Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Cải cách hành chính theo cơ chế một cửa ở tỉnh bến tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.12 KB, 75 trang )

LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nhìn nhận thực hạng nền hành chính Nhà nước với những yếu kém làm trì trệ
sự phát hiển kinh tế - xã hội, Đại hội VI của Đảng đã đề ra chủ trương thực hiện một
cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước. Từ đó đến nay, qua hơn
20 năm cải cách, hoàn thiện bộ máy, nền hành chính Việt Nam đã có được một sự
thay đổi lớn. Tuy nhiên, trong xu hướng phát hiển và hội nhập quốc tế hiện nay, nhu
cầu của người dân và nhu cầu của công cuộc hội nhập ngày càng nâng cao, đòi hỏi
hoạt động của các cơ quan Nhà nước phải không ngừng được hoàn thiện để thực sự là
một nền hành chính phục vụ. Đại hội X năm 2006 tiếp tục khẳng định chủ trương đẩy
mạnh cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh,
từng bước hiện đại, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây
dựng hệ thống cơ quan hành chính nhà nước thống nhất, thông suốt, hiện đại và xác
định một loạt các giải pháp quan họng để đẩy mạnh cải cách hành chính. Triển khai
thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
khoá X đã đề ra Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 về đẩy mạnh cải cách
hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
Chính phủ cũng ban hành nhiều chủ trương, giải pháp thực hiện cải cách hành
chính. Trong đó nổi bật là: Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2001- 2010 nêu rõ: “Mở rộng thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết
công viêc của cá nhân và tổ chức ở các cơ quan hành chính nhà nước các cấp”. Đây là
một giải pháp sáng tạo được đề ra trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết
38/CP về cải cách một bước thủ tục hành chính trong quan hệ với công dân và tổ
chức, đã đem lại kết quả, lợi ích:
- Giảm tối đa sự phiền hà cho tổ chức, công dân khi có yêu cầu giải quyết
công
việc tại cơ quan hành chính nhà nước.


- Góp phần chống tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng của một bộ phận cán
bộ, công chức.
- Nâng cao chất lượng công vụ, ý thức tổ chức kỉ luật cũng như tinh thần, thái
độ phục vụ tổ chức, công dân.
- Góp phần sắp xếp, tổ chức lại bộ máy cơ quan nhà nước theo hướng gọn
nhẹ,
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

1

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

Tỉnh Ben Tre là địa phương thực hiện sớm nhất việc hiển khai đồng loạt cơ
chế một cửa tại tất cả các cơ quan hành chính cấp huyện và cấp xã vào năm 2003.
Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh rất quan tâm và thường xuyên chỉ đạo việc thực hiện
cải cách hành chính tại các đơn vị, địa phương trong tỉnh. Đen nay, tỉnh đã đạt được
nhiều thành quả nhất định trong việc thực hiện cải cách hành chính. Song đi sâu phân
tích ở từng khía cạnh, từng nội dung cải cách hành chính được thực hiện ở các cấp thì
vẫn còn nhiều vấn đề cần bàn để tìm ra giải pháp hữu hiệu duy trì và nâng cao chất
lượng công tác này. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài “Cải cách hành chính theo cơ chế
“một cửa” ở tỉnh Bến Tre” để làm luận văn tốt nghiệp cử nhân luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cải cách hành chính nhà nước theo cơ chế “một cửa” đã được đề cập đến trong
nhiều đề tài nghiên cứu khoa học cũng như luận vãn của các anh chị khóa trước như:
Hồ Ngọc Yến lớp Tư pháp K28 với đề tài Thực tiễn thực hiện cơ chế “một cửa ”

trong
việc giải quyết công việc cho công dân và tổ chức tại cơ quan hành chính Nhà nước',
hay Bùi Phú Hữu lớp Thương mại K30 với đề tài Thực tiễn thực hiện cơ chế “một
cửa” ở Thành Phổ cần Thơ,...Nhưng tôi không theo hướng nghiên cứu của các đề tài
hên mà tập trung vào quá trình thực hiện “một cửa” ở tỉnh Ben Tre hên cơ sở những
kết quả và tồn đọng.Từ đó, đưa ra những giải pháp để hoàn thiện cơ chế này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích: nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc cải cách hành chính trên
địa bàn tỉnh để đáp ứng các yêu cầu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội theo
chương trình cải cách tổng thể của Chính phủ giai đọan 2001-2010.
Nhiệm vụ của đề tài: Người viết đi vào giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, người nghiên cứu tiếp cận đề tài từ cơ sở lý luận của cơ chế “một
cửa” với các nội dung: khái niệm cải cách hành chính, thủ tục hành chính, cơ chế một
cửa, quan điểm của Đảng nhà nước...
Thứ hai, quá trình triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa” ở tỉnh Ben tre với những kết quả đạt được, những tồn đọng cần giải quyết.
Thứ ba, hên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện cải cách
hành chính ở Ben tre và các địa phương khác trong cả nước.
4. Đổi tượng và phạm vỉ nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các tài liệu liên quan về cải
cách hành chính.Từ đó, thấy được tiến trình cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

2

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre


“một cửa” ở tỉnh Ben tre diễn ra như thế nào? Đạt được kết quả và tồn đọng gì để có
thể đưa ra giải pháp hoàn thiện.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh
Ben tre được tiếp cận hên góc độ các khái niệm liên quan đến cơ chế “một cửa”, quá
trình tổ chức triển khai thực hiện cơ chế hên từ khi cải cách đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Một số phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thống kê, tổng họp: với mục đích tập hợp, hệ thống hóa, xử lý tài
liệu theo một tiêu chí nhất định phục vụ cho quá trình nghiên cứu
Phương pháp so sánh: trên cơ sở những tài liệu nghiên cứu được tiến hành so
sánh và đánh giá kết quả đạt được
Phương pháp hỏi ý kiến nhằm thu thập những thong tin thực tế về tiến trình cải
cách hành chính của tỉnh
Phương pháp tham khảo các giáo trình, tài liệu để có thêm kiến thức
Phương pháp minh họa bằng biểu đồ, sơ đồ
6. Kết cấu của luận văn
Cấu trúc của luận vãn được trình bày: Mở đầu, ba chương, kết luận và phần
phụ lục.

Chương 2: Thực hạng về thực hiện cơ chế”một cửa” ở tỉnh Bến tre hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế “một cửa”.

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

3

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt



LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

CHƯƠNG 1
Cơ SỞ LÝ LUẬN VÈ HÀNH CHÍNH
VÀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1. CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
1.1.1. Khái niệm hành chính
Hành chính là thuật ngữ chỉ “hoạt động trong lĩnh vực tổ chức, quản lý và điều
hành” được tiến hành trên cơ sở sự ràng buộc bởi những quy tắc nhất định do Nhà
nước hoặc các chủ thể khác quy định hoặc thừa nhận, có tính bắt buộc, áp đặt mệnh
lệnh, nhằm đạt tới mục đích phục vụ lợi ích chung đã được xác định. Như vậy, hành
chính là hoạt động của cơ quan Nhà nước.
Nền hành chính Nhà nước truyền thống của ta chỉ chú trọng đến hiệu lực quản
lý với nhiều hình thức bao cấp, mang nặng tính chất “xin - cho” gắn liền với các thủ
tục phiền hà , thiếu tính công khai, công dân và tổ chức là đối tượng chịu sự quản lý
chặt chẽ của Nhà nước. Vì vậy, nền hành chính ấy ngày càng tỏ ra không phù hợp với
sự phát hiển của xã hội. Ngày nay, nền kinh tế thị trường phát hiển vô cùng mạnh mẽ,
quan hệ kinh tế quốc tế diễn ra phổ biến. Vì thế đòi hỏi nền hành chính Nhà nước phải
có những chuyển biến tích cực để phục vụ cho sự phát triển của kinh tế - xã hội.
Ở Việt Nam nói riêng và các quốc gia khác hên thế giới nói chung, phải tự đổi
mới mình nếu không muốn bị nhấn chìm trong vòng xoáy phát hiển của nhân loại. Và
việc xây dựng bộ máy Nhà nước với phương thức điều hành hiện đại là tất yểu. Nhìn
nhận thực hạng nền hành chính nhà nước với những yểu kém làm trì trệ sự phát triển
kinh tế - xã hội, Đại hội VI của Đảng đã đề ra chủ trương thực hiện một cuộc cải cách
lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước.
Từ đó đến nay, qua hơn 20 năm cải cách, hoàn thiện bộ máy, nền hành chính
Việt Nam đã có được một sự thay đổi lớn. Tuy nhiên, trong xu hướng phát hiển và
hội nhập quốc tế hiện nay, nhu cầu của người dân và nhu cầu của công cuộc hội nhập
ngày càng nâng cao, đòi hỏi hoạt động của các cơ quan Nhà nước phải không ngừng
được hoàn thiện để thực sự là một nền hành chính phục vụ. Đại hội X năm 2006 tiếp

tục khẳng định chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính
dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại, đổi mới tổ chức và hoạt động
của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành chính nhà nước thống
nhất, thông suốt, hiện đại và xác định một loạt các giải pháp quan họng để đẩy mạnh

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

4

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

cải cách hành chính. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương khoá X đã đề ra Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày
01/8/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của
bộ máy nhà nước. Chính phủ cũng ban hành nhiều chủ trương, giải pháp thực hiện cải
cách hành chính trong đó nổi bật là Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2001 - 2010 và gần đây là Nghị quyết số 53/2007/NQ-CP về đẩy
mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
Chính vì vậy, cải cách hành chính luôn là vấn đề được quan tâm ở hầu hết các
nước trên thế giới nhằm làm đòn bẩy để nâng cao hiệu quả của nhà nước trong việc
phát triển kinh tế, phát huy dân chủ và là tiếng nói của người dân trong hoạt động của
bộ máy công quyền, củng cố và tăng cường tiềm lực về mọi mặt cho đất nước.
1.1.2. Khái niệm cải cách hành chính
Thuật ngữ “cải cách” được hiểu với nhiều nghĩa khác nhau cả về nội dung, cấp
độ và phạm vi. cần phân biệt một số từ ngữ sử dụng trong họat động quản lý nhằm
nâng cao hiiệu quả hoạt động của tổ chức như: cải tiến, đổi mới, sáng kiến, biến đổi,
thay đổi.. .có ý kiến cho rằng cải cách bao gồm luôn các họat động nói hên.

Cải cách hành chính là khái niệm được nhiều quốc gia sử dụng, song do sự
khác biệt về hệ thống chính trị, trình độ và điều kiện nghiên cứu của các quốc gia
khác nhau nên có nhiều định nghĩa về cải cách hành chính.
Theo nghĩa rộng, cải cách hành chính có thể hiểu là một quá trình thay đổi cơ
bản, lâu dài, liên tục bao gồm cơ cấu của quyền hành pháp và tất cả các hoạt động có
ý thức của bộ máy nhà nước nhằm đạt được sự hợp tác giữa các bộ phận, các cá nhân
vì mục đích chung của cộng đồng và phối hợp các nguồn lực để tạo ra hiệu lực, hiệu
quả quản lý và các sản phẩm (dịch vụ hoặc hàng hóa) phục vụ nhân dân thong qua các
phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực. Hiểu theo nghĩa này, cải cách hành
chính là những thay đổi được thiết kế có chủ định nhằm cải tiến một cách cơ bản các
khâu trong hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước: lập kế hoạch, định thể chế, tổ
chức, công tác cán bộ, tài chính, chỉ huy, phối hợp kiểm tra thông tin và đánh giá.
Theo nghĩa hẹp, cải cách hành chính có thể hiểu như một quá trình thay đổi
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hành chính, cải tiến tổ chức, chế độ và phương
pháp

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

5

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

Theo tài liệu của Liên hiệp quốc thì cải cách hành chính là những cố gắng có
chủ định nhằm đua những thay đổi cơ bản vào hệ thống hành chính nhà nuớc thông
qua các cải cách có hệ thống hoặc các phương thức để cải tiến ít nhất một trong bốn
yếu tố cấu thành của nền hành chính công: thể chế, cơ cấu tổ chức, nhân sự và tài
chính công.

Theo thuật ngữ hành chính Việt nam: Cải cách hành chính là quá trình cải tiến
có kế hoạch cụ thể để đạt mục tiêu hoàn thiện một hay một số nội dung của nền hành
chính Nhà nước (thể chế, cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành...) nhằm xây dựng nền
hành
chính công, đáp ứng yêu cầu của nền hành chính có hiệu lực và hiệu quả.
Như vậy, cải cách hành chính là một quá trình lâu dài, nhiều khâu và nhiều giai
đoạn khác nhau. Điều đó đặt ra cho đội ngũ những người hiển khai thực hiện các
quyết định cải cách hành chính phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo nhiều hình
thức hiển khai thực hiện.
1.1.3. Nội dung cải cách hành chính nhà nước giai đoạn (2001-2010) của Chính
phủ
Cải cách nền hành chính Việt nam là công cuộc mới mẻ, lại diễn ra trong điều
kiện thiếu kinh nghiệm, kiến thức về quản lý hành chính nên gặp không ít khó khăn
trong quá trình xây dựng định hướng và tổ chức triển khai thực hiện, việc xác định rõ
mục tiêu, nội dung và các giải pháp cải cách là yêu cầu được đặt ra trong từng giai
đoạn phát triển của đất nước, trong chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2000 - 2010 đã nêu rõ bốn nội dung cải cách hành chính cần được tiến
hành trong thời gian tới: cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức; cải cách tài chính
công.
1.1,3,1. Cải cách thể chế
Thuật ngữ “thể chế” nói chung là một hệ thống các vãn bản quy phạm pháp
luật (được quy định trong Hiến pháp, trong các đạo luật, bộ luật, pháp lệnh, các văn
bản dưới luật, trong các nghị quyết, quy chế...) do các cơ quan nhà nước, các tổ chức
chính trị, kinh tế xã hội có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội,
quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, buộc mọi người, tổ chức phải tuân theo.
Cải cách thể chế nhằm xây dựng một hệ thống các quy phạm đồng bộ, phù họp
với điều kiện thực tiễn, đảm bảo điều hòa các mối quan hệ xã hội diễn ra trong đời
sống hàng ngày. Đặc biệt, chúng ta cần chú ý đến các quy phạm pháp luật về thủ tục


GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

6

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

hành chính trong giải quyết công việc giữa cơ quan hành chính nhà nuớc với công dân
và tổ chức, đảm bảo dần dần chuyển từ nền hành chính truyền thống sang nền hành
chính phát triển, lấy công dân làm đối tuợng phục vụ. Đồng thời, đổi mới và hoàn
chỉnh thể chế quản lý nhà nuớc, phục vụ đắc lực công cuộc cải cách kinh tế và tài
chính phù họp với cơ chế thị truờng.
1.1.3.2. Cải cách bộ máy hành chỉnh nhà nước
Bộ máy hành chính nhà nuớc bao gồm hệ thống các cơ quan hành chính nhà
nuớc từ trung ương đến địa phương. Cải cách tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn;
quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, hách nhiệm của từng cấp, từng ngành;
đảm bảo bộ máy hành chính nhà nước hoạt động thông suốt từ trung ương đến địa
phương.
Theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII, cải cách tổ chức và quy chế hoạt
động của bộ máy hành chính nhà nước phải xuất phát từ hai căn cứ: Một là thay đổi
chức năng của nhà nước cho phù họp với cơ chế kinh tế mới thể hiện trong việc đổi
mới và hoàn thiện thể chế, tổ chức nền công vụ; hai là sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà
nước.
1.1.3.3. Đổi mới nâng cao chẩt lượng đội ngũ cán bộ, công chức
Đội ngũ cán bộ công chức luôn là nhân tố quyết định sự thành công của công
cuộc cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách hành chính nói riêng. Vì vậy,
càn thiết phải xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức
đáp ứng nhu cầu công vụ trong điều kiện mới. Đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, cửa

quyền xuất hiện trong một bộ phận cán bộ công chức. Đồng thời, ban hành chế độ,
chính sách tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, đãi ngộ hợp lý nhằm tạo động lực hoạt động
có hiệu quả.
1.1.3.4. Cải cách tài chính công
Cần phải đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách, đảm bảo tính
thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chủ đạo của ngân sách Trung
ương; đồng thời phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo và trách nhiệm của địa
phương và các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân sách.
Bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương của Hội đồng nhân dân các
cấp, tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ động xử lý các công việc ở địa
bàn
mình quản lý; quyền quyết định của các Bộ, Sở, Ban ngành về phân bổ ngân sách cho
GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

7

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

các đon vị trực thuộc; quyền chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách trong phạm
vi dự toán đuợc duyệt phù hợp với chế độ chính sách.
Cần phân biệt cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ
công; xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số luợng biên chế thay bằng cách tính toán
kinh phí căn cứ vào kết quả và chất luợng hoạt đông, huớng vào kiểm soát đầu ra,
chất luợng chi tiêu theo mục tiêu của cơ quan hành chính; đổi mới hệ thống định mức
chi tiêu cho đơn giản hơn.
1.1.4. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về cải cách hành chính
Quan điểm về cải cách hành chính của Đảng và nhà nước ta đã được hình

thành và từng bước liên tục được bổ sung hoàn thiện. Khởi đầu là Đại hội Đảng lần
thứ VI của Đảng Cộng sản Việt nam (1986) đã mở ra một thời kì phát hiển mới có
tính chất bước ngoặc ở Việt nam, thời kì đổi mới toàn diện đất nước, lấy đổi mới kinh
tế làm trọng tâm, với mục tiêu dân giàu, nước manh, xã hội công bằng, vãn minh, đi
lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của cải cách là xây dựng “bộ máy nhà nước có đủ
năng
lực”. Tuy nhiên, cải cách bộ máy hành chính lúc đó thực chất vẫn chỉ được coi như
giải pháp tình thế.Chủ trương cải cách hành chính được Đảng cộng sản Việt nam đề
ra
năm 1991, khi nước ta còn đang ở trong tình hạng khủng hoảng kinh tế - xã hội
nghiêm trọng.
Từ năm 1994 chủ trương cải cách hành chính bắt đầu được tổ chức hiển khai
thực hiện, trong điều kiện công cuộc đổi mới đất nước đã giành được những thành
quả
bước đầu quan họng trên các mặt kinh tế, xã hội, chính trị, đối nội và đối ngoại.
Cải cách hành chính là công cuộc phức tạp có rất nhiều khó khăn vì nó động
chạm đến lợi ích cục bộ của các ngành, các địa phương, cũng như của bản thân đội
ngũ cán bộ công chức, trong khi thói nhũng nhiễu, quan liêu của cơ chế cũ chưa được
khắc phục.Vì vậy, cải cách hành chính đòi hỏi quyết tâm chính trị cao, phải kiên
quyết, khẩn trương song không thể đơn giản, nóng vội.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách hành chính được hình thành, phát
hiển và hoàn thiện qua các kì Đại hội của Đảng: Nghị quyết đại hội VII, Nghị quyết
Trung ương 8 (khóa VII) tháng 01 năm 1995 đánh dấu một bước phát hiển mới trong
nội dung định hướng cải cách hành chính ở Việt nam, Nghị quyết Đại hội VIII, Nghị
quyết Trung ương 3 ( khóa VIII ), Nghị quyết Trung ương 6, và Nghị quyết Trung
ương 7 tháng 7 năm 1999.

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

8


SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

Từ Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1991, cải cách bộ máy hành chính được xác
định là nhiệm vụ họng tâm trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị. Đồng thời, Đại
hội cũng xác định mục tiêu có tính chất chiến lược cho cả chặn đường 10 năm (19912000) là “đặt họng tâm cải cách nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là
xây dựng một hệ thống hành pháp và quả lý hành chính nhà nước thông suốt từ Trung
ương xuống cơ sở, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả”.
Sau Đại hội Đảng lần VII, từ năm 1992 đến 1996 là giai đoạn phát hiển mạnh
về tư duy, quan điểm, nhận thức của Đảng về nền hành chính Nhà nước và về cải cách
hành chính. Hội nghị Trung ương 8 khóa VII tháng 1 năm 1995 đánh dấu bước phát
hiển mới về xây dựng và phát hiển nền hành chính Nhà nước. Lần đầu tiên hệ thống
quan điểm của Đảng về cải cách hành chính được trình bày một cách rõ ràng, có hệ
thống trong Nghị Quyết Trung ương 8. Đó là cải cách thể chế hành chính, chấn chỉnh
tổ chức bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính, xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức.
Tiếp tục khẳng định cải cách hành chính là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước trong những năm trước mắt, Nghị Quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII nhấn mạnh yêu cầu tiến hành cải cách hành chính đồng bộ, dựa trên cơ sở
pháp luật, là một trong những giải pháp cơ bản để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu
của kế hoạch phát hiển kinh tế-xã hội 5 năm 1996-2000. Trong đó, bốn điểm bổ sung
quan họng trong cải cách được Nghị Quyết đề ra:
+ Phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp hành chính;
+ Tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hóa sự phân cấp quản lý Nhà nước giữa các cơ
quan của Chính phủ với cơ quan tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
+ Đổi mới chế độ công vụ và công chức;
+ Thành lập Tòa hành chính và thực hiện xã hội hóa một số hoạt đông dịch vụ

công.
Hội nghị lần thứ 3 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
(khóa VIII) họp tháng 6/1997 đã ban và ra Nghị Quyết phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước cộng hòa xã chủ nghĩa Việt Nam... Tiếp tục thực
hiện cải cách hành chính là một trong những chủ trương và giải pháp lớn được nhấn
mạnh trong Nghị quyết này. Neu như trước đó cải cách hành chính chủ yếu xuất phát từ
việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế và phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, tháo gỡ
khó khăn tạo môi trường cho các hoạt động kinh tế thì trong Nghị quyết này nhiệm vụ

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

9

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

cải cách không dừng lại ở đó mà cải cách hành chính còn là yêu cầu bảo đảm cho việc
thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị-xã hội, nhằm phát huy tốt hơn nữa, nhiều hơn
nữa quyền làm chủ của nhân dân.
Tiếp theo đó, Nghị quyết Trung uơng 6 và đặc biệt là Nghị quyết Trung uơng 7
tháng 8 năm 1999 ( khóa VIII) đã biểu thị mọi quyết tâm chính trị lớn về việc tiếp tục
tiến hành cải cách hành chính, đặt cải cách hành chính trong tổng thể của đổi mới hệ
thống chính trị.
Rồi Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) và chiến luợc phát hiển kinh tế - xã hội
giai đoạn 2001- 2010 bên cạnh việc khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính
nhà nuớc dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng buớc hiện đại hóa đua ra quan điểm,
định huớng về tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính.
Cải cách nền hành chính là một bộ phận đuợc đặt trong cải cách bộ máy nhà

nuớc, có mối quan hệ khăng khít với các bộ phận cấu thành nên hệ thống chính trị của
Việt nam. Các qua điểm và nguyên tắc cơ bản của Đảng về cải cách hành chính được
đặt trên nền tảng những quan điểm, phuơng huớng chung về xây dựng nhà nuớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Nhiều vấn đề lớn và cơ bản về cải cách hành chính phải xuất
phát từ nội dung xây dựng nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam và chi
phối mạnh bởi các yếu tố cầm quyền, mặc dù vẫn giữ tính độc lập tuơng đối.
Quán triệt những quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách hành chính, nhằm
xây dựng bộ máy nhà nuớc trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả
Chính phủ đã đề ra hàng loạt các chủ truơng, biện pháp để thực hiện cho phù hợp với
từng giai đoạn phát hiển của đất nước.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn, Chính phủ quyết định lựa chọn thủ tục hành
chính là “khâu đột phá” của công tác cải cách hành chính, bắt đầu bằng việc ban hành
Nghị quyết 38/CP ngày 4/5/1994 của Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính trong
việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức. Yêu cầu của Nghị quyết là phải đạt
được một bước chuyển biến căn bản trong quan hệ thủ tục giải quyết công việc giữa
các cơ quan nhà nước với nhau, giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và
công dân.
Theo đó, ngày 17/9/2003 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
136/2003/QĐ-TTg phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2001- 2010 với mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, theo

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

10

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre


nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lảnh đạo của Đảng;
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất năng lực đáp ứng yêu cầu của công
cuộc xây dựng và phát hiển đất nước; ngày 12/8/2003 Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định 139/2003/QĐ-TTg phê duyệt đề án, đổi mới phương thức, điều hành
và hiện đại hóa công sở của hệ thống nhà nước giai đoạn 2003-2005; ngày 4/9/2003
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 181/2003/QĐ-TTg về quy chế thực
hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và một số văn
bản liên quan đến việc thực hiện cơ chế “một cửa”.
Qua quá trình triển khai công tác cải cách hành chính, đến nay cải cách hành
chính vẫn tiếp tục là khâu họng tâm và ưu tiên hàng đầu trong chỉ đạo, điều hành của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên so với yêu cầu đề ra, công tác cải cách
hành chính vẫn còn bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém, tiến độ cải cách còn chậm,
hiệu quả thấp chưa đồng bộ.
Đe tiếp tục cải cách hành chính đồng bộ, sâu rộng và có hiệu quả hơn trên các
lĩnh vực mà trọng tâm và yêu cầu cấp bách là tập trung vào cải cách mạnh mẽ thủ tục
hành chính, tạo cho được chuyển biến căn bản trong quan hệ giữa các cơ quan hành
chính với công dân và tổ chức, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội; Thủ tướng Chính
phủ ra chỉ thị 09/2005/TC-TTg ngày 5/4/2005 về tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách
hành chính.
1.2. Thủ tục hành chính và cơ chế “một cửa”
1.2.1. Thủ tục hành chính
Trong quản lý, để giải quyết công việc cần phải tuân theo những quy trình thủ
tục phù hợp. Với nghĩa chung nhất, thủ tục là phương thức, cách thức giải quyết theo
một trình tự nhất định, một thể lệ thống nhất, gồm một loạt nhiệm vụ liên quan chặt
chẽ với nhau nhằm đạt được kết quả mong muốn. Trong hoạt động của cơ quan nhà
nước, thủ tục trước hết được hiểu là những trình tự được quy định và phải tuân theo
khi thực hiện việc công.
Theo quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động quản lý ở nước ta, hoạt
động chấp hành và điều hành (hành pháp) của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước

được thực hiện bằng hành động liên tục, theo một trình tự nhất định nhằm đạt được
mục đích quản lý đã đề ra. Đó là thủ tục quản lý hành chính nhà nước, được gọi là thủ
tục hành chính.

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

11

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

Nguyên tắc quản lý Nhà nuớc bằng pháp luật đòi hỏi hoạt động của Nhà nước
phải tuân theo những quy chế pháp lý quy định về trình tự, cách thức khi sử dụng
thẩm quyền của từng cơ quan để xử lý công việc mà ta gọi là những quy phạm thủ
tục. Các quy phạm thủ tục bao gồm: thủ tục lập pháp, thủ tục tố tụng tư pháp và thủ
tục hành chính. Trong hoạt động quản lý, Nhà nước sử dụng quyền lực đặc biệt để
điều chỉnh các quan hệ xã hội diễn ra hàng ngày. Vì vậy, những thủ tục hiệu quả nhất
là vô cùng cần thiết vì nó đảm bảo cho tiến trình hành chính không trì trệ hay cản trở,
có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện các lợi ích xã hội khác nhau.
Từ những nhận thức trên ta có thể hiểu, thủ tục hành chính là trình tự, cách
thức giải quyết công việc của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ừong mối
quan hệ nội bộ và giữa cơ quan hành chính Nhà nước với các tổ chức, công dân. Nó
giữ vai trò đảm bảo cho công việc đạt được mục đích đã định, phù họp với thẩm
quyền của các cơ quan nhà nước hoặc của cá nhân, tổ chức được ủy quyền thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước.
1.2.2. Cơ chế “một cửa”
I.2.2.I. Khái quát về cơ chế “một cửa”
Cơ chế “một cửa” về thực hiện thủ tục hành chính trong việc giải quyết công

việc của công dân, tổ chức được đề ra đầu tiên trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp của
nước ngoài tại Quyết định số 366/HĐBT ngày 7/11/1991 của Hội đồng bộ trưởng
(nay là Chính phủ) ban hành chế độ thẩm định các dự án có vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài.
Cơ chế “một cửa” và “một cửa tại chỗ” đã trở thành nguyên tắc trong hoạt
động của các ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất từ đó đến nay. Ke đến, thực
hiện Nghị quyết số 38/CP ngày 4/5/1994 của Chính phủ về cải cách một bước thủ tục
hành chính trong giải quyết công việc của công dân, tổ chức. Từ năm 1995, nhiều địa
phương đã chủ động thí điểm thực hiện theo mô hình “một cửa” hoặc là “một cửa,
một dấu”. Đi đầu trong lĩnh vực này là Thành phố Hồ Chí Minh, ủy ban nhân dân
Thành phố đã xây dựng đề án kèm theo công văn 2853/UB-NCVX ngày 27/9/1995 về
việc xin thí điểm tổ chức hoạt động của ủy ban nhân dân cấp quận, huyện tại một khu
hành chính theo mô hình “một cửa, một dấu” đối với ủy ban nhân dân quận 1, quận 5
và huyện Củ chi. Tiếp theo Thành phố, năm 1996, 1997 có thêm 4 tỉnh, thành phố là:

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

12

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

Được sự nhất trí của Thủ tướng Chính phủ, Ban chỉ đạo cải cách hành chính
của Chính phủ đã chỉ đạo Ban Thư ký tổ chức khảo sát và kiểm tra việc thực hiện thí
điểm Cơ chế “một cửa” tại một số tỉnh, thành phố để đề xuất phương án nhân rộng.
Tháng 6/2003, Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nội vụ
và Bộ Tài chính tổ chức hội nghị tổng kết thí điểm mô hình “một cửa”.
Căn cứ vào kết luận của Hội nghị tổng kết, Bộ Nội vụ xây dựng quy chế thực

hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương trình Thủ
tướng Chính phủ và đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số
181/2003/QĐ-TTg ngày 4/9/2003. Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, cơ chế
“một cửa” được thực hiện đối với tất cả cấp tỉnh, cấp huyện từ ngày 01/01/2004; đối
với cấp xã từ ngày 01/01/2005.
Khái niệm “cửa” trong quan hệ hành chính
Trong lĩnh vực hành chính Nhà nước, “cửa” được gắn liền với sự giao tiếp để
giải quyết các quan hệ hành chính giữa Nhà nước với công dân và giữa các cơ quan
Nhà nước với nhau. Đó là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch để thực hiện quan hệ
hành chính, được quy định thể chế về thẩm quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của các
bên cùng tham gia giao dịch (cơ quan có thẩm quyền với tổ chức, công dân).
“Một cửa” nghĩa đơn giản là sự đối lập với “nhiều cửa”. Nếu quá trình cho một
giao dịch hành chính Nhà nước, về bản chất chỉ cần có “một cửa” để thực hiện các
giao dịch giữa các bên (gồm giao dịch ban đầu và giao dịch cuối cùng), thì việc chia
ra thành nhiều cửa sẽ làm cho quá trình bị chia cắt, đứt khúc, phức tạp và lãng phí.

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

13

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

Sơ đồ 1.1: cơ chế “nhiều cửa ” trong giao dịch giải quyết quan hệ hành chỉnh.

Sơ đồ 1.2: cơ chể “một cửa ” trong giao dịch giải quyết quan hệ hành chỉnh.
Theo Quyết định 181/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/9/2003
về việc ban hành quy chế thực hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan hành chính Nhà

nước ở địa phương. “Một cửa” là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức, công dân
thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính Nhà nước từ tiếp nhận yêu cầu, hồ sơ đến
việc trả lại kết quả thông qua một đầu mối là “Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả” tại cơ
quan hành chính Nhà nước.
Việc thực hiện cơ chế “một cửa” nhằm đạt được bước chuyển căn bản trong
quan hệ và thủ tục giải quyết công việc giữa cơ quan hành chính Nhà nước với công
dân, tổ chức; giảm phiền hà cho người dân đồng thời chống tệ quan liêu, tham nhũng,
cửa quyền của cán bộ công chức; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước.
Cơ chế “một cửa” được áp dụng trong các cơ quan hành chính ở địa phương.
Cụ thể: ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (các Sở, Ban ngành,
Vãn phòng Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân); ủy ban nhân dân quận, huyện,
thành phố thuộc tỉnh; ủy ban nhân dân xã, phường, thị tran.

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

14

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

Thực chất, ở các địa phương thực hiện mô hình một cửa theo hướng tập trung
các đầu mối giải quyết thủ tục hành chính từ các phòng chuyên môn về các đầu mối
tại ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã...thành lập tổ “Tiếp nhận - Trả hồ sơ” và
thực hiện 3 công khai:
- Công khai các giai đoạn của từng thủ tục hành chính
- Công khai thời gian và quy trình giải quyết đối với từng loại hồ sơ
- Công khai lệ phí giải quyết hồ sơ
Như vậy, toàn bộ các khâu thụ lý, xử ký hồ sơ đều do nội bộ các cơ quan

chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân giải quyết với quy trình khép kín không liên quan
gì đến người dân và tổ chức.
I.2.2.2. Vai trò, ý nghĩa của cơ chế “một cửa”
Cơ chế “một cửa”như đã đề cập ở trên thực tế là một giải pháp được đề ra
trong quá trình cải cách thủ tục hành chính mà khởi đầu là ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau thời gian hiển khai thực hiện, nó đã thể hiện được tác động tích cực trong cải
cách nề hành chính Nhà nước.
Thứ nhất, việc thực hiện cơ chế “một cửa” tại ủy ban nhân dân các cấp đã góp
phần nâng cao năng lực hoạt động của ủy ban:
- Việc thực hiện cơ chế “một cửa” đòi hỏi phải rà soát lại hệ thống văn bản
quy
phạm pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Vì thế, nó đảm bảo tính họp
pháp và hợp lý của hệ thống thể chế được ban hành.
- Đối với cách tổ chức bộ máy của ủy ban: sắp xếp lại theo hướng tinh gọn,
hoạt động có hiệu quả bằng việc xác định rõ rang chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm giữa ủy ban với các phòng / ban chuyên môn. Việc chuyển cơ cấu phòng,
ban chuyên môn thành tổ chuyên viên theo bốn khối ngành: nội chính, kinh tế, văn
hóa-xã hội và quản lý đô thị nhằm tăng cường chức năng tham mưu giúp việc cho ủy
ban theo chuyên ngành, do lãnh đạo ủy ban nhân dân trực tiếp phụ trách. Đây là một
hướng đi đúng vì nó giúp cho việc tách chức năng cung cấp dịch vụ công ra khỏi chức
năng quản lý hành chính Nhà nước, bước đầu giảm bớt tình hạng không hay xảy ra
như trước đây.
- Đối với phương thức hoạt động của ủy ban: Lãnh đạo ủy ban, các phòng ban
chuyên môn không còn bị chi phối bởi công việc sự vụ như trước đây mà chú tâm vào
hoạt động quản lý Nhà nước. Thực hiện cơ chế “một cửa” mọi khâu phục vụ cho hoạt
động của ủy ban cũng như các phòng ban về một đầu mối tại Vãn phòng ủy ban nhân

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

15


SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

dân, đã giảm bớt các công việc trùng lắp như: văn thư-lưu trữ, tài chính kế toán... tạo
sự thuận lợi trong giải quyết công việc giữa các cơ quan trong bộ máy hành chính.
- Đối với đội ngũ cán bộ, công chức: Thực hiện cơ chế mới đòi hỏi mỗi người
phải tự hoàn thiện bản thân cả về trình độ, chuyên môn nghiệp vụ lẫn phẩm chất đạo
đức trong khi thi hành nhiệm vụ, đặc biệt trong giải quyết công việc với công dân và
tổ chức.
Thứ hai, cơ chế “một cửa” đã đem lại sự hài lòng cho công dân, tổ chức - đối
tượng được phục vụ
+ Các cơ quan hành chính đã lấy lại được lòng tin của dân đối với hoạt động
của mình vì đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của họ với một thái độ phục vụ công
tâm.
+ Sự công khai hóa mọi thủ tục hành chính, thời gian giải quyết và lệ phí đã
giúp mọi người dân có tâm hạng thoải mái khi đến cơ quan công quyền, giải tỏa được
sự vướng mắc do thiếu minh bạch thường xảy ra như trước đây. Đảm bảo mỗi người
dân đều có thể tham gia vào hoạt động giám sát và quản lý hành chính Nhà nước.
1.2.3. Cải cách thủ tục hành chính là “khâu đột phá” trong tiến trình cải cách
hành chính
Khi đề cập đến nhiệm vụ họng tâm năm 2009, Bộ trưởng Trần Văn Tuấn cho
biết: “Cải cách thủ tục hành chính được xác định là khâu đột phá”. Theo đó, Bộ Nội
vụ sẽ tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và thực hiện cơ chế “một cửa”,
“một cửa liên thông”. Cải cách hành chính luôn là một trong những nội dung quan
tâm hàng đầu trong hoạt động của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó, cải cách thủ tục
hành chính được xem như “khâu đột phá” với mục tiêu ban đầu được xác định khá rõ
ràng: “phải đạt được những chuyển biến căn bản trong quan hệ về thủ tục giải quyết

công việc của tổ chức, công dân”.
Hệ thống thủ tục hành chính thống nhất, đơn giản, phù hợp, rõ ràng, công khai
và thuận tiện cho việc kiểm tra của nhân dân, của các cơ quan chức năng, đảm bảo
hoạt động thông suốt của hệ thống cơ quan Nhà nước là sự thể hiện một nền hành
chính phát triển. Trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp nền hành chính truyền
thống của ta tỏ rõ sự bất cập trong hoạt động quản lý, nhất là trong mối quan hệ giữa
cơ quan nhà nước với công dân, tổ chức. Mọi sự biến đổi đều nhằm mục đích tạo
thuận lợi cho cơ quan nhà nước và công dân, tổ chức là đối tượng chịu sự quản lý chặt
chẽ của Nhà nước chủ yếu bằng các mệnh lệnh hành chính áp đặt. Hiện nay, với nền

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

16

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

hành chính phát hiển ở nhiều nước thì cải cách nền hành chính nước ta là tất yếu vì
mục tiêu hoạt động của bộ máy Nhà nước ta không chỉ là hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước mà còn nhằm phục vụ tốt nhất mọi nhu cầu của người dân.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn, Chính phủ đã chọn cải cách thủ tục hành
chính
là “khâu đột phá” trong tiến trình cải cách bằng việc ban hành Nghị quyết 38/CP ngày
4/5/1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính trong giải quyết công việc giữa cơ
quan nhà nước với nhau và giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân, tô chức.
Nghị quyết hội nghị lần 8 ban chấp hành trung ương đảng cộng sản việt nam
nêu rõ: ‘Toại bỏ nhưng khâu xin phép, xét duyệt không cần thiết, giảm phiền hà, ngăn
chặn tệ cửa quyền, sách nhiễu, tham nhũng, hối lộ, vi phạm pháp luật, lập lại trật tự

trong việc ban hành thủ tục hành chính và quy định lệ phí”.
Sau hơn 10 năm thực hiện cải cách với những kết quả đạt được, một lần nữa
cho phép ta khẳng định sự lựa chọn trên là vô cùng đúng đắn, phù hợp với điều kiện,
nhu cầu cải cách hành chính nước ta. Với những lý do:
Thứ nhất, trong một thời gian dài trước cải cách, thủ tục hành chính của ta thể
hiện nhiều hạn chế:
+ Nặng nề, nhiều cửa, nhiều cấp trung gian không cần thiết, không rõ ràng về
trách nhiệm;
+ Đòi hỏi quá nhiều giấy tờ gây phiền hà cho nhân dân;
+ Trì trệ, không phù hợp với yêu cầu phát hiển trong tình hình mới;
+ Thiếu thống nhất, thường bị thay đổi một cách tùy tiện;
+ Thiếu tính công khai, minh bạch.
Thứ hai, thủ tục hành chính là cầu nối giữa cơ quan hành chính nhà nước với
công dân, tổ chức. Một khi hệ thống thủ tục được ban hành phù họp với nguyện vọng,
nhu cầu của công dân, tổ chức sẽ làm lòng tin của họ vào cơ quan hành chính Nhà
nước; đó là điều mà bất kì một nề hành chính ở bất cứ quốc gia nào cũng cần hướng
đến. Và ở đây, khâu đột phá trong cải cách đã góp phần thực hiện mục tiêu trên.
Thủ ba, thủ tục hành chính là mảnh đất dung túng những thói quan liêu, sách
nhiễu dân của một bộ phận cán bộ công chức. Vì thế, khi được cải cách sẽ gạt bỏ đi
những căn bệnh xấu trong cơ quan hành chính, làm cho bộ máy Nhà nước trong sạch,
vững mạnh.
Thứ tư, trong nội bộ các cơ quan hành chính nhà nước luôn có mối quan hệ
họp tác, phối hợp với nhau trong giải quyết công việc. Một hệ thống thủ tục rườm rà,

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

17

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt



LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

phức tạp, không minh bạch sẽ làm cho công việc bị trì trệ, hiệu quả quản lý không
cao. Nhu vậy, những kết quả đạt được của cải cách thủ tục hành chính hên từng lĩnh
vực chính là biểu hiện cụ thể sự chuyển động chung của toàn bộ máy Nhà nước trong
quá trình thực hiện cải cách.

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

18

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

CHƯƠNG 2
THựC TRẠNG VỀ THựC HIỆN

2.1. Tồng quan về Bến Tre
2.1.1. Điều kiện kỉnh tế-xã hội
Tỉnh Bến Tre nằm ở phía Đông Đồng bằng sông Cửu Long, tiếp giáp biển
Đông và các tỉnh Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long và cách Thành phố Hồ Chí Minh
87 km. Bến Tre có diện tích tự nhiên là 2.322km 2 gồm ba cù lao (cù lao Minh, cù lao
Bảo và cù lao An Hóa) do phù sa của bốn nhánh sông Cửu Long bồi đắp qua nhiều
thế kỷ; bờ biển dài 60km, vùng lảnh hải rộng khoảng 20.000 km 2. Dân số của toàn
tỉnh là 1.401.600 người, mật độ dân số trung bình 604 người/km2.
Cơ cấu dân số thành thị - Nông thôn là 47% - 53% (số liệu tháng 02/2009)
về hành chính, Bến Tre gồm có: một thị xã Bến Tre là trung tâm hành chính,

kinh tế, văn hóa của tỉnh và 7 huyện (Bình Đại, Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri,
Mỏ
Cày, Thạnh Phú, Chợ Lách ) với 160 xã, phường, thị trấn.
Bến Tre có truyền thống lịch sử và cách mạng, là quê hương của Phong trào
Đồng khởi, mở đầu cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước tiến lên
xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Tuy có vị trí quan họng trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long và được cả
nước biết đến, thể nhưng Ben Tre còn gặp nhiều khó khăn: sức thu hút đầu tư và
nguồn lực cho phát triển thấp. Tỉnh đã đề ra chiến lược phát hiển kinh tể - xã hội 2001
đến 2010 với các mục tiêu sau: “Phát hiển nhanh nền kinh tế; phá thế biệt lập của tỉnh
cù lao trong nội tỉnh về các mặt giao thông, điện, nước, bưu chính viễn thông, giáo
dục và y tế; hình thành các vùng chuyên canh, khu, cụm công thương nghiệp, mặt
hang họng điểm; chuyển đổi một bước quan trọng trong cơ cấu kinh tế chuẩn bị tăng
tốc phát hiển sau năm 2010; phát hiển nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ cho
yêu cầu trước mắt và cho phát triển bền vững; tiếp tục đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo
và xóa nạn mù chữ; giải quyết lao động và việc làm, nâng cao trình độ dân trí và chất
lượng cuộc sống cho dân cư.
Chiến lược phát hiển kinh tể - xã hội giai đoạn 2006 - 2010 là tập trung phát
hiển mạnh công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ. Đen năm 2010, cơ cấu

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

19

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

kinh tế của tỉnh sẽ là: nông lâm thủy sản 45%, công nghiệp xây dựng 27% và dịch vụ

28%.
Đe đạt mục tiêu hên, tỉnh sẽ tập trung ưu tiên đẩy mạnh đầu tư phát hiển kết
cấu hạ tầng, giao thông, điện nước, bưu chính viễn thông, ban hành chính sách ưu đãi,
tạo môi trường đầu tư thông thoáng và tập trung thực hiện các cam kết với nhả đầu tư;
tập trung xây dựng các khu- cụm công nghiệp đã quy hoạch. Nâng cao dân trí, chăm
lo đào tạo nguồn nhân lực, thu hút nhân tài và đặc biệt là đẩy mạnh hơn nữa công tác
cải cách hành chính.
Tỉnh Ben Tre là một trong những địa phương thực hiện sớm nhất việc triển
khai đồng loạt cơ chế “một cửa” tại tất cả các cơ quan hành chính cấp huyện và cấp

vào năm 2003. Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh rất quan tâm và thường xuyên chỉ đạo
việc thực hiện cải cách hành chính tại các đơn vị, địa phương trong tỉnh. Đen nay,
tỉnh
đã đạt được nhiều thành quả nhất định trong việc thực hiện cải cách hành chính.
Song,
chúng ta cần đi sâu phân tích ở từng khía cạnh, từng nội dung cải cách hành chính
được thực hiện ở cấp các thì vẫn còn nhiều vấn đề cần bàn để tìm ra giải pháp hữu
hiệu duy tri và nâng cao chất lượng công tác này.
Tỉnh Bến Tre coi cải cách hành chính là một điều kiện quan họng để thực hiện
thành công chiến lược phát hiển kinh tế - xã hội. Tỉnh đã đi đầu thực hiện khoán biên
chế và chi phí hành chính, áp dụng cơ chế “một cửa” ở ba cấp chính quyền. Tuy
nhiên, việc thực hiện cải cách hành chính của tĩnh vẫn còn nhiều khó khăn về nguồn
lực, chưa đầu tư vào các khâu đột phá, thủ tục hành chính còn phức tạp, tổ chức bộ
máy chưa đồng bộ, kỷ luật hành chính còn chưa nghiêm; một bộ phận cán bộ công
chức còn hạn chế về trình độ và năng lực.
Khắc phục những hạn chế, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của bộ máy hành chính nhằm đáp ứng nhiệm vụ phát hiển kinh tế - xã hội,
ủy ban nhân dân tỉnh đã đề ra định hướng cải cách hành chính trong thời gian tới là:
“Nâng cao năng lực hoạt động, hiệu lực, hiệu quả trong việc điều hành kinh tế- xã
hội;

an ninh - quốc phòng; tạo môi trường thuận lợi thu hút các nguồn đầu tư và khuyến
khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh. Kiện toàn tổ
chức, tinh giản biên chế trong các cơ quan hành chính sự nghiệp; xác định rõ chức

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

20

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ tận tụy phục vụ
nhân dân; khắc phục tệ quan liêu, xa rời nhân dân.
2.1.2. Phòng cải cách hành chính
Theo quyết định số 2612/QĐ - UB ngày 8/8/2005 về việc thành lập Phòng cải
cách hành chính thuộc Sở Nội Vụ tỉnh Ben Tre hên cơ sở tách ra từ Bộ phận chuyên
trách cải cách hành chính của Ban chỉ đạo cải cách hành chính tỉnh.
Phòng cải cách hành chính là một bộ phận của Sở Nội Vụ tỉnh Ben Tre, Phòng
giúp Sở Nội vụ tỉnh trong công tác cải cách hành chính của tỉnh: cải cách thủ tục hành
chính; thực hiện cơ chế “một cửa” từ các Sở, Ban, Ngành tỉnh xuống các xã trong
toàn tỉnh; cải cách tài chính công; vấn đề khoán biên chế và kinh phí quản lý Nhà
nước; phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra, tổng kết việc thực hiện các văn bản của Trung
ương và tỉnh xuống các địa phương trong toàn tỉnh. Phòng cải cách hành chính chịu
sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Sở Nội vụ về biên chế và công tác hoạt động trong
các lĩnh vực mà Phòng phụ trách.
về nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng:
+ Theo dõi, kiểm tra việc thực hiện vấn đề cải cách hành chính từ các Sở, Ban,
Ngành của tỉnh đến tận các xã;

+ Giúp ủy ban tỉnh, Sở Nội vụ thực hiện các Quyết định, Chỉ thị của Trung
ương về cải cách hành chính;
+ Tham mưu cho ủy ban nhân dân tỉnh về những công việc có liên quan đến
cải cách hành chính;
+ Tham mưu cho ủy ban nhân dân tỉnh trong việc ký kết, thực hiện các dự án
của tỉnh bạn, của nước ngoài về vấn đề cải cách hành chính.
về cơ cấu tổ chức của Phòng cải cách hành chính:
Cơ cấu tổ chức của Phòng gồm có 01 Phó Giám đốc quản lý lĩnh vực cải cách
hành chính, 01 Trưởng phòng và các chuyên viên.
Phó Giám đốc: phụ trách chung về vấn đề cải cách hành chính
Trưởng phòng: quản lý trực tiếp các vấn đề của Phòng, tham mưu cho Phó
Giám đốc trong các vấn đề chuyên môn của Phòng
Các chuyên viên: đảm nhận từng lĩnh vực riêng được phân công, chịu sự chỉ
đạo trực tiếp của Trưởng phòng và Phó Giám đốc, các chuyên viên phải có mối quan
hệ phối họp lẫn nhau.

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

21

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

Phó giám đốc
(Phụ trách cải cách
hành
chính)


________í__________
Trưởng phòng cải cách

-> Chuyên viên

Chuyên viên

Sơ đồ 2.1: Cơ cẩu tổ chức của phòng cải cách hành chỉnh
Là một Phòng mới được thành lập không lâu. Tuy vẫn còn nhiều khó khăn
song Phòng cải cách hành chính đã từng bước khẳng định vai trò chủ đạo của mình
trong việc thực hiện vấn đề cải cách hành chính hên địa bàn tỉnh, đóng góp vào công
cuộc cải cách hành chính của cả nước nói chung và của Ben Tre nói riêng.
2.1.3.
Công tác chuẩn bỉ thưc hiên cơ chế “môt cửa” ở tỉnh Bến Tre
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ 8 (khóa VII), Nghị quyết số 38/CP của Chính phủ, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh Bến Tre lần thứ VII và chương trình cải cách hành chính năm 2001-2010. Thực
hiện Quyết định sốl36/2001/QĐ-TTg phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành
chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010; thực hiện Định hướng cải cách hành chính
2001-2005 của ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre; thực hiện Quyết định 181/QĐ-TTg
ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế
“một cửa” tại cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương.

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

22

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt



LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

+ Ngày 17/9/2001 ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre thông qua định hướng cải
cách hành chính 2001-2005 và Chương trình cải cách hành chính 2001-2003 về thủ
tục hành chính.
+ Ngày 17/12/2001TM tướng Chính phủ ra Quyết định sốl92/2001/QĐ-TTg
về “mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ
quan quản lý hành chính Nhà nước”. Trên cơ sở đó, ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre ra
Quyết định số 1102/QĐ-UB ngày 23/3/2002 phê duyệt đề án khoán biên chế và kinh
phí đồng loạt cho các cơ quan hành chính Nhà nước cấp tỉnh. Để phát huy kết quả đạt
được, ngày 01/6/2004, ủy ban nhân dân tỉnh tiếp tục thực hiện khoán biên chế và kinh
phí cho các cơ quan Đảng, Đoàn thể tỉnh, huyện và các cơ quan, Đoàn thể, chính
quyền cấp xã, phường, thị trấn. Và đến tháng 6/2005 đã thực hiện khoán biên chế và
kinh phí ở cả ba cấp tỉnh, huyện, xã.
+ Ngày 25/03/2002 ủy ban nhân dân tình Bến Tre đã ra Quyết định số
1101/2002/QĐ-UB về việc phê duyệt Đề án cải cách thủ tục hành chính theo mô hình
“một cửa” tại các huyện, thị xã Ben Tre. Tiến hành đưa vào thực hiện “một cửa”ở các
lĩnh vực sau: nhả đất, đăng ký kinh doanh, tư pháp, vãn hóa-thể dục thể thao.
+ Ngày 02/12/2003 ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre đã ra Chỉ thị số 14 về việc
tăng cường sự lảnh đạo của ủy ban nhân dân các cấp, sở, ngành, tỉnh đối với công tác
cải cách hành chính hên địa bàn tỉnh Ben Tre.
+ Ngày 22/9/2004 ủy ban nhân dân tinh Ben Tre đã ra Công vãn số 1704/CVUB về việc chỉ đạo cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” ở các sở,
ngành, tỉnh.
Khi có chương tình tổng thể của Trung ương, tỉnh xây dựng chương trình cải
cách hành chính 5 năm (năm 2001 - 2005). Quyết định 181 của Thủ tướng Chính phủ
về việc thực hiện cơ chế "một cửa" đã phân ra cấp tỉnh, huyện thực hiện vào năm
2004, cấp xã, phường năm 2005 nhưng Chỉ thị 14 của tỉnh yêu cầu các cấp từ tỉnh đến
xã phải hiển khai thực hiện trong năm 2004. Như vậy, so với quy định trung ương,
tỉnh làm đại trà trước 1 năm đối với cấp xã, phường và gần 2 năm đối với cấp huyện.
Công tác cải cách hành chính giai đoạn I (2000-2005) của tỉnh hiển khai và tổ

chức thực hiện đạt được nhiều tiến bộ, góp phần đáng kể cho việc thu hút đầu tư, thúc
đẩy kinh tế, xã hội địa phương phát hiển. Tuy nhiên thời gian qua vẫn còn một số tồn
tại hạn chế cần sửa chữa, khắc phục như:

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

23

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

+ Nhận thức về nội dung của cải cách hành chính không đầy đủ, vận hành cơ
chế “một cửa” chưa đúng nguyên tắc.
+ Công khai các thủ tục hành chính không rõ ràng.
+ Giải quyết hồ sơ, thủ tục vẫn còn trễ hẹn, công dân và tổ chức phải đi lại
nhiều lần, tốn thời gian, nhất là hên lĩnh vực đất đai, xây dựng. Một số địa phương
nhận hồ sơ, thủ tục nhưng không có phiếu hẹn hoặc tự đặt ra những qui định riêng.
+ Tình hạng đùn đẩy, nhũng nhiễu, cửa quyền vẫn còn xảy ra, đạo đức nghề
nghiệp trong thi hành công vụ chưa tốt.
Những việc tồn tại, thiếu sót này gây nhiều phiền hà, làm cản trở công việc,
mất thời gian của tổ chức, công dân, ảnh hưởng đến quá trình cải cách hành chính và
phát triển chung của địa phương. Bên cạnh đó, việc lãnh đạo điều hành công tác cải
cách hành chính của một số đơn vị, địa phương chưa thật sự tập trung nên hiển khai,
tổ chức thực hiện chưa đến nơi, đến chốn, vẫn còn tình hạng thiếu chương trình, kế
hoạch năm về công tác, cải cách hành chính nhất là ở cấp cơ sở. Lề lối làm việc thiếu
khoa học, không xây dựng quy chế hoặc có qui chế nhưng không thực hiện theo. Việc
phân công, giao việc không rõ ràng, không cụ thể. Công tác kiểm tra, đôn đốc chưa
được quan tâm thường xuyên; chế độ thông tin, báo cáo thực hiện không nghiêm.

Trước tình hình trên, cần phải có một giải pháp có tính khả thi để việc thực
hiện cơ chế “một cửa” được hoàn chỉnh hơn. Theo đó, Đề án số 28/ĐA-UBND ngày
04/01/2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về cải cách hành chính giai đoạn 2006-2010.
Ngày 2-7-2007, Chủ tịch ủy ban nhân dân tinh ra Chỉ thị số 15/2007 về việc
tăng cường công tác cải cách hành chính giai đoạn II (2006-2010).
Quán hiệt Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 và Nghị quyết 53/NQ-CP
ngày 07/11/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực, hiệu quả quản
lý của bộ máy Nhà nước; tỉnh ủy cho ra đời Chương trình hành động số 17-CTr/TU
ngày 17/10/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực, hiệu quả quản
lý của bộ máy Nhà nước.
Kế hoạch số 154/KH-UBND ngày 10/01/2008 của ủy ban nhân dân tinh về
đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà
nước. Theo đó, ủy ban nhân dân tỉnh chỉ thị các ngành, các cấp thực hiện tốt một số
công việc gồm:
- Tăng cường việc lãnh đạo, điều hành thực hiện công tác cải cách hành chính
giai đoạn II (2006-2010) của tỉnh.
GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

24

SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


LVTN: Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” ở tỉnh Bến Tre

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về cải cách hành chính
sâu rộng trong nội bộ và nhân dân.
- Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; đặc biệt
chú họng tính kỹ luật, kỹ cương trong hoạt động hành chính nhà nước, đề cao tinh
thần hách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, tác phong, lề lối làm việc và kỹ năng hoạt

động của cán bộ, công chức.
- Rà soát các thủ tục hành chính, cương quyết loại bỏ hoặc kiến nghị loại bỏ
những thủ tục không cần thiết, không còn phù hợp.
- Nghiêm cấm việc tự đặt ra những thủ tục trái với qui định.
- Giải thích và trả lời những yêu cầu chính đáng của công dân và doanh nghiệp
trong việc giải quyết hồ sơ, thủ tục.
- Tập trung thực hiện tốt đề án đơn giản hóa các thủ tục hành chính hên các
lĩnh vực theo Quyết định số 30/QĐ-TTg, ngày 10-1-2007 của Thủ tướng Chính phủ.
Những nơi đã thực hiện cơ chế “một cửa” cần nâng cao chất lượng hoạt động,
đồng thời đưa thêm lĩnh vực khiếu nại, tố cáo, chính sách xã hội, hộ khẩu vào giải
quyết theo cơ chế này. Việc vận hành cơ chế phải đúng nguyên tắc, đúng qui trinh,
đúng cam kết đã công bố. Giải quyết thủ tục hành chính tại bộ phận “một cửa” với
tinh thần: công khai, minh bạch, nhanh chóng, thuận tiện và đúng pháp luật. Cuối năm
2007, tất cả các cơ quan hành chính Nhà nước tại địa phương phải áp dụng cơ chế
“một cửa”.
ủy ban nhân dân các cấp, Thủ trưởng các sở, ban, ngành cấp tỉnh tiến hành
củng cố, kiện toàn Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của địa phương, đơn vị mình;
từng nơi xây dựng chương trình, kế hoạch cải cách hành chính và qui chế làm việc, có
phân công giao việc cụ thể, có qui định thời gian. Chậm nhất đến hết quí III-2007,
mỗi huyện, thị phải chọn một xã, thị trấn, phường làm điểm thực hiện công tác cải
cách hành chính và báo cáo về Thường trực Ban Chỉ đạo cải cách hành chính tỉnh (Sở
Nội vụ) để theo dõi, hướng dẫn thực hiện. Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo, chế độ
thanh tra, kiểm tra.
- Tiến hành báo cáo công tác cải cách hành chính từng năm. Từ đó rút ra
những
kinh nghiệm, những tồn đọng và đặt ra phương hướng, nhiệm vụ cho năm tiếp theo.

GVHD: Th.s. Võ Duy Nam

25


SVTH: Bùi Thị Thu Nguyệt


×