Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

đánh giá việc áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực trong quá trình xây dựng và phát triển của bộ máy nhà nước tư sản thời kỳ cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.34 KB, 7 trang )

MỤC LỤC
Trang
Mục lục……………………………………………………………..….01
Lời mở đầu…………………………………………………………….02
Nội dung………………………………………………………………02
1,học thuyết phân chia quyền lực…………………………………02
2, sự áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực
trong quá trình xây dựng và phát triển của bộ máy nhà nước tư sản
thời kì cận đại…………………………………………………………02
2.1, sự phân quyền cứng rắn ở những nước theo chính thể cộng
hòa tổng thống…………………………………………………02
2.2, nguyên tắc phân chia quyền lực trong những nước theo
chính thể quân chủ lập hiến, quân chủ nghị viện………….04
Kết luận……………………………………………………………….06
Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………….07


LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước là bộ máy quyền lực đặc biệt, được tổ chức chặt chẽ để
thực thi chủ quyền quốc gia, tổ chức và quản lý xã hội bằng pháp luật,
phục vụ lợi ích giai cấp, lợi ích xã hội và thực thi các cam kết quốc tế.
Cùng với sự hình thành và phát triển của nhà nước việc nghiên cứu và
đnáh giá các tư tưởng về nhà nước luôn chiếm vị trí quan trọng. Trong
các tư tưởng ấy tư tưởng phân chia quyền lực của nhà nước luôn là vấn đề
phức tạp và nhận dduwwocj nhiều sự quan tâm. Chính vì thế em xin chọn
đề tài “đánh giá việc áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân
chia quyền lực trong quá trình xây dựng và phát triển của bộ máy
nhà nước tư sản thời kỳ cận đại” làm đề tài cho bài tập học kỳ lần này.

NỘI DUNG
1 học thuyết phân chia quyền lực


Học thuyết phân chia quyền lực còn được gọi là thuyết tam quyền
phân lập, người đề xướng học thuyết này là J. Locke (1632 – 1704) và
người hoàn thiện nó là C.L.Montesquieu (1689 – 1775). Học thuyết phân
chia quyền lực được Montesquieu trình bày trong tác phẩm “tinh thần
pháp luật” xuất bản năm 1748. theo ông, quyền lực nhà nước bao gồm ba
thứ quyền lực chủ yếu là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư
pháp. Nếu cả ba quyền lực này tập trung trong tay một người hoặc một cơ
quan sẽ tạo ra sự lạm dụng quyền lực, là nguyên nhân dẫn đến sự xâm
phạm các quyền công dân và quyền con người. như vậy theo
Montesquieu việc phân chia quyền lực đặt ra không những đối với nhà
nước quân chủ mà cả đối với nhà nước cộng hòa. Theo ông phải tổ chức
bộ máy nhà nước sao cho quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư
pháp được phân chia cho ba hệ thống cơ quan nhà nước khác nhau, độc
lập với nhau nhưng có thể kiềm chế, đối trọng và tương tác lẫn nhau.
Quyền lập pháp thuộc về nghị viện, quyền hành pháp thuộc về chính phủ,
quyền tư pháp thuộc về các cơ quan tòa án.
2 sự áp dụng các nguyên tắc của học thuyết phân chia quyền lực
trong quá trình xây dựng và phát triển của bộ máy nhà nước tư
sản thời kì cận đại.
2.1 sự phân quyền cứng rắn ở những nước theo chính thể cộng hòa
tổng thống.


Trong chính thể cộng hòa tổng thống, tư tưởng phân quyền được áp
dụng ở mức độ cứng rắn với đặc trưng là các cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp độc lập với nhau trong hoạt động, đồng thời có sự ngăn
cản, kiềm chế lẫn nhau. Quyền hành pháp thuộc về nguyên thủ quốc gia
và không phải chịu trách nhiệm trước lập pháp, sự phân quyền được ghi
nhận trong Hiến pháp. Đại diện điển hình cho mức độ áp dụng này là nhà
nước Mỹ.

Hiến pháp Mỹ 1787 thể hiện sự áp dụng đầy đủ và triệt để học thuyết
phân chia quền lực. trên cơ sơ của học thuyết này nhà nước tư sản Mỹ
được tổ chức theo ba nguyên tắc.
a. Ba bộ phận của nhà nước có nguồn gôc hình thành khác nhau
nghị viện: là cơ quan lập pháp gồm hai viện;
Hạ nghị viện là cơ quan dân biếu, do dân chúng các tiểu bang bầu
lên. Số đai biểu tỉ lệ với số dân của tiểu bang.
Thượng nghị viện: là cơ quan đại diện của các bang, mỗi tiểu bang
có hai thượng nghị sĩ không kể bang lớn hay nhỏ, dân số nhiều hay ít.
Theo khoản 3 điều 1, thượng nghị sĩ do (ở liên bang) do quốc hội tiểu
bang bầu lên. Sau đó theo điều bổ sung và sửa đổi sau này (điều 17),
thượng nghị sĩ cũng như hạ nghị sĩ đều do dân chúng trực tiếp bầu ra.
Tổng thống: theo hiến pháp mỹ 1787 tổng thống vừa là nguyên thủ quốc
gia vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp. Tổng thống do toàn dân
bầu ra nhưng theo bầu gián tiếp. cuộc bầu cử tổng thống diễn ra qua ba
giai đoạn:
Giai đoạn các chính đảng đề cử ra ứng cử viên của mình (bầu cử sơ
bộ). trước tiên các đảng bộ ở tiểu bang bầu đại biểu của mình đi dự đại
hội đảng toàn liên bang. Người trúng ứng cử viên tổng thống phải chiếm
được đa số tuyệt đối số phiếu bầu trong đại hội đảng toàn liên bang nếu
không thì phải bầu ở vòng 2 và vòng 3.
Giai đoạn bầu cử chính thức cử tri trực tiếp bầu ra tuyển cử đoàn
của tiểu bang mình. Chỉ cần cộng tổng số người của các tuyển cử đoànlà
sẽ biết được ai thắng cử tổng thống. hay nói cách khác nhân dân chỉ cần
bầu xong tuyển cử đoàn sẽ xác định được người làm tổng thống.
Giai đoạn các tuyển cử đoàn họp ở từng tiểu bang để bầu tổng
thống và gửi kết quả lên thượng nghị viện ở mỹ.
Pháp viện tối cao: là cơ quan tư pháp gồm 9 thẩm phán do tổng thống bổ
nhiệm và được sự chấp nhận của thượng nghị viện.
b. Ba bộ phận đó có nhiệm kì khác nhau:

Theo hiến pháp mỹ 1787 nhiệm kỳ của hạ nghị viện là 2 năm, nhiệm
kỳ của thượng nghị viện là 6 năm và cứ 2 năm sẽ bầu lại 1/3 số thượng
nghị sĩ. Trong khi đó nhiệm kỳ của tổng thống mỹ là 4 năm.
c. Ba bộ phận có sự độc lập và kiềm chế lẫn nhau, bảo đảm cho
chúng không loại trừ hoặc tiếm quyền nhau.


Nghị viện là cơ quan lập pháp, khi đã là nghị sĩ của nghị viện thì
không được làm thành viên của cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
Nghị viện có quyền thông qua các đạo luật, quyền sửa đổi, bổ sung dự án
luật và dự án ngân sách của tổng thống, quyền tán thành hoặc không tán
thành các quan chức cao cấp do tổng thống bổ nhiệm, quyền phê chuẩn
hoặc xóa bỏ các điều ước quốc tế do tổng thống đã ký. Tổng thống có
quyền bổ nhiệm thẩm pháp của pháp viện tối cao, ban bố hoặc phủ quyết
các đạo luật của nghị viện. nếu một dự án luật được hạ nghị viện và
thượng nghị viện thông qua với đa số phiếu tương đối (quá nửa nghị sĩ
của từng viện đồng ý) thì đưa sang tổng thống, nếu tổng thống phủ quyết
thì đạo luật đó được chuyển lại hai viện và lần này đạo luật phải được
từng tiện thông qua với đa số tuyệt đối thì tổng thống sẽ kí ban hành. Nếu
đạo luật không được thông qua với đa số tuyệt đối thì đạo luật sẽ bị hủy
bỏ. thành viên pháp viện tối cao do tổng thống bổ nhiệm và được sự chấp
thuận của thượng nghị viện, pháp viện tối cao có quyền phán quyết các
đạo luật có hợp hiến hay không, giải thích pháp luật vfa có quyền tối cao
về xét xử.
Ngoài ra hai viện của Mỹ do xuất phát từ nguyên tắc đối trọng và cân
bằng quyền lực nên hai viện có chức năng, quyền hạn khác nhau. Ví dụ
như hạ nghị viện có quyền luận tội các quan chức cao cấp nhất của nhà
nước kể cả tổng thống nhưng quyền kết tội lại thuộc về thượng nghị viện.
trong lĩnh vực tư pháp, thượng viện có độc quyền xét xử các vụ án nhân
viên chính quyền (kể cả tổng thống) lạm dụng công quyền. các vụ án ấy

do Hạ viện khởi tố và xét xử, thượng viện có quyền cách chức hoặc truất
quyền đảm nhận chức vụ của bị cáo, sau đó trao trả lại cho tòa án thuộc
ngành tư pháp. Trong lịch sử Mỹ, Hạ viện có 17 lần thông qua các biên
bản luận tội, 13 trong tổng số 17 người bị kết tội là thẩm phán tối cao và
7 người bị thượng viện luận tội. có đôi khi chiều theo ý nghị viện và tổng
thống, với những vấn đề chính trị, quân sự, đối ngoại thì tòa án thường từ
chối xét xử.
Trên thực tế không phải lúc nào nguyên tắc phân chia quyền lực nhà
nước cũng được tuân thủ chặt chẽ. Mặc dù được hiến pháp quy định về
toàn quyền lập pháp song tổng thống mỹ thường can thiệp rất sâu vào
quá trình xây dựng pháp luật của nghị viện như việc vạch ra chu trình
làm luật hàng năm hay yêu cầu các nghị sĩ thuộc đảng của mình trình
bày dự án luật theo ý tổng thống trước quốc hội. tuy vậy mô hình này
cũng đạt được nhiều ưu điểm đó là hạn chế được sự lạm dụng quyền lực
của bất kì ngành quyền lực nào. Hiến pháp đã chỉ ra được cơ chế kìm
kẹp, đối trọng – một trong những hạt nhân hợp lí của tư tưởng phân
quyền.
2.2 nguyên tắc phân chia quyền lực trong những nước theo chính
thể quân chủ lập hiến, quân chủ nghị viện


a, Nhà nước tư sản Anh:
Quyền hành pháp do 2 bộ phận nắm giữ là nguyên thủ quốc gia
(nhà vua) và chính phủ (thủ tướng hoặc nội các). Quyền lực của nguyên
thủ quốc gia bị hạn chế trong cả hai lĩnh vực là hành pháp và lập pháp,
quyền lực nhà vua chỉ mang tính chất tượng trưng. ở anh hoàng đế là
nguyên thủ quốc gia nhưng hoàng đế không có thực quyền đúng như câu
ngạn ngữ “hoàng đế trị vì nhưng không cai trị”. Mọi hoạt động của hoàng
đế chỉ nhằm mục đích chính thức hóa về mặt nhà nước các hoạt động của
nghị viện, của chính phủ. Mọi quyết định của hoàng đế chỉ có hiệu lực

thực thi khi có chữ ký kèm theo của thủ tướng.
Nghị viện có quyền lực tối cao đặc biệt là quyền lập pháp. ở anh
nghị viện có quyền lập pháp, quyền quyết định ngân sách và thuế và
quyền giám sát hoạt động của nội các, bầu hoặc bãi nhiệm các thành viên
của nội các. Vai trò và quyền hạn của nghị viện rất lớn nhằm hạn chế tới
mực tối đa quyền hạn của nhà vua, làm cho ngai vàng trở thành hư vị.
Hiến pháp 1688 của Anh còn quy định nghị viện có thể “thông qua bất cứ
một đạo luật nào để điều chỉnh bất cứ một quan hệ xã hội nào, nếu nghị
viện cho rằng việc điều chỉnh quan hệ xã hội đó bằng luật là cần thiết”.
ngoài ra chính phủ là do nghị viện lập ra và chịu sự giám sát của nghị
viện, chính phủ được thành lập dựa trên cơ sở là đảng chiếm đa số nghế
trong nghị viện các bộ trưởng hay nội các phải chịu cả trách nhiệm liên
đới lẫn cá nhân trước nghị viện. chính quyền hành pháp được chia sẻ giữa
tổng thống và thủ tướng – thủ lĩnh của đảng chiếm đa số ghế trong nghị
viện. bên cạnh đó quyền tư pháp thuộc về hệ thống tòa án, cơ quan xét
xử. Tòa án hoạt động theo nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
b, Nhà nước quân chủ nghị viện Nhật
Tổ chức bộ máy nhà nước Nhật được quy định trong Hiến pháp
1889, đau là bản hiến pháp đầu tiên của nhà nước tư sản Nhật.
Hiến pháp khẳng định “thiên hoàng muôn đời thống trị đại đế
quốc Nhật Bản”, “thiên hoàng là thần thánh bất khả xâm phạm”. theo
hiến pháp thiên hoàng có quyền hạn rất lớn:
- triệu tập hoặc giải tán quốc hội
- ban bố hoặc đình chỉ thi hành các đạo luật của quốc hội
- bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm thủ tướng và các bộ trưởng
- tổng tư lệnh quân đội
- tuyên bố tình trạng chiến tranh hoặc đình chiến, tuyên bố lệnh
giới nghiêm
- thưởng huân chương, ban lệnh đặc xá.
Quốc hội là cơ quan lập pháp gồm hai viện:

Viện quý tộc (hạ nghị viện)do thiên hoàng lựa chọn những người
trong hoàng tộc, quý tộc, những người đóng thuế nhiều nhất, những
người có công lao đặc biệt với nhà nước.


Viện dân biểu(hạ nghị viện) có quyền hạn tương đương với quyền
của viện nguyên lão trừ quyền thảo luận và thông qua ngân sách nhà
nước. viện dân biểu có thể bị thiên hoàng giải tán. Viện dân biểu có
nhiệm kỳ 4 năm do cử tri bầu ra.
Nội các (chính phủ): là cơ quan hành pháp, đứng đầu là thủ tướng. các
thành viên của nội các không chịu trách nhiệm trước nghị viện mà chịu
trách nhiệm trước thên hoàng.
Theo hiến pháp 1889 quyền hạn của thiên hoàng rất lớn nhưng cơ
cấu tổ chức nhà nước là theo chính thể quân chủ lập hiến. tuy cùng là
chính thể quân chủ nghị viện nhưng so với Anh quyền hạn của thiên
hoàng Nhật Bản rất lớn còn quyền hành của hoàng đế nước Anh chỉ là hư
quyền.
Như vậy ở cả Anh và Nhật đều áp dụng các nguyên tắc của học
thuyết phân chia quyền lực một cách mềm dẻo, ưu điểm của sự phân
chia quyền lực này là dễ dàng tạo sự bình ổn trong đời sống chính trị đất
nước, sẽ không dẫn đến sự phân lập quyền lực nhưng nhược điểm của nó
là sự bị động, thiếu linh hoạt trong vai trò của nguyên thủ quốc gia và
không đảm bảo được sự độc lập, cạnh tranh, kìm chế - đối trọng giữa
hành pháp và lập pháp, Từ đó biến nghị viện và chính phủ từ chỗ thể
hiện sự phân chia quyền lực thành hai cơ quan thực hiện chính sách của
đảng cầm quyền.

KẾT LUẬN
Trên đây là những nét khái quát nhất về sự áp dụng các nguyên tắc
của học thuyết phân chia quyền lực vào quá trình xây dựng và phát triển

bộ máy nhà nước tư sản thời cận đại. Tư tưởng phân quyền đã trải qua
một quá trình hình thành và phát triển hết sức lâu dài, đến ngày nay nó
vẫn là một nguyên tắc nòng cốt trong việc tổ chức và hoạt động của đa
phần các bộ máy nhà nước trên thế giới. tùy từng quốc gia mà các nguyên
tắc của học thuyết phân chia quyền lực sẽ được áp dụng khác nhau sao
cho hợp lý nhất phù hợp với từng hình thức chính thể khác nhau.
Bài viết còn nhiều thiếu sót mong thầy cô góp ý để bài được hoàn
thiện hơn.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới – trường đại học
Luật Hà Nội, NXB CAND, 2003
Giáo trình lí luận nhà nước và pháp luật – trường đại học luật Hà
Nội, nhà xuất bản công an nhân dân, năm 2011
Giáo trình lí luân nhà nước và pháp luật (PGS.TS.Nguyễn Văn
Động)
/> />


×