Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đưa ra tổng kết các quan điểm và khẳng định tư tưởng Thân Dân của Hồ Chí Minh là kim chỉ nam của mọi hoạt động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.83 KB, 19 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài: Anh, (chị) hãy tìm hiểu về tưởng “Thân Dân” của Hồ Chí Minh
so với các bậc tiền bối. Vấn đề này được đảng và nhà nước ta giải quyết như
thế nào? Liên hệ bản thân.

Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Lê Thị Hoa
Họ và tên sinh viên: Chu Kiều Oanh
Ngày tháng năm sinh: 02/11/1991
MSSV: CQ512384
STT: 68
Lớp: Tư tưởng Hồ Chí Minh (103) _33
Khoá: 51

Hà Nội, ngày 21 tháng 10 năm 2010
1


Đề Cương:
I/. đặt vấn đề
II/. Giải quyết vấn đề
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về “ Thân Dân”.
- Lấy dân làm gốc:
- Tư tưởng “thân dân”:
2. Quan điểm của các bậc tiền bối:
-


Quan điểm về “Thân Dân” thời Lý- Trần

3. Điểm khác biệt giữa các quan điểm
So sánh giữa tư tưởng “Thân Dân” của Hồ Chí Minh và
các nước phương đông, phương tây.
4. Áp dụng tư tuởng “Thân Dân” trong đảng và nhà nước ta
hiện nay.
- Mối quan hệ giữa Đảng và Dân
5. Liên hệ bản thân
6. Giải pháp
III/. Kết luận
Đưa ra tổng kết các quan điểm và khẳng định tư tưởng “Thân
Dân” của Hồ Chí Minh là kim chỉ nam của mọi hoạt động.

2


Bài Làm:
I/ Đặt vấn đề: Tư tưởng “ Thân Dân” của Hồ Chí Minh.
1. “Thân dân” là gì ?
2. Thế nào là tư tưởng “ Thân Dân” ?
II/ Giải quyết vấn đề:
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh.
• Lấy dân làm gốc:
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước lấy dân làm gốc;
Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Người rất
tâm đắc với câu nói dân gian: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó vạn
lần dân liệu cũng xong”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người luôn luôn được
đặt lên hàng đầu, vì vậy nguyên tắc lấy dân làm gốc là một trong những

nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Cả cuộc
đời hoạt động của Người đều hướng vào mục tiêu cao cả là giải phóng
giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc
lột bất công, khỏi đọa đày và đau khổ, khỏi nghèo nàn và lạc hậu.
Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: “Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng” và kế thừa hệ tư tưởng phương Đông: “Nước lấy dân
làm gốc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhìn ra sức mạnh của con người
trong sự cố kết với cộng đồng dân tộc, giai cấp với sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không
gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Sự đoàn kết của nhân dân là
lực lượng vô địch, dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không
chống lại nổi. “Sự đồng tâm của đồng bào đúc thành một bức tượng đồng
3


xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn xảo quyệt đến mức nào đụng đầu
nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”.
Những ngày đầu xây dựng chính quyền cách mạng từ sau ngày cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ vai trò to
lớn của nhân dân, đồng thời vạch ra 12 điều răn rất cụ thể để giáo dục bộ đội,
cán bộ “khi tiếp xúc và chung sống với nhân dân”. Đảng ta tiếp thu tư tưởng
“Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định: Cần
thắt chặt hơn nữa quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, chính Đảng cũng
từ nhân dân, là một bộ phận tiên tiến của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân
thực sự là người chủ, trực tiếp tham gia công việc quản lý đất nước, quản lý
xã hội trong giai đoạn mới của cách mạng.
“Dân làm gốc”, “Dân làm chủ”, trong tư tưởng và hành động phải nhất
quán, gắn bó hữu cơ. Bước vào công cuộc đổi mới đất nước “người chủ” chưa
thể làm chủ ngay trên tất cả các mặt hoạt động của xã hội, cần phải có người

đại diện cho mình để làm chủ. Còn bản thân “người chủ” phải được học làm
chủ, trên mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là một quá trình lâu dài. Cho nên,
để phát huy vai trò “Dân làm gốc”, “Dân làm chủ” trong điều kiện của đất
nước ta, cần thật sự bảo đảm các quyền của “Người chủ”, chứ không phải chỉ
trên các văn bản pháp lý, hoặc trên lời nói. Người đại diện cơ quan, đại diện
cho sự làm chủ của nhân dân phải được tuyển chọn nghiêm ngặt, “có ý thức
phục vụ dân”, “làm đầy tớ cho dân”, phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết,
tự mình “Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư”…
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán nghiêm khắc những hành vi xem
thường nhân dân của một số cán bộ, đảng viên. Trong tác phẩm “Cần tẩy sạch
bệnh quan liêu mệnh lệnh” (Hồ Chí Minh toàn tập – tập 6 – trang 192-193),
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Ai cũng biết bệnh quan liêu mệnh lệnh là nguy
hiểm. nhưng trong công tác thực tế như trong việc tạm vay thóc chiêm vừa
rồi, nhiều cán bộ ta còn mắc bệnh ấy. miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc
thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ
4


làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương châm và
chính sách của Đảng và Nhà nước.
Bệnh quan liêu mệnh lệnh từ đâu mà ra?
Nguyên nhân bệnh ấy là:
Xa nhân dân, do đó không hiểu tâm lý, nguyện vọng của nhân dân.
Khinh nhân dân, cho là “dân ngu khu đen”, bảo sao làm vậy, không hiểu
được lý luận chính trị, lý luận cao xa của mình.
Sợ nhân dân, khi có sai lầm, khuyết điểm thì sợ nhân dân phê bình, sợ
mất thể diện, sợ phải sửa chữa.
Không tin cậy nhân dân. Họ quên rằng không có lực lượng nhân dân, vì
việc nhỏ mấy, dễ mấy, làm cũng không xong; có lực lượng nhân dân, thì việc
khó mấy, to mấy cũng làm được.

hông hiểu biết nhân dân. Họ quên rằng nhân dân cần trông thấy lợi ích
thiết thực (lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích bộ
phận và lợi ích toàn cuộc). Đối với nhân dân không thể lý luận suông, chính
trị suông.
Không yêu thương nhân dân. Do đó họ chỉ biết đòi hỏi nhân dân, không
thiết thực giúp đỡ nhân dân. Thí dụ: Họ yêu cầu nhân dân đóng góp, nhưng
không biết giúp đỡ nhân dân tăng gia sản xuất, cải thiện sinh hoạt, để bồi
dưỡng sức của, sức người của nhân dân.
Có nơi, bệnh quan liêu mệnh lệnh trầm trọng đến nỗi cán bộ lừa phỉnh,
dọa nạt dân!
Sinh thời Bác Hồ thường nhắc nhở: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao
nhiêu quyền hạn đều do dân. Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của
dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ
xã đến chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã
do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân…”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra bài học: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do
dân, vì dân. Do vậy, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải:
“Động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại
5


của toàn dân…” (Di chúc). Bài học mà Người chỉ ra đến nay vẫn còn nóng
hổi và mãi mãi định hướng cho chúng ta: Phải lấy dân làm gốc. Phải gần gũi
nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, xa rời nhân dân thì tài tình mấy
cũng không làm gì được.
Dân là gốc của nước, dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng
và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân
xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước.
Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của
Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng,

đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như
nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không
có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành
hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý
nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy.
• Tư tưởng “thân dân”
Xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc, Hồ Chí minh cho rằng:
Thân dân thì phải hiểu dân, nghe được dân nói, nói được cho dân nghe,
làm được cho dân tin, là nhận biết được những nhu cầu của họ, biết được họ
đang suy nghĩ gì, trăn trở cái gì? Họ mong muốn những gì? Và họ đang
mong đợi gì ở người khác, nhất là ở người lãnh đạo, quản lý; phải biết phát
hiện và đáp ứng kịp thời những nhu cầu và lợi ích thiết thực của dân; là nhìn
thấy cả cái thực tại và vạch ra được viễn cảnh (tương lai) đúng đắn cho dân
phát triển; là biết chia sẻ, đồng cảm và gần gũi với cuộc sống của dân, mọi
suy nghĩ và hành động đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của dân, phản ánh
đúng tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của dân.
Người yêu cầu cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều phải là đày tớ trung
thành của nhân dân. Theo Người: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ
trưởng, Ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân,
chứ không phải là làm quan cách mạng”2.
6


Từ thực tế, Bác đã thẳng thắn phê phán nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp
cao, khi xuống cấp dưới triển khai công việc thì khệnh khạng như “ông quan”
và nội dung truyền đạt thì rất đại khái, hình thức, vì vậy mà quần chúng
không hiểu và rất sợ đi họp. Đó là bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức, không
phải vì lợi ích của quần chúng.
Việc đặt ra chương trình làm việc, kế hoạch hành động, tuyên truyền,
nhiều cán bộ cũng không hỏi xem quần chúng cần cái gì, muốn nghe, muốn

biết cái gì, “chỉ mấy ông cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy
mà viết, cứ tưởng những cái mình làm ra là đúng, mình viết là hay. Nào có
biết, cách làm chủ quan đó, kết quả là “đem râu ông nọ chắp cằm bà kia”,
không ăn thua, không thấm thía, không lợi ích gì cả”.
Thời đại Hồ Chí Minh, những giá trị văn hóa chính trị yêu nước, thương
dân, lấy dân là gốc được soi sáng và phát triển rực rỡ, trở thành chân lý khoa
học, kim chỉ nam cho hành động. Thân dân, luôn coi dân là gốc là đạo đức
cách mạng của cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự đặt mình vào
địa vị của người dân mà mình đại diện để hiểu, suy xét, chia sẻ tâm tư,
nguyện vọng, kiến nghị, đề xuất , mong muốn của họ. Có lắng nghe, thấu hiểu
nguyện vọng chính đáng của dân thì đại biểu dân cử mới thực hiện tốt việc
“Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì hại đến cho dân ta phải hết
sức tránh”. Bởi, ta có yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta.
Thân dân biểu hiện ở việc cán bộ, đảng viên thực hiện nghĩa vụ và quyền
lợi do pháp luật quy định. Tức là, phải trung thành với mục tiêu lý tưởng, với
chính sách, pháp luật của Nhà nước, phải hướng đến một nền hành chính, một
tổ chức, một bộ máy phục vụ nhân dân; luôn gương mẫu hoàn thành kế hoạch
được giao và nếu có chức vụ phải biết sử dụng quyền lực để giao việc, kiểm
tra, theo dõi, đánh giá, phê bình, khen thưởng một cách công minh chính trực;
phải lắng nghe và dựa vào quần chúng nơi cơ quan để xây dựng quy chế làm
việc, quy chế dân chủ cơ sở, quy chế chi tiêu tài chính, các biện pháp thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, làm cho cơ quan đoàn kết
nhất trí; không xu nịnh, không ưa nịnh, không chia bè chia cánh, cục bộ, bản
7


vị; phải luôn đề cao trách nhiệm vì dân để giải quyết nhanh chóng, kịp thời
những chế độ, chính sách liên quan đến người dân; phải thận trọng trong việc
xem xét, quyết định các vấn đề hệ trọng có ảnh hưởng đến quyền bình đẳng,
quyền lợi của các tầng lớp nhân dân. Khi nhân dân có ý kiến, khiếu nại, tố

cáo, kể cả tố cáo cá nhân mình, thì phải biết bình tĩnh lắng nghe, phân tích và
có thái độ kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, nếu quyết định của mình chưa
đúng. Không né tránh, đùn đẩy, gây phiền hà và khó khăn, tốn kém cho dân…
Nói và thực hành “Thân dân” trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay
càng đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải gần dân, sát dân, luôn luôn lắng nghe và
thấu hiểu mọi tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của dân, nhằm giải quyết kịp
thời những nhu cầu và lợi ích chính đáng, thiết thực và cụ thể của quần
chúng; phải từ trong dân, từ ý chí và tâm trạng của dân để phục vụ nhân dân
2. Quan điểm của các bậc tiền bối.
Các triều đại phong kiến Việt Nam độc lập trong lịch sử đều "Lấy dân
làm gốc" trong việc ban hành các chủ trương, chính sách, từ kinh tế, xã hội,
văn hoá, luật pháp đến an ninh, quốc phòng, ngoại giao... Triều Khúc Thừa
Dụ có chính sách "Khoan, giản, an, lạc"; triều Lý có chính sách "Ngụ binh ư
nông"; triều Trần có "Khoan, thư sức dân" , "Chúng chí thành thành" và nổi
tiếng với Hội nghị Diên Hồng; triều Lê quan niệm "Dân như nước có thể đẩy
thuyền, lật thuyền", nên vai trò, vị trí người dân được luật hoá trong Bộ luật
Hồng Đức. Căn cứ vào thực tiễn lịch sử, nhà sử học Ngô Sĩ Liên (thời Lê)
tổng luận, các triều đại đó đã "Lấy nghĩa mà duy trì, lấy nhân để cố kết, lấy trí
để trông coi, lấy tín để ngăn phòng. Có đặt dân lên chốn chiếu êm mới làm
cho thế nước vững như núi Thái Sơn, bàn thạch. Chăm lo cho nước trở nên
văn minh, dân đến chỗ giàu thịnh là mưu hay trị dân, giữ nước; là kế xa sửa
nước, chăn dân". Trong tập "Nước Việt Nam từ cội nguồn xa xưa đến ngày
nay" của Giáo sư, Tiến sĩ Pi-e Ri-sa Fe-ray, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu
và sưu tầm về Á Đông ngày nay (CERAC) của nước Pháp, trong chương I
nhan đề " Nước Việt Nam cổ xưa hay sự chinh phục của tính cách Việt Nam"
8


có một đoạn viết khá hấp dẫn về nhà Lê và nhà văn hoá Nguyễn Trãi:" Triều
đại nhà Lê (Lê sơ, 1428 -1527) do một chủ đất bình thường là Lê Lợi sáng

lập. Ông trở thành Hoàng đế dưới danh hiệu Lê Thái Tổ (1428-1433), được
một nhà nho, nhà văn, nhà chiến lược, nhà chính khách tài ba là Nguyễn Trãi
giúp đỡ. Lê Lợi đã điều hành một cuộc chiến tranh giải phóng quốc gia thật
mẫu mực, cho đến ngày nay, triều đại ông lập nên vẫn còn là một trong những
triều đại được hâm mộ và có tiếng tăm lừng lẫy nhất. Nhưng các vua Lê còn
làm được những việc hơn thế nữa, bằng Bộ luật Hồng Đức do vua Lê Thánh
Tông (1470 - 1497) soạn thảo, các vua Lê đã thể nghiệm và xác định được vị
trí "con người Việt" trong tổng thể các mối quan hệ xã hội". Cụ thể, Bộ luật
Hồng Đức đã thể hiện sâu sắc tư tưởng "Lấy dân làm gốc" của dân tộc ta,
trong "Điều 294: Trong kinh thành và phường ngõ, làng xóm có kẻ ốm đau
mà không ai nuôi, nằm ở đường xá, cầu điếm, chùa quán thì xã quan ở đó
phải dựng lều lên mà chăm sóc họ cơm cháo, thuốc men, cốt sao cứu sống họ.
Nếu không may mà họ chết thì phải trình quan trên và tổ chức chôn cất,
không được để lộ thi hài. Nếu phạm tội này thì quan làng xã bị tội biếm hay
bãi chức". Tính chất nhân đạo - "Lấy dân làm gốc" được nêu trong điều này
của Bộ luật Hồng Đức chỉ xuất hiện ở châu Âu mấy thế kỷ sau đó, khi nổ ra
cách mạng tư sản .
Giá trị tích cực của quan điểm thân dân thời Lý -Trần
Là một đất nước đất không rộng, người không đông mà phải luôn đối phó
với mưu đồ chống phá của những nước lớn, có khi là đế chế cường thịnh bậc
nhất của thời đại và nhiều phen phải đương đầu với những đạo quân xâm lược
lớn mạnh. Đó là một đặc điểm lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta nói
chung và thời Lý - Trần nói riêng. Trong hoàn cảnh đó, sức mạnh chiến đấu
và chiến thắng của dân tộc ta là sức mạnh của lòng yêu nước và khối đoàn kết
toàn dân tộc.

9


Sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân:

Lịch sử đã chỉ rõ những cuộc chiến tranh yêu nước thắng lợi đều là những
cuộc chiến tranh nhân dân, phát huy được sức mạnh tinh thần và vật chất tiềm
tàng của toàn dân. Kháng chiến chống Tống, chống Mông - Nguyên thời Lý Trần là những minh chứng hùng hồn.
Từ những hoàn cảnh, đặc điểm và thực tế của lịch sử dân tộc, một số nhân
vật tiến bộ trong giai cấp phong kiến như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng
Đạo... đã nhận thức khá sâu sắc vai trò quyết định của nhân dân trong chiến
tranh chống ngoại xâm cũng như trong các biến cố lớn của lịch sử. Trần Hưng
Đạo cho rằng "vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức" là
nguyên nhân thắng lợi của kháng chiến thời Trần. Theo ông, "chúng chí thành
thành", chí dân là bức thành giữ nước. Chính vì nhận thức về vai trò đoàn kết
toàn dân là rất quan trọng, Trần Quốc Tuấn đã đề ra "thượng sách giữ nước"
là "khoan thư sức dân làm kế rễ bén gốc". Đó là điều kiện tiên quyết để chiến
thắng kẻ thù. Ông đã thấy vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với
vĩ nhân trong lịch sử. Trần Quốc Tuấn nói: "Chim hồng học bay được cao là
nhờ ở sáu cái lông cánh, nếu không có sáu cái lông cánh ấy thì cũng như chim
thường thôi". Như vậy, anh hùng xuất chúng làm nên nghiệp lớn là nhờ sự
ủng hộ của quần chúng nhân dân tộc.
* Thân dân và "khoan thư sức dân"
Thấy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong việc giữ nước,
cho nên ngay từ thời Lý việc chăm lo đời sống nhân dân, quan tâm đến
nguyện vọng của nhân dân đã được khẳng định là điều quan trọng hàng đầu
trong đạo trị nước. Trong bài văn lộ bố khi đánh Tống của Lý Thường Kiệt có
viết: "Trời sinh ra dân chúng; vua hiền tất hòa mục. Đạo làm chủ dân cốt ở
nuôi dân". Rồi đến bài Minh bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn đã ca ngợi
công đức của Lý Thường Kiệt: "...làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì ôn
hậu, cho nên dân được nhờ cậy. Khoan hòa giúp đỡ trăm họ, nhân từ yêu mến
mọi người, cho nên nhân dân kính trọng... Thái úy biết dân lấy sự no ấm làm
đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho nên không để lỡ thời vụ. Tài giỏi mà
10



không khoe khoang, nuôi dưỡng đến người già ở nơi thôn dã, cho nên người
già nhờ đó mà được yên thân. Phép tắc như vậy có thể gọi là cái gốc trị nước;
cái thuật yên dân; sự đẹp tốt đều ở đấy cả". Và một khi việc bồi dưỡng sức
dân, chăm lo đời sống nhân dân có một tầm quan trọng như vậy trong đạo trị
nước, thì cũng dễ dàng trở thành một tiêu chuẩn chính trị để nhà vua dựa vào
đó mà tự răn mình. Năm 1207, vua Lý Cao Tông đã hạ chiếu rằng: "Trẫm còn
bé mà phải gánh vác việc lớn, ở tận nơi cửu trường, không biết cảnh khó khăn
của dân chúng, nghe lời tiểu nhân là gây nên oán với kẻ dưới. Dân đã oán thì
trẫm còn biết dựa vào ai? Nay trẫm sẽ sửa lỗi cùng dân đổi mới". Hay
như vua Lý Thánh Tông nhân tiết trời giá lạnh mà cảm thương đến cả "những
kẻ bị giam trong ngục xiềng xích khổ sở, ngay gian chưa định, bụng không
cơm no, thân không áo ấm" . Và cái tình cảm đó càng tha thiết khi nhà vua
nhìn công chúa Động Tiên mà bảo với ngục lại rằng: “Ta yêu con cũng như
những bậc cha mẹ yêu con cái họ ”. Trăm họ không biết gì nên phạm vào luật
pháp ta rất xót thương. Nên từ nay các tội bất kỳ nặng nhẹ nhất thiết đều
khoan giảm" (theo Đại Việt sử ký toàn thư). Với tinh thần khoan dung nói
trên, nhà Lý đặt chuông lớn ở Long Trì để dân "ai có điều oan ức không bày
tỏ được" thì đến đánh chuông tâu vua. Nhà Lý còn dựng cung Long Đức ở
ngoài Hoàng thành, trong khu vực phố phường cho Hoàng thái tử ở, để có
điều kiện "gần dân và xem xét việc dân" . Hay trước họa xâm lăng của đế chế
Mông - Nguyên, nhà Trần mở hội nghị Diên Hồng để cùng các vị bô lão những người đại biểu đầu bạc có uy tín của dân - bàn kế đánh giặc. Trong
ngày hội non sông đó, các bô lão đã nói lên tiếng nói của toàn dân "muôn
người như một" là "quyết đánh". Điều đó cho thấy, thời Lý - Trần, sự quan
tâm đến dân được đề ra như một vấn đề khẩn thiết của đạo trị nước, nhưng
vấn đề đó lại được coi là một yếu tố của khái niệm đức trị. Bởi thời đó quan
niệm rằng, vua mà có đức và biết sửa đức thì "án trạch thấm thía đến quần
chúng" làm cho "dân sinh sống dễ dàng" và "muôn họ âu ca" trong cảnh thái
bình thịnh trị.


11


Như vậy, trên vũ đài chính trị và tư tưởng thời Lý - Trần, nhân dân đã
được nhìn nhận như một lực lượng xã hội cần phải quan tâm đến khi tiến
hành những cuộc chiến tranh giữ nước và duy trì trật tự xã hội nhằm đem lại
sự thịnh vượng cho nước nhà. Và giá trị tích cực của quan điểm thân dân,
"khoan thư sức dân" trong thời Lý - Trần chính là ở chỗ đó.
3. Điểm khác biệt trong quan điểm của Hồ Chí Minh và các bậc tiền
bối.
Có thể thấy so với tư tưởng “thân dân” của các nhà tư tưởng phong
kiến ở phương Đông và tư sản ở phương Tây thì tư tưởng “thân dân” của Hồ
Chí Minh đã vượt lên hơn cả. Từ quan niệm “dân là gốc” và “lấy dân làm
gốc” một cách chật hẹp và mang nặng tính hình thức của các nhà tư tưởng
phong kiến và tư sản, Hồ Chí Minh đã phát triển thành một quan niệm rộng
mở về dân và nhất là đã trả lại vị thế thực sự của dân, từ thụ động tiêu cực trở
thành chủ động tích cực; từ là công cụ, phương tiện duy trì quyền lực của giới
thống trị trở thành thực sự là gốc và làm gốc và tiến cao hơn nữa để là chủ và
làm chủ đất nước. Đây là một tư tưởng lớn (tư tưởng “thân dân) vừa mang
tính nhân văn cao cả, vừa có ý nghĩa chiến lược sâu sắc, là một trong những
đóng góp xuất sắc của Hồ Chí Minh vào kho tàng tư tưởng nhân văn của nhân
loại.
Như vây, từ xác định dân là hạt nhân, là gốc của đất nước, tiến đến xem
dân là con của đất nước và tiến hơn nữa coi việc dân được hưởng hạnh phúc
tự do là tiêu chí quan trọng nhất của một nước độc lập, đó là các cung bậc
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân và nước, thể hiện bước phát
triển mới của Người về vấn đề này. Rõ ràng, so với quan niệm của các nhà
yêu nước tiền bối, quan niệm của Hồ Chí Minh đã hơn hẳn về chiều sâu tư
tưởng, giá trị nhân văn, nhân đạo và Hồ Chí Minh đã nêu cho chúng ta một
tấm gương mẫu mực về nhận thức và phát huy vai trò của nhân dân - với ý

nghĩa là động lực chủ yếu - để giải phóng dân tộc, phát triển đất nước.

12


4. Áp dụng tư tưởng “Thân Dân” trong đảng và nhà nước ta hiện
nay
Quan hệ giữa Đảng và dân:
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân
...Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên
tắc tổ chức cơ bản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại; là di sản tư tưởng và lý luận vô cùng to lớn và quý giá của
Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta giành thắng lợi.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã
hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ
chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất
lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng
viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh
đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng
viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ

trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao
năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai
trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị.

13


Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy.
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân
dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật...
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh của Đảng nằm ngay trong mối
quan hệ giữa Đảng với dân và dân với Đảng. Người khẳng định: "Trong bầu
trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân. Khi sức dân được huy động, được tổ chức, được
tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì thành vô địch". "Làm việc gì cũng phải
có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm được... Việc gì có
quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt.
Mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng được thể hiện rất cụ thể ở đạo đức,
thái độ, tác phong trong quan hệ với dân ở từng cán bộ đảng viên. Chủ tịch
Hồ Chí Minh căn dặn: "Cán bộ đảng viên phải nâng cao tinh thần phụ trách
trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải
kính yêu nhân dân. Phải tôn trọng thật sự quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt
đối không được lên mặt "quan cách mạng", ra lệnh, ra oai... phải khiêm tốn,
gần gũi quần chúng, không được kiêu ngạo. Khi chọn cán bộ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh yêu cầu phải lựa chọn "những người liên lạc mật thiết với dân
chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế,
thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ là người lãnh đạo của họ".
Chủ tịch Hồ Chí Minh lên án gay gắt chủ nghĩa cá nhân. Người nói: "Hiện

nay chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí. Họ tự cho mình là cái gì
cũng giỏi, họ xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng, mà chỉ
muốn làm thầy quần chúng. Họ ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền giáo dục
quần chúng. Họ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không
tin, không phục, càng không yêu họ. Chung quy là họ không làm nên trò
trống

gì".
Theo Bác Hồ, Đảng phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng nhân

dân và hướng dẫn nhân dân, tổ chức thành lực lượng, thành phong trào hành
14


động cách mạng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, có
kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng
cao đời sống của nhân dân. Còn các tầng lớp của nhân dân phải tham gia xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức. Nhân dân
là nguồn bổ sung vô tận cho Đảng và luôn luôn tràn trề sức xuân. Trọng dân
là thương dân, vì nhân dân mà phục vụ và biết coi trọng sức mạnh vĩ đại của
nhân dân. Biết bao những phần tử ưu tú trong giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác, đã trở
thành đảng viên của Đảng. Quần chúng còn tham gia góp ý, phê bình sự lãnh
đạo của Đảng với mong muốn Đảng luôn luôn trong sạch và vững mạnh để
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đến đích cuối cùng.
5. Liên hệ bản thân
Thấm nhuần tư tuởng thân dân của Hồ Chí Minh, là một sinh viên , chúng
ta cần tiếp thu học tập và vận dụng vào cuộc sống:
Phải ham học, học suốt đời, học ở mọi nơi, lấy tự học làm cốt. Ham học
có nghĩa là phải có sự say mê, có khát vọng hiểu biết. Muốn vậy, mỗi cá nhân

phải tự nhận thấy và đánh giá được mức độ hiểu biết của mình, không tự cao,
tự đại, không thể bằng lòng với cái hiện tại, có ước mơ và hoài bão vươn lên.
Tri thức của nhân loại là biển cả mênh mông, hiểu biết của mỗi cá nhân chỉ
như là một giọt nước, do đó nếu chỉ trông chờ vào những kiến thức được
trang bị trong nhà trường thì những hiểu biết đó sẽ mai một, bốc hơi dần dần.
Ai cũng phải học, không kể sang, hèn; giàu, nghèo; không phân biệt nghề
nghiệp, giới tính, tôn giáo, dân tộc… Khi đã xác định sự học là một nhu cầu
thì tự giác ai cũng phải học.
Ngoài việc học ở nhà trường theo chương trình quy định, chúng ta phải
căn cứ vào trình độ nhận thức, công việc đang đảm nhiệm và vị trí của mình
để lựa chọn những điều thiết thực, những vấn đề cần cho lĩnh vực công tác
đang đảm nhiệm hoặc nhu cầu của mình để học.
Có phương pháp học tập phù hợp, phải lấy tự học là chính
15


Học đi đôi với hành, phải biết vận dụng điều đã học đuợc vào cuộc sống.
luôn biết tự làm mới bản thân.
Tham gia các hoạt động xã hội một cách tích cực, tham gia các phong trào
của đoàn trường, đoàn thanh niên, giup đỡ các gia đình có công với nước
Học tập tư tưởng của Người, tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng
Đảng, xây dựng đất nước, góp ý kiến xây dựng ...
Có như vậy mới xứng đáng với lời dạy của người, là một sinh viên thế hệ
mới năng động, sáng tạo, thế hệ 9X_ những con người của thời đại.

6. Giải pháp
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, bao gồm hoàn thiện hệ thống pháp luật,
tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước, chức năng, nhiệm vụ và đội ngũ công
chức. Pháp luật là thể chế hóa Cương lĩnh, đường lối, chủ trương Nghị quyết

của Đảng, đồng thời thể hiện ý chí, lợi ích và quyền lực của nhân dân. Quốc
hội là do dân bầu ra, phải thực hiện tốt hơn chức năng lập pháp, quyết định
những vấn đề lớn của đất nước và giám sát tối cao, vì cuộc sống của nhân
dân. Chính phủ và chính quyền các cấp hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của
cơ quan hành pháp, đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia bao gồm thể
chế hành chính, tổ chức bộ máy, đội ngũ công chức và tài chính công. Chú
trọng xây dựng bộ máy tư pháp và cải cách tư pháp. Nắm vững quan điểm của
Đảng: quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước vững mạnh, đồng thời kiên quyết
phòng, chống tham nhũng, lãng phí và những tiêu cực khác.
Thực hiện các mục tiêu:
- Đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.
- Liên hệ chặt chẽ với nhân dân.
- Việc gì cũng bàn với dân, giải thích cho dân hiểu rõ.
16


- Có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan
nghênh nhân dân phê bình mình. Tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
đảng còn cần có sự tham gia và giám sát của quần chúng và phải đạt tới mức
độ làm rung động tình cảm cách mạng của đông đảo quần chúng. Dám nhìn
thẳng vào sự thật và từ đó có những quyết sách để đổi mới Đảng và chỉ có đổi
mới Đảng thì mới có thể có những bước bứt phá đưa đất nước sớm đạt đến
mục tiêu cao cả Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
- Sẵn sàng học hỏi nhân dân.
- Người đứng đầu phải là tấm gương sáng : Tự mình làm gương mẫu,
Cần, kiệm, liêm, chính để nhân dân noi theo .
- Cán bộ Đảng và chính quyền ta đều sẵn lòng cần tiến bộ, sẵn chí phụng
sự nhân dân. Mong rằng anh chị em đều cố gắng thi đua dùng đơn thuốc này

(thuốc đắng dã tật), chữa hết bệnh quan liêu mệnh lệnh để trở thành người cán
bộ, đảng viên tốt…”.
- Để dân tự làm chủ: Cần sớm xây dựng cơ chế đầy đủ để bảo đảm quyền
lực thuộc về nhân dân; mở rộng quy chế dân chủ, không chỉ ở cơ sở xã,
phường mà trên phạm vi cả nước.
MTTQ là tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, có nhiều nhân sỹ trí
thức, là một kênh rất quan trọng để Đảng ghi nhận những đóng góp cho văn
kiện trình Đại hội Đảng, Ban soạn thảo văn kiện sẽ ghi nhận trung thực, đầy
đủ và nghiêm túc tiếp thu ý kiến của các đại biểu…
-Đoàn kết thống nhất Đảng và nhân dân đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải
thật thà tự phê bình và phê bình để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng
trong sạch, vững mạnh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình
phải thật thà, để gột rửa những tư tưởng, quan điểm, hành vi trái với bản chất
của Đảng, vi phạm phẩm chất, đạo đức của người cán bộ, đảng viên. Trong
điều kiện Đảng cầm quyền, tự phê bình và phê bình còn là đấu tranh để nâng
cao năng lực cầm quyền.

17


-Tự phê bình và phê bình cần tiến hành từ trên xuống, từ dưới lên. Trong
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” hiện
nay, cần thực hiện tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng thường
xuyên, liên tục, gắn kết quả tự phê bình và phê bình với chỉnh đốn Đảng, củng
cố và tăng cường hệ thống chính trị. Mặt khác, công tác kiểm tra có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Kiểm tra giúp cho cấp ủy đảng kịp thời phát hiện và ngăn chặn nguyên nhân,
xử lý hiện tượng mất đoàn kết, đồng thời biểu dương kịp thời và có biện pháp
cụ thể, thiết thực giúp cho các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên không ngừng
chăm lo vun đắp khối đoàn kết thống nhất trong Đảng.


III. kết luận
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc,
là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Về thực chất,
đây cũng chính là tư tưởng thân dân. Người cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư, là người có ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của
nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng lên trên hết, là thân dân.
Tư tưởng “Thân Dân” đã khái quát lên được tư tưởng Hồ Chí Minh về
Dân tộc và con người , đó là:
- Mục tiêu chung: là không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
- Chế độ chính trị: là chế độ do nhân dân làm chủ.
- Về kinh tế: phải xây dựng nền kinh tế XHCN có công nông nghiệp hiện
đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến,được tạo lập trên chế độ công hữu về
TLSX.
* Phát triển kinh tế là để nâng cao đời sống của nhân dân. Quan hệ giữa
phát triển kinh tế với nâng cao đời sống nhân dân như nước với thuyền.
- Mục đích của mọi đường lối chính sách kinh tế của
Đảng và Nhà nước ta là để nâng cao đời sống nhân dân.
18


- Nâng cao đời sống nhân dân phải căn cứ vào điều kiện kinh tế hiện có.
- Sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân có mối quan hệ biện chứng tác
động thúc đẩy lẫn nhau.
- Sự vận dụng của Đảng ta.

19




×