xã hội và quy luật tâm lý - xã hội của
thanh niên để phác thảo ra những định hướng phát triển với các mục tiêu cụ thể, hệ giải pháp
tương ứng
- Nhằm quản lý và phát triển thanh niên có hiệu quả cao
* Hệ thống quy hoạch phát triển ở thanh niên Việt Nam:
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2008 )
- Nghị quyết chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị
lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Số: 45/NQ-CP
ngày 11 tháng 9 năm 2009)
- Chiến lược phát triển thanh niên 2011 – 2020 (Số: 2474/QĐ-TTg)
2. Công cụ pháp luật:
* Định nghĩa:
- Hệ thống những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận
- Đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
- Là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội pháp triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.
* Các thuộc tính của pháp luật:
- Tính bắt buộc
- Tính chính xác, đơn nghĩa, cụ thể
- Được nhà nước đảm bảo thực hiện
* Đặc điểm của pháp luật:
- Thể hiện ý chí của giai cấp thống trị.
- Là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung.
- Do Nhà nước đặt ra và bảo vệ.
* Mối quan hệ giữa luật pháp và thanh niên:
- Pháp luận nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của thanh niên



- Tạo điều kiện cho thanh niên phát triển toàn diện, không phân biệt đối xử
- Kiểm soát và trừng phạt hành động vi phạm của thanh niên
- Ngăn chặn những đối tượng xấu có ảnh hưởng tới thanh niên
* Vai trò của pháp luật đối với thanh niên và công tác thanh niên:
- Xác lập trật tự, kỷ cương cho công tác thanh niên phát triển
- Tạo cơ sở pháp lý thực hiện quyền và nghĩa vụ của thanh niên đối với bản thân, xã hội
- Tạo cơ sở pháp lý cho việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển thanh niên gắn việc phát
triển thanh niên với việc xây dựng vào bảo vệ tổ quốc
* Điều luật liên quan đến thanh niên và quản lý nhà nước về công tác thanh niên:
- Luật Thanh niên
- Luật số 53/2005/QH11 gồm 6 chương và 36 điều
- Luật Giáo dục
- Luật Hình sự
- Luật Hôn nhân và gia đình
- Luật Lao động…
3. Công cụ tài chính:
* Khái niệm: Công cụ tài chính là phương tiện nhà nước sử dụng để thể hiện vai trò
của Nhà nước trong điều khiển, điều chỉnh các mặt hoạt động trong xã hội.
* Công cụ tài chính gồm:
- Chính sách thuế, phí, đầu tư ngân sách
- Tín dụng; ưu đãi; trợ cấp, trợ giá
* Đặc điểm:
- Thể hiện sự cam kết mạnh mẽ trong trợ giúp đối tượng quản lý phát triển
- Thể hiện vai trò định hướng và thúc đẩy quá trình phát triển
- Là cơ sở thực hiện các chiến lược phát triển và lợi ích quốc gia
4. Công cụ chính sách nhà nước: Quyết định 157/2007/QĐ-TTg về tín dụng đối với
học sinh, sinh viên.
* Ví dụ minh họa: Tự trình bày

Câu 9: Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công cụ/
phương pháp trong thực thi quyền quản lý nhà nước về công tác thanh niên? (Tự
nghiên cứu)
Thứ nhất, thể chế QLNN về công tác thanh niên từng bước được hoàn thiện.
Tuy nhiên, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về QLNN về thanh niên còn mang tính định
hướng, chưa đầy đủ, đồng bộ và chậm được hướng dẫn, triển khai. Luật Thanh niên có hiệu lực từ tháng
7/2006, nhưng đến nay Chính phủ mới ban hành được 03 nghị định hướng dẫn thi hành(1); nhiều bộ,
ngành vẫn chưa ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể, đầy đủ để các địa phương thực hiện. Nghị định số
120/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức các bộ, cơ
quan ngang bộ về công tác thanh niên, nhưng chưa xác định rõ trách nhiệm phối hợp QLNN về công tác
thanh niên theo ngành, lĩnh vực được Chính phủ phân công.


Thứ hai, nhiều chính sách cho thanh niên đã được ban hành thể hiện sự quan tâm đặc biệt của
Nhà nước ta đối với việc chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục và phát huy thanh niên.
Tuy nhiên, QLNN về công tác thanh niên còn gặp nhiều thách thức, nhiều vấn đề về thanh niên còn
chậm được giải quyết như: chất lượng giáo dục - đào tạo cho thanh niên còn nhiều bất cập; công tác dạy
nghề và giải quyết việc làm cho thanh niên chưa gắn với nhu cầu thực tế, tỷ lệ thanh niên thất nghiệp,
thiếu việc làm còn cao; nhu cầu về đời sống vật chất, văn hóa tinh thần, vui chơi giải trí cho thanh niên
chưa được đáp ứng đầy đủ; tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật trong thanh thiếu niên còn diễn biến phức
tạp… Bên cạnh đó, một số chính sách còn thiếu tính cụ thể, chưa sát với nhu cầu chính đáng của thanh
niên và chưa được điều chỉnh kịp thời hoặc chưa được quan tâm thực hiện. Nhiều địa phương chưa có
hình thức phát huy thanh niên một cách hiệu quả; chưa gắn các hoạt động của thanh niên với chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Ngân sách dành cho công tác thanh niên còn
hạn chế và thực hiện theo cơ chế lồng ghép, xã hội hóa nên còn bị động. Công tác kiểm tra, đôn đốc, tổng
kết, đánh giá việc thực hiện chính sách cho thanh niên ở một số nơi chưa được tiến hành thường xuyên,
nghiêm túc.
Thứ ba, tổ chức, bộ máy QLNN về công tác thanh niên ngày càng được hoàn thiện và phát huy hiệu quả.
Thứ tư, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong QLNN về công tác thanh niên ngày càng
được tăng cường.

Giải pháp:
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế QLNN về công tác thanh niên; xây dựng và hoàn thiện hệ thống
chính sách đối với thanh
Hai là, thực hiện kiện toàn bộ máy, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ
làm việc tại cơ quan QLNN về công tác thanh niên các cấp.
Ba là, phát huy tốt cơ chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa
phương, đảm bảo tính thống nhất, khoa học, hiệu quả trong quá trình xây dựng, thực thi chính sách đối với
thanh niên.
Bốn là, xây dựng cơ chế đảm bảo quyền của thanh niên trong việc tham gia xây dựng, thực hiện và
giám sát các chính sách liên quan đến thanh niên.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, định kỳ sơ, tổng kết việc tổ chức triển khai thực hiện chính
sách thanh niên.

Quản lý nhà nước về CTTN hiện nay:

Công tác thanh niên là một bộ phận quan trọng trong công tác quần chúng, bao gồm toàn bộ
những hoạt động của Đảng, Nhà nước, Đoàn Thanh niên và xã hội nhằm giáo dục, bồi dưỡng và
tạo điều kiện cho thanh niên phát triển, trưởng thành, phát huy mọi tiềm năng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác thanh niên là một loại hoạt động xã hội hàm chứa sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các
chủ thể xã hội và thanh niên, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của thanh niên và yêu cầu phát


triển của xã hội; là quá trình tạo ra môi trường kinh tế, văn hoá, xã hội và là trường học cộng sản
cho thanh niên học tập, rèn luyện và trưởng thành; là quá trình đưa thanh niên vào hoạt động
thực tiễn cách mạng, đồng thời định hướng giúp thanh niên tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách
của mình. QLNN đối với công tác thanh niên là một dạng quản lý xã hội tổng hợp, mang tính
quyền lực nhà nước đối với một đối tượng đặc trưng là thanh niên; là quá trình tác động của hệ
thống các cơ quan nhà nước đối với công tác thanh niên và thanh niên bằng chính sách, luật
pháp, cơ chế vận hành và tổ chức bộ máy, bằng kiểm tra, giám sát, đồng thời cũng bằng các

chính sách, luật pháp, Nhà nước huy động mọi tổ chức, mọi nguồn lực xã hội tham gia thực hiện
các nhiệm vụ công tác thanh niên.
Trong nhiều năm qua, vấn đề QLNN về công tác thanh niên luôn được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm, chỉ đạo sát sao. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền,
sự phối hợp của các ngành, đoàn thể và toàn xã hội, QLNN về công tác thanh niên đã đạt được
thành tựu đáng khích lệ, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc ban hành các cơ chế, chính sách
bảo đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của thanh niên, phát huy vai trò xung kích, sáng
tạo, tiềm năng to lớn của thanh niên trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; mở rộng
quan hệ hợp tác về thanh niên với các nước, các tổ chức trên thế giới; góp phần tăng cường giáo
dục, bồi dưỡng thanh niên, bảo vệ thanh niên trước tác động của những tiêu cực và tệ nạn xã hội,
sự tấn công của các thế lực thù địch; đề cao trách nhiệm của Nhà nước, các cấp, các ngành, gia
đình, xã hội đối với thanh niên và công tác thanh niên. Vì vậy, việc chăm lo, bồi dưỡng, phát huy
thanh niên ngày càng đạt hiệu quả, nhưng cũng còn nhiều thách thức.
Thứ nhất, thể chế QLNN về công tác thanh niên từng bước được hoàn thiện.
Trước năm 2005, các nội dung QLNN về công tác thanh niên chưa được đề cập trong các
văn bản pháp lý, công tác thanh niên chủ yếu được giao cho tổ chức Đoàn thanh niên thực hiện.
Luật Thanh niên được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 đánh dấu một bước tiến quan
trọng trong QLNN về công tác thanh niên, trong đó, nội dung và trách nhiệm QLNN về công tác
thanh niên bước đầu đã được luật hóa. Luật Thanh niên ra đời và việc tổ chức triển khai vào cuộc
sống có ý nghĩa chính trị, pháp lý sâu sắc, tạo cơ sở cho việc thực hiện QLNN về công tác thanh
niên, xác lập hành lang pháp lý bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp và phát huy
vai trò, trách nhiệm của thanh niên đối với đất nước và xã hội. Nhiều quy định cụ thể về cơ chế,
chính sách của Nhà nước cả ở Trung ương và địa phương đảm bảo cho thanh niên thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình, tạo điều kiện cho thanh niên phát triển đã được ban hành và ngày
càng được hoàn thiện. Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành phố đã ban hành Chiến lược phát triển
thanh niên giai đoạn 2011-2020 của địa phương.
Tuy nhiên, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về QLNN về thanh niên còn mang tính
định hướng, chưa đầy đủ, đồng bộ và chậm được hướng dẫn, triển khai. Luật Thanh niên có hiệu
lực từ tháng 7/2006, nhưng đến nay Chính phủ mới ban hành được 03 nghị định hướng dẫn thi
hành(1); nhiều bộ, ngành vẫn chưa ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể, đầy đủ để các địa phương

thực hiện. Nghị định số 120/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức các bộ, cơ quan ngang bộ về công tác thanh niên, nhưng chưa xác định rõ
trách nhiệm phối hợp QLNN về công tác thanh niên theo ngành, lĩnh vực được Chính phủ phân
công.
Thứ hai, nhiều chính sách cho thanh niên đã được ban hành thể hiện sự quan tâm đặc biệt
của Nhà nước ta đối với việc chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục và phát huy thanh niên.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 06/2005/CT-TTg ngày 21/3/2005 về phát huy vai
trò thanh niên tham gia phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới, Nghị quyết số 45/NQ-CP
ngày 11/9/2009 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW
ngày 25/7/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối


với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH; Quyết định số 2474/QĐ-TTg ngày
30/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai
đoạn 2011-2020 và các chính sách khác có liên quan. Vì vậy, các hoạt động của thanh niên do tổ
chức Đoàn và các hội do Đoàn làm nòng cốt được chính quyền các địa phương quan tâm và tạo
điều kiện hơn. Nhiều chương trình, dự án dành cho thanh niên đã được Chính phủ phê duyệt và
đang được triển khai. Công tác xã hội hóa, huy động nguồn lực từ cộng đồng cho các hoạt động
của thanh niên được tăng cường và thu được kết quả nhất định, góp phần tạo động lực để phát
triển các hoạt động của thanh niên thời gian qua.
Tuy nhiên, QLNN về công tác thanh niên còn gặp nhiều thách thức, nhiều vấn đề về thanh
niên còn chậm được giải quyết như: chất lượng giáo dục - đào tạo cho thanh niên còn nhiều bất
cập; công tác dạy nghề và giải quyết việc làm cho thanh niên chưa gắn với nhu cầu thực tế, tỷ lệ
thanh niên thất nghiệp, thiếu việc làm còn cao; nhu cầu về đời sống vật chất, văn hóa tinh thần,
vui chơi giải trí cho thanh niên chưa được đáp ứng đầy đủ; tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật
trong thanh thiếu niên còn diễn biến phức tạp… Bên cạnh đó, một số chính sách còn thiếu tính cụ
thể, chưa sát với nhu cầu chính đáng của thanh niên và chưa được điều chỉnh kịp thời hoặc chưa
được quan tâm thực hiện. Nhiều địa phương chưa có hình thức phát huy thanh niên một cách
hiệu quả; chưa gắn các hoạt động của thanh niên với chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Ngân sách dành cho công tác thanh niên còn hạn chế và thực hiện theo
cơ chế lồng ghép, xã hội hóa nên còn bị động. Công tác kiểm tra, đôn đốc, tổng kết, đánh giá việc

thực hiện chính sách cho thanh niên ở một số nơi chưa được tiến hành thường xuyên, nghiêm
túc.
Thứ ba, tổ chức, bộ máy QLNN về công tác thanh niên ngày càng được hoàn thiện và phát huy
hiệu quả.
Trước đây, Chính phủ chưa giao cho một cơ quan nào thực hiện QLNN về công tác thanh
niên; chỉgiao cho Ủy ban quốc gia về thanh niên Việt Nam làm nhiệm vụ tư vấn cho Thủ tướng
Chính phủ về công tác thanh niên; vì vậy, vấn đề QLNN về công tác thanh niên chưa được cụ thể
hóa và bị buông lỏng. Từ năm 2008, Chính phủ giao Bộ Nội vụ là cơ quan thực hiện chức
năng QLNN về công tác thanh niên; ngành Nội vụ đã tích cực triển khai kiện toàn bộ máy, tổ
chức. Đến nay hầu hết các tỉnh, thành phố đã thành lập phòng Công tác thanh niên thuộc Sở Nội
vụ; 700 quận, huyện đã bố trí cán bộ làm công tác thanh niên với tổng số biên chế gần 1.500
người. Bộ Nội vụ đang tích cực đôn đốc các bộ, ngành, địa phương triển khai Chương trình phát
triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Một số bộ, ngành trung ương đã phân công công
chức theo dõi QLNN về công tác thanh niên thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách.
Tuy nhiên, bộ máy QLNN về công tác thanh niên mới được thành lập, đang trong quá trình hoàn
thiện. Số lượng, chất lượng cán bộ đảm đương nhiệm vụ QLNN về công tác thanh niên ở các cấp
chưa đáp ứng yêu cầu. Có nơi bộ máy QLNN về công tác thanh niên chưa được đặt đúng vị trí,
chức năng hoặc giao hẳn cho tổ chức Đoàn thanh niên đảm nhiệm. Ở một số bộ, ngành QLNN về
công tác thanh niên được giao theo ngành, lĩnh vực lại chỉ quan tâm đến hoạt động trong phạm vi
cơ quan bộ, ngành, chưa có sự chỉ đạo theo ngành dọc để triển khai tới cơ sở. Đội ngũ cán bộ,
công chức làm QLNN về công tác thanh niên được tuyển chọn từ nhiều nguồn khác nhau, do mới
tiếp cận công việc nên gặp nhiều khó khăn, hạn chế, lúng túng trong việc tham mưu đề xuất hoặc
không xác định được công việc cụ thể để triển khai thực hiện. Một trong những nguyên nhân của
tình trạng trên là do công tác nghiên cứu, lý luận và tuyên truyền, phổ biến các kiến thức QLNN về
công tác thanh niên còn nhiều bất cập; đến nay thuật ngữ “quản lý nhà nước về công tác thanh
niên” vẫn còn khá mới mẻ đối với nhiều cán bộ, công chức.
Thứ tư, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong QLNN về công tác thanh niên ngày
càng được tăng cường.



Chính phủ luôn quan tâm tạo cơ chế phối hợp giải quyết các vấn đề liên quan đến thanh niên
thông qua việc định kỳ hàng năm làm việc với Trung ương Đoàn. Ngày 14/12/2012, Chính phủ đã
ký kết với Ban Chấp hành Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh quy chế phối hợp công tác giữa
hai bên, trong đó giao cho các bộ, ngành liên quan phối hợp với Trung ương Đoàn trong công tác
chăm lo, bồi dưỡng và phát huy thanh niên; phối hợp xây dựng, thực hiện và giám sát chính sách,
pháp luật đối với thanh niên; quy định chế độ hội họp, cung cấp trao đổi thông tin về thanh niên và
công tác thanh niên. Các bộ, ngành (từ Trung ương đến địa phương) đã ký kết nhiều nghị quyết
liên tịch, chương trình phối hợp với Trung ương Đoàn và Đoàn thanh niên các cấp thực hiện
chăm lo, bồi dưỡng và phát huy thanh niên. Trong quá trình thực hiện, Bộ Nội vụ phối hợp với các
bộ, ngành hữu quan tổ chức các hoạt động giám sát, đánh giá kết quả việc thực hiện tại các địa
phương, từ đó đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản chính sách, pháp luật cho đối tượng trên.
Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các cơ quan QLNN còn chưa chặt chẽ. Cơ chế phối hợp, cung
cấp thông tin giữa Bộ Nội vụ với Ủy ban quốc gia về thanh niên Việt Nam, Trung ương Đoàn và
các bộ, ngành hữu quan với chính quyền các địa phương trong thực hiện QLNN về thanh niên
chưa được quy định rõ dẫn đến một số hoạt động còn trùng lắp hoặc bỏ trống.
Trên cơ sở thực trạng và định hướng QLNN về công tác thanh niên, để góp phần nâng cao năng
lực, hiệu quả công tác này trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế QLNN về công tác thanh niên; xây dựng và hoàn thiện hệ
thống chính sách đối với thanh niên.
Luật Thanh niên hiện hành chỉ mới quy định về nội dung, trách nhiệm QLNN về công tác
thanh niên mà chưa quy định về cơ quan QLNN về công tác thanh niên, vì vậy, cần có quy định
về vấn đề này trong Luật Thanh niên sửa đổi, bổ sung; quy định rõ vai trò, trách nhiệm và mối
quan hệ của cơ quan QLNN về công tác thanh niên với Ủy ban quốc gia về thanh niên, với Trung
ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Cần tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn; sớm ban hành các quy định về chế độ, chính
sách phát huy vai trò của thanh niên trong giai đoạn mới nhằm cụ thể hóa chính sách, xác định rõ
cơ chế, nguồn lực để các chính sách, pháp luật đó được thực hiện trong thực tế.
Hai là, thực hiện kiện toàn bộ máy, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ
cán bộ làm việc tại cơ quan QLNN về công tác thanh niên các cấp.
Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức QLNN về công tác thanh niên cho đội ngũ cán bộ

chuyên trách các cấp để nâng cao khả năng tham mưu, đề xuất tổ chức thực thi chính sách thanh
niên. Đồng thời, cần có hướng dẫn cụ thể về việc bố trí cán bộ làm nhiệm vụ này ở các bộ, ngành
để tránh tình trạng lúng túng như hiện nay. Các bộ, ngành Trung ương cần bố trí, phân công cán
bộ theo dõi, làm QLNN về công tác thanh niên của bộ, ngành mình để làm đầu mối phối hợp với
Bộ Nội vụ tổ chức triển khai thực hiện. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố giao trách nhiệm cho
các cơ quan liên quan và xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện QLNN về công tác tới các cấp
chính quyền; nghiên cứu trình Hội đồng nhân dân các dự án huy động thanh niên tham gia xây
dựng kinh tế - xã hội ở địa phương.
Ba là, phát huy tốt cơ chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành trung ương và chính quyền
địa phương, đảm bảo tính thống nhất, khoa học, hiệu quả trong quá trình xây dựng, thực thi chính
sách đối với thanh niên.
Cần lồng ghép chính sách thanh niên trong các chính sách phát triển ngành, lĩnh vực, địa
phương; đưa các chỉ số của thanh niên và công tác thanh niên vào chỉ số thống kê quốc gia, trong
chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các cấp; coi việc thực hiện các chỉ tiêu
phát triển thanh niên là một trong những chỉ số đánh giá sự tăng trưởng của từng địa phương,
đơn vị và cả nước. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, gia đình, nhà trường và xã
hội trong chăm lo, giáo dục thanh niên, đặc biệt là trong định hướng về học tập, nghề nghiệp, lối


sống và phòng chống các tệ nạn nhằm xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tạo điều kiện cho
sự phát triển của thanh niên. Triển khai thành lập Hội đồng công tác thanh niên ở các tỉnh, thành
phố để tăng cường công tác thông tin, phối hợp liên ngành trong QLNN về công tác thanh niên;
có cơ chế để Hội đồng này tham gia vào quá trình ra quyết định của chính quyền về các vấn đề
có liên quan đến thanh niên.
Bốn là, xây dựng cơ chế đảm bảo quyền của thanh niên trong việc tham gia xây dựng, thực
hiện và giám sát các chính sách liên quan đến thanh niên.
Các cơ quan, tổ chức trước khi quyết định những chủ trương, chính sách liên quan đến thanh
niênphải có trách nhiệm lấy ý kiến của thanh niên hoặc tổ chức thanh niên. Đồng thời, tăng cường
vai trò giám sát, phản biện xã hội và có biện pháp sử dụng các kênh thông tin của các tổ chức, cá
nhân (nhất là đối tượng thanh niên) trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính

sách đối với thanh niên. Tổ chức cho thanh niên tham gia xây dựng chính sách để từ đó gắn kết
chính sách với cuộc sống.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, định kỳ sơ, tổng kết việc tổ chức triển khai thực hiện
chính sách thanh niên.
Cần kịp thời tổ chức triển khai thực hiện, phát hiện những khó khăn, vướng mắc, đề xuất xây
dựng, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách cho thanh niên. Thúc đẩy xã hội hóa nguồn lực thực
hiện để tranh thủ sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ của các ngành, các cấp và toàn xã hội cho công tác
này. Bên cạnh đó, cần tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, kinh phí và các nguồn lực khác của các tổ
chức quốc tế trong quá trình xây dựng, thực thi chính sách thanh niên.



×