Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC CAO HỌC QUẢN LÝ CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.41 KB, 16 trang )

Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con
người với con người với thế giới khách quan. Con người luôn luôn tác động tích
cực vào thế giới khách quan – tự nhiên và xã hội, cải biến thế giới khách quan
bằng thực tiễn. Trong quá trình đó, sự phát triển nhận thức của con người và sự
biến đổi thế giới khách quan là hai mặt thống nhất biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn trong hoạt động sinh tồn của cá nhân và cộng đồng.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích,
mang tính lịch sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng những
công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo
mục đích của mình. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không
ngừng được phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy mà
thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính lịch sử
xã hội.
Vì vậy thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động của con người, mà
chỉ là những hoạt động vật chất hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động
cảm tính của con người. Bằng hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi bản
thân sự vật trong hiện thực, từ đó làm cơ sở biến đổi hình ảnh của sự vật trong
nhận thức. Do đó hoạt động thực tiễn là hoạt động có tính năng động, sáng tạo,
là hoạt động đối tượng hoá, là quá trình chuyển hoá cái tinh thần thành cái vật
chất.
Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa các chủ thể và khách thể, trong
đó chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể, trên cơ sơ đó nhận thức khách thể.
Vì vậy, thực tiễn trở thành mắt khâu trung gian nối liền ý thức con người với thế
giới bên ngoài.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là hoạt động đặc trưng
cho con người. Con người nhờ vào thực tiễn, như là hoạt động có ý thức, có
mục đích của mình mà cải tạo thế giới để thoả mãn nhu cầu của mình, thích nghi
một cách chủ động, tích cực với thế giới và làm chủ thế giới. Con người không
1



thoả mãn với những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con
người phải tiến hành lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất để nuôi sống mình
. Để lao động và lao động có hiệu quả, con người phải biết chế tạo ra công cụ la
o động và sử dụng công cụ lao động. Bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao
động sản xuất, con người tạo nên những vật phẩm vốn

không có sẵn trong tự

nhiên. Không có hoạt động đó, con người và xã hội loài người không thể tồn
tại và phát triển được.
Vì vậy, có thể nói rằng, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người
và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người
với thế giới.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, được biểu hiện
dưới nhiều hình thức. Hình thức đầu tiên của hoạt động thực tiễn, hoạt động sản
xuất vật chất: Đây là hình thức hoạt động thực tiễn cơ bản nhất, chủ yếu nhất.
Không có hình thức hoạt động này thì con người không thể tồn tại, phát triển
được. Chính vì vậy Mác và Ăng ghen nói rằng: “Một dân tộc sẽ chết đói nếu
ngừng lao động, tôi không nói trong 1 năm mà chỉ trong 1 vài tuần thôi”.
Hình thức thứ hai của hoạt động thực tiễn đó là hoạt động chính trị xã hội
cải tạo cách mạng. Hình thức hoạt động này sẽ thúc đẩy xã hội phát triển,
chuyển xã hội từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác.
Và hình thức cuối cùng là hình thức thực nghiệm khoa học. Hình thức hoạt
động này giúp cho con người khám phá đối tượng tự nhiên, phục vụ cho lợi ích
của con người.
Trong những hình thức đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản
nhất, vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người trong mọi
thời kỳ lịch sử. Hơn nữa các hình thức hoạt động khác suy cho cùng cũng là từ
hoạt động đó mà ra và nhằm phục vụ cho hoạt động đó.

Trong hoạt động thực tiễn luôn không ngừng biến đổi và phát triển, và đề
ra những nhu cầu, nhiệm vụ phương hướng phát triển của nhận thức, nhu cầu
thực tiễn đòi hỏi phải có những tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái
2


quát lý luận. Đó chính là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển. Trong lịch sử,
các môn khoa học nối tiếp nhau ra đời và phát triển trên cơ sở hoạt động thực
tiễn của loài người nhằm đáp ứng những nhu cầu do sự phát triển của thực tiễn
đề ra.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình con người phản
ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử xã
hội. Đó là quá trình đi từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông
đến sâu, từ không đầy đủ chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn. Điều
này được Lê nin diễn tả một cách khái quát như sau: “Từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường
biện chứng của nhận thức chân lý, của nhận thức khách quan”.
Trực quan sinh động hay còn gọi là nhận thức cảm tính, đậy là giai đoạn
đầu của quá trình nhận thức. Giai đoạn này được thể hiện dưới 3 hình thức: cảm
giác, tri giác, biểu tượng. Và giai đoạn tiếp theo là nhận thức lý tính. Đây là giai
đoạn tiếp theo cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở
nhận thức lý tính. Tư duy trừu tượng cũng phản ánh trừu tượng nhưng đây là sự
phản ánh gián tiếp và khái quát do đó phản ánh sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Những
biểu hiện của tư duy trừu tượng đó là khái niệm – phán đoán – suy lý.
Sự phát triển của nhận thức loài người tất yếu dẫn tới sự xuất hiện của lý
luận. Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, đồng thời thể hiệ
nnhư là trình độ cao của nhận thức.
Lý luận là những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh mối liên hệ
bản chất tính quy luật của thế giới khách quan.
Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong mối

liên hệ với thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với
nhau, tác động qua lại nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định, vì nó
là cơ sở, nền tảng của lý luận bởi vì chính thực tiễn là cơ sở xuất phát của nhận
thức nói chung trong đó có lý luận, nó đặt ra các vấn đề cho nhận thức, cho lý
luận.
3


Con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng
thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận
thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Bằng hoạt động
thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những
thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng. Ban đầu con
người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so
sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá… để phát triển thành lý
tính, xây dựng thành lý luận, khoa học phản ánh bản chất, quy luật vận động
của cả sự vật, hiện tượng trong thế giới. Do đó, có thể nói, thực tiễn cung cấp
những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Không có thực tiễn thì không có nhận
thức, không có lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này
hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, dù ở giai đoạn cảm tính hay lý tính, ở
trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân
mình, phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình, từ đó trình độ
được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học.
Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể
cả thành công cũng như thất bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các
mối quan hệ của các yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình
thành lý luận. Qúa trình hoạt động thực tiễn còn là cơ sở để bổ sung và điều
chỉnh những lý luận đã được khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con
người làm nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục

giải quyết. Thông qua đó, lý luận được bổ sung, mở rộng. Lênin nói: “Nhận
thức lý luận phải trình bày khách thể trong tính tất yếu của nó, trong những
quan hệ toàn diện của nó, trong sự vận động mâu thuẫn của nó, tự nó và vì nó".
Thực tiễn là động lực của lý luận. Hoạt động của con người không chỉ là
nguồn gốc để hoàn thiện các cá nhân mà còn góp phần hoàn thiện các mối quan
hệ của con người với tự nhiên, với xã hội. Lý luận được vận dụng làm phương
pháp cho hoạt động thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người càng kích thích
4


con người tích cực bám sát thực tiễn để khái quát lý luận. Qúa trình đó diễn ra
không ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày càng đầy đủ,
phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy, hoạt động của con người không bị hạn chế
trong không gian và thời gian. Thông qua đó, thực tiễn đã thúc đẩy một ngành
khoa học mới ra đời – khoa học lý luận.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Mặc dù lý luận cung cấp những tri thức
khái quát về thế giới để làm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của con người nhưng
mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người
trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn thỏa mãn nhu cầu ngày
càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không thể tạo nên những sản
phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong hoạt
động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích
của con người. Đó thực chất là mục đích của lý luận. Tức lý luận phải đáp ứng
nhu cầu thực tiễn của con người.
Vai trò của thực tiễn còn được thể hiện ở chỗ nó là tiêu chuẩn để kiểm tra tính
đúng sai của chân lý. Mác viết:
“Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan
không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn.
Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý…”. Chỉ có lấy
thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức đạt được là đúng hay sai, là

chân lý hay sai lầm. Thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh chân lý, bác bỏ sai
lầm. Tuy nhiên, cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một cách biện chứng, tiêu
chuẩn này vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Là tuyệt đối vì nó là tiêu
chuẩn khách quan duy nhất của nhận thứ, là thước đo duy nhất khẳng định tính
đúng sai của tri thức. Nhưng tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực
tiẽn không đứng yên một chỗ mà biến đổi và phát triển không ngừng, ở một
phương diện thực tiễn nhất định, nó chỉ kiểm tra được sự đúng đắn của một nhận
thức nhất định chứ không kiểm tra được toàn bộ nhận thức đã có, nên tiêu chuẩn
thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người thành những chân
5


lý tuyệt đích cuối cùng, mà những tri thức này vẫn phải thường xuyên được
kiểm nghiệm để tránh những cực đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ,
hay chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, chủ nghĩa tương đối.
Vai trò của thực tiễn đối với lý luận còn thể hiện ở chỗ chỉ thông qua thực tiễn,
lý luận mới được vật chất hóa, chỉ thông qua thực tiễn thì lý luận mới có giá trị
tham gia vào biến đổi hiện thực, mới có sức mạnh cải tạo hiện thực.
Tuy nhiên, việc coi trọng thực tiễn không có nghĩa là coi nhẹ lý luận, hạ
thấp vai trò của lý luận. Không nên đề cao cái này hạ thấp cái kia, và ngược lại.
Không thể dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận được trực tiếp từ thực tiễn
mà phải nâng lên thành lý luận. Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ khác
nhau của nhận thức, đồng thời lại thống nhất với nhau, chúng bổ sung cho nhau,
giả định lẫn nhau, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau. Nhận thức kinh nghiệm
và nhận thức lý luận cũng không đồng nhất với nhận thức cảm tính và nhận thức
lý tính, tuy chúng có quan hệ với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Bởi vì
trong nhận thức kinh nghiệm ngoài hoạt động trực quan cảm tính, còn có sự
tham gia của yếu tố lý tính. Do đó, có thể coi kinh nghiệm và lý luận là những
bậc thang của lý tính, nhưng khác nhau về đối tượng, về trình độ, tính chất phán
ánh hiện thực, về chức năng cũng như về trật tự lịch sử. Vì vậy, không nên coi

thường kinh nghiệm song cũng không nên cường điệu kinh nghiệm, không nên
dừng lại ở kinh nghiệm mà cần nâng lên trình độ lý luận. Lý luận là trình độ cao
hơn về chất so với kinh nghiệm,
“Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp
những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”.
(Hồ Chí Minh: Toàn tập).
Lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao hơn kinh nghiệm, nó thể
hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, nên phạm vi ứng
dụng của lý luận mang tính phổ biến hơn, rộng hơn nhiều lần so với tri thức kinh
nghiệm.

6


Lý luận là “kim chỉ nam” cho hoạt động thực tiễn, nó soi đường dẫn dắt, chỉ
đạothực tiễn. Lý luận vạch ra các quy luật khách quan của hiện thực, từ đó mới
có cơ sở để định ra mục tiêu, phương hướng, phương pháp đúng đắn cho hoạt
động thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mới làm cho hoạt động thực tiễn của
con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Như
vậy, chính lý luận thông qua hoạt động của con người để tác động trở lại với
thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn. “Không có lý luận thì lúng túng như
nhắm mắt mà đi” (Hồ Chí Minh: Toàn tập), khi lý luận đã xâm nhập vào quần
chúng thì biến thành sức mạnh vật chất vì trong khi khát quát thực tiễn, lý luận
đã vạch ra được sự liên hệ lẫn nhau giữa các hiện tượng, các quy luật khách
quan của sự phát triển, đồng thời nó còn thể hiện dự báo, chỉ ra những phương
hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn, làm cho hoạt động của thực tiễn có
hiệu quả hơn. “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào
cách mạng” (Lênin: Toàn tập). Thống nhất với thực tiễn và trên cơ sở đó sáng
tạo và phát triển, đó là nguyên tắc rất cơ bản, đảm bảo sức sống cho lý luận, đưa
lại cho nó khả năng định hướng đôí với những mâu thuẫn cốt lõi của đời sống

sinh động. Nếu vi phạm nguyên tắc này thì bản thân lý luận sẽ mất động lực
phát triển, rơi vào chủ nghĩa thực dụng, chủ quan duy ý chí. Điều đó cũng có
nghĩa là phải luôn luôn quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
Chúng ta luôn nhớ lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mac - Lênin. Thực tiễn
không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận mà không
thực tiễn là lý luận suông”.
Việc vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thường dẫn
đến hai sai lầm cực đoan là bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều chủ
nghĩa. Đây là hai “căn bệnh” mà cán bộ, đảng viên chúng ta ít nhiều đã mắc phải
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa qua và đã gây những tác hại nhất

7


định. Vì vậy, Đại hội VII của Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ phải xây dựng phương
pháp tư duy khoa học, chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm.
Trong triết học, khái niệm “giáo điều” chỉ một nguyên lý hay một luận
điểm được tiếp nhận như là một chân lý hiển nhiên không thể phê phán, không
cần chứng minh mà chỉ dựa vào lòng tin mù quáng.
Chủ nghĩa giáo điều là phương pháp tư duy vận dụng những khái niệm,
những công thức bất biến, không chú ý đến những tài liệu mới của thực tiễn và
của khoa học, những điều kiện cụ thể của địa điểm và thời gian, tức là coi
thường nguyên lý về tính cụ thể của chân lý. Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư
tưởng tuyệt đối hoá lý luận coi thường kinh nghiệm, khuyếch đại vai trò của lý
luận để hạ thấp vai trò của thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan
điểm lịch sử cụ thể, áp dụng kinh nghiệm một cách rập khuôn máy móc.
Sự xuất hiện chủ nghĩa giáo điều về mặt lịch sử gắn liền với sự phát triển
của những quan niệm tôn giáo, của những yêu cầu tin vào những tín điều của tôn

giáo được khẳng định với tính cách là chân lý bất di bất dịch, không thể phê
phán và có tính chất bắt buộc đối với tất cả các tín đồ. Trong triết học hiện đại,
chủ nghĩa giáo điều gắn liền với những quan niệm phản biện chứng, phủ nhận tư
tưởng về tính biến đổi và sự phát triển của thế giới, cũng như gắn liền với tình
trạng không hiểu rõ bản thân những quy luật biện chứng được thể hiện một cách
khách nhau trong những điều kiện lịch sử khác nhau, trong những sự vật và quá
trình khác nhau.
Xét về mặt nhận thức và phương pháp luận, sai lầm của những người mắc
bệnh giáo điều là ở chỗ không hiểu được thực chất, tính biện chứng, năng động,
phức tạp của quá trình nhận thức, đặc biệt là mối quan hệ giữa lý luận và thực
tiễn. Bệnh giáo điều cản trở sự phát triển của lý luận và tư duy lý luận khoa học,
từ đó làm trì truệ sự phát triển của xã hội, hạ thấp vai trò của con người, hạn chế
tính năng động của nhân tố chủ quan trong cải tạo hiện thực. Hai khái niệm
“bệnh giáo điều” và “chủ nghĩa giáo điều” xét về bản chất, hai khái niệm này
vẫn được sử dụng như nhau, song giữa chúng có sự khác biệt: Nói về “Chủ
8


nghĩa giáo điều”, tức là nói tới một quan điểm lý luận nhận thức tương đối hoàn
chỉnh, có tính hệ thống, lôgíc nhất quán nhằm tuyệt đối hoá vai trò của lý luận
hay luận điểm, quan niệm, học thuyết nào đó. Còn nói tới khái niệm “Bệnh giáo
điều” là chúng ta muốn nói tới một trạng thái, tính chất biểu hiện đặc thù sai lầm
trong quá trình tư duy của chủ thể, như tính máy móc, rập khuôn, cứng nhắc,
thiếu sáng tạo, mang lại hiệu quả tiêu cực trong hoạt động thực tiễn và hoạt động
lý luận.
- Những biểu hiện chủ yếu của bệnh giáo điều:
Biểu hiện đầu tiên của bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ
dừng ở câu chữ, ở những nguyên lý chung chung, trừu tượng mà không thâu tóm
được thực chất cách mạng và khoa học của nó, nặng nề những gì đã có trong
sách vở mà không đối chiếu với cuộc sống, không xuất phát từ những hoàn cảnh

lịch sử cụ thể, từ thực tiễn vận động để vận dụng lý luận. Tiếp thu những
nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học một cách đơn giản, phiến diện mang
tính chất cảm tính, áp dụng rập khuôn mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ngoài.
Nhất là khi đề ra những chủ trương chính sách, thường nặng về sách vở, mà
không xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của thực tiễn đất nước, xa rời thực
tiễn sinh động.
Một biểu hiện khác của bệnh giáo điều là áp dụng một cách rập khuôn, máy
móc kinh nghiệm của nước này vào nước khác, địa phương này vào địa phương
khác, lĩnh vực này vào lĩnh vực khác… ở đây bệnh giáo điều thể hiện thành giáo
điều kinh nghiệm, đây là bệnh giáo điều chủ yếu ở nước ta, và là căn bệnh cũng
do trình độ lý luận, tư duy lý luận còn yếu kém, hiểu lý luận một cách chung
chung,tách rời lý luận với thực tiễn. Chính sự yếu kém về lý luận làm cho dễ
tiếp thu lý luận một cách đơn giản, phiến diện, cắt xén, sơ lược, không đến nơi
đến chốn, và chính sự tiếp thu lý luận từ trình độ tư duy kinh nghiệm dễ dẫn đến
méo mó lý luận, dẫn đến cán bộ ta thường phải dựa vào kinh nghiệm cũng như
tư duy kinh nghiệm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Song, ở những

9


người giáo điều, việc tiếp thu kinh nghiệm nhiều khi thiếu phân tích, chọn lọc và
vận dụng cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Bệnh giáo điều tồn tại đồng thời và đan kết với bệnh chủ quan duy ý chí,
bệnh kinh nghiệm. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta vừa
qua, cán bộ ta không những mắc bệnh giáo điều mà cả bệnh chủ quan duy ý chí
và kinh nghiệm chủ nghĩa, chúng đan kết quyện chặt thành một khối làm cho
mọi mặt thêm trầm trọng.
Với Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, mang nặng
dấu ấn của nền kinh tế phong kiến.
Do đó, bệnh giáo điều còn thể hiện ở tư tưởng gia trưởng phong kiến, hay

nói cách khác bệnh giáo điều ở nước ta mang đậm màu sắc phong kiến.
- Những nguyên nhân chủ yếu của bệnh giáo điều:
Nguyên nhân đầu tiên là do hiểu lý luận một cách trừu tượng, do tách rời lý
luận với thực tiễn. Chính sự yếu kém về lý luận làm cho dễ tiếp thu lý luận một
cách giản đơn, phiến diện, cắt xén, sơ lược, không đến nới đến chốn. Chính sự
tiếp thu lý luận từ trình độ tư duy kinh nghiệm dễ dẫn đến làm méo mó lý luận.
Sự yếu kém về phương pháp tư duy khoa học bộc lộ rõ trên các khía cạnh như:
tư duy nặng tính chung chung, hời hợt, sơ lược, phiến diện và chủ quan, duy ý
chí; yếu về khả năng luận chứng, lập luận, tính phê phán, tính chiến đấu, tính
hoài nghi khoa học; yếu kém về tính logic cũng như khả năng phân tích, tổng
hợp, khái quát thực tiễn và khả năng tư duy độc lập sáng tạo.
Nguyên nhân thứ hai là sự xa rời thực tiễn đất nước và thời đại trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bệnh giáo
điều. Vì lẽ, xa rời thực tiễn sẽ không có cơ sở và khả năng vận dụng lý luận một
cách đúng đắn, cũng như phát triển sáng tạo lý luận. Mặt khác, do không bám
sát sự vận động của cuộc sống nên lý luận, chủ trương, chính sách không được
kiểm tra và kịp thời điều chỉnh, bổ sung, đổi mới cho phù hợp với hiện thực luôn
vận động. Do vậy xa rời thực tiễn sẽ không tránh khỏi giáo điều.

10


Nguyên nhân tiếp theo là do sự tác động tiêu cực của cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp kéo dài cũng dẫn tới chủ nghĩa giáo điều. Cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp, hành chính hoá là cơ chế đối lập với yêu cầu phát triển sáng tạo
của sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nó làm triệt tiêu tính năng động, tích
cực sáng tạo của cán bộ, làm nảy sinh tệ quan liêu, xa rời quần chúng do mọi
vấn đề hầu như được tiến hành theo “pháp lệnh” từ trên xuống dưới, bất chấp
thực tiễn có chấp nhận hay không, coi nhẹ hoạt động dân chủ, dần dần làm phát
sinh tệ độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng, coi thường kỷ cương pháp luật, coi

thường quần chúng. Cơ chế bao cấp trong công tác lý luận nói chung và trong
nghiên cứu triết học nói riêng cũng là nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng
lý luận xa rời cuộc sống, ngăn cách lý luận với thực tiễn. Thực chất của cách
nghĩ không đúng đắn này có lẽ xuất phát từ nhận thức sai lệch nguyên tắc thống
nhất giữa tính đảng và tính khoa học, nên đã dẫn tới phá vỡ sự thống nhất lý
luận và thực tiễn trong nghiên cứu lý luận nói chung và triết học nói riêng.
Bệnh kinh nghiệm:
Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hoá kinh nghiệm,
coi thường lý luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý
luận. Người mắc bệnh kinh nghiệm thường thoả mãn với vốn kinh nghiệm bản
thân ngại học lý luận, không chịu nâng cao trình độ lý luận, coi thường khoa học
kỹ thuật, coi thường giới trí thức, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ.
Nước ta vì điều kiện sản xuất nhỏ là phổ biến, trình độ dân chí thấp, khoa học kỹ
thuật chưa phát triển, tư tưởng phong kiến còn ảnh hưởng nhiều trong nhân dân
nên đó lànhững mảnh đất thuận lợi cho bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa nảy sinh.
Như vậy, sự yếu kém về lý luận là một nguyên nhân trực tiếp và rất quan
trọng của bệnh kinh nghiệm. Tuy nhiên, sự yếu kém về lý luận không chỉ dẫn
đến bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn đến bệnh giáo điều. Bởi vì, chính sự yếu kém
về lý luận làm cho chúng ta dễ tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin một cách
đơn giản, phiến diện, cắt xén, sơ lược, không đến nơi đến chốn. Việc tiếp thu lý
luận từ trình độ tư duy kinh nghiệm dễ dẫn đến làm méo mó lý luận.
11


Trước đây, khi nói về Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng Đảng ta còn
có nhiều nhược điểm, mà một trong những nhược điểm lớn là trình độ lý luận
còn thấp kém. Có thể nói, nhận định đó ngày nay vẫn đúng. Vì vậy, nâng cao
một cách căn bản trình độ lý luận, trình độ trí tuệ của Đảng, là một phương
hướng quan trọng và cấp bách để khắc phục cả bệnh kinh nghiệm và cả bệnh
giáo điều trong cán bộ ta.

Để khắc phục sự yếu kém về lý luận, trước hết, phải coi trọng lý luận và
công tác lý luận của Đảng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh,phải quán triệt nhiệm vụ và hướng nghiên cứu chủ yếu cũng như
những phương châm lớn chỉ đạo hoạt động lý luận đã được nêu ra trong nghị
quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay.
Phải tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, khắc phục sự lạc hậu của lý luận, thu
hẹp tối đa khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn. Phải đổi mới việc nghiên cứu
lý luận và thực tiễn; từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, tư biện; thường xuyên đối
chiếu lý luận với cuộc sống, kết hợp lý luận với thực tiễn, vận dụng lý luận vào
hoàn cảnh thực tế cách mạng nước ta một cách sáng tạo.
Coi trọng tổng kết thực tiễn là một phương pháp cơ bản trong hoạt động lý
luận. Đó cũng là phương pháp cơ bản để khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều, thực hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Qua tổng kết thực
tiễn mà sửa đổi, phát triển lý luận đã có, bổ sung hoàn chỉnh đường lối, chính
sách, hình thành lý luận mới, quan điểm mới để chỉ đạo sự nghiệp đổi mới xã
hội nước ta.

12


Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào thực tế
giảng dạy:
Giảng dạy trong nhà trường cần quán triệt sâu sắc nguyên lý giáo dục: học
đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với
xã hội.
Trong giảng dạy, các vấn đề lý luận và thực tiễn phải được giảng viên trình
bày một cách thống nhất, làm sao để lý luận thường xuyên liên hệ chặt chẽ với
thực tiễn xã hội, thực tiễn giáo dục, phản ánh kịp thời sự biến đổi của đời sống
xã hội. Đất nước ta đang thời kỳ đổi mới với những thay đổi rất nhanh chóng
trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực giáo dục cũng đang

có những chuyển biến tích cực và mạnh mẽ. Những thay đổi trong đời sống thực
tiễn phải được giảng viên kịp thời nắm bắt và đưa vào trong nội dung bài giảng
của mình. Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp
những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử. Nhưng lí
luận không phải là một cái gì đứng im, chết cứng mà nó luôn luôn cần đến thực
tiễn để được thực tiễn bổ sung, hoàn thiện bằng những kết luận mới trong những
điều kiện, hoàn cảnh mới.
Mặt khác, lý luận là kết quả của tư duy trừu tượng, được khái quát hóa
thành những nguyên lí phổ biến, những quy luật; dó đó Người nói: Lý luận
“phải cụ thể hóa … cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc và từng
nơi”. Và một vấn đề nữa, theo Hồ Chí Minh lý luận liên hệ với thực tế còn là ở
chỗ “mục đích học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lí luận”. Người
nói : “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng
vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn
quyển lí luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào cái một hòm đựng
sách” .
Do đó, trong quá trình giảng dạy, cần phân tích làm cho người học nắm
được cơ sở lý luận, khía cạnh phương pháp luận của các vấn đề cần truyền đạt,
từ đó họ có thể lý giải được những vấn đề thực tiễn.
13


Khi trình bày các vấn đề về dân số, môi trường… cần lấy những ví dụ minh
họa mang tính thực tiễn, thường xuyên liên hệ lý luận với thực tiễn. Tuy nhiên,
không nên trình bày theo kiểu minh họa, thuyết minh chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, mà phân tích một cách có căn cứ lý luận; vận
dụng phương pháp luận biện chứng duy vật để luận giải các vấn đề thực tiễn.
Giảng dạy là làm cho sinh viên hiểu được, nắm được cơ sở lý luận, khía cạnh
phương pháp luận của đường lối, chủ trương, chính sách đang thực thi trong đời
sống, từ đó có thể tự phân tích, nhận định, đánh giá những vấn đề thực tiễn mới

nảy sinh.
Muốn vậy, đối với giảng viên cần phải có:
Thứ nhất, cần phải có kinh nghiệm và vốn sống thực tiễn phong phú, thông
qua việc thu thập thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, đi nghiên
cứu thực tế, nhất là học hỏi ở phong trào quần chúng, ở cơ sở nhằm làm cho bài
giảng phong phú, tiết học sôi nổi. Kết hợp các phương thức khác nhau để tiếp
cận với các hình thức, các mức độ của thực tiễn.
Ví dụ: đi thực tế cơ sở (xã, phường, thị trấn, doanh nghiệp…), gặp gỡ trao
đổi với cán bộ, hội viên nông dân, phụ nữ, đến với các tổ chức công đoàn cơ sở
gặp gỡ cán bộ, đoàn viên công đoàn, công nhân; thăm quan các các mô hình lao
động sản xuất, để có thực tiễn trực tiếp sinh động, thời sự. Hoặc tích cực khai
thác thông tin ở các phương tiện thông tin đại chúng (đài, báo, tạp chí, Internet,
…) để có thực tiễn đa chiều, rộng lớn đã được chọn lọc, phân tích. Và chịu khó
nghiên cứu các tài liệu chính thống, nhất là các văn kiện Hội nghị, Đại hội Đảng,
…đây là dạng thực tiễn có độ tin cậy cao, vừa có tính cụ thể, vừa có tính khái
quát.
Thứ hai, cần phải có kỹ năng, năng khiếu, nghiệp vụ sư phạm được đào tạo
chính quy, vững vàng về chuyên môn, tinh thông về phương pháp, ứng biến linh
hoạt trong quá trình lên lớp.
Ví dụ: Cùng một chuyên đề nhưng giảng dạy tại các lớp học vùng thành
phố, đồng bằng, không thể đồng nhất với các lớp vùng trung du, miền núi, hoặc
14


giảng dạy tại các lớp đại đa số học viên là thanh niên thế hệ trẻ, không thể giống
với lớp đa số học viên lớn tuổi. Nắm bắt được đối tượng sẽ giúp lựa chọn kiến
thức thực tiễn hoặc cách khai thác nhấn mạnh khía cạnh nào trong cùng một sự
kiện để phù hợp đối tượng..
Thứ ba, có lương tâm, tâm quyết với nghề nghiệp, lòng nhiệt tình, sự say
mê với công việc dạy học. Đó chính là đạo đức nghề nghiệp, điều làm cho người

giảng viên phấn đấu suốt đời cho sự nghiệp trồng người, sự nghiệp đào tạo thế
hệ cách mạng cho đời sau.
Thứ tư, người giảng viên phải có phẩm chất đạo đức trong sáng, nhất là đạo
đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đời tư trong sáng, cuộc sống riêng
giản dị. Có uy tín trong quá trình giảng dạy mà đặc biệt là uy tín khoa học được
học viên và đồng nghiệp đánh giá cao.
Và yếu tố cuối cùng là người giảng viên phải có một bản lĩnh chính trị vững
vàng, lập trường, quan điểm, tư tưởng kiên định nhất quán với mục tiêu, lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa. Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm
trước dân, trước Đảng về việc làm của mình. Phấn đấu suốt đời cho mục tiêu, lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Đối với người học, Người dạy: “Học lý luận không phải để nói mép… Học
để áp dụng vào việc làm. Làm mà không có lý luận thì không khác nào đi mò
trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa vấp váp. Có lý luận thì mới hiểu được mọi
chuyện trong xã hội, trong phong trào để chủ trương cho đúng, làm cho đúng”.
Tuy nhiên trong giảng dạy, không phải tất cả các nội dung lý luận trong
bài giảng đều cần có liên hệ thực tế, mà chỉ ở những vấn đề nào quan trọng, cần
thiết nhấn mạnh, khó hiểu, hay muốn tăng thêm tính thuyết phục… Một vấn đề
lí luận có thể có nhiều hiện tượng, hoạt động thực tiễn để liên hệ, phân tích,
chứng minh; và một bài giảng cần gắn lí luận với thực tiễn không chỉ một, hai
lần. Do đó để tránh sự trùng lặp, đơn điệu cũng như để các liên hệ thực tiễn đưa
vào bài giảng sát, phù hợp với những vấn đề lí luận định làm rõ, chứng minh thì

15


nhất thiết giảng viên phải nắm vững kiến thức lí luận của từng tiết mục, từng bài
và toàn bộ nội dung mà mình đảm nhiệm.
Không chỉ vậy, nắm vững lí luận còn giúp giảng viên lựa chọn được loại
kiến thức thực tiễn nào, ở mức độ nào thì phù hợp cần định hướng cho sinh viên.

Thực tiễn có nhiều loại: Thực tiễn trực tiếp, thời sự diễn ra hàng ngày của con
người trên mọi phương diện của đời sống xã hội. Giảng viên thu nhận được các
yếu tố (số liệu, sự kiện, hình ảnh) của thực tiễn này từ các chuyến đi thực tế đến
với các cơ sở; Thực tiễn đa chiều đã được phản ánh chọn lọc, bình luận trên các
phương tiện thông tin đại chúng như sách, báo, tạp chí, tin,…Thực tiễn mang
tính chính thống trong các văn bản của Đảng và Nhà nước (các văn kiện Hội
nghị, Đại hội Đảng, các luật, bộ luật,…). Các yếu tố thực tiễn ở cấp độ này đã
được lựa chọn kỹ lưỡng, cơ bản và tin cậy, vừa có tính khái quát vừa có tính cụ
thể. Thực tiễn đa dạng, phong phú, việc đưa yếu tố thực tiễn vào bài giảng tuỳ
thuộc nội dung đảm nhận cũng như tuỳ thuộc vào năng lực của giảng viên.
Nói tóm lại, thực tiễn và lý luận luôn đi liền với nhau, tùy vào điều kiện,
tình hình cụ thể mà có cách áp dụng cho phù hợp, đúng mục đích, đúng đối
tượng trong giảng dạy. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, của triết
học Mác – Lênin nói riêng. Đây không chỉ là nguyên tắc được đề xuất cho nhận
thức luận mà còn là lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin cho quá trình hình thành
tri thức khoa học, tri thức lý luận và phương pháp luận cho hoạt động cải tạo
hiện thực khách quan vì mục đích tiến bộ xã hội./.

16



×