Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.78 KB, 53 trang )

MỤCĐẠI
LỤCHỌC CẦN THƠ
TRƯỜNG
Trang
KHỎA LUẬT
SOCA
LỜI MỞBộ
ĐẰU................................................................................................1
MÔN LUẬT KINH DOANH THƯƠNG MẠI
-

Lý do chon đề tài..................................................................................................1

-

Đối tượng nghiên cứu.........................................................................................2

-

Mục tiêu nghiên cứu...........................................................................................2

-

Phạm vi nghiên cứu............................................................................................2

-

Phưomg phápLUÂN
nghiênVÃN
cứu...................................................................................2
TỐT NGHIÊP cử NHÂN LUÃT


•••
Cấu trúc của luận văn..........................................................................................3
NIÊN KHÓA: 2005-2009
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VÈ DOANH NGHIỆP LÂM VÀO

-

TÌNH

DÊ TÀI :
TRẠNGXÁC
PHÁĐỊNH
SẢN VÀ
NGHĨA
VIỆCNGHIỆP
XÁC ĐỊNH TÀI
TÀIÝSẢN
CỦACỦA
DOANH
SẢN

LAM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN

CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN................4
1.1..............................................Khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
..............................................................................................................................4
1.2........................Cách xác định thời điểm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
..............................................................................................................................6
1.3.


Sự cần thiết của việc xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản................................................................................................11
Giáo viên hướng dẫn:
Sinh viên thưc hiên;
TS. CHƯƠNG
DƯ NGỌC2:BÍCH
ĐẶNG
THỊ YẾN
TRINH
XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CỦA
DOANH
NGHIỆP
LÂM VÀO
MSSV: 5054980
TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN...........................................................................13
LỚP: Luật Thương mại 02-31

2.1...................Vấn đề xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
............................................................................................................................13
2.2.

Những nguyên tắc và cách thức xác định tài sản của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản..................................................................................15
Cần Thơ, 4/2009


2.2.2. Các khoản lợi nhuận, các tài sản và quyên vê tài sản mà doanh
nghiệp sẽ có do việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi Tòa án
thụ lý đon yêu càu mở thủ tục phá sản........................................................23
2.2.3. Tài sản là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp.

Trường hợp thanh toán tài sản là vật bảo đảm được trả cho các chủ
nợ

bảo

đảm, nếu giá trị của vật bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm
phải thanh
toán thì phần vượt qua đó là tài sản của doanh nghiệp...............................23
2.2.4.......................................................................................................................... Gí
a trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp................................................................26
2.2.5. Số tiền còn lại của doanh nghiệp đã ưả trước tiền thuê nhưng chưa
hết thời hạn thuê trong trường hợp doanh nghiệp bị áp dụng thủ tục
thanh



tài sản

28

2.2.6. Tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh không
trực tiếp dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh.....................................28
2.2.7. Những tài sản thu hồi từ giao dịch vô hiệu..................................................32
2.2.8. Tài sản, quyền tài sản có thể hình thành trong khoảng
thời

gian

từ


khi Tòa án thụ lý đom yêu cầu mở thủ tục phá sản đến thời điểm
Tòa án ra
quyết định đình chỉ thanh lý tài sản phá sản...............................................34
2.2.8.1.
khoảng

Tài sản, quyền tài sản có thể hình thành trong
thời

gian từ khi Tòa án thụ lý đom yêu cầu mở thủ tục phá sản đến thời
điểm có
quyết định mở thủ tục phá sản....................................................................35
2.2.8.2. Tài sản, quyền tài sản có thể hình thành từ thời điểm mở thủ


Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
LỜI MỞ ĐẰU

Lý do chon đề tài:
Phá sản trong nền kinh tế thị trường là hiện tượng tất yếu của quá trình cạnh
tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên để loại bỏ các doanh nghiệp yếu kém, khẳng định
sự tồn tại và phát triển đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Đối với một doanh
nghiệp cụ thể, có thể vì nhiều lý do như: xác định phương hướng đầu tư, lựa chọn
ngành nghề đầu tư không đúng hoặc gặp phải sự cố, rủi ro trên thương trường... dẫn
đến tình trạng kinh doanh gặp phải khó khăn, thua lỗ thì việc phá sản được coi là một
cơ hội để doanh nghiệp rút ra khỏi thương trường một cách có trật tự để có điều kiện
tìm kiếm một cơ hội kinh doanh khác. Với tinh thần đó thì phá sản là càn thiết cho sự
phát triển, phá sản để phát triển chứ không phải phá sản là mất đi. Ra đời, hoạt động,
phá sản doanh nghiệp là một quá trình gắn kết với nhau. Quá trình này không thể nằm
ngoài sự điều chỉnh của pháp luật. Nước ta xây dựng một nền kinh tế thị trường theo

định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước cũng có nghĩa là phải chấp
nhận các thuộc tính, quy luật vốn có của nó, trong đó có vấn đề phá sản. Trước yêu cầu
đó, pháp luật về phá sản ở Việt Nam với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống
pháp luật kinh tế đã được hình thành là một tất yếu khách quan. Mốc quan trọng đánh
dấu cho sự hình thành pháp luật phá sản Việt Nam là Luật phá sản doanh nghiệp được
Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30/12/1993, có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/1974. Đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên để điều
chỉnh trình tự, thủ tục phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên,
trong mười năm thực hiện Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 đã bộc lộ nhiều khiếm
khuyết. Luật phá sản năm 2004 ra đời tưởng chừng như đã khắc phục được những hạn
chế của Luật phá sản doanh nghiệp 1993. Thế nhưng sau bốn năm thi hành, năm 2008
số lượng các vụ việc phá sản được thụ lý vẫn ở mức rất khiêm tốn, tổng cộng chỉ có
136 đơn. Điều này không có nghĩa là tất cả doanh nghiệp ở nước ta hoạt động kinh
doanh không bị thua lỗ mà phản ánh rằng có rất nhiều doanh nghiệp đang lâm vào tình
trạng phá sản nhưng ngay cả doanh nghiệp mắc nợ và cả chủ nợ lo ngại một khi yêu
cầu tuyên bố mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp thì quyền lợi của mình có được
bảo đảm một cách tốt nhất. Đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì doanh
nghiệp lo ngại phạm vi khối tài sản của mình có được xác định một cách chính xác và
đày đủ. Còn đối với chủ nợ thì sợ rằng số tài sản còn lại của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản không được xác định một cách toàn diện để thanh toán nợ.

GVIID: TS. Dư Ngọc Bích

SVTH: Đặng Thị Yến Trinh


Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Vì vậy, việc xác định phạm vi khối tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản có ý nghĩa rất quan trọng vì nó không
chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi tối đa của các chủ nợ và các bên có liên quan mà còn có ý

nghĩa lớn trong việc quyết định phương hướng giải quyết một vụ việc phá sản cụ thể.
Nó là căn cứ để xác định một doanh nghiệp đã thật sự lâm vào tình trạng phá sản hay
chưa và tình trạng phá sản của doanh nghiệp đó ra sao, từ đó sẽ chi phối việc lựa chọn
thủ tục tố tụng phù họp (nếu Tòa án xác định được rằng, tài sản của con nợ không còn
hoặc còn nhưng không đáng kể thì Tòa án có thể tuyên bố ngay con nợ bị phá sản và
chấm dứt vụ việc mà không phải tiến hành bất cứ một thủ tục pháp lý nào khác). Bên
cạnh đó, việc xác định này nhằm đánh giá sự cần thiết áp dụng các biện pháp bảo toàn,
quản lý tài sản của doanh nghiệp trong trình tự tố tụng.
Đối tưomg nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu vấn đề xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản.
Muc tiêu nghiên cứu:
Luận văn phân tích, đánh giá vấn đề xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản, khối tài sản của doanh nghiệp được xác định dựa theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành (bao gồm tài sản quy định tại Điều 49, Điều 43 của Luật
Phá sản năm 2004) và tài sản phát sinh từ khi Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản đến thời điểm Tòa án quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản. Từ đó, đưa ra
những hạn chế của việc xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
theo quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng. Đồng thời, đưa ra một số
giải pháp phục vụ cho việc hoàn thiện pháp Luật Phá sản nhằm xác định tài sản của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Pham vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về việc xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản theo quy định của pháp luật hiện hành và cả những tài sản có thế phát
sinh từ thời điểm Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến thời điểm Tòa án ra
quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản.
Phưomg pháp nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phân tích tài liệu, tổng
hcrp, so sánh, thống kê vụ việc phá sản từ năm 2005-2008.


GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

2

SVTH: Đặng Thị Yến Trinh


Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Cấu trúc của luân văn:
Nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và ý nghĩa của
việc xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Chương 2: Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Chương 3: Những hạn chế của việc xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản và một số giải pháp hoàn thiện pháp Luật Phá sản nhằm xác định tài
sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
“Xác định tài sản lâm vào tình trạng phá sản” là một đề tài tương đối hẹp và
khó. Mặc dù bản thân em đã rất nổ lực để hoàn thành luận văn một cách tốt nhất, song
do sự hiểu biết của em còn hạn chế nên chắc chắn không thể tránh khỏi những sai sót
trong bài viết của mình. Vì vậy, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy (cô) và
các bạn để luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em xin chân thành cám ơn cô Dư Ngọc Bích
đã giúp đỡ nhiệt thành cho em để em được hoàn thành luận văn của mình một cách tốt
nhất.

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

3

SVTH: Đặng Thị Yến Trinh



Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
CHƯƠNG1
KHÁI QUÁT VÈ DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN VÀ Ý
NGHĨA CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO

TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN
1.1.

KHÁI NIỆM DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN
Luật Phá sản năm 2004 áp dụng đối với doanh nghiệp, họp tác xã được thành

lập và hoạt động theo quy định của pháp luật. Chính phủ quy định cụ thể danh mục và
việc áp dụng Luật này đối với doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an
ninh; doanh nghiệp, họp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm
và trong các lĩnh vực khác thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích
thiết yếu.
về tiêu chí xác định doanh nghiệp, họp tác xã lâm vào tình trạng phá sản Điều 3
Luật Phá sản năm 2004 quy định: "Doanh nghiệp, họp tác xã không có khả năng thanh
toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá
sản".
Đây là khái niệm cực kỳ quan trọng của pháp luật phá sản. Theo tác giả Nguyễn
Tấn Hơn, định nghĩa phá sản “có lẽ là khó nhất đối với các nhà lập pháp”. Tùy thuộc
vào định nghĩa này trong pháp luật phá sản của mỗi quốc gia mà sự can thiệp của Nhà
nước vào hiện tượng phá sản sớm hay muộn, lập trường của Nhà nước nghiêng về bảo
vệ lợi ích của ai nhiều hơn: chủ nợ hay con nợ.
Trong Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 khái niệm này dường như được xây
dựng trên cơ sở kết họp một cách mỹ mãn tiêu chí định lượng và tiêu chí định tính.
Tính định lượng thể hiện ở quy định về việc chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố

phá sản nếu con nợ không trả nợ sau thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày đòi nợ, quy
định về thời hạn ba tháng nợ lương liên tiếp với người lao động. Tính định tính còn thể
hiện ở quy định về những tài liệu cần thiết mà con nợ phải gửi cho Tòa án sau khi Tòa
án thụ lý đơn yêu càu giải quyết tuyên bố phá sản để Tòa án đánh giá tổng số nợ và
tổng tài sản của con nợ như danh sách chủ nợ kèm theo số nợ, báo cáo về tình trạng tài
chính, tài sản và khả năng thanh toán nợ của con nợ... Khái niệm phá sản còn phải gắn
với lý do khó khăn, thua lỗ trong hoạt động kinh doanh hoặc lý do bất khả kháng. Với
khái niệm như vậy, trên thực tế các chủ nợ sẽ không bao giờ thực hiện được quyền nộp
đơn yêu cầu tuyên bố phá sản đối với con nợ của mình bởi lẽ họ phải chứng minh là
con nợ thua lỗ trong hoạt động kinh doanh. Chủ nợ chỉ có thể chứng minh là con nợ đã


1 Đặng Văn Thanh - Dấu hiệu xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản - Tạp chí Nghiên cứu
lập phap, sốXác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
7/ 2004,
trang 18
2Nguyễn
Thái
Phúc
luật phá sảntrễ hạn thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ, còn vì sao con nợ trễ hạn thanh toán - không 2004những tiến bộ

hạn
trả nợ thì chủ nợ có thể không biết mà cũng không cần biết. Những thông tin này thuộc
chế phạm vi bí mật kinh doanh của con nợ và chỉ có thế xác định trên cơ sở sổ sách kế toán
của con nợ. Điều này hoàn toàn ngoài khả năng của chủ nợ.
Luật Phá sản năm 2004 (Điều3) khi đưa ra khái niệm phá sản đã đoạn tuyệt với
nguyên nhân khó khăn, thua lỗ trong hoạt động kinh doanh và thời hạn thua lỗ. “Không
đủ tiền và tài sản để thanh toán các khoản nợ đến hạn bất luận vì lý do gì mà không thể
khắc phục được thì đều được coi là đã lâm vào tình trạng phá sản”1. Đây là một bước
tiến lớn của pháp luật phá sản nước ta, thể hiện sự can thiệp sớm của Nhà nước vào

hiện tượng phá sản. Tính chất nghiêm trọng về hậu quả có tính dây chuyền của hiện
tượng phá sản trong đời sống kinh tế đòi hỏi khách quan sự can thiệp sớm của Nhà
nước.
Mặc dù khái niệm này có sự hoàn thiện hơn so với Luật Phá sản doanh nghiệp
năm 1993 nhưng vẫn còn hạn chế ở tính thiếu triệt để của nó. Điều 3 Luật Phá sản năm
2004 không quy định rõ số nợ và thời gian quá hạn không thực hiện nghĩa vụ thanh
toán của con nợ. Vì vậy về hình thức, con nợ chỉ cần mắc nợ số tiền là 1.000 đồng và
quá hạn thanh toán một ngày sau khi chủ nợ có đơn yêu cầu đòi nợ cũng có thể bị xem
là lâm vào tình trạng phá sản. Điều này có thể dẫn đến sự lạm dụng quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản từ phía các chủ nợ. Kinh nghiệm của một số nước khi xây dựng
khái niệm phá sản theo trường phái định lượng thì thường có quy định về số nợ cụ thể,
về thời hạn trễ hạn thanh toán nợ từ phía con nợ sau khi chủ nợ có yêu cầu đòi nợ. Ví
dụ như “Luật Phá sản của Liên bang Nga quy định số nợ không thấp hơn 100.000 rúp
với chủ nợ là pháp nhân và 10.000 rúp với chủ nợ là cá nhân. Theo Luật Công ty của
Úc chủ nợ có thể yêu càu Tòa án ra quyết định bắt đầu thủ tục thanh toán tài sản của
một công ty vì lý do vỡ nợ nếu công ty đó có một khoản nợ đến hạn ít nhất là $2000
AUD và công ty không chứng minh được khả năng trả khoản nợ đến hạn đó”2.
Một số ý kiến cho rằng, doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là Doanh
nghiệp không chỉ không có khả năng thanh toán mà còn có dấu hiệu thua lỗ trong kinh
doanh.

/>17/02/2008
ngày
02/01/2009
GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

5

-


ngày
đọc

đăng

bài
bài

SVTH: Đặng Thị Yến Trinh


Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Giữa doanh nghiệp có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản với doanh nghiệp bị
tuyên bố phá sản có sự khác biệt khá lớn. Không phải mọi doanh nghiệp có dấu hiệu
lâm vào tình trạng phá sản đều sẽ bị tuyên bố phá sản. Dấu hiệu đày đủ nhất và dễ thấy
nhất để nhận biết doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là khả năng thanh toán nợ
đến hạn khi các chủ nợ yêu cầu phải thanh toán mà doanh nghiệp không thanh toán
được.
Có rất nhiều nguyên nhân của tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh
nghiệp như làm ăn thua lỗ, hạn hán, thiên tai, khủng hoảng kinh tế-tài chính... Như thế
thua lỗ trong kinh doanh cũng chỉ là nguyên nhân của tình trạng mất khả năng thanh
toán và ừong không ít trường họp doanh nghiệp dù bị thua lỗ trong kinh doanh nhưng
vẫn cỏ khả năng thanh toán nợ đến hạn.
1.2.

CÁCH XÁC ĐỊNH THỜI ĐIÉM DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH
TRẠNG PHÁ SẢN
Đã có nhiều ý kiến chỉ ra sự bất cập của Luật Phá sản Doanh nghiệp năm 1993,

coi các quy định không phù họp của Luật này là một trong số các nguyên nhân chủ yếu

dẫn đến tình hạng quá ít các vụ việc phá sản được Toà án thụ lý và giải quyết.
Qua nghiên cứu, có tình trạng như trên là do các nguyên nhân chủ yếu bao gồm:
do chính Luật Phá sản doanh nghiệp ra đời trong thời gian đầu thập kỷ 90, khi đó kinh
nghiệm, hiểu biết về kinh tế thị trường của chúng ta chưa nhiều; Toà án lại chưa có
kinh nghiệm trong việc giải quyết phá sản. Trong đó nguyên nhân thứ nhất được xem là
chủ yếu.
về sự bất cập của Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993, có thể kể đến quy định
tại Điều 2, trong đó quy định Doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản là “doanh
nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các
biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Tưorng tự,
tại khoản 1 Điều 3 Nghị định 189 hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp quy
định dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản là “Doanh nghiệp bị thua lỗ trong hai năm liên
tiếp tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho người
lao động theo thỏa ước lao động và họp đồng lao động trong ba tháng liên tiếp”.
Theo các quy định này, các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản hay những
người có quyền nộp đơn đề nghị giải quyết phá sản doanh nghiệp là rất khó có thể đưa
vụ việc đến Toà án. Dường như vào thời điểm Luật này được thông qua, việc tuyên bố
phá sản doanh nghiệp còn quá mới mẻ và có thể có nhiều ý kiến khác nhau về các hậu
quả khác của việc cho phép doanh nghiệp phá sản, ví dụ hậu quả về mất việc làm cho


Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
người lao động hay ảnh hưởng tới sự ổn định xã hội mà không có sự chú ý thích đáng
cho chính các doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng không thể hoạt động, không thể trả
nợ, không đem lại lợi nhuận cho chủ doanh nghiệp và xã hội song vẫn phải tồn tại.
Các điều kiện mà các quy định nói trên nêu ra có thể đưa việc phá sản doanh
nghiệp đến Tòa án, song, sẽ là quá muộn khi nhìn vào thời hạn “hai năm thua lỗ liên
tiếp” của doanh nghiệp dẫn đến “không trả được nợ đến hạn” hay “ba tháng liên tiếp”
không “trả đủ lương cho người lao động”. Bởi lẽ, đã đến tình trạng như vậy thì khả
năng “phục hồi” của doanh nghiệp là rất khó và việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp đế

nhằm mục đích “trả nợ tập thể” cho các chủ nợ được xem là không khả thi do doanh
nghiệp cũng không còn tài sản gì đế có thể thanh toán. Hơn nữa, khi doanh nghiệp đã
không còn tài sản hay không có khả năng về tài chính để trả nợ đến hạn hay lương cho
người lao động, lại có quy định phải kiểm toán trước khi đưa vụ án ra Toà cũng có thề
nhìn nhận như một cản trở cho việc đưa đơn. Bởi lẽ, doanh nghiệp lúc đó không có đủ
khả năng để trả tiền cho việc thuê kiểm toán và vì thế, Toà án không nhận đơn để giải
quyết việc phá sản.
Theo kinh nghiệm các nước, có thế nói, việc xác định thời điểm Toà án thụ lý
đơn để xem xét việc phá sản là khá sớm khi so sánh với quy định hiện thời của Việt
Nam. Ví dụ, “Luật phá sản của Nhật Bản quy định, “Khi một người mắc nợ ngừng trả
tiền thì người đó được coi là không thể trả được nợ”; luật của Pháp quy định: “Mọi
thương nhân và pháp nhân, kể cả các pháp nhân không có quy chế thương nhân, khi bị
lâm vào tình trạng ngừng thanh toán thì đều phải khai báo trong thời hạn mười lăm
ngày để mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp hoặc thủ tục thanh lý doanh nghiệp”; còn
Luật Phá sản của Trung Quốc quy định tại Điều 7: “Trong trường họp người mắc nợ
không còn khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, thì các chủ nợ có thể làm đơn
yêu cầu giải quyết phá sản đối với người mắc nợ”.
Theo Luật của úc (Australia), một công ty sẽ lâm vào tình trạng phá sản và buộc
phải giải quyết việc phá sản nếu công ty đó không trả được tất cả các khoản nợ đến
hạn. Có một cách thức được sử dụng phổ biến để chứng minh một công ty ở vào tình
trạng phải bắt buộc phá sản là sử dụng quy định về việc để công ty phải trả lời chính
thức về việc trả nợ cho chủ nợ. Theo đó, chủ nợ sẽ gửi cho công ty một bản kê khoản
nợ (hay các khoản nợ), có tổng trị giá tối thiểu là 2.000 Đô la úc (hai ngàn Đô la) và
thông báo việc công ty mắc nợ phải trả nợ trong hạn 21 ngày. Công ty đó sẽ bị coi là

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

7

SVTH: Đặng Thị Yến Trinh



3Dương Quốc Thành - Căn cứ để xác định thời điểm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
ngày
đăng
bàilâm vào tình trạng bắt buộc phá sản và đưa ra Toà nếu không trả được khoản tiền trong
24/11/2003 -hạn nói trên”3.
ngày
đọc
bài
02/01/2009
Do đó, em hoàn toàn nhất trí với Luật phá sản năm 2004 khi xác định thời điếm
có thế đưa vụ việc đến Toà án, đó là khi doanh nghiệp không có khả năng thanh toán
được nợ đến hạn.
Với quy định này, có thể sẽ khắc phục được tình trạng quá muộn để phục hồi
doanh nghiệp hay có điều kiện tốt hon trong việc thanh toán cho các chủ nợ. Đó là vì
vào thời điểm khi phát hiện ra việc doanh nghiệp không có khả năng thanh toán, vụ
việc có thể được đưa ngay đến Toà án, các hoạt động và tài sản của doanh nghiệp sẽ
được đặt dưới sự kiểm soát của Toà án và các chủ nợ. Khi đó, hoặc phương án phục hồi
sẽ được chấp nhận, hoặc việc phá sản sẽ được tiến hành nếu không thể phục hồi, song
cơ hội đế thực hiện cả hai việc này sẽ tốt hơn, bởi nếu có phương án phục hồi kịp thời,
doanh nghiệp mới có thể tồn tại; nếu phải thanh toán nợ và đi đến phá sản, các chủ nợ
còn có thể được trả nợ khi bán các tài sản còn lại của doanh nghiệp. Cách giải quyết
như trên sẽ khác với trường họp doanh nghiệp “không còn gì” khi ra Toà giải quyết phá
sản theo luật phá sản doanh nghiệp năm 1993. Doanh nghiệp khi đó, nếu sau khi thụ lý
vụ phá sản, trở lại kinh doanh được, vụ án sẽ được đình chỉ, nếu không sẽ đi đến việc
tuyên bố phá sản.
Nói cách khác, quy định về thời điểm để có thể bắt đầu “mở thủ tục phá sản”của
luật phá sản năm 2004 sẽ đảm bảo hơn quyền lợi của các chủ nợ tham gia vào việc
quản lý, giám sát các hoạt động của doanh nghiệp có dấu hiệu phá sản để có thể bảo vệ

tốt hơn quyền lợi chủ nợ. Mặt khác, bằng việc quy định này cùng với các quy định mới
tại chương rv của Luật phá sản 2004, một mặt đã hạn chế được việc doanh nghiệp mắc
nợ cỏ thể tẩu tán tài sản; mặt khác, lại giúp họ có thể có được điều kiện tốt hơn và giảm
bớt khó khăn trong việc kinh doanh.
Chúng ta cũng có thể đưa ra một phương thức xác định trước tình trạng của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là họ không thể thanh toán hay không chịu
thanh toán một khoản nợ đến hạn nhất định. Theo quy định của luật úc như nêu trên,
khoản nợ không trả được khi đã đến hạn dùng để xác định trong trường họp buộc một
công ty phải làm thủ tục phá sản không phải là lớn, chỉ tương đương với 24 triệu đồng
Việt Nam. Cũng có thế nhìn nhận là bằng sự quy định như thế, các doanh nghiệp, công
ty có thể sẽ có được ý thức chấp hành pháp luật tốt hơn, hạn chế sự chiếm dụng tiền

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

°

SVTH: Đặng Thị Yến Trinh


Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
vốn của chủ nợ một cách tuỳ tiện bởi nếu làm như thế, việc kinh doanh và ngay cả địa
vị pháp lý của doanh nghiệp sẽ bị đặt trên bờ vực của sự phá sản.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, theo quan điểm chủ đạo Luật phá sản năm 2004 sẽ
không chỉ chú ý đến việc thanh toán nợ hay “trả nợ tập thể” cho các chủ nợ mà rất chú
trọng đến việc giúp cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể ra khỏi khó
khăn và phục hồi việc kinh doanh. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng, luật không nên
coi việc phục hồi hay tổ chức lại kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản là bắt buộc mà nên thanh toán tài sản hay tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản đế các
chủ nợ có thể được trả nợ ngay.
Như vậy tiêu chí xác định tài sản phá sản của doanh nghiệp theo luật phá sản

doanh nghiệp năm 1993 thì phải tho ả mản cả hai điều kiện thua lỗ nghiêm trọng và đã
áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết. Ở đây các nhà làm luật năm 1993 đã có quan
niệm khắc khe về tình trạng phá sản. Quan niệm này quan tâm chủ yếu tới việc tìm
nguyên nhân dẫn đến tình trạng phá sản: kinh doanh thua lỗ hoặc gặp lý do bất khả
kháng và do vậy thường quan tâm nhiều đến việc tìm ra được nguyên nhân của tình
trạng đó hom là xác định tình trạng, do đó làm chậm đi thời điểm mở thủ tục giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản. Trong khi đó quá trình giải quyết thủ tục phá sản cho thấy,
việc xác định mở thủ tục phá sản doanh nghiệp là một trong những yếu tố quyết định sự
thành bại của thủ tục. Vì nếu mở thủ tục quá sớm, khi doanh nghiệp vẫn có thể tự mình
khắc phục được những khó khăn thì có thể làm triệt tiêu những năng động, sáng tạo của
các doanh nghiệp trong hoạt động của mình và làm lãng phí công sức, tiền bạc và thời
gian của bản thân doanh nghiệp mắc nợ, các chủ nợ và của nhà nước. Ngược lại nếu
mở thủ tục chậm tình hạng của doanh nghiệp đang ở mức trầm trọng, tài sản của doanh
nghiệp gần như không còn thì ngoài việc không thể phục hồi được doanh nghiệp, quyền
lợi của các chủ nợ và của xã hội nói chung cuãng không được bảo đảm.
Với quan niệm của luật phá sản 1993 tình trạng phá sản của doanh nghiệp đồng
nghĩa với tình trạng tài sản của doanh nghiệp không còn lại là bao vì doanh nghiệp đã
kinh doanh thua lỗ trong 2 năm liên tiếp, sau đó lại áp dụng các biện pháp tài chính cần
thiết nhưng vẫn không có kết quả. Thực tế này đã được chứng minh qua các vụ giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thời gian vừa qua, chẳng hạn “trường họp phá sản của
công ty thưomg mại Hà TŨ1, tổng tài sản còn lại của công ty chỉ còn 150 triệu đồng, tỷ
lệ vốn- nợ là 150 triệu đồng/ 1,2 tỷ. Trường họp công ty Nông- Súc xuất khẩu Quảng
Nam- Đà Nẳng, tổng số nợ của công ty là 6,5 tỷ đồng, trong đó số có nợ bảo đảm cho
các ngân hàng chiếm xấp xỉ 3 tỷ đồng, sau khi thanh toán số nợ này, tài sản của công ty

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

9

SVTH: Đặng Thị Yến Trinh



4Dương Quốc Thành - Căn cứ để xác định thòi điểm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
ngày
đăng
bàikhông còn để trả số nợ có bảo đảm trên 3,5 tỷ đồng”4. Những nhược điểm này phần nào
24/11/2003 -đã dược khắc phục tại luật phá sản năm 2004, theo tinh thần của điều luật, ta có thể ngày
đọc
bài
02/01/2009 hiểu tình trạng phá sản của doanh nghiệp xuất hiện khi có hai điều kiện:
- Các chủ nợ có yêu càu thanh toán các khoản nợ đến hạn
- Doanh nghiệp, họp tác xã không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn
đó.
Như vậy sẽ có truờng họp doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các khoản nợ
đến hạn nhưng không có một chủ nợ nào đứng ra đòi nợ thì vẫn chưa bị coi là “lâm vào
tình trạng phá sản”. Điều này có phần mâu thuẩn với Điều 20 của luật phá sản năm
2004 quy định về việc các cơ quan chức năng, trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình nếu nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã “ lâm vào tình trạng phá sản” thì phải
thông báo bằng văn bản cho những người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản đối với doanh nghiệp, họp tác xã đó. Bởi vì sẽ có những trường họp cơ quan chức
năng phát hiện rằng tài sản hiện có của doanh nghiệp không thể thanh toán được các
khoản nợ đến hạn nhưng chưa có chủ nợ nào yêu cầu doanh nghiệp trả nợ thì doanh
nghiệp vẫn chưa coi là lâm vào tình trạng phá sản để các cơ quan chức năng ra thông
báo.
Từ nhận định trên đây có thể thấy biểu hiện mất khả năng thanh toán đã được
xác định là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc xác định một doanh nghiệp đã hay
chưa lâm vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên quy định này vẫn chưa được rõ ràng khi
xác định kèm theo đó điều kiện “khi chủ nợ có yêu cầu”. Thiết nghĩ, bản thân tình trạng
không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn đã nói lên tình trạng khó
khăn của doanh nghiệp và cần có sự can thiệp để bảo vệ quyền lợi của các bên có liên

quan.
Có thế nói rằng, cùng với sự hoàn thiện của Luật Doanh nghiệp, số lượng các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp của thành phần kinh tế tư nhân đã phát triển
nhanh chóng, đóng góp ngày một nhiều vào tổng đầu tư của xã hội. Có nhiều doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh cũng có nghĩa là sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp cần giải
thể và giải quyết phá sản. Đây là điều không thể tránh khỏi trong một nền kinh tế cạnh
tranh, vấn đề ở đây là làm sao cho, bằng các quy định phù họp của luật pháp, các
doanh nghiệp sẽ thực sự có được một “sân chơi” hay một “hành lang pháp lý” phù hợp


5 Trương Hồng Hải - Đặc điểm quy chế xác định tài sản doanh nghiệp phá sản của Việt Nam
và những đềXác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
xuất sửa đổi Tạp chí Luật
học số 1/2004,để họ có thể được kinh doanh và được chấm dứt việc kinh doanh một cách công bằng;
trang 59
đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bộ phận khác của xã hội liên
quan đến các doanh nghiệp, bất kể họ là người cho doanh nghiệp vay tiền hay là người
lảm công ăn lương cho doanh nghiệp. Và điều quan trọng hom là các quy định này phải
đảm bảo một cách có hiệu quả nhất các quyền và lợi ích họp pháp của các bên có liên
quan và của các doanh nghiệp khi doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản.
1.3,

Sự CẦN THIẾT CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CỦA DOANH
NGHIỆP
LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN
Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là vấn đề có ý

nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Xác định
chính xác tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản sẽ giải quyết tốt việc
phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoặc trong trường họp

không phục hồi được thì việc thanh lý tài sản doanh nghiệp để thanh toán cho các chủ
nợ cũng được đảm bảo ở mức cao nhất, vấn đề này được xem là trung tâm của thủ tục
giải quyết phá sản.
Việc xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nhằm xem
xét khả năng tài chính, khả năng thanh toán đồng thời là cơ sở giúp cơ quan có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm bảo toàn tài sản và các thủ tục tố tụng phù
họp để giải quyết việc phá sản đối với con nợ. về vấn đề này, luật phá sản cuả các
nước có những quy định khác nhau nhưng nhìn chung chủ yếu dựa vào những điểm cơ
bản như: “Xác định khối tài sản có thể căn cứ vào thời điểm và thủ tục giải quyết vụ
phá sản, hoặc có thể căn cứ vào loại hình tài sản, nguồn tài sản hoặc xác định nhóm tài
sản loại trừ theo thời điểm phát sinh tài sản, phạm vi không gian tài sản (Luật phá sản
của Nhật Bản), tính chất sở hữu của tài sản (Luật phá sản của Trung Quốc, Cộng hòa
Liên Bang Nga), giá trị tài sản, mục đích, công dụng của tài sản (Luật phá sản của Mỹ,
Luật phá sản của Cộng hoà Liên Bang Đức)”5. Tại điều 49 Luật Phá sản năm 2004 xác
định tài sản của doanh nghiệp, họp tác xã lâm vào tình trạng phá sản gồm có: “Tài sản
và quyền về tài sản mà doanh ghiệp, họp tác xã có tại thời điểm Tòa án thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản; Các khoản lợi nhuận, các tài sản và các quyền về tài sản mà
doanh nghiệp, họp tác xã sẽ cỏ do việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi
Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; Tài sản là vật bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ của doanh nghiệp, họp tác xã. Trường họp thanh toán tài sản là vật bảo đảm được
trả cho các chủ nợ có bảo đảm, nếu giá trị của vật bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo


Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
đảm phải thanh toán thì phàn vượt quá đó là tài sản của doanh nghiệp, họp tác xã; Gía
trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác định theo quy định của
pháp luật về đất đai”. Ngoài ra theo khoản 2 Điều 43 của luật phá sản năm 2004 thì tài
sản thu hồi được từ giao dịch vô hiệu phải nhập vào khối tài sản của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản. Như vậy, Luật phá sản năm 2004 quy định về việc xác định tài
sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản cũng dựa vào rất nhiều tiêu chí như

thời điểm và thủ tục, nguồn tài sản...

mmmmmmrmmmmmmmrmmmmmmmrmmmmmmrmmmmmĩmmmmmmSVTH: Đặng Thị Yến Trinh
GVHD: TS. Dư Ngọc Bích


Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
CHƯƠNG2
XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ
SẢN
2.1.

VẮN ĐÈ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO
TÌNH
TRẠNG PHÁ SẢN
về nguyên tắc, toàn bộ tài sản mà con nợ có được từ thời điểm có quyết định

của Tòa án về việc thụ lý đon yêu cầu giải quyết phá sản đến thời điểm Tòa án ra quyết
định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản họp thành một khối thống nhất và duy nhất gọi là
tài sản phá sản. Theo đó, cách thức để xác định những tài sản hiện có của doanh nghiệp
trong giới hạn về thời gian nói trên, ngoài ra còn phải xác định những tài sản không
được tính vào tài sản phá sản, đó là những tài sản mặc dù là tài sản hiện có của doanh
nghiệp nhưng trên bảng cân đối tài sản và theo sổ sách kế toán thì bị loại trừ ra khỏi
khối tài sản phá sản vì đó là những tài sản mà doanh nghiệp đang nợ các chủ thể khác
(gọi chung là tài sản nợ của doanh nghiệp).
Luật phá sản năm 2004 không quy định khái niệm, phạm vi tài sản phá sản mà
chỉ quy định theo hướng liệt kê các loại tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản, đồng thời quy định doanh nghiệp phải thực hiện những nghĩa vụ về tài sản,
qua đó có thể xác định tài sản nợ của doanh nghiệp.
Tại khoản 1 Điều 49 Luật phá sản năm 2004 chỉ nêu những loại tài sản nằm

trong phạm vi khối tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, cụ thể những
tài sản đỏ bao gồm:
- Tài sản và quyền về tài sản mà doanh nghiệp, họp tác xã có tại thời điểm Tòa
án thụ lý đon yêu cầu mở thủ tục phá sản;
- Các khoản lợi nhuận, các tài sản và các quyền về tài sản mà doanh nghiệp, họp
tác xã sẽ có do việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi Tòa án thụ lý đon
yêu càu mở thủ tục phá sản;
- Tài sản là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp, họp tác xã.
Trường họp thanh toán tài sản là vật bảo đảm được trả cho các chủ nợ có bảo
đảm, nếu giá trị của vật bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm phải thanh toán thì
phần vượt quá đó là tài sản của doanh nghiệp, họp tác xã;
- Gía trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp, họp tác xã được xác định theo quy
định của pháp luật về đất đai

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

3

SVTH: Đặng Thị Yến Trinh


Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Ngoài ra tại khoản 2 Điều 49 Luật Phá sản năm 2004 cũng quy định rõ tài sản
của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản bao gồm tài sản
quy định tại khoản 1 Điều này và tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp
danh không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh. Như vậy Luật phá sản năm 2004
đã bổ sung việc xác định tài sản đối với thành viên hợp danh của công ty hợp danh một loại hình doanh nghiệp mới, phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp năm
1999 và điều này cũng được Luật Doanh nghiệp năm 2005 ghi nhận. Trường hợp chủ
doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợ danh có tài sản thuộc sở hữu chung thì phần tài
sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh có được chia theo quy định của

bộ luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Như vậy so với luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 thì Luật Phá sản năm 2004
đã có những quy định tưomg đối rõ ràng và chi tiết trong việc xác định tài sản của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Cụ thế là:
Thứ nhất, xác định tài sản, quyền về tài sản có của doanh nghiệp vào thời điểm
Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Luật cũ không xác định thời điểm này;
Thứ hai, bổ sung việc xác định các khoản lợi nhuận, các tài sản và các quyền về
tài sản mà doanh nghiệp sẽ có do việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi
Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;
Thứ ba, đề cập chi tiết đến tài sản là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của doanh
nghiệp, quy định cách thức xử lý đối với tài sản ừong trường hợp thanh toán tài sản là
vật bảo đảm được trả cho các chủ nợ có bảo đảm nếu giá trị của vật bảo đảm vượt quá
khoản nợ có bảo đảm thì phần vượt quá đó là phần của doanh nghiệp;...
Thứ tư, đề cập đến giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp được xác định
theo quy định về đất đai. Đây là một loại quyền đặc biệt, chịu sự điều chỉnh khác biệt
so với các quyền dân sự, kinh tế thong thường khác;
Như vậy vấn đề tài sản phá sản đã được quy định tại Điều 49 Luật Phá sản năm
2004 với những nội dung cơ bản là khá rõ ràng, cách phân loại tài sản này tránh được
sự tản mạn, vụn vặt và không đẩy đủ trong cách phân loại theo Luật Phá sản doanh
nghiệp năm 1993, “quy định này đã đảm bảo được sự tương đồng với cách xác định
khối tài sản của doanh nghiệp mắc nợ của pháp luật các nước trên thế giới. Đó là:
- về phạm vi khối tài sản bao gồm các bộ phận chính như tài sản hiện có tại
doanh nghiệp, tài sản thuộc sở hữu (hoặc quản lý) của doanh nghiệp đang đầu tư hoặc
cho các chủ thể khác vay, mượn và các quyền về tài sản.


6 Vũ Thị Hồng Vân - Bàn về nguyên tắc và cách thức xác định tài snả của doanh nghiệp lâm
trạng phá sảnXác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
chí kiểm sát kiểm sát nhân
số 03/ 2007

Căn cứ chứng minh tình hình tài sản là các tài liệu kế toán cũng như các giấy tờ
7Thu Thủy - Tài
định
- khác chứng nhận về tài sản của doanh nghiệp theo pháp luật kế toán và các quy định

vào tình
- Tạp
Viện
tối cao,
sản

cố

khác có liên quan”6.
Ngoài Điều 49, Luật phá sản năm 2004 còn quy định tài sản thu hồi được từ các
giao dịch bị coi là vô hiệu được liệt kê tại khoản 1 Điều 43 cũng được nhập vào khối tài
sản của doanh nghiệp lâm vào tình hạng phá sản. Các giao dịch đó là:
- Tặng cho động sản và bất động sản cho người khác,
- Thanh toán hợp đồng song vụ trong đó phần nghĩa vụ của doanh nghiệp rõ
ràng là lớn hơn phần nghĩa vụ của bên kia,
- Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn,
- Thực hiện việc thế chấp, cầm cố tài sản đối với các khoản nợ,
- Các giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp.
Mục đích của quy định tyên bố giao dịch vô hiệu là nhằm bảo vệ quyền lợi của
chủ nợ đến tái tạo lại khối tài sản của con nợ phục vụ cho việc phục hồi hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2,2,

NHỮNG NGUYÊN TẮC YÀ CÁCH THỨC XÁC ĐỊNH TÀI SẢN
CỦA

DOANH NGHIỆP LÂM YÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN

2,2.1. TÀI SẢN VÀ QUYỀN VÈ TÀI SẢN MÀ DOANH NGHIỆP CÓ TẠI
THỜI ĐIỂM TÒA ÁN THỤ LÝ ĐƠN YÊU CẰU MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN
2.2.1.1, TÀI SẢN CỐ ĐỊNH VÀ TÀI SẢN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH
NGHIỆP ĐANG CÓ Ở DOANH NGHIỆP
2.2.1.

L1. TÀI SẢN CÓ ĐỊNH7:

Tài sản cố định là tất cả những tài sản của doanh nghiệp có giá trị lớn, có thời
gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trên 1 năm hoặc ừên 1 chu kỳ kinh doanh (nếu chu
kỳ kinh doanh lớn hơn hoăch bằng 1 năm)
Trên thực tế, khái niệm tài sản cố định bao gồm những tài sản đang sử dụng,
chưa được sử dụng hoặc không còn được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh
do chúng đang trong quá trình hoàn thành (máy móc thiết bị đã mua nhưng chưa hoặc
/>- Ngày đọc bài 01/01/2009

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

-

Ngày

5

đăng

bài


23/01/2007

SVTH: Đặng Thị Yến Trinh


Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
đang lắp đặt, nhà xưởng đang xây dựng chưa hoàn thành...) hoặc do chúng chưa hết giá
trị sử dụng nhưng không được sử dụng.
Đặc điếm của tài sản cố định: Tuổi thọ có thời gian sử dụng trên một năm, tức là
tài sản cố định sẽ tham gia vào nhiều niên độ kinh doanh và giá trị của nó được chuyển
dần vào gíá trị sản phẩm làm ra thông qua khoản chi phí khấu hao. Điều này làm giá trị
của tài sản cố định giảm dàn hàng năm. Tuy nhiên, không phải mọi tài sản có thời gian
sử dụng ừên một năm đều được gọi là tài sản cố định, thực tế có những tài sản có tuổi
thọ trên một năm nhưng vì giá trị nhỏ nên chúng không được coi là tài sản cố định mà
được xếp vào tài sản lưu động. Theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính, một tài sản
được gọi là tài sản cố định khi có đặc điểm như đã nêu đồng thời phải có giá trị trên
mười triệu đồng.
Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm:
- Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật
chất (từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài
sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định), thoả mãn các
tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng
vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như: nhà cửa, vật kiến trúc; máy móc, thiết
bị; phương tiện vận tải; dụng cụ văn phòng...
-Tài sản cố định vô hình: là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện
một lượng giá trị đã được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình,
tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh như: một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử
dụng, chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả...
- Đầu tư tài chính dài hạn: Đầu tư tài chính là tiền vốn của doanh nghiệp đầu tư
vào kinh doanh ở bên ngoài hoạt động của doanh nghiệp mục đích hưởng lãi hoặc chia

sẻ lợi ích với doanh nghiệp khác. Đầu tư tài chính có thể là: cổ phiếu; trái phiếu các
loại; vốn góp liên doanh; tài sản, đất đai cho thuê ngoài; tiền vốn cho vay v.v...
Tài sản cố định dở dang: Là các tài sản cố định hữu hình hoặc vô hình đang
trong quá trình hình thành, hiện chưa sử dụng và được xếp vào mục chi phí xây dựng
cơ bản dở dang. Ngoài ra những khoản ký quỹ, ký cược dài hạn mà doanh nghiệp thực
hiện cũng được xếp vào tài sản cố định.


8Quản trị chi phí
kinh doanhXác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
trong doanh
nghiệp (phần
3)
2.2.1.1.2. TÀI SẢN LƯU ĐỘNG8
Tài sản lưu động của doanh nghiệp là tất cả những tài sản thuộc quyền sở hữu
của doanh nghiệp , có thời gian sử dụng, luân chuyến, thu hồi vốn trong một năm (nếu
chu kỳ kinh doanh < một năm ) hoặc ừong vòng một chu kỳ kinh doanh, (nếu chu kỳ
kinh doanh > một năm)
Chu kỳ kinh doanh được hiểu là khoảng thời gian cần thiết kể từ khi doanh
nghiệp bỏ vốn vào kinh doanh dưới hình thái tiền tệ lại thu được vốn đó dưới hình thái
tiền tệ.
Tuỳ theo lĩnh vực kinh doanh mà chu kỳ kinh doanh của mỗi doanh nghiệp khác
nhau. Đối với doanh nghiệp sản xuất, đó là khoảng thời gian cần thiết kể từ khi doanh
nghiệp bỏ tiền mua vật tư, chế biến vật liệu đó thành sản phẩm và bán được sản phẩm
đó. Đối với doanh nghiệp thương mại, chu kỳ kinh doanh được hiểu là khoảng thời
gian kể từ khi bỏ tiền mua hàng hoá và đem bán được hàng hoá đó.
Tài sản lưu động thay đổi hình thái của nó trong phạm vi một chu kỳ kinh
doanh. Như vậy, giá trị của nó sẽ được chuyển toàn bộ, một làn vào sản phẩm làm ra.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động có sự thay đổi hình thái thường
xuyên theo một chu kỳ khép kín : Tiền -> Nguyên vật liệu -> Bán thành phẩm -> Sản

phẩm -> Tiền (T - H - T’). Tài sản lưu động của doanh nghiệp có thể tồn tại dưới hình
thái tiền tệ, hiện vật (vật tư, hàng hoá), dưới dạng đầu tư ngắn hạn và các khoản nợ phải
thu ngắn hạn.
Các thành phần của tài sản lưu động. Tài sản lưu động của một doanh nghiệp
gồm có:
- Vốn bằng tiền: Là tài sản biểu hiện trực tiếp dưới hình thức giá trị (tiền đồng
Việt Nam, ngân phiếu, ngoại tệ , vàng bạc, đá quý). Phàn lớn vốn bằng tiền của doanh
nghiệp được gửi ở ngân hàng, ngoài ra có một phần tồn tại dưới dạng tiền mặt tại doanh
nghiệp, dùng chi ưả các khoản thường xuyên.
- Các khoản phải thu: Là những khoản tiền vốn của doanh nghiệp nhưng do
quan hệ thanh toán, các đơn vị, cá nhân khác còn giữ chưa trả cho doanh nghiệp (ví dụ:
tiền hàng người mua còn chịu, tiền tạm ứng chưa thanh toán....) .
- Hàng tồn kho: Là loại tài sản được dự trữ cho họat động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp nhằm bảo đảm cho họat động này được thường xuyên, liên tục,
. vn/v2/index.php?qs=VN/service/320


Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
không bị gián đoạn, bao gồm: nguyên vật liệu, dụng cụ, sản phẩm dở dang tồn kho,
thành phẩm.
Đối với doanh nghiệp sản xuất, hàng tồn kho gồm nguyên liệu dự trữ trong kho
chuẩn bị sản xuất, sản phẩm dở dang trong các giai đoạn khác nhau của quá trình sản
xuất, thành phẩm dự trữ trong kho để chờ bán và cả các tài sản tham gia vào nhiều
niên độ kinh doanh nhưng có giá trị nhỏ (công cụ, dụng cụ).
Đối với doanh nghiệp thưomg mại, hàng tồn kho chỉ bao gồm hàng hóa dự trữ
trong kho nhằm đảm bảo cho khâu bán hàng thường xuyên có đủ số lượng hàng, chủng
loại hàng đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng.
- Đầu tư tài chính ngắn hạn: Đầu tư tài chính là sự bỏ vốn vào kinh doanh dưới
hình thức mua bán chứng khoán, góp vốn liên doanh, cho thuê tài sản, cho vay lấy lãi,
mua bán bất động sản... . Đầu tư tài chính ngắn hạn phản ánh giá trị các khoản tiền đầu

tư có thời hạn thu hồi vốn từ một năm trở lại.
2.2.I.2. TIÈN HOẶC TÀI SẢN GÓP VÓN LIÊN DOANH, LIÊN KẾT CÁ
NHÂN, DOANH NGHIỆP HOẶC TỔ CHỨC KHÁC
Kể từ khi Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI - 1986 cho đến nay, nước ta đã
thực hiện nhiều biện pháp tích cực để thu hút đầu tư nước ngoài, trong đó có cải thiện
môi trường đầu tư và môi trường pháp lý. Trên cơ sở đó, Quốc hội đã thông qua Luật
Doanh nghiệp 2005 (còn gọi là Luật Doanh nghiệp thống nhất), Luật Đầu tư năm 2005
(còn gọi là Luật đầu tư chung) nhằm tạo cơ sở pháp lý cho sự kinh doanh bình đẳng
giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Chính phủ cũng đã đồng ý áp một mức giá dịch vụ thống nhất đối với các nhà đầu tư
hoạt động tại Việt Nam (không phân biệt nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài.
Trong thời gian đàu của thời kỳ mở cửa, đối với hình thức đàu tư trực tiếp nước
ngoài, hình thức liên doanh được nhiều doanh nghiệp trong nước lựa chọn để họp tác
với tổ chức, cá nhân nước ngoài. Do các doanh nghiệp nước ta lúc bấy giờ còn thiếu
vốn, kinh nghiệm quản trị và công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất kinh doanh theo
cơ chế thị trường, nên nhiều doanh nghiệp trong nước muốn thông qua việc liên doanh
với đối tác nước ngoài để tranh thủ, học hỏi những thế mạnh của họ. Do vậy, thời kỳ
này các doanh nghiệp liên doanh chiếm một số lượng lớn và chủ yếu trong số các
doanh nghiệp có vốn đàu tư nước ngoài được thành lập và hoạt động tại Việt Nam.
“Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên họp tác
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính


Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh
nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam
hoặc do doanh nghiệp liên doanh họp tác với nhà đàu tư nước ngoài trên cơ sở họp
đồng liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty ừách
nhiệm hữu hạn. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn cam kết
góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp một khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá

sản. Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, được
thành lập và hoạt động kể từ ngày được cấp Giấy phép đàu tư”9.
Đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp liên doanh là có sự phối họp cùng góp vốn
đầu tư sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư Việt nam.
Tỷ lệ góp vốn của mỗi bên sẽ quyết định tới mức độ tham gia quản lý doanh nghiệp, tỷ
lệ lợi nhuận được hưởng cũng như rủi ro mỗi bên tham gia liên doanh phải gánh chịu.
Neu việc kinh doanh của doanh nghiệp bị thua lỗ và doanh nghiệp lâm vào tình
hạng phá sản thì tài sản của doanh nghiệp được xác định không chỉ là phần tài sản hiện
có của doanh nghiệp mà còn cả tài sản doanh nghiệp góp vốn liên doanh nữa. vấn đề
đặc ra là xác định phàn vốn góp liên doanh này như thế nào?
Theo quy định của pháp luật “Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh ít
nhất phải bằng 30% vốn đầu tư. Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng,
dự án đàu tư vào địa bàn khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án quy có quy mô
lớn, tỷ lệ này có thể thấp hơn, nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải được cơ quan
cấp giấy phép đầu tư chấp thuận. Tỷ lệ góp vốn của bên hoặc các bên liên doanh nước
ngoài do các bên liên doanh thoả thuận, nhưng không được thấp hơn 30% vốn pháp
định của doanh nghiệp liên doanh. Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh, công nghệ, thị
trường, hiệu quả kinh doanh và các lợi ích kinh tế - xã hội khác của dự án, Cơ quan cấp
giấy phép đầu tư có thể xem xét cho phép bên liên doanh nước ngoài có tỷ lệ góp vốn
thấp hơn, nhưng không dưới 20% vốn pháp định”10.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh tỷ lệ vốn góp của các bên liên doanh có
thể tăng lên hoặc giảm xuống tùy vào tình hình kinh doanh của doanh nghiệp liên
doanh. Chính vì thế nên khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì phàn vốn góp
của doanh nghiệp trong doanh nghiệp liên doanh được xác định ngay tại thời điểm đó
chứ không phải là phần vốn góp ban đầu mà doanh nghiệp góp vốn vào.

Công ty luật Bico - doanh nghiệp liên doanh . vn/webplus/viewer.asp?
pgid=6&aid=190
9


Điều 14 Nghị định 24/2000/NĐ-CP - Quy định chi tiết thi hành luật đầu
tư nước ngoài tại
10


11 Công

ty

luật
Bico
doanh
nghiệp
liên
doanh
Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
. vn/webplus/viewer.asp?pgid=6&aid=190
Bên cạnh những doanh nghiệp liên doanh nêu trên, các doanh nghiệp trong nước
cũng liên doanh, liên kết với nhau để mở rộng thị phần kinh doanh. “Nếu như các
doanh nghiệp Việt Nam liên doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài để hình thành nên
một pháp nhân mới trên cơ sở họp đồng liên doanh, thì hình thức liên doanh, liên kết
giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau không hình thành nên một pháp nhân mới
mà các bên chỉ thỏa thuận thực hiện một thương vụ nào đó theo họp đồng họp tác kinh
doanh. Các bên góp vốn theo tỷ lệ thỏa thuận và hưởng lợi, chịu rủi ro tương ứng với tỷ
lệ vốn góp của mỗi bên. Khi thương vụ kinh doanh đó kết thúc, thì họp đồng họp tác
kinh doanh chấm dứt và các bên tiến hành thanh lý họp đồng”11.
Đối với trường họp này tài sản của doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng phá sản
cũng bao gồm cả tài sản hiện có của doanh nghiệp cộng với tài sản mà doanh nghiệp
đang góp vốn trên cơ sở họp đồng liên doanh nói trên.
2.2.I.3. TIÈN HOẶC TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP MÀ CÁ NHÂN,

TỔ CHỨC, DOANH NGHIỆP KHÁC ĐANG NỢ HOẶC CHIẾM ĐOẠT
Tiền hoặc tài sản của doanh nghiệp mà cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khác
đang nợ đó chính là tài sản của doanh nghiệp dựa trên các khoản nợ, các giao dịch chưa
thanh toán hoặc bất cứ nghĩa vụ tiền tệ nào mà các con nợ hay khách hàng chưa thanh
toán cho doanh nghiệp. Các khoản phải thu này được ghi nhận là tài sản của doanh
nghiệp vì chúng phản ánh các khoản tiền sẽ được thanh toán trong tương lai.
Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì tiền hoặc tài sản của doanh
nghiệp mà cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khác đang nợ hoặc chiếm đoạt chính là các
khoản phải thu hồi.
Việc thu hồi các khoản này cũng không đơn giản. Nhiều con nợ khi biết doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã tìm cách uốn tránh, không họp tác với tổ quản lý,
thanh lý tài sản. Trường họp con nợ đang chấp hành án tù mà không có tài sản trả nợ,
không thể chờ chấp hành xong hình phạt mới thu hồi để giải quyết phá sản thì việc xác
định phần tài sản này như thế nào hiện luật chưa có quy định cụ thể.

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

SVTH: Đặng Thị Yến Trinh


12 Điều 110, điều 111, điều 112 Luật đất đai năm 2003
Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
2.2.1.4 TÀI SẢN MÀ DOANH NGHIỆP ĐANG CHO THUÊ HOẶC CHO
MƯỢN
2.2.I.4.I. ĐỐI VỚI TÀI SẢN CHO THUÊ:
Cho thuê tài sản là việc một bên giao tài sản của mình (Trong trường hợp này
bên cho thuê là doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản) cho bên kia để sử dụng
có thời hạn và phải trả một số tiền nhất định. Hình thức pháp 11 của cho thuê là hợp
đồng thuê. Trong hợp đồng thuê tài sản, bên cho thuê có nghĩa vụ giao tài sản cho
người thuê để sử dụng trong một thời gian nhất định. Còn người thuê có nghĩa vụ sử

dụng tài sản đúng với công dụng của tài sản, trả tiền thuê tài sản và trả lại tài sản khi
hết thời hạn cho thuê. Họp đồng thuê tài sản là hợp đồng song vụ vì mỗi bên đều có
những quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định, quyền dân sự của bên này tương ứng với
nghĩa vụ dân sự của bên kia. Hợp đồng thuê tài sản được coi là đã kí kết sau khi hai bên
thoả thuận với nhau về việc thuê tài sản. Hợp đồng thuê tài sản là hợp đồng có đền bù
vì người thuê tài sản phải trả một số tiền để bù đắp vào việc sử dụng tài sản của người
cho thuê.
Tài sản cho thuê có thể là tài sản vô hình hoặc tài sản hữu hình dùng để thỏa
mản nhu càu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất của cá nhân và các tổ chức. Do vậy đối
tượng của hợp đồng thuê tài sản là tư liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng. Quyền sử
dụng đất cũng có thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê. * Doanh nghiệp chỉ được
phép cho người khác thuê quyền sử dụng đất khi quyền sử dụng đất này của doanh
nghiệp trước đó được nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã trả
không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước, hoặc doanh nghiệp nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất mà tiền đã trả cho việc nhận chuyển nhượng đó không có nguồn gốc
từ ngân sách Nhà nước, hoặc được Nhà nước cho thuê đất trước ngày Luật Đất đai
2003 có hiệu lực thi hành mà doanh nghiệp đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê
hoặc đã trả tiền thuê đất cho nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít
nhất là năm năm, doanh nghiệp chuyển mục đích sử dụng đất mà tiền đã trả cho mục
đích chuyển đối không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước mà doanh nghiệp chọn
hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất * 12.
Đối với bên cho thuê: trong suốt thời hạn cho thuê, bên cho thuê vẫn có quyền
sở hữu pháp lý đối với tài sản, do đó bên cho thuê có quyền lấy lại tài sản nếu xét thấy
bên thuê có biểu hiện vi phạm hợp đồng. Mặt khác, trong trường hợp bên thuê lâm vào
tình trạng phá sản thì tài sản thuê vẫn không bị phát mãi mà vẫn bảo đảm quyền sở hữu


13 Phùng Trung Tập, Nguyễn Minh Tuấn - Giáo trinh Luật dân sự Việt Nam tập 2 - Truờng
Đại học luậtXác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Hà Nội - NXB

Công an nhân
dân,
tranghợp pháp của bên cho thuê đối với tài sản này. Vì vậy khi bên cho thuê lâm vào tình
trạng phá sản thì tài sản của doanh nghiệp bao gồm luôn cả tài sản mà doanh nghiệp
191
đang cho thuê. Giá trị tài sản cho thuê ở thời điếm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản chính là giá trị còn lại của tài sản cho thuê.
2.2.I.4.2. ĐÓI VỚI TÀI SẢN CHO MƯỢN
Cho mượn tài sản là việc làm mang tính chất tưomg trợ giúp đỡ lẫn nhau ừong
cuộc sống. Cho mượn tài sản thường xảy ra giữa những doanh nghiệp có mối quan hệ
lảm ăn thân thiết. Doanh nghiệp có tài sản thuộc sở hữu của mình chuyển cho người
khác chiếm hữu, sử dụng trong một thời gian nhất định.
Doanh nghiệp cho mượn không tính toán về kinh tế đối với người mượn. Tuy
nhiên trong một số trường hợp, bên mượn tài sản vô ý làm hư hỏng hoặc cố ý chiếm
đoạt tài sản của bên cho mượn. Do vậy, để bảo vệ quyền lợi của bên cho mượn pháp
luật điều chỉnh mối quan hệ của hai chủ thể, nhằm xác định rõ trách nhiệm của bên
mượn tài sản khi không thực hiện đúng những điều cam kết của mình, hạn chế trường
hợp lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản của người khác... Điều 512 Bộ Luật dân
sự quy định: Hợp đồng mượn tài sản là sự thỏa thuận của các bên, theo đó bên cho
mượn giao tài sản cho bên cho mượn để sử dụng trong một thời gian mà không phải trả
tiền, còn bên mượn phải trả tài sản đó khi hết thời hạn mượn hoặc mục đích mượn đã
đạt được.
“Quan hệ cho mượn tài sản được hình thành kể từ thời điểm chuyển giao tài
sản.. Trong hợp đồng cho mượn, đối tượng của hợp đồng là một hoặc nhiều tài sản.
Khái niệm tài sản không thể hiểu theo điều 163 Bộ luật dân sự mà cần được hiểu cụ thể
horn là vật có thực, vật đó có thể sử dụng đem lại lợi ích cho người mượn. Đối tượng
của hợp đồng phải là vật đặc định, không tiêu hao được hiểu theo quy định của Bộ luật
dân sự ( Điều 178, điều 179 Bộ luật dân sự). Khi hết hạn hợp đồng bên mượn tài sản
phải trả lại tài sản trong tình trạng ban đầu (khi mượn). Nếu làm hư hỏng , mất mát,
phải bồi thường thiệt hại”13.

Bên cho mượn là người có quyền sở hữu tài sản vì vậy một khi bên cho mượn
(doanh nghiệp) lâm vào tình trạng phá sản, trong quá trình xác định tài sản của doanh
nghiệp phải kể đến tài sản cho mượn. Giá trị của tài sản cho mượn chính là giá trị tài
sản trong tình trạng ban đầu khi mượn.

GVHD: TS. Dư Ngọc Bích

SVTH: Đặng Thị Yến Trinh


Xác định tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
2.2.2. CÁC KHOẢN LỢI NHUẬN, CÁC TÀI SẢN VÀ QUYỀN YÈ TÀI SẢN
MÀ DOANH NGHIỆP SẼ CÓ DO VIỆC THựC HIỆN CÁC GIAO DỊCH ĐUỢC
XÁC LẬP TRUỚC KHI TÒA ÁN THỤ LÝ ĐƠN YÊU CẰU MỞ THỦ TỤC PHÁ
SẢN
Trước khi Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì doanh nghiệp có thể
có xác lập một số giao dịch để tìm kiếm lợi nhuận trong quá trình hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Nhưng không phải trong bất kỳ trường họp nào thì ngay sau khi xác
lập giao dịch các khoản lợi nhuận hoặc tài sản sẽ phát sinh ngay mà có những trường
họp sau khi xác lập giao dịch một thời gian thì lợi nhuận, tài sản hoặc quyền về tài sản
mới phát sinh. Có thể hình dung gọi đó là tài sản hình thành trong tương lại.Tài sản
hình thành trong tương lai là loại tài sản sẽ có nhưng ở thời điểm, giao kết họp đồng,
các biện pháp bảo đảm thì chưa có hoặc chuẩn bị có nhưng bảo đảm khả năng chắc
chắn có. Ngay tại thời điểm doanh nghiệp xác lập giao dịch thì lợi nhuận, tài sản hoặc
quyền tài sản chưa thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Sau khi Tòa án thụ lý đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản thì số tài sản đó mới thuộc về quyền sở hữu của doanh
nghiệp thì dĩ nhiên số tài sản này cũng thuộc tài sản của doanh nghiệp. Chẳng hạn như
trước khi tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp đã giao kết họp
đồng mua một số hàng hóa từ doanh nghiệp nào đó. Nhưng số hàng hóa đó chưa được
chuyển giao ngay cho doanh nghiệp. Đến lúc Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá

sản thì số hàng mới được chuyển giao (đúng như thỏa thuận trong họp đồng) cho doanh
nghiệp. Tức ngay tại thời điểm số hàng được chuyển giao cho doanh nghiệp thì số hàng
đó thuộc tài sản của doanh nghiệp.
2.2.3. TÀI SẢN LÀ VẬT BẢO ĐẢM THựC HIỆN NGHĨA vụ CỦA DOANH
NGHIỆP. TRUỜNG HỢP THANH TOÁN TÀI SẢN LÀ VẬT BẢO ĐẢM ĐUỢC
TRẢ CHO CÁC CHỦ NỢ CÓ BẢO ĐẢM, NẾU GIÁ TRỊ CỦA VẬT BẢO ĐẢM
VƯỢT QUÁ KHOẢN NỢ CÓ BẢO ĐẢM PHẢI THANH TOÁN THÌ PHẦN
VƯỢT QUA ĐÓ LÀ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
Giao dịch bảo đảm là một thiết chế ra đời khá sớm ở nhiều quốc gia có hệ thống
pháp luật phát triển trên thế giới. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy
thiết chế này được xây dựng đã tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động túi
dụng nói chung và sự phát triển của nền kinh tế nói riêng. Việc xác lập các giao dịch
bảo đảm luôn hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia giao dịch dân
sự, đặc biệt là quyền lợi của bên có quyền trong giao dịch này. Với ý nghĩa đó, việc xác
lập các giao dịch bảo đảm đã góp phần không nhỏ vào sự ổn định của các quan hệ dân
sự, kinh tế, tránh các tranh chấp phát sinh từ việc không thực hiện hoặc có thực hiện


×