Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.47 KB, 60 trang )

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ LUẬN VĂN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHỎA LUẬT
Bộ MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH

.....................ca-so
.....................

LUẬN VÃN TỐT NGHIỆP cử NHÂN LUẬT
KHỎA 31 (2005 - 2009)

CÁC NGUYÊN TẮC TRONG
HOẠT ĐỘNG BẦU cử

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thưc hiên:

ĐINH THANH PHƯƠNG
Bộ môn Luật Hành chính


AN
TRINH
MSSV: 5054984
Lóp: Luật Thương mại 02 - K31


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................................1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUẤT CHUNG VỀ BẦU cử...................................................3
1. LÝ LUẬN VỀ BẦU CỬ....................................................................................3
1.1.......................................................................................................................K
hái niệm về bầu cử........................................................................................3
1.2.......................................................................................................................Vị
trí và vai trò của bầu cử.................................................................................6
1.2.1..........................................................................................................Vị trí
..................................................................................................................6
1.2.2.......................................................................................................Vai trò
..................................................................................................................7
1.3.......................................................................................................................Q
uyền bầu cử và quyền ứng cử....................................................................... 8
1.3.1............................................................................................Quyền bầu cử
..................................................................................................................8
1.3.2...........................................................................................Quyền ứng cử
..................................................................................................................9
2. LƯỢC SỬ VỀ HOẠT ĐỘNG BẦU cử PỬ VIỆT NAM..................................10
2.1.................................................................................................Quốc hội khóa I
......................................................................................................................11
2.2................................................................................................Quốc hội khóa II
......................................................................................................................11
2.3...............................................................................................Quốc hội khóa III
......................................................................................................................11
2.4..............................................................................................Quốc hội khóa IV
......................................................................................................................12
2.5................................................................................................Quốc hội khóa V
......................................................................................................................12
2.6..............................................................................................Quốc hội khóa VI
......................................................................................................................12

2.7.............................................................................................Quốc hội khóa VII
......................................................................................................................13
2.8............................................................................................Quốc hội khóa VIII
......................................................................................................................13
2.9..............................................................................................Quốc hội khóa IX


2.3.1.............................................................................................................Ngu
yên tắc bầu cử bình đẳng theo luật Việt Nam........................................29
2.3.2.............................................................................................................Ngu
yên tắc bình đẳng theo luật một số nước...............................................31
2.4......................................................................................................................Ngu
yên tắc bỏ phiếu kín.....................................................................................34
CHƯƠNG 3: THựC TIỄN THựC HIỆN CÁC NGUYÊN TẮC BẦU cử TRONG
HOẠT ĐỘNG BẦU cử Ở VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN ...36
1.

NGUYÊN TẮC PHÔ THÔNG.........................................................................36
1.1......................................................................................................................Nh
ững mặt đạt được trong việt thực hiện nguyên tắc phổ thông.....................36
1.2.

Hạn chế, nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện

trong việc thực hiện nguyên tắc phổ thông...............................................................39
1.2.1............................................................................................................. Ch
ất lượng tỷ lệ cử tri tham gia bầu cử......................................................39
1.2.2............................................................................................................. Kiề
u bào không thể tham gia bầu cử...........................................................40
1.2.3.............................................................................................................Đại

biểu dân cử trúng cử do tụ ứng cừ còn quá thấp....................................41
2. NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG.......................................................................... 43
2.1......................................................................................................................Nh
ững mặt đạt được trong việt thực hiện nguyên tắc bình đẳng......................43
2.1.1.............................................................................................................Bìn
h đẳng giới trong ứng cử........................................................................43
2.1.2.............................................................................................................Bìn
h đẳng giữa các dân tộc..........................................................................45
2.2.

Hạn chế, nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện

trong việc thực hiện nguyên tắc bình đẳng...............................................................47
2.2.1.............................................................................................Tính đại diện
................................................................................................................47
2.2.2.............................................................................................................Tự
ứng cử và tính canh tranh trong bầu cử.................................................49
2.2.3............................................................................................................. Cơ


Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việt Nam, một nhà nước theo chế độ Xã hội chủ nghĩa, ở đó quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua cơ quan
đại diện là Quốc hội. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất được thành lập
thông qua hoạt động bầu cử. Bầu cử là một hoạt động xã hội, là một quyền cơ bản của
quyền công dân.
Là một quyền cơ bản của quyền công dân là vì thông qua bầu cử công dân sẽ
trao quyền lực nhà nước của mình (gồm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp) cho cơ

quan đại diện để thay mình quản lý đất nước. Trong hoạt động bàu cử công dân có
quyền bầu chọn những người mà mình tín nhiệm vào cơ quan quyền lực nhà nước
(Quốc hội và Hội đồng nhân dân) hoặc có quyền loại bỏ những người mà mình không
tín nhiệm; Là một hoạt động xã hội vì hoạt động bầu cử được tiến hành định kỳ và
diễn ra trên toàn quốc với sự tham gia của toàn xã hội.
Bất kỳ một hoạt động nào khi diễn ra, nó cũng cần có những nguyên tắc để điều
chỉnh. Và hoạt động bầu cử cũng không ngoại lệ, để cho hoạt động bầu cử này đạt
được kết quả thắng lợi cũng như để đảm bảo cho cuộc bầu cử được tiến hành một cách
dân chủ cần phải tiến hành theo nhiều nguyên tắc. Trong đó có những nguyên tắc
mang tính đặc thù của hoạt động bầu cử, đó là những nguyên tắc bầu cử phổ thông,
bình đẳng, trực tiếp VÀ bỏ phiếu kín. Các nguyên tắc này thống nhất với nhau đảm
bảo cho cuộc bầu cử diễn ra khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử
tri và ý chí nhân dân khi lựa chọn đại biểu.
Do vậy với tư cách là một người học luật tác giả (người nghiên cứu đề tài) cảm
thấy việc tìm hiểu đề tài “Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử” là rất cần thiết và
hữu ích. Cần thiết, vì có thể cung cấp thêm kiến thức chuyên ngành cho người tìm
hiểu. Đây còn là một kiến thức cơ bản đầu tiên mà người học luật cần phải nắm. Sau
này dù đứng ở gốc độ là một cử tri, hoặc một người phụ trách công tác bầu cử hoặc
may mắn hơn trở thành một ứng cử viên thì với những gì tìm hiểu được hôm nay sẽ
giúp tác giả thực hiện tốt quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình khi tham gia
hoạt động bầu cử. Hữu ích, vì sau khi tìm hiểu đề tài, tác giả thấy được ý nghĩa quan
trọng khi tiến hành một cuộc bầu cử, thấy được vai trò của cử tri và giá trị của lá
phiếu, thấy được quyền lợi của một công dân khi tham gia bầu cử. Cũng từ đó, tác giả
có thể tuyên truyền giải thích cho gia đình, người thân, bạn bè và mọi người cùng hiểu
để cùng thực hiện tốt quyền lợi của một cử tri khi tham gia bầu cử, góp phần tạo nên
một ngày bầu cử thật sự là ngày hội của toàn dân.
GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 1


SVTH: Võ An Trinh


Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Mặc dù hiện nay trong hoạt động bầu cử, nhà nước đã ban hành Luật bầu cử
Đại biểu Quốc hộũiăm 1997 ( được sửa đổi bổ sung năm 2001) và Luật bầu cử Đại
biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 với những nguyên tắc đặc thù điều chỉnh hoạt động
bầu cử. Tuy nhiên, việc áp dụng và thực hiện các nguên tắc này vào đời sống thực tế
vẫn còn nhiều bất cập, khiếm khuyết và hạn chế. Vì thế mục tiêu nghiên cứu đề tài này
là vì tác giả thấy rằng: khi đi sâu nghiên cứu từ thực tiễn tồn tại của các cuộc bầu cử,
từ những cuộc bàu cử đại biểu Quốc hội đến các cuộc bàu cử đại biểu Hội dồng nhân
dân các cấp, tác giả có thể thấy được các ưu điểm và nhược điểm trong việc áp dụng
các nguyên tắc bầu cử trong thực tiễn nước ta. Từ đó đúc kết thành những kinh nghiệm
cho bản thân, đồng thời có thể vạch ra một số giải pháp khả thi để khắc phục các hạn
chế, tạo điều kiện cho việc thực hiện các cuộc bầu cử tiếp sau được khách quan, dân
chủ và toàn diện.
3. Phạm vỉ nghiên cứu
Do đề tài nghiên cứu là “Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử” cho nên khi
nghiên cứu tác giả chỉ tìm hiểu sơ lược khái quát về vấn đề bầu cử, mà chủ yếu tập
trung phân tích sâu những qui định của pháp luật Việt Nam về “các nguyên tẳc bầu
cử” có kết họp so sánh với những qui định của pháp luật các nước. Bên cạnh đó, tác
giả còn tìm hiểu thực tiễn thực hiện các nguyên tắc bầu cử với những thành tựu và hạn
chế đang tồn tại. Từ đó vạch ra một hướng giải quyết khả thi, một bước đi mới triển
vọng nhằm giúp cải thiện và nâng cao chất lượng của cuộc bầu cử trong tương lai.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bằng việc đi sâu nghiên cứu tìm hiểu những qui định của pháp luật về “các
nguyên tắc bầu cữ' từ khâu ban hành, qui định, cho đến việc áp dụng vào thực tiễn.
Bằng việc thu thập các tài liệu đã được nguyên cứu sẵn của các sinh viên khóa trước,
người nghiên cứu đã kết họp phương pháp so sánh phân tích tổng họp và cập nhật, liệt

kê các tài liệu chuyên ngành từ sách, báo, mạng Intemet có liên quan theo sự chỉ dẫn
của giảng viên hướng dẫn để hoàn thành bài Luận văn.
5. Kết cấu đề tài: gồm ba chương
Chương 1: Khái quát chung về bầu cử
Chương 2: Các nguyên tắc bầu cử trong hoạt động bầu cử
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các nguyên tắc bầu cử trong hoạt động bầu cử ở
Việt Nam và phương hướng hoàn thiện

GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 2

SVTH: Võ An Trinh


Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VÈ BẦU cử
1. LÝ LUẬN VÈ BÀU CỬ
1.1. Khái niệm bầu cử
Khi bàn về vấn đề bầu cử, ta đều biết rằng hiện nay tất cả các quốc gia trên thế
giới đều có diễn ra hoạt động bàu cử, nhưng đối với từng nhà nước hoạt động này
được thực hiện như thế nào? theo những nguyên tắc gì?. Nó còn tùy thuộc vào bản
chất của từng nhà nước ấy. Vậy, bản chất của nhà nước sẽ được tìm thấy ở đâu? như
thế nào?
Khi các giai cấp xuất hiện nhà nước hình thành với tư cách là một thiết chế
đứng trên xã hội có chức năng thể hiện ý chí giai cấp thống trị, điều hòa các mâu
thuẩn, duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội. Để thực hiện tốt chức năng, nhà nước
cần xây dựng một đạo luật dựa trên ý chí của giai cấp thống trị, đó chính là Hiến pháp.
Với tư cách là luật gốc, luật mẹ nên các qui định đầu tiên của Hiến pháp phải thể hiện

rõ được bản chất của một nhà nước. Chính vì thế, bản chất của Nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã được thể hiện ngay ở những Điều, Khoản đầu tiên của
Hiến pháp 1992, Điều 2 Hiến pháp qui định: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực
Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức”. Nhà nước Việt Nam với tư cách là một nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa, một trong những nguyên tắc chủ đạo làm cơ sở cho việc tổ
chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước không thể thiếu đó chính là nguyên tắc tập
quyển xã hội chủ nghĩa.
Tập quyền xã hội chủ nghĩa được hiểu là: Mọi quyền lực Nhà nước là của nhân
dân (trừ những quyền được thực hiện bằng con đường trực tiếp) được trao (ủy quyền)
cho cơ quan đại diện, cơ quan quyền lực nhà nước của nhân dân, đó là Quốc hội (ở
trung ương) và Hội đồng nhân dân (ở địa phương). Các cơ quan này nắm giữ các
quyền của quyền lực nhà nước thống nhất, có nghĩa là nó nắm tất cả các quyền lập
pháp, tư pháp và giám sát. Các cơ quan này là những cơ quan đại diện quyền lực nhà
nước duy nhất, là hình thức chủ yếu thể hiện quyền lực nhà nước của nhân dân. Trên
tinh thần đó, tại Điều 6 Hiến pháp Việt Nam qui định “Nhân dân sử dụng quyền lực
nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý
chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân
dân”. Tuy nhiên trong cơ cấu tổ chức của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa
GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 3

SVTH: Võ An Trinh


Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử
ngoài cơ quan lập pháp còn có các cơ quan hành pháp và tư pháp, nhưng đó chỉ là sự
phân công, phối họp giữa các hoạt động chuyên trách trong bộ máy nhà nước chứ

không có sự phân quyền độc lập giữa các bộ phận ấy với nhau. Và người ta nói đó là
“tập quyền Xã hội chủ nghĩa” chứ không phải là “tam quyền phân lập”.
Khi nói nhà nước Xã hội chủ nghĩa đảm bảo sự tập trung thống nhất quyền lực,
điều đó được hiểu là toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tập trung thống
nhất ở nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua cơ quan đại diện mà
trước hết là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của đất nước (Quốc hội). Điều đó
chỉ ra rằng: quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có
chung một nguồn gốc thống nhất là nhân dân, do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Khi
đó ta nói quyền lực nhà nước thống nhất ở mục tiêu chính trị và nội dung chính trị của
nhà nước. Cả 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất ở mục tiêu chính trị chung, đó là mục tiêu
của toàn Đảng, toàn dân, của cả quốc gia dân tộc. Và mục tiêu chính trị chung của
nước ta là xây dựng nhà nước “dân giàu, nước manh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
mình” như Đảng đã chỉ ra.
Xuất phát từ mục tiêu chính trị chung đó mà Bộ máy nhà nước Xã hội chủ
nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân
chia, nhưng lại có sự phân công rành mạch giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp: Quyền lập pháp là quyền đại diện cho nhân dân thể hiện ý chí chung của quốc
gia. Những người được nhân dân giao cho quyền này là những người do phổ thông
đầu phiếu bầu ra họp thành cơ quan gọi là Quốc hội, Quốc hội là cơ quan duy nhất
được nhân dân giao quyền biểu quyết thông qua luật. Quyền hành pháp là quyền tổ
chức thực hiện ý chí chung của quốc gia do chính phủ đảm trách. Chính phủ tổ chức
thực hiện pháp luật để đảm bảo an ninh, an toàn và phát triển xã hội. Quyền tư pháp là
quyền xét xử, được nhân dân giao cho tòa án. Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của
quyền lực nhà nước, việc phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong ba
quyền nói trên là một nhu càu khách quan, là cách thức tốt nhất để phát huy vai trò của
nhà nước trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Ý nghĩa của sự phân công
quyền lực nhà nước là để phân định nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong bộ
máy nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước, đảm bảo cho tính pháp quyền của nhà
nước và phát huy dân chủ Xã hội chủ nghĩa, để nhà nước hoạt động có hiệu quả,

quyền lực nhà nước ngày càng thực sự là quyền lực của nhân dân.
Trở lại với vấn đề bầu cử, Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan
quyền lực nhà nước đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu
ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Điều đó cho thấy, bầu cử là một vấn đề đã
GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 4

SVTH: Võ An Trinh


1

Trích từ “Giáo trình

Luật hiến

Đề

pháp Việt Nam,
ĐH Luật Hà Nội,
Công an nhân dân
2004”

tài:

Các

nguyên


tắc

trong

hoạt

động

bầu

cử Trường

được nhà nước quan tâm ngay từ khi mới thành lập và nó còn trở nên rất quan trọng, NXB
rất cần thiết trong quá trình xây dựng, tổ chức, hoạt động và phát triển đất nước. Vì chỉ
có thông qua hoạt động bầu cử người dân mới có thể chọn ra một cơ quan đại diện như
ý muốn của mình, đó chính là một trong những biểu hiện của quyền con người trong
lĩnh vực chính trị của nhân dân.
Thực ra hoạt động bầu cử đã xuất hiện từ rất xa xưa, ngay từ thời kỳ chế độ
Chiếm hữu nô lệ. Ngoài chính thể quân chủ là phổ biến, ngay thời kỳ này đã tồn tại
chính thể cộng hòa với Viện nguyên lão bao gồm đại diện của những chủ nô, quý tộc.
Ngoài Viện nguyên lão còn có Đại hội nhân dân (Comita centuria) của những người
cầm vũ khí. Đến chế độ phong kiến phương pháp bầu cử không được áp dụng ở những
nước theo chính thể quân chủ chuyên chế. Còn ở những nước theo chính thể cộng hòa,
bầu cử vẫn được áp dụng. Trong chế độ Tư bản chủ nghĩa, việc bầu cử được áp dụng
một cách rộng rãi. Trong xã hội Tư bản chủ nghĩa, bầu cử được phát biểu là hệ thống
các cơ quan quyền lực nhà nước được nhân dân bầu ra có nhiệm kỳ. Đa số các Hiến
pháp tư bản điều tuyên bố luật phổ thông đầu phiếu. Đây là một thắng lợi to lớn về
mặt lịch sử của nhân dân lao động. Vì nó đã tạo ra một khả năng để mọi tầng lớp trong
xã hội đều có thể tham gia vào đời sống chính trị của đất nước thông qua hoạt động
bầu cử. Điều đó là một sự tiến bộ lớn ừong iệc thực hiện quyền của công dân.

Với tư cách là một chế độ tiên tiến hơn, trong chế độ Xã hội chủ nghĩa, bầu cử
được mở rộng đối với mọi tầng lớp nhân dân, mọi người ai cũng có quyền ngang nhau
và được tự do biểu hiện ý chí của mình trong bầu cử, đó là một trong những yếu tố
làm nên bản chất Nhà nước Xã hội chủ nghĩa - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Lúc này bầu cử không chỉ đơn thuần là một bộ phận của bộ máy nhà
nước mà nó đã trở thành một trong nhiều chế độ tạo nên chế độ xã hội. Đó là chế độ
bầu cử.
Vậy, chế độ bầu cử là một tống thể các nguyên tắc các quỉ định pháp luật
bầu cử cùng các mối quan hệ xã hội được hình thành trong tất cả các quá trình
tiến hành bầu cử từ lúc người công dân được ghi tên trong danh sách cử tri cho
đến lúc bỏ lá phiếu vào thùng phiếu và xác định kết quả.1
Từ khái niệm chế độ bầu cử ta có thể rút ra một khái niệm đơn giản dễ hiểu về
bầu cử với nội dung như sau:
Bầu cử là việc cử tri sử dụng quyền công dân của mình bằng cách bỏ phiếu
để lựa chọn ra một cá nhân hoặc một nhóm ngưòi nào đó vào Ctf quan quyền lực
nhà nước để đại diện cho mình thực hiện quyền lực Nhà nước.

GVHD: Đinh Thanh Phưomg

Trang 5

SVTH: Võ An Trinh

Hà Nội,


Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử
Khái niệm này được hiểu như sau:
Việc nhân dân trao quyền lực nhà nước cho Quốc hội hay Hội đồng nhân dân
không có nghĩa là quyền lực nhà nước sẽ không còn thuộc về nhân dân, nhân dân

không làm chủ đất nước. Mà vấn đề hoàn toàn ngược lại, nhân dân vẫn làm chủ đất
nước vẫn nắm trong tay quyền lực nhà nước. Nhưng vì nhân dân không thể trực tiếp
thực hiện quyền lực nhà nước này nên nhân dân cần có người đại diện đứng ra thực
hiện thay mình. Đơn giản, chỉ vì trong một quốc gia có quá nhiều lĩnh vực cần được
quản lý và mọi lúc mọi nơi trong xã hội luôn có vấn đề phát sinh càn được giải quyết.
Các vấn đề phát sinh này không giống nhau vì thế nó đòi hỏi phải có những cách giải
quyết khác nhau. Mà nhân dân là một cộng đồng, trong đó có nhiều người thuộc nhiều
tầng lớp, nhiều lĩnh vực khác nhau, họ không là một khối thống nhất, cũng không là
một tố chức nào cả do đó không thế có tiếng nói chung từ họ. Chính lúc này đây đòi
hỏi phải có một cơ quan tổ chức đứng ra đại diện nhân dân, đại diện cho tiếng nói
chung của toàn dân. Và hình thức duy nhất để thành lập ra cơ quan tổ chức đó chính là
hoạt động bầu cử. Do đó, bầu cử không phải là việc công dân từ bỏ quyền lực nhà
nước, từ bỏ quyền làm chủ đất nước của mình mà bầu cử là việc công dân lựa chọn
người đủ tài, đức - Người mà nhân dân tin rằng: họ có thể thay mình thực hiện quyền
lực nhà nước (Nghĩa là có thể thay mình quản lý đất nước và giải quyết các vấn đề xã
hội phát sinh).
Với tu cách là cử tri và bằng việc bỏ phiếu thuận (phiếu đã bầu), chính nhân
dân đã xác nhận tư cách đại diện cho người được chọn (gọi là đại biểu) và đưa họ vào
cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội và Hội đồng nhân dân). Khi đó đại biểu sẽ có
đủ tư cách và quyền lực thay nhân dân quản lý đất nước hay đúng hơn là đại biểu có
đủ tư cách thực hiện quyền lực nhà nước thay nhân dân.
1.2.

VỊ trí và vai trò của bầu cử

1.2.1. Vị trí
Bầu cử là một trong những chế định pháp luật quan trọng của ngành luật Hiến
pháp, là cơ sở pháp lý cho việc hình thành ra các cơ quan quyền lực nhà nước. Chế
định này được hình thành từ những qui định có hiệu lực pháp lý cao nhất của Hiến
pháp cho đến những qui định pháp luật khác của các cơ quan nhà nước liên quan có

thẩm quyền. Thậm chí trong một chừng mực cụ thể, nó còn được điều chỉnh bằng các
văn bản của các tổ chức xã hội của Uỷ ban mặt ừận tổ quốc Việt Nam ở trung ương và
ở các cấp. Điều này được giải thích bằng việc bầu cử là giai đoạn đầu tiên của sự h ình
thành nên các cơ quan nhà nước, cho nên việc hình thành ra nó trước hết phải bằng
các hoạt động phi nhà nước của các tổ chức xã hội.

GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 6

SVTH: Võ An Trinh


Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử
Bầu cử ừong pháp luật được dùng chủ yếu cho quyền bầu cử. Quyền bầu cử
bao gồm quyền chủ động bỏ phiếu bầu ra những người đại diện cho mình vào các cơ
quan quyền lực nhà nước và quyền được ứng cử, quyền được ứng cử là quyền có thể
được bầu cử vào các cơ quan nhà nước. Hai quyền này đặc biệt gắn bó với nhau, vì
khi được giới thiệu ra ứng cử đại biểu thì mới có cơ hội trở thành đại biểu khi trúng
cử.
Quyền bàu cử là một quyền quan trọng của công dân trong lĩnh vực chính trị.
Cho nên pháp luật bàu cử chỉ qui định cho công Việt Nam mà không qui định cho các
công nước ngoài và những người không quốc tịch. Đồng thời công dân phải đạt được
mức độ tuổi trưởng thành nhất định theo qui định của pháp luật mới được tham gia
bầu cử.
Nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề bầu cử. Cho nên, ngay sau khi
tuyên bố thành lập nước, ngày 8/9/1945 chủ tịch Chính phủ lâm thời của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa đã ký sắc lệnh số 14/SL về việc tổ chức tổng tuyển cử bầu
quốc dân đại hội. Tiếp theo đó, ngày 17/10/1946, sắc lệnh số 15/SL đã quyết định cụ
thể vấn đề tuyển cử.

Trên cơ sở những vãn bản đầu tiên đó, chế độ bầu cử dân chủ được hình thành
ở nước ta.
Cho đến nay, cùng với sự thay đổi của các hiến pháp, pháp luật bầu cử nước ta
cũng đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung. Pháp luật bầu cử hiện hành gồm có các qui
định của Hiến pháp 1992, Luật bàu cử Đại biểu Quốc hộinăm 1997 được sửa đổi bổ
sung năm 2001, Luật bàu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 và những văn bản
pháp luật khác về bầu cử.
1.2.2. Vai trò
- Thứ nhất: Bầu cử có vai trò chống tham nhũng, vấn đề được phân tích như
sau: có ý kiến cho rằng hiện tại công chức của ta lương quá ít không đủ sống nên phải
tham nhũng. Vì thế, việc tăng lương cho lãnh đạo, cho công chức là điều cấp bách
phải làm. Và nếu tăng lương để có một nền hành chính chuyên nghiệp, trong sạch thì
việc tăng lương sẽ là điều kiện cho nền kinh tế, xã hội Việt Nam nhanh chóng chuyển
mình và phát triển lành mạnh. Nhưng tăng lương liệu tham nhũng sẽ bớt chăng? Thực
tế chứng minh rằng những người tham nhũng thường là những người không có khó
khăn về tài chính. Như vậy, việc tăng lương mới chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ.
Ngay lúc này, vai trò của bầu cử dân chủ mới thực sự cần thiết. Đánh vào nhu cầu
mong muốn được duy trì chức vụ, cơ hội tái đắc cử của đa số lãnh đạo, của viên chức
nhà nước bằng bầu cử dân chủ là một cơ chế hữu hiệu để hạn chế tham nhũng. Nếu
GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 7

SVTH: Võ An Trinh


2

saigontimes. vn/epaper/TB -KTSG/Sol3-2007(849)76770/


Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử
một viên chức sau khi có thể sống bằng lương và anh ta phải chọn lựa giữa việc tham
nhũng và việc mất chức vụ thì chắc chắn anh ta sẽ chọn con đường thanh bạch để
phụng sự nhân dân.
Như vậy tham nhũng có thể bị ngăn chặn khi một viên chức nhà nước có niềm
tin rằng: Nếu họ làm tốt, họ sẽ được bầu lại vào vị trí cũ hoặc cao hơn thông qua bầu
cử dân chủ. Nhưng nếu việc bầu cử chỉ là hình thức, đã cơ cấu hoặc xác suất trúng cử
gần như đương nhiên thì việc bầu cử không có ý nghĩa nhiều trong việc hạn chế tham
nhũng. Ngược lại, nếu việc tái đắc cử quá khó vì đấu đá nội bộ và không có tiêu chuẩn
trúng cử rõ ràng, bầu cử cũng không thể là một công cụ chống tham nhũng. Trong
trường họp này, các quan chức sẽ có tâm lý tích lũy, sống vội và cơ hội. Vì thế ta nói
rằng, bầu cử có vai trò rất quan trọng trong vấn đề chống tham nhũng.2
- Thứ hai: Thông qua việc bầu cử đại biểu Quốc hội, cử tri cả nước thực hiện
quyền làm chủ của mình bằng cách lựa chọn những đại biểu đủ tiêu chuẩn, đủ đức, đủ tài,
đại diện cho nhân dân trong Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực nhả nước cao nhất.
- Thứ ba: Thông qua bầu cử nhân dân có thể thiết lập được chính quyền với cơ
cấu, thành phần đúng theo nguyện vọng của họ. Đồng thời bầu cử cũng là một biện
pháp giúp cho nhân dân có thể thay đổi cơ cấu, thay đổi thành phần của các cơ quan
nhà nước dân cử. Có thể nghĩ như sau, khi một cơ quan nhà nước được thành lập ra nó
đều nhằm mục đích giúp cho cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được
tốt hơn, phục vụ cho xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Nhưng đến một giai đoạn
nào đó khi sự tồn tại và hoạt động của cơ quan không còn phù hợp thì khi đó, nó sẽ bị
giải thể hoặc sẽ được thay đổi về thành phần, cơ cấu thông qua lần bầu cử tiếp đến, lúc
này cơ quan mới sẽ đáp ứng được ý chí và nguyện vọng của đa số nhân dân và cải
thiện được đời sống cho nhân dân.
- Thủ tư: Với đặc điểm mang tính định kỳ, bầu cử còn là một biện pháp nhằm
kiểm tra, giám sát chính quyền, đồng thời giải quyết một cách hòa bình những xung
đột giữa các nhánh quyền lực, giữa các giai cấp chính quyền và giữa các cơ quan nhà
nước.

1.3. Quyền bầu cử và quyền ứng cử
1.3.1. Quyền bầu cử
Quyền bầu cử là một quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp, pháp luật
bảo đảm thực hiện việc lựa chọn đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước.

GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 8

SVTH: Võ An Trinh


3

Điều 54 Hiến pháp

1992,

Đề

được thể hóa tại
Luật bầu cử Đại
Quốc hội1997 sửa

tắc

trong

hoạt


động

bầu

cử Điều 2
đổi bổ

sung năm
2001 và Điều 2

giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có Luật bầu

cử Đại biểu Hội

quyền bầu cử.3 Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của tòa án đồng

Điều 23 Luật bầu cử

đang có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù, người đang bị tạmĐại

Điều 23 Luật bầu cửđể
hộil997 sửa đổi bổ

6

nguyên

Theo qui định của pháp luật công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, biểu

hộil997 sửa đổi bổgiam

5

Các

“Công dân không phân biệt chủng tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn

nhân dân 2003
4

tài:

Điều 54 Hiến pháp
được thể hốa tại
Luật bàu cử Đại
Quốc hội1997 sửa

biểu Quốc

và người mất năng lực hành vi dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri sung năm 2001
Đại biểu Quốc

bầu cử”.4

sung năm 2001

Nhữns người nào có quyền bầu cử?

1992,

Tuy nhiên, luật cũng qui định: Người bị tước quyền bàu cử theo bản án, quyết Điều 2

biểu

định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người phải chấp hành hình phạt tù, người bị đổi bổ

sung năm

tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự nếu đến trước thời điểm bỏ phiếu hai

2001 và Điều 2

mươi bốn giờ được khôi phục lại quyền bầu cử, được trả tự do hoặc cơ quan có thẩm Luật bầu

cử Đại biểu Hội

quyền xác nhận không còn trong tình trạng mất năng lực hành vi dân sự thì có quyền

nhân dân 2003

được bổ sung vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri. Ngược lại người có tên
trong danh sách cử tri mà đến thời điểm bỏ phiếu bị tòa án tước quyền bầu cử, phải
chấp hành hình phạt tù, bị bắt giam hoặc mất năng lực hành vi dân sự, thì Uỷ ban nhân
dân xã phường, thị trấn xóa tên người đó trong danh sách cử tri và thu hồi thẻ cử tri.5
1.3.2. Quyển ứng cử
Quyền úns củ". Là một quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp, pháp luật
bảo đảm để công dân có đủ điều kiện theo qui định của pháp luật có thể ứng cử đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
“Công dân, không phân biệt chủng tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ đủ hai mươi mốt
tuổi ừở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo qui định của
pháp luật”.6

Nhữns ai có quyền únẹ cử?
Đe được ứng cử làm đại biêu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân người
ứng cử còn phải bảo đảm những tiêu chuẩn qui định tại Điều 3 của Luật bầu cử Đại
biểu Quốc hộivà Điều 3, Luật bầu cử Hội đồng nhân dân:

GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 9

SVTH: Võ An Trinh

đồng


Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử
- Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
- Có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liên chính, chí công vô tư, gương mẫu
chấp hành pháp luật; kiên quyết đấu ừanh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch,
cửa quyền, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật;
- Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ Đại biểu Quốc hội, tham gia
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước;
- Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân
dân tín nhiệm;
- Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội.
Điều 29 Luật bầu cử Đại biểu Quốc hộil997 (sửa đổi bổ sung năm 2003) qui
định những người không được ứng cử đại biểu Quốc hội và những trường họp xoá tên
trong danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội như sau:
- Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của toà án đã có

hiệu lực pháp luật, người đang phải chất hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam và
người mất hành vi dân sự;
- Người đang bị khởi tố về hình sự;
- Người đang phải chấp hành bản án, quyết định hình sự của Toà án;
- Người đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của Toà án nhưng chưa
được xoá án tích;
- Người đang chấp hành quyết định xử lý hành chính về giáo dục tại xã,
phường, thị trấn, tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh hoặc đang bị quản chế hành
chính;
- Những người đã có tên trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội mà đến thời
điểm bắt đầu bầu cử bị khởi tố về hình sự, bị bắt giữ vì phạm tội quả tang, bị mất năng
lực
hành vi dân sự thì Hội đồng bầu cử xoá tên trong danh sách những người ứng cử đại biểu
Quốc hội.
2. LƯỢC SỬ VÈ HOẠT ĐỘNG BẰU cử Ở VIỆT NAM
Hoạt động bầu cử của nước ta diễn ra ở hai cấp. cấp trung ương là bầu cử đại
biểu Quốc hội, cấp địa phương là bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Do phạm vi
nghiên cứu có giới hạn nên trong đề tài nghiên cứu người viết chỉ trình bày phần sơ
lược về hoạt động bầu cử của đại biểu Quốc hội Việt Nam.

GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 10

SVTH: Võ An Trinh


Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử
2.1. Quốc hội khóa I (1946-1960)
Bầu cử ngày 6-1-1946

Tổng số đại biểu: 403 đại biểu, gồm 333 đại biểu được dân bầu, 70 đại biểu
không qua bàu cử, trong đó có 20 đại biểu thuộc Việt Nam Cách mạng đồng minh hội
và 50 đại biểu thuộc Việt Nam Quốc dân đảng.
Thành phần xã hội trong Quốc hội khóa I như sau: Trí thức: 61%, công kỹ
nghệ gia: 0,6%, buôn bán: 0,5%, thợ thuyền: 0,6%, nông dân: 22%.về độ tuổi: Đại
biểu từ 18 đến 25 tuổi: 0,7%, đại biểu từ 26 đến 40 tuổi: 70%, đại biểu từ 41 đến 50
tuổi: 18%, đại biểu từ 51 đến 70 tuổi: 0,5%
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bàu Quốc hội khóa I đã thể hiện ý chí, quyết
tâm và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng chính
quyền của nhân dân, đồng thời phản ánh sự tin tưởng sâu sắc của Đảng đối với quần
chúng cách mạng.
2.2. Quốc hội khóa n (1960-1964)
Bầu cử ngày 8-5-1960
Tổng số đại biểu: 453 đại biểu, trong đó có 91 đại biểu miền nam lưu nhiệm
Cơ cẩu thành phần của Quốc hội như sau: Công nhân: 13,8%, nông dân:
12,9%, trí thức: 28,4%, đảng viên: 82,3%, cán bộ chính trị: 35,2%, dân tộc thiểu số:
15,4,

quân đội: 4,5%, phụ nữ: 13,5%, thanh niên: 8,8%, tôn giáo: 3,5%.

Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa II thắng lợi đã có ý nghĩa và tác dụng lớn
đối với việc kiện toàn bộ máy Nhà nước dân chủ nhân dân, đối với việc đoàn kết toàn
dân và nâng cao ý thức làm chủ đất nước của nhân dân ta. Đó là những điều kiện
quyết định cho sự phát triển của chế độ, cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt
Nam.
2.3. Quốc hội khóa m (1964-1971)
Bầu cử ngày 26-4-1964
Tổng số đại biểu: 453 đại biểu, trong đó có 87 đại biểu lưu nhiệm
Cơ cấu thành phần của Quốc hội như sau: Công nhân: 12,4%, nông dân:
24,5%, trí thức: 26,8%, đảng viên: 80,6%, cán bộ chính trị: 19,2%, dân tộc thiểu số:

16,6%, quân đội: 5,0%, phụ nữ: 16,7%, thanh niên: 15,6%, tôn giáo: 3,2%
Kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa m đã tỏ rõ sự nhất trí về chính trị
và tinh thần, sự tín nhiệm của nhân dân đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với sự
lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 11

SVTH: Võ An Trinh


Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử
2.4. Quốc hội khóa IV (1971-1975)
Bầu cử ngày: 11-4-1971
Tổng số đại biểu: 420 đại biểu
Cơ cẩu thành phần Quốc hội như sau: Công nhân chiếm 22,3%, nông dân:
21,4%, trí thức: 17,1%, đảng viên: 75,4%, cán bộ chính trị: 24,05%, dân tộc thiểu số:
17,3%, quân đội: 6,4%, phụ nữ: 29,7%, thanh niên: 19,5%
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa rv đã thành công rực rỡ, một lần nữa
khẳng định sự nhất trí về chính trị và tinh thần xã hội của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, sự tín nhiệm của nhân dân đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, lòng tin đối
với sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và ý thức chính trị, ý thức làm chủ đất
nước, làm chủ xã hội của nhân dân Việt Nam.
2.5. Quốc hội khóa V (1975-1976)
Bầu cử ngày 6-4-1975
Tổng số đại biểu: 424 đại biểu
Cơ cẩu thành phần của Quốc hội như sau: công nhân chiếm 22%, nông dân:
21%, trí thức: 22%, đảng viên: 73%, cán bộ chính trị: 23%, dân tộc thiểu số: 16,7%,
quân đội: 6,5%, phụ nữ: 32%, thanh niên: 33%
Kết quả tốt đẹp của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa V một lần nữa khẳng

định sự nhất trí cao về chính trị ừong xã hội, lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo
của Đảng và sự tín nhiệm của toàn dân đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
2.6. Quốc hội khóa VI (1976-1981)
Bầu cử ngày 25-4-1976
Tổng số đại biểu: 492 đại biểu
Cơ cẩu thành phần của Quốc hội như sau: Công nhân: 16,2%, nông dân:
20,3%, trí thức: 19,9%, đảng viên: 81,4%, cán bộ chính trị: 28,6%, dân tộc thiểu số:
13,6%, quân đội: 10,9%, phụ nữ: 26%, thanh niên: 11,7%
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VI là thắng lợi của
đường lối đấu tranh cách mạng của Đảng Lao động Việt Nam, đồng thời là một kết
quả tốt đẹp của quá trình đấu tranh bốn mươi lăm năm qua của nhân dân Việt Nam vì
độc lập và thống nhất dân tộc, vì dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử chứng tỏ sức mạnh vô địch của nhân dân cả
nước ta đoàn kết chặt chẽ trong Mặt trận Dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân, dựa trên cơ sở liên minh công - nông. Với sức mạnh đó, ta đã giành
GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 12

SVTH: Võ An Trinh


Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử
được chiến thắng vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám, trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Phát huy những thắng lợi đã giành được, nhân dân ta vững bước tiến lên xây
dựng nước nhà thành một nước xã hội chủ nghĩa hùng cường, góp phần với nhân dân
thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội.
2.7. Quốc hội khóa VII (1981-1987)

Bầu cử ngày 26-4-1981
Tổng số đại biểu: 496 đại biểu
Cơ cẩu thành phần của Quốc hội như sau: công nhân chiếm 20,16%, nông
dân: 18,64%, trí thức: 22,17%, đảng viên: 84,12%, cán bộ chính trị: 24,39%, dân tộc
thiểu số: 14,91%, quân đội: 9,87%, phụ nữ: 21,776%, thanh niên: 18,14%
Thắng lợi của cuộc bầu cử Quốc hội khóa VII đã chứng minh rằng: đồng bào,
chiến sĩ và cán bộ cả nước ta mặc dù đang gặp nhiều khó khăn về đời sống nhưng đã
thực hiện quyền làm chủ tập thể qua lá phiếu của mình, theo đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.8. Quốc hội khóa VIII (1987-1992)
Bầu cử ngày 19-4-1987
Tổng số đại biểu: 496 đại biểu
Cơ cẩu thành phần của Quốc hội như sau: công nhân chiếm 20% , nông dân:
21%, trí thức: 24,9%, đảng viên: 93%, cán bộ chính trị: 20,2%, dân tộc thiểu số: 14%,
quân đội: 9,9%, phụ nữ: 18%, thanh niên: 11,2%
Thắng lợi của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa

vin,

đã khẳng định rằng,

mặc dù có nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống, nhưng với truyền thống yêu nước và
chủ nghĩa xã hội, với sự giác ngộ về nghĩa vụ và quyền làm chủ của công dân, nhân
dân ta đã biểu thị lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực tham gia vào việc
lựa chọn đại biểu xứng đáng của mình để bầu vào cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất, góp phần tăng cường và củng cố Nhà nước chuyên chính vô sản.
Thành phần của 496 đại biểu được bầu vào Quốc hội khóa VIII đã thể hiện
được khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, dựa trên cơ sở liên
minh công - nông vững chắc.
2.9. Quốc hội khóa IX (1992-1997)

Bầu cử ngày 19-7-1992
Tổng số đại biểu: 395 đại biểu
GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 13

SVTH: Võ An Trinh


Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử
Cơ cấu thành phần của Quốc hội: Nông nghiệp: 14,68%, công nghiệp: 4,8%,
luật: 3,8%, giáo dục: 6,1%, văn học nghệ thuật: 5,08%, cán bộ chính trị công tác Đảng:
10,94%, đảng viên: 91,6%, dân tộc thiểu số: 16,79%, quản lý Nhà nước: 31,3%, quân
đội: 6,78%, phụ nữ: 18,84%
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa IX đã được tiến hành dân chủ, đúng pháp
luật. Nhân dân th
ể hiện lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, có ý thức về quyền và nghĩa vụ của
mình trong cuộc bầu cử, tích cực lựa chọn những đại biểu xứng đáng vào cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất.
Thành phàn của 395 đại biểu được bàu vào Quốc hội khóa IX đã thể hiện khối
đại đoàn kết toàn dân, tiêu biểu cho trí tuệ của nhân dân cả nước.
2.10. Quốc hội khóa X (1997-2002)
Bầu cử ngày 20-7-1997
Tổng số đại biểu: 450 đại biểu
Cơ cẩu thành phần của Quốc hội như sau: phụ nữ chiếm 26,2%, dân tộc
thiểu số: 17,33%, đại biểu khóa IX tái cử: 27,34%, ngoài Đảng: 15%, đại biểu trẻ
(dưới 40 tuổi): 18,6%, các lực lượng vũ trang nhân dân: 12,2%, mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức đoàn thể: 14%, tôn giáo: 0,17%, giáo dục: 4,88%, y tế: 4%, công nghiệp:
4,66%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản: 3,77%.
Tuổi bình quân của đại biểu Quốc hội khóa X là 49, trong đó đại biểu cao tuổi

nhất là 86 tuổi và đại biểu trẻ tuổi nhất là 21 tuổi.
Thành công của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa X thể hiện tinh thần yêu
nước và cách mạng, sự gắn bó và niềm tin của các tầng lóp nhân dân với Đảng, Nhà
nước và chế độ, thể hiện quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc tham gia xây
dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch và vững manh, để
Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân; đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh, tạo tiền đề vững chắc để đất nước bước vào thế kỷ XXI.
2.11. Quốc hội khóa XI (2002-2007)
Bầu cử ngày 19-5-2002
Tổng số đại biểu: 498 đại biểu
Cơ cẩu thành phần của Quốc hội như sau: Trong lĩnh vực doanh nghiệp: 25,
chiếm 5.02%; nông dân: 6, chiếm 1.20%; trong các lực lượng vũ trang: 55, chiếm
11.04%; công nhân: 2, chiếm 0.40%; đại biểu tự ứng cử: 2, chiếm 0.40%; đại biểu
GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 14

SVTH: Võ An Trinh


7

Số liệu từ Quốc hội

Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử

khốa I đ
ến Quốc hội khóa
XI được trích từ


chuyên trách: 118, chiếm 23.69%; ngoài Đảng: 68, chiếm 13.65%; dân tộc thiểu số:
86, chiếm 17.27%; phụ nữ: 136, chiếm 27.30%; tôn giáo: 7, chiếm 1.40%
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI đã đạt được thắng lợi to lớn và thành
công tốt đẹp; bảo đảm dân chủ, đứng pháp luật, an toàn và tiết kiệm.
Thành công của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI đã thể hiện ý thức chính
trị, trách nhiệm công dân, trình độ dân trí, sinh hoạt dân chủ trong xã hội có bước tiến
bộ lõ rệt, khẳng định tinh thần yêu nước và cách mạng, niềm tin của nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp đối mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân.7
2.12, Quốc hội khóa xn (2007-2011)
Bầu cử ngày 20-5-2007
Tổng số đại biểu trúng cử: 493 đại biểu
Cơ cẩu thành phần của Quốc hội như sau: Đại biểu tham gia Quốc hội lần
đầu: 345 đại biểu; Đại biểu có trình độ trên đại học: 164 đại biểu, chiếm 33.27%; Đại
biểu có trình độ đại học: 309 đại biểu, chiếm 62.68%; Người dân tộc thiểu số: 87 đại
biểu, chiếm 17.65%; Ngoài Đảng:34 đại biểu, chiếm 6.90%; Tự ứng cử:l đại biểu,
chiếm0.20%; Tái cử: 138 đại biểu, chiếm 27.99%; Phụ nữ:127 đại biểu, chiếm 25.76%
Với thắng lợi của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII sẽ tạo điều kiện cho
việc tăng đại biểu QH chuyên trách (dự kiến từ 25% lên khoảng 28% tổng số đại biểu
QH) để làm nòng cốt trong việc xây dựng luật, hoạt động giám sát và các hoạt
độngkác của Quốc hội.

.

vn/vphdndtp/vn/index.asp?menuid=632&parent_menuid=632&fiiseaction=3&articleid

=5123


GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 15

SVTH: Võ An Trinh


8

Trích “Montesquieu, Tinh thần pháp luật, NXB Giáo dục năm 1996”.

Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử
CHƯƠNG 2
CÁC NGUYÊN TẮC TRONG HOẠT ĐỘNG BẦU cử
1. MỘT SÓ QUAN ĐIỂM HÌNH THÀNH CÁC NGUYÊN TẮC TRONG HOẠT
ĐỘNG BÀU CỬ
Vào thế kỷ XVIII, trong đời sống chính trị của thế giới đã xuất hiện lý thuyết
đại diện gắn liền với tên tuổi của Locke, Rousseau và Montesquieu. Theo lý thuyết đại
diện, quyền lực về nguyên tắc thuộc về nhân dân nhưng do những lý do thực tế, nhân
dân không thể trực tiếp thực hiện toàn bộ quyền lực của mình mà phải ủy thác cho
những người đại diện để thay mặt cho nhân dân thực hiện quyền lực của nhân dân. Đối
với Rousseau, mặc dù cho rằng dân chủ trực tiếp mới là dân chủ thật sự, nhưng cũng
phải thừa nhận rằng đó là một hình thức lý tưởng, nhân dân phải ủy quyền cho người
đại diện mà không thể trực tiếp thực hiện quyền lực của mình. Còn Montesquieu thì rất
tin vào khả năng của nhân dân trong việc ủy quyền, ông quan niệm rằng: “Dân chúng
rất giỏi khi họ chọn người để giao phó một quyền lực của mình. Họ chỉ còn xác định
những điều mà họ biết, họ thấy và họ cảm nhận được”.
Và phương thức để nhân dân ủy thác quyền lực cho người đại diện chính là bầu
cử.
Dù một Chính phủ được thiết lập tốt thế nào đi chăng nữa thì nó cũng không

được xem là người đại diện tốt cho nhân dân trừ phi các quan chức của Chính phủ đó
được bầu lên một cách tự do với một thể thức được coi là công khai, công bằng đối với
tất cả mọi người. Cho nên, Montesquieu cho rằng: “các luật qui định quyền đầu phiếu
là luật cơ bản trong chính sách quân chủ”.8
Bằng sự quyết định một cách hòa bình ai sẽ nắm quyền và bằng sự họp pháp
hóa các quyết định của những nhà cầm quyền, những cuộc bầu cử sẽ đem lại những
giải pháp cho những vấn đề thiết thực nhất của bất kỳ chế độ chính trị nào. Nhưng mục
đích này chỉ có thể đạt được dễ dàng khi chế độ bầu cử bảo đảm một nhận thức sâu sắc
về những cuộc bầu cử tự do và công bằng. Montesquieu viết: “Luật về cách bầu cử
cũng là một luật cơ bản trong nền dân chủ. Những nhân tố bảo đảm cho cuộc bầu cử tự
do, công bằng là sự thừa nhận quyền phổ thông đầu phiếu, bỏ phiếu trực tiếp, bỏ phiếu
kín và bình đẳng trong bầu cử”.

GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 16

SVTH: Võ An Trinh


9

Điều

21

Tuyên

ngôn


toàn

217A(ni)
qui định:

ngày

thế

giới

về

quyền

con

nguôi,

1948

(đuợc

Đại

hội

đồng

Liên


hiệp

quốc

thông

Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử

công bố theo Nghị

10/12/1948

2. CÁC NGUYÊN TẮC TRONG HOẠT ĐỘNG BÀU cử
Bầu cử là một hoạt động xã hội của con người. Muốn cho hoạt động này đạt
được kết quả thắng lợi, cũng như để bảo đảm cho cuộc bầu cử được tiến hành một
cách dân chủ thì cần phải tiến hành theo nhiều nguyên tắc. Có những nguyên tắc mang
tính đặc thù của hoạt động bầu cử, đó là những nguyên tắc bầu cử phổ thông, bình
đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các nguyên tắc đó thống nhất với nhau, đảm bảo cho
cuộc bầu cử khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn
đại biểu.
Vậy, thế nào là nguyên tắc bầu cử?
Nguyên tắc bầu cử được hiểu là tất cả những qui định chung nhất được đặt
ra trong hoạt động bầu cử có tác dụng bắt buộc người tham gia hoạt động bầu cử
phải tuân theo những qui định ẩy.
Với tầm quan trọng của vấn đề bầu cử, cho nên các nguyên tắc bầu cử phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín tiến bộ đã ra đời và từng bước định hình
cùng với nền dân chủ tư sản, một bước tiến trong xã hội loài người. Tuy nhiên, trên
thực tế việc vận dụng các nguyên tắc này trong các nước tư bản chủ nghĩa cũng rất
khác nhau, trong không ít trường họp chúng bị lợi dụng hay bị vi phạm một cách

nghiêm trọng.
Ngược lại, trong nhà nước Xã hội chủ nghĩa nói chung và ở Việt Nam nói riêng,
các nguyên tắc bầu cử dân chủ được thừa kế, bổ sung và phát triển để làm căn cứ thực
hiện một chế độ mới thật sự dân chủ.
Theo qui định tại Điều 1 Luật bầu cử Đại biểu Quốc hộinăm 1977 (được sửa
đổi bổ sung năm 2001), việc bầu cử đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ
phiếu kín.
Các nguyên tắc này cũng chính là những tư tưởng chỉ đạo trong việc tổ chức
bầu cử, thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam. Do đó, các nguyên tắc này
được thể hiện chặt chẽ, thống nhất, xuyên suốt toàn bộ quá trình tiến hành bầu cử, bảo
đảm cho cuộc bầu cử khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi
lựa chọn người để bầu làm đại biểu Quốc hội. Nguyên tắc bầu cử yêu cầu phải qui
định rõ quyền và trách nhiệm của cử tri trong bầu cử và trách nhiệm của nhà nước là
phải bảo đảm các qui định về bầu cử.9

GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 17

qua

quyết

SVTH: Võ An Trinh


số



10

Nhà nước của dân,

do dân và vì

Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử

dân là nhà nước
nhân dân làm chủ
nước đều thuộc về

Đây là một nguyên tắc quan trọng trong việc tổ chức các cuộc bầu cử. Đồng nhân

Nhà nước là công

nước của công dânthời
Trích từ “Một số
pháp và Bộ máy
PGS.TS. Luật
Giao

đây cũng là nguyên tắc mà nhân loại chúng ta phải trả giá đắc nhất cho cuộc đấu và

màu da, chủng tộc, giới tính cũng như thời hạn cư trú hay nhiều hạn chế có tính chất tự vấn

do nhân
đề về Hiến

Nhà


nhiên khác... Nói chung, đây là tiêu chuẩn đầu tiên để đánh giá mức độ dân chủ của Nguyễn
học

NXBbầu
thông

dân.

cụ quản lý đất

tranh đòi quyền được tham gia bầu cử cho tất cả mọi người, không hạn chế về của cải,

dân bầu ra.

Dung,

đó,

đất nước, mọi

2.1. Nguyên tắc bầu cử phổ thông

quyền lực của nhà

11

trong

vậnthì


cử. Cuộc bầu cử càng được mở rộng cho nhiều người tham gia bầu cử bao nhiêu

càng thể hiện mức độ dân chủ của cuộc bàu cử bấy nhiêu. Cuộc bàu cử phổ thông tải, 2001”.

là cuộc bầu cử được tổ chức cho nhiều người tham gia, tức là một hoạt động phổ cập,
không hạn chế đối với bất kỳ một đối tượng công dân nào, nếu con người đạt được
mức độ trưởng thành hoàn chỉnh về mặt nhận thức mà nhiều nước trên thế giới công
nhận - họ đạt mười tám tuổi.
2.1.1. Nguyên tắc bầu cử phổ thông theo luật Việt Nam.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng và Nhà nước ta đã xác định Nhà nước ta là
nhả nước của dân và vì dân.10 Người dân làm chủ trong việc bầu ra những người đại
diện cho mình. Vì vây, Nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân đều
có thể tham gia bầu cử. Đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong chế độ bầu cử của
mỗi nhà nước dân chủ nói chung, ừong đó có Việt Nam chúng ta nói riêng. Mức độ
dân chủ của xã hội thể hiện chủ yếu hay về cơ bản thông qua nguyên tắc này. Hay nói
cách khác đây là nguyên tắc cơ bản thể hiện chế độ dân chủ - quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân.11
Chính vì vậy mà yêu càu đặt ra của nguyên tắc này là Nhà nước phải bảo đảm để
cuộc bầu cử thực sự trở thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn, tạo điều kiện
thuận lợi để công dân thực hiện quyền bàu cử của mình. Đồng thời phải thể hiện được
phổ thông đàu phiếu là nguyên tắc đảm bảo tính dân chủ, công khai và sự tham gia
rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân trong bầu cử.
Để đáp ứng được yêu cầu đặt ra của nguyên tắc, Luật bầu cử Đại biểu Quốc
hộinăm 1997 (sửa đổi bổ sung năm 2001) qui định:
Mọi công dân đều có quyền tham gia quản lý đất nuớc mình một cách trực tiếp hoặc thông qua đại diện
mà họ được tự do lựa chọn.
Ý chí của người dân phải là cơ sở tạo nên quyền lực của chính quyền; ý chí đó phải được thực hiện qua
các cuộc bầu cử định kỳ và chân thực, được tổ chức theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu
kín hoặc bằng những thủ tục bầu cử tự do tương tự.


GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 18

SVTH: Võ An Trinh

nước,
Đăng


12

Cuộc bàu cử được tiến hành đều khắp cả nước nếu đố là bầu cử đại biểu Quốc hội, trong từng khu vực địa

Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử

phương nếu là bầu
biểu Hội đồng

cử đại

- Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ấn
định và công bố chậm nhất là một trăm lẻ năm ngày trước ngày bầu cử. Việc bầu cử
được tiến hành cùng một ngày trong cả nước. (Điều 54)
- Trong trường họp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn
ngày qui định ở khu vực bỏ phiếu nào thì Ban bầu cử sau khi lấy ý kiến của Tổ bầu cử
ở khu vục bỏ phiếu đó phải kịp thời báo cáo Uỷ ban bầu cử để đề nghị Hội đồng bầu
cử xem xét, quyết định. (Điều 56)
- Thời gian bỏ phiếu được qui định thống nhất trong cả nước từ bảy giờ sáng

đến bảy giờ tối (trừ những trường họp đặc biệt theo qui định của Luật bàu cử Quốc
hội). (Điều 57)
- Mọi công dân thường trú hoặc tạm trú đều được ghi tên vào danh sách cử tri.
(Kết họp Điều 22)
- Danh sách cử tri được niêm yết công khai chậm nhất là 30 ngày trước ngày
bầu cử. (Điều 25)
- Danh sách những người ứng cử cũng được lập và niêm yết công khai chậm
nhất là hai mươi lăm ngày trước ngày bầu cử để cử tri tìm hiều và lựa chọn, (kết họp
Điều 46 và Điều 47)
- Phải có quá nửa số cử tri ghi tên trong danh sách của đơn vị bầu cử đi bỏ
phiếu thì cuộc bầu cử nới có giá trị, việc kiểm phiếu được tiến hành công khai có sự
chứng kiến của đại diện cử tri, đại diện người ứng cử và đại diện các cơ quan thông tin
báo chí.
Nguyên tắc phổ thông không chỉ thể hiện tính công khai, dân chủ rộng rãi, đòi
hỏi sự bảo đảm để công dân thực hiện quyền bầu cử của mình mà còn thể hiện tính
toàn dân, toàn diện của bầu cử. Bầu cử là công việc của mọi người, là sự kiện chính trị
của xã hội.
Nguyên tắc bầu cử phổ thông hay còn gọi là phổ thông đầu phiếu đã được Nhà
nước Việt Nam áp dụng cho mọi công dân Việt Nam, ngay từ thời non trẻ, khi mới lập
nước. Nguyên tắc này đến nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa của nó và được ấn định trong
Hiến pháp 1959, Hiếp pháp 1980, Hiến pháp 1992. Hiến pháp 1992 quy đinh: “Công
dân, không phân biệt chủng tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo,
trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền
bầu cử và từ đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội 12

GVHD: Đinh Thanh Phưomg

Trang 19

SVTH: Võ An Trinh


nhân dân


13

Trích từ “Giáo trình

Luật hiến pháp

Đề tài: Các nguyên tắc trong hoạt động bầu cử

Việt Nam, Trường
Nội, NXB Công an
Nội,

đồng nhân dân theo qui định của pháp luật, trừ những người mất trí và những người bị
pháp luật hoặc tòa án nhân dân tước các quyền đó”.

2004”.

Bên cạnh đỏ, Luật bầu cử Đại biểu Quốc hộũiãm 1997 (sửa đổi bổ sung năm
2001) cũng qui định những trường họp đặc biệt sau đây không được quyền tham gia
bầu cử:
- Những người mất trí không tự chủ được suy nghĩ và hành động của mình,
không phân biệt đúng, sai, có những rối loạn về mặt nhận thức.
- Những người bị giam để thi hành án phạt tù.
- Những người đang bị tạm giam theo quyết định của Tòa án hoặc theo quyết
định hay phê chuẩn của Viện kiểm sát.
Quyền bầu cử phổ thông của Nhà nước xã hội chủ nghĩa khác với Nhà nước tư

sản bằng việc không những không qui định hạn chế tiêu chuẩn người tham gia bầu cử
(trừ việc qui định hạn chế ở mức tuổi trưởng thành) mà còn qui định sự tham gia của
tất cả các quân nhân đang tại ngũ. Hạn chế việc tham gia của quân đội vào các cuộc
bầu cử là đặc trưng của chế độ tư bản (quân đội không tham gia chính trị). Quyền bầu
cử của công dân được các cơ quan phụ trách bầu cử ghi nhận trong danh sách cử tri.
Tất cả mọi công dân có đủ điều kiện theo qui định của pháp luật: đủ mười tám tuổi trở
lên, không bị pháp luật tước quyền bầu cử đều được ghi tên trong danh sách cử tri.
Để bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc phổ thông, Luật bầu cử qui định hàng loạt
biện pháp nhằm khắc phục sự sai sót trong quá trình lập danh sách cử tri như: việc
niêm yết; việc thông báo danh sách cử tri bằng các phương tiện thông tin đại chúng;
nhất là việc qui định công dân có quyền kiểm tra, khiếu nại về cử tri và danh sách cử
tri; quyền cử tri được giới thiệu đến bầu cử (bỏ phiếu) nơi mới đến viết, và bỏ phiếu hộ
cho người ốm, tàn tật, già yếu không đến nơi bỏ phiếu được.13
2.1.2. Nguyên tắc bầu cử phổ thông theo luật một số nước tư sản
Hiện nay, Hiến pháp của đa số các nước tư bản đều tuyên bố nguyên tắc bầu cử
phổ thông, tức là chế độ bầu cử được mở rộng cho tất cả mọi công dân đến tuổi trưởng
thành. Nhưng trên thực tế pháp luật từng nước vẫn có những hạn chế nhất định, gạt ra
khỏi đời sống chính trị một lượng những người dân lao động rất lớn. Trước hết, đó là
hạn chế điều kiện về tuổi, pháp luật tư sản thường qui định, công dân có hạn từ hai
mươi hoặc hai mươi lăm tuổi mới có quyền bầu cử. Kèm theo qui phạm này là quyền
được bầu cử (bầu cử thụ động) bao giờ cũng đòi hỏi ở độ tuổi cao hơn. Những qui định

GVHD: Đinh Thanh Phưomg

Trang 20

SVTH: Võ An Trinh

ĐH
nhân


Luật



dân




14

Trích từ “Luật Hiến pháp đối chiếu, PGS.TS. Luật học Nguyễn Đăng Dung, NXB TP.HỒ Chí Minh, 2001”

Đề

tài:

Các

nguyên

tắc

trong

hoạt

động


bầu

cử

này đã nghiêm cấm đa số thanh niên tham gia vào đời sống chính trị của nhà nước. Họ
cho rằng, tầng lớp thanh niên chưa có đủ trình độ chính chắn để tham gia vào các hoạt
động chính ừị. Con người càng trẻ, càng có nhiều khuynh hướng chính trị, người tuổi
cao bao giờ cũng có khuynh hướng bảo thủ, ôn hòa, thận trọng. Thông thường pháp
luật bầu cử nghiêm cấm các quân nhân tại ngũ tham gia bầu cử, quân đội tham gia
chính trị.
Nhiều nước tư sản còn hạn chế quyền bầu cử bằng thời gian cư trú, tức là người
có quyền bàu cử phải cư trú thường xuyên ở đơn vị bàu cử một khoảng thời gian theo
qui định của từng nước.
Ngoài những hạn chế trên, pháp luật tư sản còn đặt ra nhiều hạn chế khác. Ví dụ
như hạn chế về tài sản, muốn tham gia bầu cử, người đi bỏ phiếu phải có một tài sản
nhất định; hạn chế về giới tính, chỉ có nam giới mới có quyền tham gia bầu cử, chính
trị là công việc của giới “mày râu” khác với công việc bếp nút của nữ giới, thậm chí có
nơi bầu cử còn là hoạt động của người da trắng, pháp luật không cho những người da
màu tham gia.14
Ví dụ như hoạt động tranh cử trong nội bộ hai đảng chính trị tại Hoa Kỳ đã trở
nên sôi động với cuộc họp bầu tại bang Iowa và cuộc bầu cử sơ bộ tại bang New
Hampshire. Đề cập đến quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ. Đây là quyền của người
dân đã được qui định rõ ràng trong hiến pháp. Tuy nhiên vẫn có những nỗ lực để giảm
bớt quyền này. Xưa kia, từng có lúc cử tri đi bàu phải đóng thuế, lại có thời cử tri phải
được trắc nghiệm xem có biết đọc, biết viết tiếng Anh hay không rồi mới được đi bầu.
Đây là những hạn chế đặt ra để ngăn chặn nhiều người, đặc biệt là những người nghèo
hoặc là công dân gốc thiểu số không biết tiếng Anh, để họ không được hưởng quyền
bầu chọn, cho đến khi Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ tuyên bố những hạn chế này là vi
hiến. Ngày nay, các thẩm phán của Tối Cao Pháp Viện cũng đang phải phân xử về một
luật tiểu bang đòi các cá nhân phải trình một loại giấy tờ tùy thân đặc biệt rồi mới được

bầu người đại diện cho họ vào hội đồng thành phố, vào quốc hội tiểu bang hay liên
bang, hay bầu vị tổng thống mà họ chọn.
Vấn đề đang được đem ra khiếu nại tại Tối Cao Pháp Viện là một đạo luật đã
được cơ quan lập pháp của bang Indiana thông qua ba năm trước đây. Đạo luật này bị
nhiều người chống đối vì cho rằng nó có chủ đích hạn chế các quyền của cử tri. Theo
luật này thì một cử tri phải xuất trình một giấy tờ tùy thân có dán hình đương sự do
chính phủ cấp phát, như bằng lái xe hay hộ chiếu, thì mới được coi là hợp lệ để cầm lá
phiếu chọn người mình muốn bầu. Nếu không có được thứ giấy tờ này thì lá phiếu của

GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 21

SVTH: Võ An Trinh


15

/>
Đề

tài:

Các

nguyên

tắc

trong


hoạt

động

bầu

cử

cử tri chỉ được coi là một phiếu tạm, không được tính trong số phiếu thực thụ, cho đến
khi cử tri này trở lại với một giấy tùy thân được coi là bằng chứng chấp nhận được về
lai lịch của họ. Trong một cuộc bầu cử hội đồng thị xã tại bang Indiana, có ba mươi hai
lá phiếu không được tính vì cử tri bỏ những lá phiếu đó đã không chịu trở lại cơ quan
tổ chức bầu cử xuất trình giấy tờ đòi hỏi để cho lá phiếu của họ được coi là họp lệ. Đa
số những cử tri chịu ảnh hưởng tai hại của luật lệ này, tức là lá phiếu của họ không
được tính vì họ thiếu căn cước, là những người nghèo, người già cả hay dân thiểu số,
tức là thành phần thường không có bằng lái xe hay hộ chiếu.
Hầu hết những người thuộc giai cấp cao hay trung lưu, có học thức cao thì vẫn
có các loại giấy tờ này. Nhưng theo các cuộc nghiên cứu toàn quốc cho thấy thì khoảng
từ 10% đến 12% công chúng Mỹ không có bằng lái xe và chỉ có 25% là có hộ chiếu.
Điều mà chứng ta đang nói tới ở đây là, nếu như luật lệ của bang Indiana được Tối Cao
Pháp Viện chấp nhận và được đem ra áp dụng cho toàn quốc thì Hoa Kỳ có tiềm năng
sẽ loại bỏ chừng hai mươi mốt triệu cử tri. Con số này đủ để lật ngược kết quả của một
cuộc bầu cử.15
Bên cạnh quyền bầu cử, quyền ứng cử cũng hết sức quan trọng trong cuộc bầu
cử. Nó là kết quả của cuộc đấu tranh đòi quyền bầu cử của nhân dân các nước tư bản,
không chỉ dừng lại ở chỗ họ có đi bỏ phiếu hay không mà còn đạt được tới mục đích là
trở thành những người đại diện cho chính bản thân mình trong cơ quan nhà nước. Tuy
nhiên, muốn ứng cử vào Hạ viện, công dân phải có độ tuổi từ hai mươi ba đến hai
mươi lăm, thậm chí, Thượng viện còn phải cao hơn, từ ba mươi đến bốn mươi. Một số

nước còn nghiêm cấm hàng loạt công dân không được bầu vào Nghị viện, tức là những
công dân có nghề nghiệp, quan chức liên quan đến hoạt động của Nghị viện: thay vì
qui định này, pháp luật mở ra khả năng, ai muốn được làm Nghị sĩ thì phải từ bỏ chức
vụ, nghề nghiệp đang đảm nhiệm (đây là qui định của pháp luật Pháp, Ý) khi trúng cử.
Ngoài những điều kiện trên, những người tự ứng cử muốn được lập danh sách
ứng cử viên thì phải lấy được một số lượng chữ ký ủng hộ của cử tri tùy theo qui định
của từng nước. Ví dụ: cao như ở Bỉ là hai trăm đến ba trăm chữ ký, thấp như ở Canada
là hai chữ ký. Ngoài chữ ký, người tự ứng cử phải nộp một khoảng tiền cược trước vào
ngân sách nhà nước. Ở Anh là một trăm năm mươi đồng bảng, ở Pháp là một trăm
Frăng, ở Nhật là một trăm nghìn yên nếu ứng cử vào Hạ nghị viện. Neu ứng cử vào
Thượng nghị viện hay Tồng thống thì phải nộp số lượng tiền nhiều hơn, số lượng tiền
này chỉ được hoàn lại cho ứng cử viên nếu họ nhận được một lượng phần trăm số
phiếu thuận nhất định tùy theo qui định của từng nước (ở Pháp là 5%, Ý là 15% tổng

GVHD: Đinh Thanh Phương

Trang 22

SVTH: Võ An Trinh


×