Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

VAI TRÒ của các cơ QUAN TRỰC THUỘC QUỐC hội TRONG VIỆC bảo đảm TÍNH THỐNG NHẤT của PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.35 KB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

-ár s?«=^”ìỹ»

LUẬN VĂN CỬ NHÂN LUẬT KHÓA 31
(KHÓA 2005-2009)

Đề tài:

VAI TRÒ CỦA CÁC Cơ QUAN TRỰC THUỘC
QUỐC HỘI TRONG VIỆC BẢO ĐẢM TÍNH THỐNG
NHẤT CỦA PHÁP LUẢT

Giáo viên hướne dẫn:

Sinh viên thưc hiên:

TIẾN Sĩ. PHAN TRUNG HIỀN

BÙI QUỐC THÀNH

Bộ MÔN: LUẬT HÀNH CHÍNH

MSSV: 5054924
Lớp:Luật thương mại 2-k.31
_Q

XI
Cần Thơ 04/2009



MỤC LỤC
• ..^CQ ■»*...
Trang
LỜI NÓIĐẰU............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................................1
2. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................... 2
3................................................................................................................................ Ph
ạm vi nghiên cứu..................................................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................. 3
5. Cơ cấu luận văn..................................................................................................3
CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU CHUNG VÈ CÁC cơ QUAN TRựC THUỘC
QUỐC
HỘI.....................................................................................................................4
1.1 Sơ lược về lịch sử của Quốc hội....................................................................... 4
1.2 Vị trí, vai trò của Quốc hội...............................................................................6
1.3 Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.................................................................9
1.3.1 Lập hiến và lập pháp.....................................................................................9
1.3.2 Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước................................ 10
1.3.3 Quyền giám sát tối cao................................................................................11
1.4 Tổng thể về các cơ quan trực thuộc của Quốc hội......................................... 12
1.4.1 Vị trí và vai trò của ủy ban thường vụ Quốc hội.................................12
1.4.1.1............................................................................................................ Vị
trí của ủy ban thường vụ Quốc hội............................................................ 12
1.4.1.2 Vai trò của ủy ban thường vụ Quốc hội......................................12
1.4.2 Vị trí của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội...................12
1.4.3 Vai trò của Hội đồng dân tộc................................................................ 13
1.4.4 Vai trò của các ủy ban của Quốc hội....................................................13
CHƯƠNG 2 VAI TRÒ CỦA CÁC cơ QUAN TRựC THUỘC QUÓC HỘI
TRONG VIỆC BẢO ĐẢM TÍNH THÓNG NHẮT CỦA PHÁP LUẬT...15

2.1 Tính thống nhất của pháp luật.........................................................................15
2.2 Yêu cầu của tính thống nhất của pháp luật.................................................... 17
2.2.1 Quan niệm về quyền lực nhà nước là thống nhất.....................................18
2.2.2 Quan niệm về phân công, phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp..................................................................................................................20


2.3 Các cơ quan tham gia vào tính thống nhất của pháp luật......................22
2.4 Vai trò chung của các Ctf quan trực thuộc Quốc hội trong việc bảo đảm
tính
thống nhất của pháp luật........................................................................................ 23

về tổ chức của Quốc hội............................................................................24
2.4.2.......................................................................................................................... v
ề quyền lập pháp...................................................................................................25
2.4.3 về quy mô các đạo luật.............................................................................25
2.3.4 về vấn đề kiểm soát của Quốc hội đối vói các quan hệ quyền lực và việc
2.4.1

thực hiện quyền lực nhà nước................................................................................26
2.5 Vai trò của từng Ctf quan trực thuộc Quốc hội trong việc bảo đảm tính
thống
nhất của pháp luật...................................................................................................27
2.6 Vai trò của ủy ban thường vụ Quốc hội...................................................27
2.6.1 Chức năng của ủy ban thường vụ Quốc hội............................................. 27
2.6.2 Các ban của ủy ban thường vụ Quốc hội..................................................29
2.6.3 Nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban thường vụ Quốc hội........................... 32
2.6.4 Nhiệm vụ, quyền hạn trong từng lĩnh vực của ủy ban thường vụ Quốc
hội...............................................................................................................................33
2.7 Vai trò của Hội đồng dân tộc.....................................................................38

2.8 Vai trò của các ủy ban của Quốc hội.........................................................40
2.8.1 Nhiệm vụ và quyền hạn của các ủy ban của Quốc hội.............................40
2.8.2 Nhiệm vụ và quyền hạn của từng ủy ban.................................................41
2.8.2.1 Nhiệm vụ và quyền hạn của ủy ban pháp luật.................................41
2.8.2.2 Nhiệm vụ và quyền hạn của ủy ban tư pháp....................................42
2.8.2.3 Nhiệm vụ và quyền hạn của ủy ban kinh tế..................................... 42
2.8.2.4 Nhiệm vụ và quyền hạn của ủy ban tài chính, ngân sách...............43
2.8.2.5 Nhiệm vụ và quyền hạn của ủy ban quốc phòng và an ninh..........43
2.8.2.6 Nhiệm vụ và quyền hạn của ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên,
thiếu niên và nhi đồng..............................................................................................44
2.8.2.7 Nhiệm vụ và quyền hạn của ủy ban về các vấn đề xã hội...............44
2.8.2.8 Nhiệm vụ và quyền hạn của ủy ban khoa học, công nghệ và môi
trường........................................................................................................................45
2.8.2.9 Nhiệm vụ và quyền hạn của ủy ban đối ngoại..................................45


CHƯƠNG 3 THỰC TIỄN CỦA VIỆC BẢO ĐẢM TÍNH THÓNG NHẤT
CỦA
PHÁP LUẬT TRONG CÁC cơ QUAN TRựC THUỘC QUỐC HỘI.......47
3.1 Thực tiễn của các Ctf quan trực thuộc của Quốc hội trong việc bảo đảm tính
thống nhất của pháp luật........................................................................................47
3.1.1 Quốc hội - mô hình sáng tạo tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước
theo yêu cầu nhà nước pháp quyền........................................................................48
3.1.2 Hoạt động của Quốc hội vói yêu cầu đổi mói......................................49
3.2 Thực tiễn trong việc đảm bảo tính thống nhất pháp luật của từng Ctf quan
trực thuộc Quốc hội.................................................................................................54
3.2.1 ủy ban thường vụ Quốc hội........................................................................54
3.2.2 Hội đồng dân tộc..........................................................................................55
3.2.3 Các ủy ban của Quốc hội............................................................................56
3.3 Hướng hoàn thiện....................................................................................... 57

3.3.1 Bảo đảm dân chủ trong hoạt động của Quốc hội vói yêu cầu hoàn
thiện nhà nước pháp quyền.....................................................................................57
3.3.2 Các yếu tố bảo đảm để đổi mói và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Quốc hội theo yêu cầu nhà nước pháp quyền.......................................................58

3.3.3 Nhà nước pháp quyền và những yêu cầu Ctf bản đối vói hệ thống pháp
luật.............................................................................................................................62
3.3.4 Những yêu Cầu Ctf bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.......................................................................................................65
3.3.4.I. Những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành......................65
3.3.4.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhìn từ yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN.........................................................................................67
PHẦN KẾT LUẬN


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

LỜI NÓI ĐẦU
.. ..eíCQ
6. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại hiện nay, hội nhập khu vực và thế giới trên nhiều lĩnh vực khác
nhau của đời sống, đặc biệt về kinh tế là một xu thế tất yếu đối với mọi quốc gia nhằm
thúc đẩy sự tăng trưởng, phát triển của đất nước. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu
thế nói trên. Quá trình hội nhập khu vực và thế giới tạo ra tiền đề cho sự ra đời một
khung pháp lý chung của cộng đồng trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, thương mại,
đầu tư, sở hữu,...Quá trình này đòi hỏi mỗi quốc gia phải đạt được những vấn đề sau:
tham gia đày đủ và toàn diện các công ước và hiệp ước đa phương, thể chế hoá nội
dung các công ước, hiệp định quốc tế vào nội luật, xây dựng và hoàn thiện các luật và
chế định tương đương với nước khác, xây dựng và tăng cường hệ thống thực thi pháp
luật. Như vậy, việc tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực có ảnh hưởng nhất

định đến hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật của mỗi quốc gia. Các quốc gia khi
ban hành các đạo luật điều chỉnh về một lĩnh vực nào đó thì không thể không tính đến
những quy định pháp luật trong các lĩnh vực này ở các quốc gia có liên quan.
Hoạt động họp tác khu vực và quốc tế là cơ sở cho việc điều chỉnh pháp luật.
Nhưng với tư cách là bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng, pháp luật cũng có những
ảnh hưởng, tác động nhất định đến các hoạt động kinh tế, hợp tác... trong một quốc gia
nói riêng và giữa các quốc gia trong cộng đồng nói chung. Pháp luật tạo ra một “hành
lang pháp lý” cho mọi hoạt động của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp... Có thể nói
pháp luật là một công cụ không thể thiếu trong việc duy trì một trật tự pháp luật theo
đúng ý chí cuả nhà làm luật. Pháp luật là một công cụ bảo vệ quyền lợi của các doanh
nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân, phòng ngừa mọi hành vi vi phạm.
Trong những năm qua, chúng ta đã có những cố gắng to lớn trong việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật theo hướng hội nhập với khu vực và quốc tế. Việc tham gia
ngày càng nhiều của Việt Nam vào các tổ chức quốc tế cũng như ký và gia nhập với số
lượng ngày càng tăng các điều ước quốc tế song phương và đa phương thể hiện mong
muốn của Việt Nam muốn hợp tác với tất cả các quốc gia. Chẳng hạn, chúng ta đã có
những nỗ lực to lớn trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về
đầu tư nước ngoài nói riêng, trong đó phải kể đến lần sửa đổi, bổ sung của luật đầu tư
nước ngoài năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Pháp luật về đầu tư nước
ngoài của Việt Nam nhìn chung được đánh giá là khá thông thoáng, hấp dẫn, tiếp cận
gần với thông lệ và tập quán quốc tế trong lĩnh vực này. Luật đầu tư nước ngoài sửa
đổi, bổ sung năm 2000 đã có một số quy định nhằm tháo gỡ kịp thời những khó khăn,
GVHD: TS. PHAN TRUNG HIÊN

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

vướng mắc và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh có

vốn đàu tư nước ngoài, mở rộng quyền tự chủ trong tổ chức, quản lý, kinh doanh của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...
Với những yêu cầu mang tính cấp thiết phải thay đổi và phát huy hom nữa về
mọi mặt của đất nước. Nhưng điều quan trọng hàng đầu, mang tính quyết định đó là
phải có bộ máy nhà nước chặt chẽ với những chính sách phù hợp. Việt Nam có được
vị thế hiện nay trên trường quốc tế là do quá trinh phát triển không ngừng về tất cả các
lĩnh vực. Trong đó điểm quan trọng nhất đó là sự thay đổi đường lối lãnh đạo của
Đảng, bộ máy quản lý nhà nước, đặc biệt là những hoạt động của Quốc hội đã có nhiều
thay đổi về chất lẫn về lượng, từ tổ chức hoạt động cho đến bình thức hoạt động góp
phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
“Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Muốn tìm hiểu về
pháp luật của một đất nước nhất là những nước theo chế độ chủ nghĩa xã hội như nước
ta thì trước tiên phải am hiểu được cách thức tổ chức cũng như hoạt động của Quốc
hội (chủ thể quan trọng nhất có quyền điều hành mọi hoạt động của đất nước).
Trong quá trình vận động đất nước đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì
đất nước ta đã thông qua bốn bản Hiến pháp và cũng đồng nghĩa với bốn cách thức tổ
chức và hoạt động khác nhau của Quốc hội. Nghiên cứu về tính thống nhất pháp luật
của các cơ quan trực thuộc Quốc hội là nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tính
thống nhất giữa các cơ quan của Quốc hội về lĩnh vực pháp luật.
Việc nghiên cứu để thấy rõ vấn đề đảm bảo tính thống nhất pháp luật giữa các
cơ quan trực thuộc Quốc hội là một điều cần thiết và giúp cho chúng ta có cách nhìn
đúng đắn hơn nữa nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nước ta trong giai đoạn
hội nhập và phát triển, phù hợp với các quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
7. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính ở đây là Quốc hội_với tư cách là cơ quan quyền
lực cao nhất của bộ máy nhà nước, bao gồm các cơ quan chuyên môn trong Quốc hội
như: ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, đại

biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội. Ngoài ra còn nghiên cứu về mối quan hệ
tương hỗ lẫn nhau giữa các cơ quan này với nhau.
8. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tìm hiểu các quy định trong Hiến pháp về cơ cấu tổ chức của Quốc hội,
các cơ quan trực thuộc bao gồm ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các
GVHD: TS. PHAN TRUNG HIỀN ^2~- SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ủy ban của Quốc hội. Ngoài ra còn tìm hiểu các bình luận, bài viết của các nhà nghiên
cứu về pháp luật và các hội thảo về pháp luật.
9. Phương pháp nghiên cứu
Đối với đề tài nghiên cứu này thì phưomg pháp thích hợp nhất là phương pháp
sưu tầm và phân tích tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau. Ngoài ra kênh thông tin quan
trọng nhất phục vụ cho hoạt động nghiên cứu là thực tế tổ chức và hoạt động của
Quốc hội nước ta hiện nay. Ngoài ra em còn sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu,
dẫn chứng phân tích những quy định cụ thể từ luật và tìm hiểu trích lọc các ý kiến
phân tích từ tạp chí, các chuyên đề nghiên cứu có liên quan.
10. Ctf cấu luận văn:
Luận vãn được chia làm 3 phần: lời nói đầu, phần nội dung và kết luận. Phần
nội dung bao gồm ba chương, trong đó:
Chương 1 Giới thiệu chung về các cơ quan trực thuộc Quốc hội
Chương 2 Vai trò của các cơ quan trực thuộc Quốc hội trong việc bảo đảm tính
thống nhất của pháp luật
Chương 3 Thực tiễn của việc bảo đảm tính thống nhất của pháp luật trong các
cơ quan trực thuộc Quốc hội
Sau cùng em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của thầy Phan Trung Hiền đã
giúp em hoàn thành đề tài luận văn và mong được sự đóng góp để hoàn thiện đề tài này
từ quý thầy cô, các bạn sinh viên và những người có cùng mối quan tâm đến vấn đề đảm

bảo tính thống nhất pháp luật của các cơ quan trực thuộc Quốc hội.
Xin chân thành cảm ơn!

GVHD: TS. PHAN TRUNG HIÊN

-3 -

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

CHƯƠNG1

GIỚI THIỆU CHUNG VÈ CÁC cơ QUAN TRựC THUỘC QUÓC HỘI

1.3 Stf lược về lịch sử của Quốc hội
Việt Nam là một nước văn hiến từ ngàn xa. Nhân dân Việt Nam vốn có truyền
thống đấu tranh anh hùng bất khuất vì độc lập tự do của dân tộc. Từ giữa thế kỷ XIX
trở đi, nhân dân Việt Nam đã không ngừng đứng dậy đấu tranh chống lại ách thống trị
của thực dân Pháp. Trong cao trào giải phóng dân tộc, ngày 16/8/1945 Đại hội đại biểu
quốc dân họp tại Tân Trào. Đại hội là hình ảnh tiêu biểu của khối đoàn kết dân tộc, đã
hiệu triệu toàn dân nổi dậy giành chính quyền dẫn đến thắng lợi của cuộc Cách mạng
Tháng Tám 1945. Ngày 2-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc
bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Ngày 3-9, trong
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị với Chính
phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.
Ngày 06/01/1946, tất cả công dân Việt Nam không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân
tộc, tôn giáo, chính kiến, v.v..., từ 18 tuổi trở lên đã tham gia cuộc Tổng tuyển cử, tự
do lựa chọn người đại diện cho mình vào Quốc hội, cơ quan "quyền lực tối cao" để ấn

định cho nước Việt Nam một Hiến pháp dân chủ Cộng hoà.
Sự ra đời của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà và Quốc hội đã lập ra
Chính phủ liên hiệp kháng chiến, thông qua bản Hiến pháp (1946) là thành quả của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam gần 9 thập kỷ, trực tiếp là
15 năm đấu tranh dưới ngọn cờ Độc lập Tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh do Đảng
Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng cộng sản Việt Nam) lãnh đạo là hiện thực sinh
động về thể chế Nhà nước Cộng hoà dân chủ, một loại hình Nhà nước Pháp quyền
cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946) vốn là một Quốc hội lập
hiến. Song do hoàn cảnh cách mạng và kháng chiến nên Hiến pháp năm 1946 chưa
được ban hành. Quốc hội đã giao cho Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội căn cứ
vào các nguyên tắc đã định của Hiến pháp để thực thi việc lập pháp. Với tư cách là cơ
quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Quốc hội đã giải quyết
mọi vấn đề của toàn quốc, lập hiến và lập pháp, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các
hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài, Quốc hội khoá I đã hoàn thành trách nhiệm
của mình đối với một giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước.
SVTH: BÙI QUỐC THÀNH
-4GVHD: TS. PHAN TRUNG HIÊN


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

(khoá I), Quốc hội vì dân, vì nước, Quốc hội thống nhất toàn quốc, Quốc hội kháng
chiến và kiến quốc, Quốc hội dân tộc dân chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây
là bản chất và là đặc điểm độc đáo xuyên suốt của Quốc hội, hàm chứa nhiều bài học
quý về tổ chức và hoạt động của cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân Việt Nam.
Trong bốn nhiệm kỳ: Quốc hội khóa II (1960 - 1964), khóa III (1964 - 1972),
khóa IV (1972 - 1975) và khóa V (1975 - 1976), đặc biệt Quốc hội khóa V tuy là
Quốc hội có nhiệm kỳ ngắn nhất, từ tháng 4/1975 đến tháng 4/1976, nhưng là Quốc
hội đầu tiên nhân dân ta hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình, bước vào kỷ nguyên

mới - kỷ nguyên cả nước thống nhất tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Đã thể hiện đầy đủ bản
chất là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng
cốt là liên minh công nông. Trong điều kiện đất nước thống nhất, sự kiện lịch sử có ý
nghĩa trọng đại là tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả
nước - Quốc hội khóa VI (1976 - 1981) là Quốc hội của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Sự ra đời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mở đầu cho
bước phát triển mới trong quá trình đi lên của đất nước. Quốc hội đã có những đóng
góp tích cực vào việc xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất bảo vệ chính quyền
trong điều kiện hòa bình, xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn quốc. Tại kỳ
họp thứ 7, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 1980.
Được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp 1980, Quốc hội khóa VII
(1981 - 1987), Quốc hội khóa VIII (1987 - 1992) là Quốc hội của thời kỳ bắt đầu
công cuộc đổi mới và hoạt động trong giai đoạn bước ngoặt của đất nước đã đẩy mạnh
công tác lập pháp, tăng cường công tác giám sát và việc quyết định các vấn đề quan
trọng khác để đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước. Tại kỳ họp lần thứ 11
(tháng 4/1992), Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp của thời kỳ
đổi mới, phù họp với thực tế của đất nước và xu thế tiến bộ của thời đại trên cơ sở điều
kiện, hoàn cảnh, đặc điểm của Việt Nam.
Hiến pháp năm 1992 và đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001, là cơ sở tổ chức và
hoạt động của các khóa Quốc hội khóa IX (1992 - 1997), khóa X (1992 - 2002), khóa
XI (2002 - 2007) và khóa XII. Quốc hội vừa qua đã đạt được những thành tựu rất đáng
kể, tạo mọi điều kiện pháp lý thuận lợi cho quá trình đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế. Với vai trò là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp được củng
cố qua việc giảm dần ban hành pháp lệnh, tăng cường ban hành luật. Cộng thêm việc
các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội có thể đề xuất, thực hiện việc soạn
thảo và trình dự án luật. Thành công trong việc áp dụng kỹ thuật lập pháp mới, là ban
hành một luật để sửa đổi, bổ sung đồng thời các quy định trong các đạo luật khác có
liên quan. Trong hoạt động giám sát có bước tiến triển mới, với những kết quả thiết
GVHD: TS. PHAN TRUNG HIÊN


-5-

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

thực, kiểm soát tất cả các hoạt động, vẫn giữ và tiếp tục tạo mối quan hệ đối ngoại tốt
đẹp với tất cả các nước trên thế giới. Nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Được tổ chức bầu cử ngày 20/5/2007 thành công tốt
đẹp. Quốc hội khóa XII đưa nước ta cùng hòa nhịp phát triển với quốc tế. Tạo dựng và
giữ vững mối quan hệ tốt đẹp trên thế giới. Qua đó khẳng định vị trí của Việt Nam trên
trường quốc tế, đáp ứng được niềm hy vọng của nhân dân.
Hiện nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đang tiến hành sự nghiệp đổi
mới toàn diện để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, phát triển kinh tế, văn
hoá, cải thiện đời sống nhân dân, từng bước hoàn thiện nền dân chủ, làm cho dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Trong sự nghiệp đổi mới, Quốc hội đang
phát huy vai trò của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, từng bước hoàn thiện việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân, tăng cường pháp
chế và hiệu lực quản lý của bộ máy Nhà nước. Truyền thống yêu nước, cách mạng và
những kinh nghiệm hoạt động của Quốc hội khoá 1 dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh đang tiếp tục khơi nguồn sáng tạo và soi sáng con đường cho Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam vươn lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng
Nhà nước pháp quyền mang đậm bản sắc Việt Nam và dấu ấn của thời đại.
1.4 Vị trí, vai trò của Quốc hội
Vị trí pháp lý là một thuật ngữ chuyên ngành của khoa học pháp lý có nguồn
gốc latinh “Legal stataus” dùng để khái quát hóa vị trí, mô hình của một cơ quan nhà
nước nào đỏ trong hệ thống các cơ quan nhà nước thông qua các quy định của pháp
luật. Hay nói một cách khác, thông qua các quy định của pháp luật, chúng ta xác định
được vị trí của Quốc hội đứng ở vị trí nào và hình dáng ra sao trong hệ thống các cơ

quan nhà nước.
Điều 83, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ
kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu của tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công
dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ
máy nhà nước”.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, bởi vì Quốc hội là cơ quan
duy nhất được nhân dân trực tiếp bầu ra. Trong hệ thống các cơ quan nhà nước, nhân
GVHD: TS. PHAN TRUNG HIÊN

-6-

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

dân còn trực tiếp bầu ra các đại biểu hội đồng nhân dân các cấp. Nhưng, Hội đồng
nhân dân chỉ là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân từng địa
phương bầu ra. Chính việc Quốc hội do khối đại cử tri toàn quốc bầu ra từ những đại
diện của mọi thành phần trong xã hội, từ mọi địa phương trên đất nước tạo ra cho
Quốc hội ưu thế đặc biệt, hơn hẳn các cơ quan nhà nước khác trong bộ máy nhà nước.
Vị trí pháp lý của Quốc hội còn thể hiện rõ trong các mối quan hệ được pháp
luật quy định giữa Quốc hội với các cơ quan nhà nước khác. Trước hết phải kể đến
mối quan hệ giữa Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất với Chính phủ - cơ quan

chấp hành cao nhất của nhà nước Việt Nam. Theo tiến trình của bốn bản Hiến pháp, cơ
quan hành pháp ngày càng được xác định rõ hơn là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Neu như Hiến pháp 1946 quy định Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà
nước (Điều 43, 44) thì Hiến pháp năm 1959 và năm 1980 ngoài việc quy định Hội
đồng Chính phủ (Hội đồng bộ trưởng) là cơ quan hành chính cao nhất của nhà nước,
còn xác định rõ là cơ quan chấp hành cao nhất và cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất (Điều 79 Hiến pháp 1959 và Điều 104 Hiến pháp 1980). Hiến pháp năm 1992 quy
định: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội” (Điều 109). Chính phủ phải trực
thuộc Quốc hội và phải báo cáo trước Quốc hội.
Đối với các cơ quan nhà nước khác ở trung ương: Tòa án nhân dân tối cao và
Viện kiệm sát nhân dân tối cao đều do Quốc hội thành lập bằng cách bầu ra những
người đứng đàu hai cơ quan nhà nước này. Và cũng như Chính phủ, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trực thuộc Quốc hội và
đều phải báo cáo trước Quốc hội.
Việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước không theo nguyên tắc phân
quyền, mà theo nguyên tắc tập quyền (quyền lực nhà nước không phân chia thành
quyền lực lập pháp, quyền lực hành pháp và quyền lực xét xử tư pháp) là cơ sở để
Quốc hội trở thành cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Với vị trí, tính chất như thế nên chức năng của Quốc hội bao gồm những
phương diện lớn như sau:
■ Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp;
■ Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, những nguyên
tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ của xã hội và
hoạt động của công dân.
■ Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
nhà nước, nhằm đảm bảo những quy định của hiến pháp và pháp luật được thi hành
triệt để và thống nhất, bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ, có hiệu lực và hiệu quả.
GVHD: TS. PHAN TRUNG HIỀN ~^T- SVTH: BÙI QUỐC THÀNH



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Quốc hội nước ta có vị trí và vai trò rất quan trọng trong Nhà nước pháp quyền
XHCN. Quốc hội đã trải qua một chặng đường dài phát triển, đã khẳng định vai trò, vị
trí của mình là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất. Hoạt động của Quốc hội về lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước ngày càng được tăng cường. Bước đường trưởng thành của
Quốc hội là bằng chứng của việc thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng không
ngừng củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước ta, Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân và vì dân.
> Vai trò của Quốc hội trong hoạt động lập pháp
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân, Quốc hội đóng một vai trò quan trọng trong việc hoạch
định đường lối chính sách, xây dựng pháp luật, quyết định về những vấn đề quan trọng
của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ các cơ quan nhà
nước. Trong số các thẩm quyền được Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy Nhà
nước quy định thì thẩm quyền ban hành luật của Quốc hội là quan trọng nhất. Thông
qua hoạt động này mà các đại biểu Quốc hội biến ý chí, nguyện vọng của nhân dân
thành các quy định của pháp luật, tạo ra cơ sở để mọi chủ thể (cơ quan, tổ chức, cá
nhân...) hoạt động theo.
Đe hoạt động của các chủ thể trong xã hội theo đúng ý định của các nhà làm
luật thì trước hết chất lượng của các luật được Quốc hội ban hành phải được đặc biệt
trú trọng về nội dung và sự thực thi. Các luật được thông qua phải thể hiện được các
quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, phải chứa đựng trong đó những giá trị mà
dân tộc, nhân loại thừa nhận như sự công bằng, bình đẳng,...
Một đạo luật được đánh giá là có chất lượng thì trước hết ngôn ngữ của nó phải
dễ hiểu, trong sáng để ai đọc lên cũng có thể hiểu và áp dụng được. Một quy định của
luật mà có thể hiểu theo nghĩa này trong ngữ cảnh này, trong ngữ cảnh khác thì hành
xử khác thì không thể nói đó là một luật có chất lượng. Hơn nữa, yêu cầu đối với chất

lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội trong một Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân được đặt ra hết sức cấp thiết.
Trên cơ sở những đạo luật, bộ luật do Quốc hội thông qua mà các cơ quan quản
lý nhà nước ban hành những văn bản hướng dẫn thi hành đối với mọi hoạt động trong
xã hội.
Như vậy, chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội ảnh hưởng trực tiếp tới
hoạt động ban hành các văn bản pháp quy dưới luật của các cơ quan quản lý nhà nước,
tới hoạt động thực thi và áp dụng pháp luật của các cơ quan, tổ chức và của mọi công
dân trong xã hội. Nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội là góp phần
GVHD: TS. PHAN TRUNG HIÊN

-8-

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


1

Xem thêm Điều 84, hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

khẳng định vị trí và vai trò của Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
Nhà nước ta.
>

Vai

trò


của

Quốc

hội

trong

nhà

nước

pháp

quyền

Vói chức năng của mình là lập hiến, lập pháp, thành lập nên các cơ quan nhà
nước, giám sát đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước, Quốc hội có vai
trò quan trọng trong việc thực hiện các yêu cầu của nhà nước pháp quyền. Nhà nước
pháp quyền có những yêu càu riêng khác với một Nhà nước không phải là Nhà nước
pháp quyền. Khi chúng ta đã khẳng định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam thì Nhà nước của chúng ta phải đứng trước những yêu cầu mới.
Do vậy, nếu như pháp luật của Nhà nước pháp quyền có những tiêu chí riêng thì
cơ quan lập pháp là Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền cũng phải có những yêu cầu
đổi mới. Khi chúng ta đã khẳng định trong Hiến pháp việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam thì cũng có nghĩa là Quốc hội của chúng ta cũng phải được đổi mới
để đáp ứng các yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Pháp luật trong Nhà
nước pháp quyền phải có những tiêu chí riêng như tính công bằng, nhân đạo, vì quyền
con người, tính công khai, minh bạch, khả năng thực thi cao...Những tiêu chí đó đòi
hỏi pháp luật của Quốc hội cũng phải thích ứng trước những yêu cầu mới trong điều

kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền.
1.3 Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội
Trong tất cả các yếu tố (các chế định pháp luật) tạo thành vị trí pháp lý của
Quốc hội, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội đóng một vai trò rất quan trọng. Vì
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước tối cao trong bộ máy nhà nước, do vậy nhiệm
vụ quyền hạn của Quốc hội chỉ quy định trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất
của nhà nước, tức là trong Hiến pháp của nhà nước.
1.3.1 Lập hiến và lập pháp
Từ Hiến pháp năm 1946 đến nay, chúng ta đều dùng thuật ngữ “nhiệm vụ và
quyền hạn “ để nói lên thẩm quyền của Quốc hội. Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội
được Hiến pháp mới sửa đổi năm 2001 quy định tại Điều 84 gồm 14 điểm 1. Quốc hội
là cơ quan duy nhất có quyền thông qua Hiến pháp, thay đổi Hiến pháp; thông qua luật
và thay đổi các đạo luật. Hiến pháp là đạo luật cơ bản nhất có hiệu lực pháp lý tối cao
quy định việc tổ chức quyền lực nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế,.. .Với tính
chất đặc biệt nghiêm trọng như vậy của các quy định Hiến pháp, do đó việc thông qua

GVHD: TS. PHAN TRUNG HIÊN

-9-

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


2

Một số nước quy
hội sau này chi có

định


hiến

pháp

phải

do

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

một Quốc hội
quyền lập pháp.

đặc

biệt

thông

qua

gọi



Quốc

hội

lập


hiến.

Hiến pháp không thể thuộc thẩm quyền của một cơ quan nào khác trong bộ máy nhà
nước ngoài Quốc hội2.
Làm luật và làm hiến pháp là nhiệm vụ quan trọng nhất của Quốc hội. Quốc hội
hoạt động có hiệu quả chỉ khi nào Quốc hội thực hiện tốt nhiệm vụ lập hiến và lập
pháp. Chính vì lẽ đó, có nhiều người cho rằng Quốc hội có chức năng quan trọng nhất
là làm luật.
Có thể nói nhiệm vụ lập pháp là khá quan trọng. Các đạo luật có tác dụng sẽ
điều tiết mọi hoạt động của xã hội, định hướng cho xã hội phát triển. Chính vì lẽ đó, ở
nước ta những năm của thời kỳ đối mới, Quốc hội phải chỉnh lý lại một loạt các văn
bản luật đã được thông qua ở thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, cho phù họp với tinh
thần của hiến pháp mới. Bên cạnh đó phải tiếp tục ban hành các đạo luật mới đang cần
thiết cho việc quản lý xã hội hiện nay theo yêu cầu của công cuộc đổi mới quản lý kinh
tế, từ cơ chế quản lý tập trung bao cấp, sang cơ chế thị trường và đổi mới hệ thống
chính trị. Khi đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), nhiệm
vụ lập pháp của Quốc hội càng nặng nề hơn, vì hệ thống pháp luật của Việt Nam
không những chỉ phản ánh yêu cầu của Việt Nam, mà còn phải phù họp với hệ thống
của pháp luật quốc tế, đặc biệt là pháp luật thương mại, kinh tế.
1.3.4 Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
Với tư cách là cơ quan quyền lực tối cao, đứng đầu toàn bộ các cơ quan họp
thành bộ máy nhà nước, Quốc hội phải thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề
quan trọng thuộc về sinh mệnh của đất nước. Đó là những vấn đề liên quan đến chiến
tranh và hòa bình, các biện pháp đặc biệt nhằm đảm bảo quốc phòng và an ninh quốc
gia. Quốc hội phải thay mặt nhân dân cả nước quyết những đường hướng phát triển
của đất nước. Đó là việc Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;
quyết định dự toán ngân sách tài chính, tiền tệ quốc gia. Quốc hội phải quyết định
những vấn đề có liên quan đến cơ cấu lãnh thổ quốc gia. Đó là việc nhập, chia, điều
chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thành lập hoặc giải thể đơn vị

hành chính kinh tế đặc biệt.
Thể hiện quyền lực tối cao của mình, không những chỉ tập trung quyết định
những vấn đề cơ bản thuộc về chức năng đối nội của nhà nước, Quốc hội còn phải
quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại, bằng cách quy định những nguyên tắc cơ
bản của chính sách đối ngoại, phê chuẩn hoặc bãi bỏ các Điều ước quốc tế đã ký kết
hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước.

GVHD: TS. PHAN TRUNG HIÊN

- 10-

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH

Các

Quốc


3

Xem Điều 83, Hiến pháp năm 1992.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

1.3.5 Quyền giám sát tối cao
Xét cho cùng hiến pháp, luật và các nghị quyết khác của Quốc hội đều là những
quyết định của Quốc hội. Tính quyền lực nhà nước tối cao của Quốc hội còn được thể
hiện ở chỗ Quốc hội thể hiện giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà nước, của
các tổ chức xã hội và mọi công dân có liên quan. Quyền giám sát này được hiến pháp
gọi là quyền giám sát tối cao3. Khác với quyền giám sát của Nghị viện các nước phát

triển, Quốc hội Việt Nam có cả quyền giám sát đối với hoạt động của nguyên thủ quốc
gia - Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động của các cơ quan
tư pháp và cả các hoạt động của mọi công dân.
Kiểm tra, giám sát việc tuân thủ hiến pháp và pháp luật là một việc rất quan
trọng, góp phần tạo nên sự ổn định trật tự an toàn và kỷ cương xã hội. Kiểm tra, giám
sát việc thi hành pháp luật được pháp luật giao cho nhiều cơ quan đảm nhiệm. Ví dụ
như các Viện kiểm sát nhân dân, các ban thanh tra nhân dân và các thanh tra nhà
nước,...để tránh sự chồng chéo khi thực hiện nhiệm vụ này, theo tinh thần của hiến
pháp, Quốc hội chỉ tập trung giám sát hoạt động chấp hành hiến pháp, luật và các nghị
quyết của Quốc hội đối với các cơ quan nhà nước trung ương: Chủ tịch nước, Phó Chủ
tịch nước, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chính việc tập trung giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước trung ương là cơ sở tạo nên chức năng giám sát tối cao
của Quốc hội. Và cũng chính thông qua hoạt động giám sát đó, Quốc hội thực hiện
được sự giám sát toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói trên, Quốc hội làm việc theo chế độ hội
nghị, các vấn đề được thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số.
Tóm lại, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất có quyền quyết định
những vấn đề quan trọng nhất thuộc chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước Việt
Nam. Quyền hạn và trách nhiệm của Quốc hội có thể tập trung vào bốn nhóm sau đây:
> Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp;
> Quốc hội có quyền thành lập các cơ quan nhà nước trung ương, quy định những
nguyên tắc cơ bản trong việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước;
> Quốc hội quyết định những biện pháp quan trọng nhằm xây dựng, phát triển,
bảo vệ đất nước: thông qua kế hoạch phát triển xã hội, dự toán và quyết toán ngân sách
nhà nước, chiến tranh hòa bình;
> Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của toàn bộ bộ
máy nhà nước.

GVHD: TS. PHAN TRUNG HIÊN


- 11 -

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

1.4 Tổng thể về các Ctf quan trực thuộc của Quốc hội
1.4.1 Vị trí và vai trò của ủy ban thường yụ Quốc hội
1.4.1.1 Vị trí của ủy ban thường vụ Quốc hội
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội bao gồm một Chủ tịch, các Phó Chủ tịch (hiện tại có 5 Phó Chủ
tịch) và các uỷ viên do Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Quốc hội
làm các Phó Chủ tịch, số Phó Chủ tịch Quốc hội và số ủy viên ủy ban thường vụ
Quốc hội do Quốc hội quyết định. Tổng số các uỷ viên thường vụ Quốc hội trong
nhiệm kỳ hiện tại là 15 người. Các uỷ viên thường vụ Quốc hội là các đại biểu chuyên
trách và không tham gia vào Chính phủ.
1.4.1.2 Vai trò của ủy ban thường vụ Quốc hội
Theo Hiến pháp năm 1992 quy định, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có 12 quyền
và nghĩa vụ, trong đó có quyền thông báo, triệu tập và chủ toạ các kỳ họp của Quốc
hội, giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh, và ban hành pháp lệnh về những vấn đề
được Quốc hội phân công. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giám sát và chỉ đạo hoạt động
của Hội đồng nhân dân, chỉ đạo, điều chỉnh và phối họp hoạt động của Hội đồng dân
tộc và các Uỷ ban của Quốc hội.
Thành viên ủy ban thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên
Chính phủ, làm việc theo chế độ chuyên trách.
ủy ban thường vụ Quốc hội mỗi khóa thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình
cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra ủy ban thường vụ Quốc hội mới.
1.4.2 Vị trí của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội

Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội là những cơ quan của Quốc hội,
làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. Nhiệm kỳ của Hội đồng dân tộc
và các ủy ban của Quốc hội theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội có nhiệm vụ thẩm tra dự án luật,
kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác; thẩm tra những báo cáo được
Quốc hội hoặc ủy ban thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, ủy ban thường vụ
Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát;
kiến nghị với ủy ban thường vụ Quốc hội về việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
và những vấn đề trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội có quyền kiến nghị ủy ban thường
vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ

GVHD: TS. PHAN TRUNG HIÊN

- 12-

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì báo cáo công tác trước ủy
ban thường vụ Quốc hội.
1.4.3 Vai trò của Hội đồng dân tộc
Hội đồng dân tộc gồm có Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên, số Phó
Chủ tịch và số ủyy viên Hội đồng dân tộc do Quốc hội quyết định.
Thành viên Hội đồng dân tộc do Quốc hội bàu trong số các đại biểu Quốc hội.
Số thành viên hoạt động chuyên trách do ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định.
Chủ tịch Hội đồng dân tộc có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

> Điều hành công việc của Hội đồng dân tộc;
> Triệu tập và chủ trì các phiên họp của Hội đồng dân tộc;
> Giữ mối liên hệ thường xuyên với các thành viên của Hội đồng dân tộc;
> Được tham dự các phiên họp của ủy ban thường vụ Quốc hội; được mời tham
dự các phiên họp của Chính phủ bàn việc thực hiện chính sách dân tộc;
> Thay mặt Hội đồng dân tộc giữ mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức hữu quan;
> Thực hiện một số nhiệm vụ khác do ủy ban thường vụ Quốc hội giao.
Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc giúp Chủ tịch Hội đồng dân tộc thực hiện nhiệm
vụ theo sự phân công của Chủ tịch Hội đồng dân tộc. Khi Chủ tịch Hội đồng dân tộc
vắng mặt thì một Phó Chủ tịch được Chủ tịch ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Chủ tịch.
Tất cả các thành viên trong Hội đồng dân tộc đều là người dân tộc thiểu số. Hội
đồng dân tộc nghiên cứu và đề xuất các hoạt động của Quốc hội về vấn đề dân tộc,
giám sát việc thực thi các chính sách dân tộc, đề xuất các chương trình phát triển kinh
tế xã hội ở các vùng miền núi và những vùng có đồng bào dân tộc sinh sống.
1.4.4 Vai trò của các ủy ban của Quốc hội
ủy ban của Quốc hội gồm có Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các ủy viên.
Số Phó Chủ nhiệm và số ủy viên ủy ban do Quốc hội quyết định.
Thành viên ủy ban của Quốc hội do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc
hội. Số thành viên hoạt động chuyên trách do ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định.
Chủ nhiệm ủy ban của Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
> Điều hành công việc của ủy ban;
> Triệu tập và chủ trì các phiên họp của ủy ban;
> Giữ mối liên hệ thường xuyên với các thành viên của ủy ban;
> Thay mặt ủy ban giữ mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức hữu quan;
> Thực hiện một số nhiệm vụ khác do ủy ban thường vụ Quốc hội giao.
GVHD: TS. PHAN TRUNG HIỀN - 13 -

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Phó Chủ nhiệm ủy ban giúp Chủ nhiệm ủy ban thực hiện nhiệm vụ theo sự
phân công của Chủ nhiệm ủy ban. Khi Chủ nhiệm ủy ban vắng mặt thì một Phó Chủ
nhiệm được Chủ nhiệm ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ nhiệm.
Các uỷ ban của Quốc hội nghiên cứu và xem xét các dự luật, các sáng kiến xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo pháp lệnh cũng như dự thảo các văn bản
luật khác và các báo cáo theo sự phân công của Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội. Các uỷ ban này góp ý cho Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về chưomg
trình lập pháp. Các uỷ ban này tiến hành giám sát, điều tra trong thẩm quyền của mình
và thực thi các quyền được pháp luật quy định. Các uỷ ban này cũng đưa ra các đề
xuất về những vấn đề liên quan đến lĩnh vực hoạt động của mình.
Hiện nay Quốc hội có 9 uỷ ban:


Uỷ ban pháp luật;



ủy ban tư pháp;



ủy ban kinh tế;



ủy ban tài chính, ngân sách;




Uỷ ban Quốc phòng và An ninh;



Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh thiếu niên và nhi đồng;



Uỷ ban các vấn đề xã hội;



Uỷ ban Khoa học Công nghệ và Môi trường;



Uỷ ban đối ngoại.
Tóm lại, việc nghiên cứu vị trí, vai trò của Quốc hội và các cơ quan trực thuộc

Quốc hội giúp ta hiểu rõ và hoàn thiện hơn nữa việc thống nhất pháp luật giữa các cơ
quan đó với nhau, từ khi hình thành trong lịch sử đến giai đoạn hiện nay Quốc hội vẫn
luôn giữ vai trò chủ đạo của mình về thực hiện các chức năng, quyền hạn đảm bảo cho
nhà nước có một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện và góp phần cho đất nước ta
ngày càng phát triển hơn trong thời kỳ hội nhập.

GVHD: TS. PHAN TRUNG HIÊN

- 14-


SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

CHƯƠNG 2
VAI TRÒ CỦA CÁC Cơ QUAN TRựC THUỘC QUÓC HỘI TRONG VIỆC
BẢO ĐẢM TÍNH THÓNG NHẤT CỦA PHÁP LUẬT
.. .^rCSìs,...
Để làm rõ hơn các vấn đề về đảm bảo tính thống nhất pháp luật của các cơ quan
trực thuộc Quốc hội, tiếp theo tác giả nghiên cứu về tính thống nhất pháp luật, các cơ
quan tham gia vào tính thống nhất, vai trò chung của các cơ quan và của từng cơ quan
trực thuộc Quốc hội trong việc thống nhất pháp luật với nhau.
2.1 Tính thống nhất của pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã
hội do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền và được thực hiện
bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một kiểu Nhà nước và một kiểu pháp luật
tương ứng. Lịch sử xã hội loài người đã có các kiểu pháp luật chủ nô, pháp luật phong
kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Pháp luật hoàn toàn không phải là
sản phẩm thuần túy của lý tính hay bản tính tự nhiên phi giai cấp của con người như
học thuyết pháp luật tự nhiên quan niệm. Pháp luật, như Mác - Ăng - ghen phân tích,
chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp, có Nhà nước; bản chất của
pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của Nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật cũng mang tính
xã hội, bởi vì ở mức độ nhất định, nó phải thể hiện và bảo đảm những yêu cầu chung
của xã hội về văn hóa, phúc lợi, môi trường sống...

về


mặt này, pháp luật xã hội chủ

nghĩa có sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội.
Pháp luật còn là một bộ phận quan trọng của cấu trúc thượng tầng xã hội. Nó do
cơ sở hạ tầng quyết định, nhưng có tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Nếu pháp
luật phản ánh đúng đắn các quy luật vận động và phát triển của xã hội, nhất là các quy
luật kinh tế thì pháp luật sẽ có tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Ngược lại, pháp luật sẽ kìm hãm sự phát triển đó.
Theo Lênin, “một đạo luật là một biện pháp chính trị”. Trong lịch sử, bất cứ
giai cấp cầm quyền nào cũng dựa vào pháp luật để thể hiện và thực hiện chính trị của
giai cấp mình. Pháp luật trở thành hình thức thể hiện tập trung, trực tiếp chính trị của
giai cấp cầm quyền, là một công cụ sắc bén thể hiện quyền lực của Nhà nước thực hiện
những yêu cầu, mục đích, nội dung chính trị của nó. Do đó, Nhà nước nào, pháp luật
ấy. Những thuộc tính cơ bản của pháp luật là tính quy phạm, tính cưỡng chế, tính
khách quan, tính Nhà nước, tính hệ thống và tương đối ổn định.
GVHD: TS. PHAN TRUNG HIÊN

15

-

-

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Pháp chế là một chế độ và trật tự pháp luật trong đó tất cả các cơ quan Nhà
nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật

một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
Pháp chế và pháp luật có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng không đồng nhất.
Pháp chế là một phạm trù thể hiện sự đòi hỏi và những yêu cầu đối với các chủ thể
pháp luật, phải triệt đế tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật trong đời sống
xã hội.
Một nền pháp chế thống nhất, vững chắc là cơ sở cần thiết cho hệ thống pháp
luật điều chỉnh cỏ hiệu quả các quan hệ xã hội, phát huy được hiệu lực của mình; mặt
khác, chỉ khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù họp và được sửa đổi,
điều chỉnh, bổ sung kịp thời khi cần thiết, thì nền pháp chế mới được củng cố và tăng
cường.
Pháp chế càn được đề cao thành nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước. Nó đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước phải được tiến
hành theo đúng quy định của pháp luật; mọi công chức Nhà nước phải nghiêm chỉnh
và triệt để tôn trọng pháp luật khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, mọi vi
phạm pháp luật đều phải xử lý nghiêm minh. Các tổ chức, chính trị, xã hội cũng có
nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của Nhà nước. Thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế là cơ sở
bảo đảm cho bộ máy Nhà nước hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, phát huy đầy đủ hiệu
lực của mình và bảo đảm công bằng xã hội. Điều 12 Hiến pháp 1992 của nước ta quy
định “Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa”.
Tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi bộ máy Nhà nước, các
địa phương và mọi công dân trong cả nước phải nhận thức và thực hiện giống nhau đối
với toàn bộ hệ thống pháp luật đã ban hành. Nó không cho phép mỗi nơi có luật lệ
riêng, duy trì tình trạng “phép vua thua lệ làng”, thực hiện pháp luật của nhà nước theo
cách “vận dụng” riêng của mình. Nó chống lại thói cục bộ, địa phương. Bảo đảm tính
thống nhất của pháp chế là điều kiện không thể thiếu để thực hiện dân chủ đối với mọi
công dân và quyền lực của nhà nước.
Bộ luật và luật đều là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành để cụ
thể hóa Hiến pháp nhằm điều chỉnh các loại quan hệ xã hội trong các lĩnh vực hoạt
động của xã hội. Các Bộ luật và luật này có giá trị pháp lý cao (chỉ sau Hiến pháp) và

có phạm vi tác động rộng lớn đến đông đảo các tầng lớp nhân dân. Vì vậy khi xây
dựng các văn bản dưới luật phải dựa trên cơ sở các quy định thể hiện trong các văn
bản Bộ luật và luật, không được trái với các quy định đó. Các Bộ luật và luật thường
GVHD: TS. PHAN TRUNG HIỀN - 16 -

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


4
5

Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mói (ĐH VI, vn, VIII, IX). NXB Chính trị QG. H.2005, tr.328.
Vãn kiện Đại hội
Đảng thòi kỳ đổi mói (ĐH VI, vn, VIII, IX). NXB Chính trị QG. H.2005, tr.510.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

được ban hành theo một trình tự hết sức chặt chẽ, gồm 4 giai đoạn : soạn thảo dự án
luật, thảo luận dự án luật, thông qua luật, và công bố luật.
Tuy nhiên cần phân biệt giữa Bộ luật và luật. Bộ luật là một văn bản quy phạm
pháp luật do Quốc hội ban hành nhằm điều chỉnh và tác động rộng rãi đến các quan hệ
xã hội trong một lĩnh vục hoạt động nào đó của xã hội (ví dụ : Bộ luật hình sự, Bộ luật
tố tụng hình sự, Bộ luật lao động, Bộ luật dân sự...). Còn luật cũng là một văn bản quy
phạm pháp luật do Quốc hội ban hành, trình tự ban hành và hiệu lực giống Bộ luật,
song phạm vi các quan hệ xã hội cần điều chỉnh hẹp hom, chỉ trong một lĩnh vực hoạt
động, một ngành hoặc một giới (ví dụ : Luật Cty, Luật đất đai, Luật thuế, Luật đầu tư
nước ngoài, Luật xây dựng, Luật nhà ở).
2.2 Yêu cầu của tính thống nhất của pháp luật
Trong mục rv Hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng, khi đề cập đến
vấn đề nhà nước, Cưomg lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (năm 1991) viết:

“Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân
công rành mạch ba quyền đó”4. Tiếp tục tổng kết thực tiễn, hoàn thiện và phát triển
quan điểm nói trên của Cưomg lĩnh trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân và vì dân, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ vin
của Đảng khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
họp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”5. Đến năm 2001, với sáng kiến lập pháp của Ban chấp hành trung ương Đảng
khóa IX, Quốc hội khỏa X đã tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp
năm 1992, trong đó đã thể chế các quan điểm nói trên của Đảng thành một trong
những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam. Đây là một trong những quan điểm và là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc
cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới; thể hiện sự phát triển
mới về nhận thức lý luận của Đảng và nhà nước ta trong quá trình tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Tuy nhiên, là nguyên tắc mới, nên ý nghĩa và nội dung của nó không phải đã
được nhận thức thống nhất, vận dụng đầy đủ và đúng đắn vào thực tiễn tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước. Để góp phần làm sáng tỏ về phương diện lý luận nguyên
tắc hiến định nói trên, trong bài viết này, xin bàn về hai vấn đề:
- Một là: Quan niệm về quyền lực nhà nước là thống nhất;
- Hai là: Tại sao phải có sự phân công giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp; ý nghĩa và nội dung của phân công, phối họp ba quyền như thế nào?

GVHD: TS. PHAN TRUNG HIỀN - 17-

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

2.2.1 Quan niệm về quyền lực nhà nước là thống nhất

về vấn đề này, cho đến nay, trong nhận thức lý luận ở nước ta mới chỉ dừng lại
ở quan niệm rằng, quyền lực nhà nước thuộc về một giai cấp hoặc liên minh giai cấp.
Xét về bản chất giai cấp thì quyền lực nhà nước bao giờ cũng thống nhất trong tay giai
cấp cầm quyền, ở nước ta, quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp công nhân và nhân
dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, về cơ bản lợi ích giữa các giai cấp là phù họp
với nhau. Vì vậy, quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia. Nhấn manh tính
thống nhất của quyền lực nhà nước là để khẳng định trong nhà nước ta không có sự
phân chia quyền lực nhà nước; là để phủ nhận và đối lập với nguyên tắc phân quyền
trong các nhà nước tư sản.
Tuy nhiên, đây là vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, cần phải đi sâu tìm
hiểu và vận dụng nó một cách đầy đủ và nhất quán trong thực tiễn tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước. Các khía cạnh của vấn đề về quyền lực nhà nước là thống
nhất như: Thế nào là thống nhất quyền lực nhà nước? Quyền lực nhà nước thống nhất
ở đâu? ý nghĩa của quyền lực nhà nước là thống nhất trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước như thế nào? Các khía cạnh này đều cần được làm sáng tỏ về
phương diện lý luận và nhận thức. Hiện nay, đang có các nhận thức khác nhau trên các
khía cạnh này.
- Có một số người cho rằng, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng sự thống
nhất đó tập trung vào Quốc hội. Bởi vì nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước,
nhưng lại không thực hiện được quyền lực nhà nước một cách trực tiếp, nên đã trao
quyền cho cơ quan đại diện cao nhất do mình bầu ra là Quốc hội. Do vậy, Quốc hội
được Hiến pháp xác nhận là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Và, với vị trí pháp
lý đỏ, những người này đã ngộ nhận rằng Quốc hội là cơ quan có toàn quyền, là cơ
quan cấp trên của các quyền hành pháp và tư pháp. Thật ra, đây là quan điểm tập
quyền đã trở thành nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung quan liêu bao cấp, mà thể hiện rõ nét nhất trong các quy định của Hiến
pháp năm 1980. Nguyên tắc này có ưu điểm là bảo đảm cho quyền lực nhà nước tập
trung, quyết định và thực thi quyền lực nhanh chóng, thống nhất. Tuy nhiên, nguyên
tắc này cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là thiếu sự phân đỊnh phạm vi quyền lực nhà
nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, thiếu sự kiểm soát quyền lực nhà

nước giữa các cơ quan nhà nước, nhất là thiếu sự kiểm soát quyền lực nhà nước đối
với quyền lập pháp. Hơn nữa, nguyên tắc này phủ nhận tính độc lập tương đối giữa các
quyền nên đã hạn chế tính năng động, hiệu quả và trách nhiệm của mỗi quyền. Nhân
dân và xã hội không có cơ sở để đánh giá chất lượng hoạt động của quyền lực nhà
nước. Do vậy, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tập quyền tiềm
GVHD: TS. PHAN TRUNG HIÊN

- 18-

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ẩn nguy cơ lạm dụng quyền lực nhà nước từ phía các cơ quan nhà nước được nhân dân
trao quyền.
- Một số khác lại cho rằng, trong nhà nước kiểu mới như nhà nước ta, giai cấp
công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của một đảng, ngày càng thống nhất
về lợi ích, trong nội bộ không có sự phân chia thành phe phái đối lập như trong nhà
nước tư sản, nên thống nhất quyền lực nhà nước là yếu tố duy nhất giữ vai trò quyết
định trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Quan niệm này đề cao tính
thống nhất của quyền lực nhà nước, phủ nhận, xem thường hoặc hạ thấp vai trò của
phân công, phân nhiệm rành mạch quyền lực nhà nước. Thực chất quan niệm này cũng
không khác gì quan điểm nói trên. Hậu quả của nó cũng là thủ tiêu trách nhiệm trong
lao động quyền lực nhà nước, hạ thấp vai trò của dân chủ và vô hiệu hóa chức năng
giám sát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, là mảnh đất màu mỡ cho lạm dụng
quyền lực nhà nước của nhân dân.
- Quan niệm đúng đắn hơn cả là quyền lực nhà nước thống nhất nơi nhân dân.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền
lực nhà nước. Nhân dân trao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính

phủ và cho các cơ quan tư pháp. Chứ không phải nhân dân trao hết thảy quyền lực nhà
nước của mình cho Quốc hội, rồi đến lượt mình, Quốc hội lại trao quyền cho Chính
phủ và các cơ quan tư pháp. Theo Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, nhân dân chỉ trao
cho Quốc hội ba nhóm quyền hạn và nhiệm vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến,
lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao; quyền hạn và nhiệm vụ về quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước. Quan niệm đó hoàn toàn phù họp với dân
chủ XHCN. Bởi vì, dân chủ XHCN đòi hỏi nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
không chỉ bằng hình thức dân chủ đại diện mà còn bằng cả dân chủ trực tiếp, trong đó
có trưng cầu ý dân, có như vậy, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân mới đúng, mới bảo đảm thực hiện đầy đủ, không hình thức. Như vậy, thống nhất
quyền lực nhà nước được hiểu là toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tập
trung thống nhất ở nhân dân chứ không phải thuộc về Quốc hội. Quan niệm đó có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. Trước hết, điều đó chỉ ra rằng, quyền lực nhà
nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc
thống nhất là nhân dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực
nhà nước là thống nhất trước tiên là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính
trị của nhà nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung
là xây dựng một nhà nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” như Đảng ta đã chỉ ra.
GVHD: TS. PHAN TRUNG HIÊN

- 19-

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


6
7


Jon Mills. Luận về tự do, NXB chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 2005, ừ. 131
Ngô Huy Đức. Tư
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆPtưởng chính trị phucmẹ Tây cận, hiện đại. So sánh, phân tích nội dung và sự ảnh hường của
chúng đối vói đòi
sống chính trị. Báo cáo tổng quan KX10 -10-HN-2005.

Quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất như nói trên là cách thức tổ chức
quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm trước nhân dân, hạn chế sự dựa dẫm, ỷ lại
trong việc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ mà nhân dân đã ủy quyền. Đó cũng là cơ
sở để không có chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối quan
hệ giữa các quyền, nhất là giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đồng thời, đó
cũng là điều kiện để hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và
hiệu quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như
từ bên ngoài là nhân dân.
Tóm lại, quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung ở nhân dân,
chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước là quan niệm đúng, có ý nghĩa chỉ
đạo tổ chức quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân và vì dân. Mọi biểu hiện xa rời quan điểm quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân đều dẫn đến tổ chức quyền lực nhà nước kém hiệu quả.
2.2.2 Quan niệm về phân công, phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp
Như đã nói ở phần trên, trong chế độ dân chủ và pháp quyền thì quyền lực nhà
nước không phải là quyền lực tự có của nhà nước mà quyền lực được nhân dân ủy
quyền, nhân dân giao quyền. Vì quyền lực nhà nước là của nhân dân, nhưng nhân dân
lại không trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước của mình mà lại giao cho người khác
là nhà nước, nên tất yếu nảy sinh đòi hỏi chính đáng và tự nhiên phải kiểm soát quyền
lực nhà nước. Mặt khác, khi ủy quyền cho nhà nước, quyền lực nhà nước lại thường
vận động theo xu hướng tự phủ định mình, trở thành đối lập với chính mình lúc ban
đầu (từ của nhân dân là số đông chuyển thành số ít của một nhóm người hoặc của một
người). C.Mác gọi hiện tượng này là sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Quyền lực

nhà nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước, suy cho cùng, là giao cho
những con người cụ thể thực thi. Mà con người thì “luôn luôn chịu sự ảnh hưởng của
các loại tình cảm và dục vọng đối với các hành động của con người. Điều cũng khiến
cho lý tính đôi khi bị chìm khuất”6. Đặc biệt là khi lý tính bị chi phối bởi các dục
vọng, thói quen hay tình cảm thì khả năng sai lầm ừọng việc thực thi quyền lực nhà
nước càng lớn. Hơn nữa, với bản tính vị kỷ, con người thường “bị điều khiển bởi khát
vọng, trong đó khát vọng về quyền lực vừa là mục tiêu, vừa là công cụ để đạt các khát
vọng khác”7. Với đặc điểm đó của con người, không thể khẳng định người được ủy
quyền luôn luôn làm đúng, làm đủ những gì mà nhân dân đã ủy quyền. Vì vậy, kiểm

GVHD: TS. PHAN TRUNG HIÊN

-

20

-

SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

soát quyền lực nhà nước là một nhu cầu khách quan từ phía người ủy quyền đối với
người được ủy quyền. Hom thế nữa, quyền lực nhà nước không phải là một đại lượng
có thể cân, đong, đo, đếm được một cách rạch ròi, vì nó là một thể thống nhất, như nói
ở phần trên. Điều đó lại càng đòi hỏi phải kiểm soát quyền lực nhà nước để hạn chế sự
lộng quyền, lạm quyền, mâu thuẫn chồng chéo hoặc trùng lắp trong quá trình thực thi
quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước, hạn chế hiệu lực và hiệu quả thực thi
quyền lực nhà nước được nhân dân ủy quyền.

Xuất phát từ các đòi hỏi khách quan nói trên, quyền lực nhà nước thường được
lượng hỏa, phân định thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự lượng hóa
này là để giao cho các cơ quan nhà nước khác nhau, thay mặt nhân dân thực hiện.
Trong thực tiễn ở nước ta, cũng như các nước, quyền lập pháp được giao cho Quốc hội
hay Nghị viện, quyền hành pháp được giao Chính phủ, quyền tư pháp được giao cho
Tòa án. Sự phân đỊnh các quyền như vậy là điều kiện cơ bản để nhân dân giao quyền
mà không bị lạm quyền, nhân dân kiểm soát và đánh giá được hiệu lực và hiệu quả
thực hiện các quyền mà mình đã giao. Đồng thời, cũng là để cho các cơ quan tương
ứng được giao quyền đề cao trách nhiệm trong việc thực thi quyền lực nhà nước và tự
kiểm tra việc thực hiện quyền lực nhà nước được giao của mình.
Quyền lập pháp là quyền đại diện cho nhân dân thể hiện ý chí chung của quốc
gia. Những người được nhân dân trao cho quyền này là những người do phổ thông đầu
phiếu bầu ra họp thành cơ quan gọi là Quốc hội hay Nghị viện. Thuộc tính cơ bản,
xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đại diện cho nhân dân, bảo đảm cho ý chí
chung của nhân dân và được thể hiện trong các đạo luật mà mình là cơ quan duy nhất
được nhân dân giao quyền biểu quyết thông qua luật. Quyền biểu quyết thông qua luật
là quyền lập pháp, chứ không phải là quyền đưa ra các mô hình xử sự cho xã hội. Vì
vậy, quyền lập pháp không đồng nghĩa với quyền làm ra luật. Đồng thời, là người thay
mặt nhân dân giám sát tối cao mọi hoạt động của nhà nước, nhất là hoạt động thực
hiện quyền hành pháp, để góp phần giúp cho các quyền mà nhân dân giao cho các cơ
quan nhà nước không bị lạm quyền, lộng quyền hay bị tha hóa.
Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện ý chí chung của quốc gia do Chính
phủ đảm trách. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là quản lý
nhà nước (hay cai trị) mà thực chất là tố chức thực hiện pháp luật để bảo đảm an ninh,
an toàn và phát triển xã hội. Không có một Chính phủ quản lý nhà nước hữu hiệu
không thể có một nhà nước giàu có, phát triển ổn định cả về mặt kinh tế lẫn mặt xã
hội. Thực hiện quyền này đòi hỏi Chính phủ và các thành viên của Chính phủ phải
nhanh nhạy, quyết đoán kịp thời và quyền uy tập trung thống nhất.
GVHD: TS. PHAN TRUNG HIỀN - 21 -


SVTH: BÙI QUỐC THÀNH


×