Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tại sao nói bản chất của toàn cầu hóa kinh tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh? Việt Nam cần phải làm gì để tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế một cách có hiệu quả nhất.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.83 KB, 19 trang )

Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

Tại sao nói bản chất của tồn cầu hóa kinh tế là q trình vừa hợp tác,
vừa đấu tranh? Việt Nam cần phải làm gì để tham gia vào q trình tồn cầu
hóa kinh tế một cách có hiệu quả nhất.
“Tồn cầu hố là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết
các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tuỳ thuộc lẫn
nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ đa phương, song phương giữa các quốc gia
ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hố và bảo vệ mơi trường, phịng chống
tội phạm, thiên tai và các đại dịch. . . Các công ty xuyên quốc gia tiếp tục cấu
trúc lại, hình thành những tập đồn khổng lồ chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế. Sự
cách biệt giàu nghèo giữa các quốc gia ngày càng tăng.”
Tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác, vừa
đấu tranh rất phức tạp , đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển bảo vệ
lợi ích của mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống lại những áp đặt
phi lý của các cường quốc kinh tế, các công ty xuyên quốc gia. Đối với nước ta,
tiến trình hội nhập kinh tế trong thời gian tới được nâng lên một bước mới gắn
với việc thực hiện các cam kết quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải ra sức nâng cao hiệu
quả, năng lực cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có
hiệu quả vào phân cơng lao động quốc tế.”
* Bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế
Từ mấy kỷ cuối thế kỷ vừa qua, sự phát triển như vũ bão của lực lượng sản
xuất đã phá vỡ mọi hàng rào ngăn cách địa giới trong giao dịch của con người về
mọi mặt giữa các quốc gia.
Điều này đã khiến các nền kinh tế của các quốc gia gắn bó hữu cơ và tùy
thuộc vào nhau. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh tế đẩy quốc tế hóa
kinh tế lên một thời kỳ mới, thời kỳ tồn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Phân công
lao động quốc tế dẫn đến phương châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà máy của
mình, lấy các quốc gia khác làm phân xưởng của mình đặng lợi dụng ưu thế kỹ


thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của các nước, thúc đẩy quốc tế hóa sản
xuất phát triển nhanh chóng
Căn cứ vào xu thế tồn cầu hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng không
nhỏ đến cuộc sống của tất cả các dân tộc trên thế giới, năm 1997, Quỹ Tiền tệ
Quốc tế IMF đã đưa ra nhận xét: “Sự tham gia mạnh mẽ hơn của các nước đang
phát triển là một trong những nét nổi bật của quá trình mở rộng thương mại và
trao đổi vốn trên thế giới trong mười năm qua”. Thật vậy, nhịp độ hội nhập của
nền kinh tế thế giới thực tế đã tăng nhanh đáng kể trong những thập kỷ gần đây
cùng với những bước phát triển sâu rộng của thương mại trên khắp toàn cầu trong
mọi lĩnh vực, có nghĩa là khơng chỉ trao đổi hàng hóa mà cả trao đổi dịch vụ và
vốn nữa.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

1


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

Trào lưu này khơng phải hồn tồn mới lạ và chúng ta đã từng thấy một
hiện tượng tương tự vào cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, tồn cầu hóa ngày nay tác
động sâu sắc đến một số lượng đông đảo các nước, không chỉ ở Mỹ, ở châu Âu,
mà còn ở các nước Đơng Á và Đơng Nam Á nữa. Chính quy mơ địa lý của trào
lưu hiện nay đã thúc giục chúng ta tìm hiểu những đặc điểm của phong trào này.
Về vấn đề tồn cầu hóa kinh tế, ở nước ta nhiều nhà nghiên cứu có uy tín
cũng đã đề cập và cùng thống nhất nhận định là trong mấy thập kỷ gần đây sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ hiện đại, nhất là cách mạng về thông
tin đã dẫn đến bước phát triển nhảy vọt là toàn cầu hóa các quan hệ kinh tế.
Quả vậy, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ thúc đẩy phân công lao

động quốc tế ngày càng sâu rộng, từ phân công theo sản phẩm chuyển dần sang
phân công theo chi tiết của sản phẩm. Chẳng hạn hãng Bôinh đã sử dụng 600
công ty ở các nước khác nhau để sản xuất các chi tiết, linh kiện của máy bay
Bôinh 747, hoặc một xe ô tô con của hãng Vônphaghen (Đức) được lắp ráp bằng
các chi tiết do các chi nhánh của nó sản xuất ở 16 nước. Rất rõ ràng là các nền
kinh tế quốc gia quan hệ chằng chịt, đan xen lẫn nhau đến mức tạo ấn tượng rằng
kinh tế thế giới là một “mạng lưới” khổng lồ, rất đa dạng, khơng thuần nhất,
trong đó các nền kinh tế quốc gia là những điểm nút, vừa bảo vệ tính tự chủ, vừa
tác động lẫn nhau và chịu ảnh hưởng của cả “mạng lưới”.
Thêm vào đó là sự tác động trực tiếp rất mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại. Ở Nhật Bản, nguyên Thủ tướng Obuchi đề ra
mục tiêu của phát triển công nghệ thông tin là đến năm 2005 tạo ra một xã hội
trong đó mọi người có thể sử dụng các dịch vụ Internet và thu thập, xử lý và gửi
thông tin một cách tự do tùy ý. Một dẫn chứng nữa là sự tăng lên nhanh chóng
của việc sử dụng điện thoại di động ở Nhật bản, đặc biệt là sự bùng nổ dữ dội của
loại điện thoại di động i-mode do NTT DoCoMo cung cấp. Đây có thể là một
điềm báo trước cho sự kết thúc của một kỷ nguyên, trong đó máy tính cá nhân là
một nền móng thống trị duy nhất đối với những người sử dụng công nghệ thông
tin.
Cũng cần phải chú ý là sự phát triển của các công nghệ cao (công nghệ
sinh học, công nghệ thông tin…) đã làm thay đổi chất lực lượng sản xuất của lồi
người, đã đưa lồi người từ văn minh cơng nghiệp lên văn minh tin học, đã tạo
thành kinh tế tri thức, hình thành mạng tính tồn cầu. Chính sự phát triển của
công nghệ thông tin hiện đại đã rút ngắn đến mức cao các khoảng cách, thậm chí
cịn rỡ bỏ các hàng rào ngăn cách về không gian và thời gian giữa các vùng trên
thế giới. Các thị trường và sản phẩm mang tính tồn cầu hơn. Những sản phẩm
của Nike và Virgin được toàn thế giới biết đến.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

2



Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

Những thành tựu phát triển như mạng Internet đã làm cho thế giới trở
thành “một ngơi làng tồn cầu” trong tương lai gần.
Kết quả thật sự là hàng hóa và dịch vụ có thể được phát triển, được mua,
được bán, và trong nhiều trường hợp, thậm chí cịn được giao nhận qua các mạng
lưới điện tử. Thương mại điện tử đem lại nhiều lợi thế về tiết kiệm chi phí, tính
hiệu quả và thâm nhập thị trường hơn những phương pháp mang tính vật lý
truyền thống.
Ngồi ra cịn phải kể đến sự phát triển và bành trướng của các công ty tư
bản độc quyền xuyên quốc gia, lực lượng chi phối toàn cầu hóa. Các cơng ty này
là kết quả của q trình tích tụ và tập trung sản xuất và tư bản. Trong xu thế tồn
cầu hóa hiện nay, các cơng ty lớn ở Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc
thấy rõ sự khẩn thiết phải sáp nhập nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị
trường.
Trên thế giới hiện nay có 60.000 cơng ty xun quốc gia với khoảng
500.000 chi nhánh ở nước ngồi có tổng doanh số trên 10.000 tỉ USD, chiếm gần
40% tổng sản phẩm của thế giới, kiểm soát 60% tổng thương mại thế giới, 80%
FDI, 90% thành quả nghiên cứu triển khai kỹ thuật và chuyển giao công nghệ
trên thế giới. Luân chuyển giữa các công ty xuyên quốc gia và trong nội bộ các
công ty ấy chiếm gần 2/3 tổng luân chuyển hàng hóa, dịch vụ, tài chính quốc tế.
Sức mạnh của các cơng ty xuyên quốc gia này nhiều khi có thể làm khuynh đảo
cả nền kinh tế của một quốc gia, thách thức và làm suy yếu vai trò điều tiết nền
kinh tế của Nhà nước.
Sau nữa, cũng cần kể thêm vai trị của các tổ chức kinh tế, tài chính,
thương mại quốc tế, trước hết là: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới

(WB), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Các tổ chức này có vai trị ngày
càng to lớn đối với q trình tồn cầu hóa. Sự ra đời của chúng là kết quả của q
trình tồn cầu hóa kinh tế, do nhu cầu của tồn cầu hóa kinh tế, nhưng đến lượt
mình, chúng lại trở thành nhân tố thúc đẩy tồn cầu hóa kinh tế cả bề rộng lẫn
chiều sâu.
WTO là một thể chế kinh tế toàn cầu chi phối hơn 90% tổng kim ngạch
thương mại thế giới. Chức năng chủ yếu của WTO là điều hành và thực thi các
hiệp định thương mại đa phương và hiệp định giữa một số bên cấu thành WTO;
hoạt động với tính chất một diễn đàn cho các cuộc thương lượng mậu dịch đa
phương tìm kiếm các giải pháp xử lý tranh chấp thương mại, giám sát các chính
sách thương mại quốc gia, và hợp tác với các thiết chế quốc tế khác liên quan tới
hoạch định chính sách tồn cầu. Nhưng trong thực tế hoạt động của mình, WTO
không dừng ở phạm vi thương mại mà đã can thiệp sâu vào nhiều lĩnh vực của
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

3


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

đời sống xã hội, vượt qua mọi biên giới quốc gia, áp đặt lên tồn thế giới những
luật lệ có lợi cho sự thống trị của chủ nghĩa tư bản.
Cũng trên phương hướng ấy, IMF và WB cũng can thiệp sâu vào các nước
thơng qua các luật lệ của mình về tín dụng, tài chính, đầu tư. Điều đó thể hiện rất
rõ qua việc IMF và WB tham gia giải quyết khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở Thái
Lan, Inđơnêxia, Hàn Quốc, Liên bang Nga, Braxin… trong thời gian vừa qua.
Có thể nói IMF, WB và WTO là những tổ chức đặt dưới sự chi phối của
chủ nghĩa tư bản do Mỹ đứng đầu, là những công cụ của các công ty xuyên quốc

gia, của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, là những cơng cụ của tồn cầu hóa tư bản
chủ nghĩa. Vì vậy, Maicơn Brâu, Chủ tịch mạng lưới thông tin thế giới thứ ba đã
có lần nói, “WB và IMF được dàn dựng để phục vụ cho chủ nghĩa bá quyền của
Hoa Kỳ”.
* Về tính hai mặt của tồn cầu hóa kinh tế
Theo những nội dung vừa trình bày ở trên, ta thấy tồn cầu hóa là xu thế
khách quan đi tới hình thành nền kinh tế thế giới, trong đó các quốc gia có sự liên
kết với nhau, tùy thuộc lẫn nhau trong sự phân công và hợp tác kinh tế trên phạm
vi toàn cầu dưới sự chi phối của những tập đoàn tư bản đa quốc gia và xuyên
quốc gia.
Tồn cầu hóa kinh tế có sức hấp dẫn vì nó làm cho các nền kinh tế, các
quốc gia nếu khéo vận dụng trong hội nhập thì sẽ phát huy được lợi thế của mình,
được bổ sung những yếu tố mới, hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu
quả hơn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở trong nước.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, toàn cầu hóa chưa phải là cơng thức
tối ưu cho tất cả. Các quốc gia, các dân tộc khác nhau tham gia vào q trình tồn
cầu hóa kinh tế trước hết vì muốn tìm kiếm trong đó những lợi ích cho chính
mình. Nhưng những lợi ích đó lại rất khác nhau, đan xen và đầy mâu thuẫn. Vì
thế xu hướng tồn cầu hóa diễn ra khơng êm ả, mà thơng qua q trình vừa hợp
tác vừa đấu tranh giữa hai nhóm nước chính: các nước phát triển và các nước
đang phát triển.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thúy Anh đã cung cấp cho chúng ta những số liệu
cụ thể (Tạp chí Cộng sản số 6 tháng 3 năm 2000) để chứng rõ về phía các nước
đang phát triển, sau một thời gian tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tình
hình kinh tế và vị thế của một số nước (đặc biệt là những nước có nền kinh tế
mới nổi) được cải thiện đáng kể. Các nước đang phát triển đã thu hút và sử dụng
một lượng khá lớn vốn nước ngồi và cùng với nguồn vốn đó, vốn trong nước
cũng được huy động. Nhiều nước đã có đầu tư ra nước ngoài, đầu tư vào các
nước phát triển. Theo báo cáo đầu tư thế giới của UNCTAD năm 1996 (trước khi
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A


4


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á) các nước đang phát triển tiếp nhận
129 tỉ USD FDI và đầu tư ra nước ngoài 51 tỉ. Đến năm 1999 FDI vào các nước
này tăng lên mức kỷ lục: 198 tỉ USD trong đó 97 tỉ vào Mỹ Latinh (Braxin chiếm
31 tỉ), châu Á: 91 tỉ (Trung Quốc chiếm 40 tỉ). Các nước đang phát triển nắm giữ
11 công ty xuyên quốc gia của thế giới, trong đó lớn nhất là Petroleos
(Vênêxuêla), có tổng trị giá tài sản 47,1 tỉ USD. Cơ cấu kinh tế đã có nhiều biến
đổi theo hướng giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ. Trong lĩnh vực xuất khẩu (chỗ dựa của tăng trưởng kinh tế ở các nước
này), cơ cấu hàng xuất khẩu được cải thiện, chất lượng hàng hóa được nâng cao
hướng tới các tiêu chuẩn quốc tế, tỷ trọng thành phẩm trong xuất khẩu đã tăng từ
5,65 (1980) lên 77,7% năm 1994. Cơ sở hạ tầng về kinh tế được phát triển, thu
nhập của người dân tăng lên, đời sống được cải thiện trên một số mặt. Còn nhiều
yếu tố khác đưa tới kết quả phát triển ở các nước NIC châu Á, nhưng trong chừng
mực nhất định, có thể nói giai đoạn tăng trưởng nhanh của một số nước Đơng Á
là một thí dụ về cơ hội và lợi ích mà tồn cầu hóa kinh tế mang lại cho các nước
đang phát triển.
Tuy nhiên, trong khi một số nền kinh tế đã biết tận dụng toàn cầu hóa
thơng qua việc đề ra các chiến lược phát triển dựa trên quyết tâm mở cửa kinh tế
và xuất khẩu như đã thấy trình bày ở trên thì một số nền kinh tế khác dường như
vẫn cịn đứng ngồi lề.
Thực tế khác biệt này được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau của
tồn cầu hóa (tài chính và sản xuất kinh doanh). Thí dụ, tỷ trọng của châu Phi

trong tổng lượng vốn rịng rót vào các nước đang phát triển đã liên tục giảm từ
những năm 1980 và cụ thể đã từ 27% vào năm 1990 để rồi chỉ còn chưa đầy 8%
vào năm 1996 (IMF. 1998). Đồng thời hiện tượng các luồng FDI chỉ tập trung đổ
mạnh vào một số ít nước ngày thêm rõ nét trong những năm gần đây, bởi lẽ năm
nước tiếp nhận vốn nhiều nhất (Trung Quốc, Braxin, Mêhicô, Xingapo và
Inđônêxia) đã thu hút tới 55% tổng lượng FDI của năm 1998 so với mức 41%
vào năm 1990. Sự tham gia của châu Phi vào quá trình FDI bùng nổ là hết sức
hạn chế. Theo UNCTAD, tỷ trọng của khu vực này trong tổng lượng FDI dành
cho các nước đang phát triển đã giảm từ 11% trong giai đoạn 1986 – 1990 xuống
còn 5% trong giai đoạn 1991 – 1996, rồi 3,8% vào năm 1996. Chỉ riêng Malaixia
đã tiếp nhận một lượng FDI còn nhiều hơn tổng khối lượng của cả khu vực châu
Phi gộp lại. Mặt khác, ngay trong phạm vi châu Phi, sự phân chia giữa các nước
cũng hết sức khác biệt. Ví dụ, Nigiêria đã thu hút tới 44% tổng lượng FDI rót vào
tồn châu lục. Một cách khái qt hơn, những nước kém phát triển nhất không
tham gia vào trào lưu chung của các luồng FDI gia tăng và tỷ trọng của nhóm
nước này trong tổng lượng lưu thơng vốn toàn cầu là dưới 1%.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

5


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

Trong lĩnh vực thương mại quốc tế, tình hình cũng khơng sáng sủa hơn bao
nhiêu. Riêng 12 nước: Achentina, Braxin, Chilê, Mêhicô, Trung Quốc, Hồng
Công, Malaixia, Hàn Quốc, Xingapo, Đài Loan, Thái Lan, Inđônêxia trong khối
các nước đang phát triển đã chiếm tới 70% lượng hàng xuất khẩu của cả khối.
Vẫn nhóm nước và lãnh thổ này đã tiếp nhận 80% lượng vốn đầu tư và hơn 90%

lượng vốn kinh doanh chứng khoán rót vào các nước đang phát triển.
Tỷ trọng của châu Phi trong kim ngạch trao đổi hàng hóa và dịch vụ tồn
cầu khơng ngừng giảm sút từ 5% vào năm 1950 xuống còn 2% vào năm 1998
(WTO 1999). Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu tính theo GDP cũng giảm xuống. Hơn
nữa, xuất khẩu luôn tập trung vào các sản phẩm sơ đẳng, cịn quan hệ mậu dịch
thì ngày càng đi xuống. Vấn đề chủ yếu mà các nền kinh tế châu Phi phải đương
đầu chính là cơ cấu sản xuất cơng nghiệp và mức độ chun mơn hóa của họ.
Một thực tế nữa buộc ta phải thừa nhận là trào lưu tồn cầu hóa song hành
cùng tình trạng chênh lệch nghiêm trọng giữa các nước giàu và các nước nghèo
vẫn tồn tại dai dẳng. Phát biểu về vấn đề này, nhà nghiên cứu Francoise Nicolas
đã chỉ ra Đông Á là khu vực duy nhất rút ngắn được khoảng cách về mức sống
với các nền kinh tế phát triển: mức thu nhập tính theo đầu người của khu vực này
đã tăng trung bình 6% mỗi năm trong thập kỷ vừa qua (tuy nhiên cũng nên nhớ
rằng, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính 1997 – 1998, mức thu nhập
tính theo đầu người đã giảm (-1,1%) vào năm 1998), trong khi chỉ số đó ở các
nền kinh tế châu Phi lại giảm cũng trong cùng thời gian (-0,3% mỗi năm trong
giai đoạn 1989 – 1998). Thu nhập trung bình đầu người của khu vực châu Phi
vào năm 1998 tính theo giá trị thật gần như không hề thay đổi so với mức của
năm 1970. Trong khối các nước đang phát triển, chỉ có các nước Ả Rập mới có
những chỉ số kinh tế phát triển kém đến như vậy.
Để có một cái nhìn bao qt hơn, có lẽ cũng cần nêu thêm là sau một số
năm tham gia toàn cầu hóa, nợ nần của các nước đang phát triển ngày thêm
chồng chất và khoản nợ này quả là đồ sộ (trên 2000 tỉ USD). Theo báo cáo của
Ngân hàng thế giới (WB) về tình hình tài chính tồn cầu năm 1999, tỷ lệ nợ nước
ngoài so với GNP của Braxin là 24%, Mêhicô: 38%, Inđônêxia: 65%, Philippin:
53%, Thái Lan: 63%; Malaixia: 51%.
Một điểm sau cùng cần lưu ý là do nền kinh tế chưa đủ sức chịu đựng cái
gọi là “chu kỳ kinh doanh” (các nước có nền kinh tế phát triển cao có thể sử dụng
nhiều cơ chế phúc lợi khác nhau để đối phó với thất nghiệp, tỷ lệ xí nghiệp phá
sản cao trong thời kỳ kinh tế suy thoái) hầu hết các nước đang phát triển do thực

lực tư bản trong nước và kết cấu của nó cịn thấp kém, chưa thật thích hợp với cơ
chế thị trường, lại dựa nhiều vào vốn nước ngoài nên “chu kỳ kinh doanh” đơi
khi có nghĩa là nạn đói, sự thiếu thốn các nhu cầu thiết yếu về lương thực, sự mất
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

6


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

ổn định về an ninh, chính trị, xã hội, thậm chí dẫn tới hỗn loạn, đảo chính, nội
chiến. Chẳng hạn cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997 đã làm
cho hơn 1000 tỉ USD sức mua của các nước châu Á bị tàn phá, các khoản tiền tiết
kiệm được tung ra để chống đỡ với những chấn động về tài chính đã kéo lùi tốc
độ tăng trưởng của các nước này xuống dưới số 0. Riêng ở Inđônêxia, một năm
sau cuộc khủng hoảng, số người nghèo tăng từ 30 triệu lên trên 80 triệu người.
Với tương quan như phân tích ở trên về tiềm lực kinh tế, các nước kinh tế
phát triển do có nhiều lợi thế đang muốn thúc đẩy nhanh q trình tự do hóa
thương mại; ngược lại các nước đang phát triển không muốn tốc độ tự do hóa
thương mại diễn ra q nhanh vì nó vượt quá sự phát triển của nền kinh tế trong
nước, do đó sẽ mang lại cho nền kinh tế sự mất mát nhiều hơn. Bởi vậy các nước
này đang cố gắng duy trì chế độ bảo hộ để bảo vệ sản xuất trong nước và chủ
quyền kinh tế. Ở vào thế bất lợi hơn khi tham gia vào tồn cầu hóa kinh tế, các
nước đang phát triển không thể tránh khỏi các chính sách mang tính áp đặt, hoặc
sức ép từ phía các nước giàu trên nhiều vấn đề.
Do những chính sách và những đòi hỏi bất hợp lý được phát ra từ các nước
phát triển, đặc biệt là từ Mỹ như: tự do đầu tư, tự do cạnh tranh, v.v… đang là
những vấn đề gay gắt trong đó ẩn chứa những nội dung chính trị bất lợi cho lợi

ích quốc gia, vai trò điều tiết của Nhà nước, chủ quyền kinh tế của đất nước mà
các nước đang phát triển phải đối mặt, một phong trào chống tồn cầu hóa đã
bùng nổ cách đây trên năm năm, phong trào này nhanh chóng mở rộng và đã thu
hút hàng trăm ngàn người có cảm tình và hoạt động trên quy mơ thế giới, từ
Xingapo đến San Francisco.
Phong trào khởi đầu năm 1995 khi các cơng ty đa quốc gia cùng chính phủ
các nước phát triển và các tổ chức tài chính quốc tế thầm lặng thương lượng một
hiệp định đa phương về đầu tư nhằm tạo ra những quyền hạn cực kỳ rộng rãi cho
các tập đoàn đầu tư lớn, gây thiệt thịi cho những quốc gia muốn bảo vệ mơi
trường và người lao động, sức khỏe của công dân nước mình. Nhưng tài liệu bị lộ
ra ngồi; lập tức báo động được phát ra, bản dự thảo được công bố trên Internet.
Các nhóm phản đối được hình thành trong nhiều nước, tạo một áp lực mạnh trên
các chính phủ ở châu Âu, buộc họ cuối cùng phải tạm gạt bỏ ý đồ.
Theo báo Thụy Sĩ Die Weltwoche thì những người cầm đầu phong trào
phản kháng đó là Susan George, Chủ tịch “Tổ chức quan sát tồn cầu hóa” được
sáng lập năm 1996, có trụ sở tại Paris, nữ luật sư Mỹ nổi tiếng Lori Wallach,
Martin Khor người Malaysia thuộc Third World Network (Mạng lưới thế giới thứ
ba), Naomi Kleir, người Canada, nữ tác giả cuốn “No logo” được xem như thánh
kinh của những người chống tồn cầu hóa cùng nhiều người khác nữa.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

7


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

Mùa thu năm 1989, khi Bộ trưởng các nước từ khắp thế giới họp hội nghị
của WTO ở Seattle, 50.000 người chống toàn cầu hóa đã kéo đến đấy. Tổ chức

đứng ra phối hợp hành động là “Diễn đàn quốc tế về toàn cầu hóa” có trụ sở ở
California. Chiến thuật của họ khá mới mẻ và có hiệu quả: khơng có biểu tình
đơng người mà phân tán thành từng tốn nhỏ chặn đường ở các ngã tư, trước cửa
các khách sạn có đại biểu đang trú tại đấy, lối vào hội trường nơi diễn ra hội nghị,
khiến cho nhiều đại biểu không đến được hội nghị.
Phong trào đã mang lại một số kết quả. Theo Business Week, 52% người
Mỹ được hỏi đã tuyên bố ủng hộ những hoạt động chống đối ở Seattle. Một số
tập đoàn đã phải cải tiến các điều kiện lao động. Và mưu đồ của nguyên Tổng
thống Mỹ Bill Clinton mở rộng vùng tự do mậu dịch đến châu Mỹ Latinh đã vấp
phải sự khước từ mãnh liệt. Các chính phủ châu Âu đã chống lại việc xem văn
hóa phụ thuộc duy nhất vào quy luật thị trường.
Với động cơ có thể rất khác nhau, các nhóm trong phong trào ít nhất cũng
nhất trí một điều: các cơng ty đa quốc gia và tài chính đang xây dựng một trật tự
mới, trong đó một thiểu số giàu có lên trong khi đại đa số nghèo đi. Họ tố cáo
những mặt tiêu cực của tồn cầu hóa: những thụt lùi về xã hội, thất nghiệp hàng
loạt, dân chủ bị xói mịn, cảnh khốn quẫn tinh thần, chiến tranh sắc tộc do đói
kém và tài ngun giảm sút. Họ địi xóa nợ cho các nước nghèo. Họ xem WB và
IMF là “những tay sai của các tập đoàn”.
Phong trào chống tồn cầu hóa cứ tiếp tục được duy trì cho đến lần họp
Diễn đàn kinh tế Đavốt hồi đầu năm nay. Diễn đàn này, được thành lập từ năm
1971, là một thể chế độc lập với các tổ chức quốc tế khác, trong đó các chính
khách, các nhà kinh doanh, các học giả thảo luận và đề xuất chính sách đối với
những vấn đề kinh tế thế giới và những vấn đề có liên quan. Ngay sau khi mới ra
đời, Diễn đàn kinh tế Đavốt đã nhanh chóng đóng vai trị một động lực quan
trọng thúc đẩy các chính sách tự do hóa thương mại, trở thành nơi tụ họp của hơn
1000 cơng ty và tập đồn kinh tế lớn nhất thế giới.
Điều đáng lưu ý là chưa bao giờ tại Hội nghị của Diễn đàn kinh tế Đavốt,
vốn được xem là nơi khởi xướng và thúc đẩy tự do hóa thương mại và tồn cầu
hóa, người ta lại nói nhiều đến mặt trái của quá trình này nhiều như thế. Cũng
chưa bao giờ ở bên ngoài Hội nghị lại diễn ra các cuộc biểu tình rầm rộ phản đối

tồn cầu hóa quyết liệt đến như thế. Tại nơi diễn ra Hội nghị, có rất nhiều người
đã từng xuống đường biểu tình ở Seattle phản đối tồn cầu hóa, nhân Hội nghị
của Tổ chức thương mại thế giới WTO, nay lại có mặt tại Đavốt. Nhưng đáng lưu
ý hơn cả là lần đầu tiên có hẳn cả một “Diễn đàn xã hội” hay còn gọi là diễn đàn
chống Đavốt diễn ra cách đó ¼ vịng trái đất ở Pooctơ Alêgri (Braxin). Tuy
khơng có mục tiêu làm đảo lộn chương trình nghị sự như các cuộc biểu tình trước
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

8


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

đây đã làm bên Hội nghị của WTO tại Seattle, nhưng “Diễn đàn xã hội” lần đầu
tiên này lại tỏ ra có hiệu quả hơn nhiều. Nó được đánh giá như mốc khai sinh của
một phong trào quốc tế mới chống lại những bất cơng do q trình tồn cầu hóa
gây ra.
Số lượng người tham gia Diễn đàn này đã vượt quá mức dự đoán của
những người tổ chức. Theo dự kiến, sẽ có 2.500 người đến dự Diễn đàn, nhưng
trên thực tế đã có tới hơn 10.000 đại biểu từ 120 nước tham dự cùng hơn 1000
nhà báo. Tuy Diễn đàn xã hội thế giới Pooctô Alêgri không đưa ra một bản tuyên
ngôn quan trọng nào, nhưng đây sẽ là bước khởi đầu của một giai đoạn mới trong
việc khẳng định vai trò của các tổ chức xã hội thế giới trong cuộc đấu tranh
chống mặt trái của q trình tồn cầu hóa. Mục tiêu đầu tiên của Diễn đàn xã hội
thế giới về cơ bản đã thành cơng: đó là nâng cao nhận thức đầy đủ và toàn diện
hơn về toàn cầu hóa cũng như phát triển mạng lưới hoạt động chống lại mặt tiêu
cực của quá trình này. Diễn đàn đã nhận được sự hậu thuẫn tích cực của khoảng
500 nghị sĩ đại diện cho hơn 100 quốc gia từ cả năm châu lục có mặt tại Diễn đàn

về quyết định thành lập một mạng lưới nghị viện quốc tế ủng hộ đối với các
phong trào xã hội và quần chúng phản đối tồn cầu hóa.
Tuy nhiên chúng ta cũng cần ghi nhớ kỹ là ngày nay nhiều vấn đề kinh tế,
xã hội, môi trường, chỉ riêng một quốc gia, cho dẫu quốc gia đó lớn mạnh đến
mức độ nào cũng không thể đơn độc giải quyết được, mà cần phải có sự liên kết
của nhiều nước. Trung Quốc với hơn 1,2 tỷ dân với nhiều nguồn tài nguyên hàng
đầu thế giới, với nguồn lao động và các tiềm năng vơ cùng dồi dào về mọi mặt,
thế mà khi nói về kinh tế Trung Quốc, Thủ tướng Chu Dung Cơ đã tuyên bố:
“Nền kinh tế của Trung Quốc sẽ không phát triển được nếu khơng có châu Á, và
sự thịnh vượng kinh tế của châu Á sẽ không được tạo ra, nếu khơng có Trung
Quốc”. Câu nói thật dồi dào ý nghĩa, khẳng định xu thế tồn cầu hóa hiện nay là
hệ quả tất yếu của thời đại bùng nổ thông tin và tiến bộ khoa học – công nghệ.
Do vậy việc nắm bắt một cách thấu đáo và toàn diện xu thế đó để chủ động tham
gia tiếp cận, thích nghi là một địi hỏi mang tính sinh tồn đối với vận mệnh tiền
đồ của mọi quốc gia.
* Việt Nam và vấn đề tồn cầu hóa kinh tế
Văn kiện của Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã nhận định:
“Tồn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước
tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư
bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực
vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh” .
Như vậy là đã rất rõ ràng, Đảng ta luôn luôn coi hội nhập kinh tế quốc tế là
một nội dung trong đường lối kinh tế, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

9


Bài kiểm tra


Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

ta; kết hợp nội lực với ngoại lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp của sự nghiệp phát
triển đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng chính là nhằm xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, đáp ứng yêu cầu và lợi ích của quốc gia, đồng thời thơng qua hội
nhập kinh tế quốc tế để phát huy vai trò và tiềm năng của nước ta trong quá trình
hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới, tranh thủ các nguồn vốn thiết bị, vật
tư, thành tựu khoa học công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị
trường, tăng cường quan hệ hợp tác cùng có lợi, làm cho nước ta phát triển ngày
càng nhanh và bền vững hơn.
Nhưng, do xu thế tồn cầu hóa kinh tế đang bị một số nước phát triển và
các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối chứa đựng nhiều mâu thuẫn
vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, nên Đảng đã lưu ý tất cả chúng ta ở mỗi
ngành, mỗi cấp là trong hội nhập kinh tế quốc tế phải nắm vững phương châm
chủ động, vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo, nhằm bảo vệ
được lợi ích chính đáng của ta, đồng thời tranh thủ được các thời cơ thuận lợi
trong hội nhập. Ngồi ra, cịn cần thường xuyên đề cao cảnh giác, không mơ hồ
trước những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch muốn lợi dụng quan hệ
kinh tế thương mại để thực hiện “diễn biến hịa bình”, xâm nhập, phá hoại chế độ
ta.
Thực hiện một cách nghiêm túc những điều căn dặn trên, chúng ta sẽ vững
chắc tiến bước trên con đường hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Trong qua trình hội nhập kinh tế thế giới và chúng ta cần có chủ trương
chủ động và hơn nữa tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh tồn cầu
hố kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan và nhất là khi Việt Nam ta đã trở
thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), để thực
hiện thắng lợi chủ trương này, một mặt, chúng ta cần phải chủ động và tích cực
hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song
phương; đồng thời thực hiện hội nhập có trọng điểm, theo lộ trình phù hợp với
chiến lược phát triển đất nước. Mặt khác, chúng ta phải bảo đảm xây dựng nền

kinh tế độc lập tự chủ và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải gắn liền với
chủ trương chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại
lực thành nguồn lực tổng hợp theo phương châm lấy nội lực làm cái có ý nghĩa
quyết định, lấy ngoại lực làm cái có ý nghĩa quan trọng trong quá trình vừa hợp
tác, vừa đấu tranh.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, một lần nữa khẳng định quyết
tâm đổi mới toàn diện và mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh để sánh vai cùng các
nước trên thế giới trong nhịp bước khẩn trương của thời đại, Đảng ta đã khẳng
định, đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường định
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

10


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước...,
chúng ta cần phải "chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế".
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chủ trương: “Thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy
và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân
tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghãi giàu mạnh”. Báo cáo Chính trị xác
định: “Nhiệm vụ của cơng tác đối ngoại là giữ vững mơi trường hịa bình, thuận
lợi cho đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần

tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới”.
Có thể nói, chủ trương chủ động và hơn nữa, cịn tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế mà Đảng ta đã đề ra là hoàn toàn đúng đắn trong bối cảnh tồn cầu hóa
kinh tế đã trở thành"một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham
gia" và nhất là khi Việt Nam chúng ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO). Bước vào "sân chơi tồn cầu hóa", để tiếp tục
đổi mới đất nước một cách mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát triển nhanh và
bền vững, làm cho thế và lực của nước ta ngày càng lớn mạnh, sớm ra khỏi tình
trạng của một nước kém phát triển và nhanh chóng trở thành một nước cơng
nghiệp theo hướng hiện đại, đồng thời vẫn giữ được môi trường hồ bình và tạo
thêm nhiều thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ
ngày một nhanh hơn, chúng ta không thể không mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế,
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế hiện thời, khi hồ bình, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn, để hội nhập kinh tế quốc tế thành công, chúng ta không
chỉ kiên định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát triển,
đồng thời thực hiện nhất quán chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế, mà cịn phải tích cực phát triển cơng tác đối ngoại
nhân dân theo phương châm "chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả", “tăng
cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính
phủ nước ngoài”. Khi kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển,
nhưng trong sự phục hồi và phát triển đó vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó
lường, để hội nhập kinh tế quốc tế thành công, một mặt, chúng ta cần phải chủ
động và tích cực hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu,
khu vực và song phương; mặt khác, thực hiện chủ trương hội nhập có trọng điểm,
"theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và
tầm nhìn đến năm 2020", củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A


11


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

cậy với các đối tác chiến lược, "khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa
những thách thức, rủi ro". Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi tồn cầu hóa kinh tế
đang tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng,
gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển
và khi mà sự cạnh tranh kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên,
năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ giữa các nước diễn ra với mức độ
ngày càng gay gắt. Do vậy, để chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế mà Đảng ta đã đưa ra được thực hiện với thắng lợi ngày càng to lớn và
vững chắc, cùng với việc tận dụng triệt để những cơ hội và thuận lợi do tồn cầu
hóa kinh tế mang lại, chúng ta phải tính đến và lường trước được những nguy cơ
và thách thức do nó đặt ra, không coi thường bất cứ nguy cơ, thách thức nào, nhất
là phải thực hiện hội nhập với phương châm "vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh".
Việc chúng ta phải tính đến cả ảnh hưởng tích cực lẫn ảnh hưởng tiêu cực của
tồn cầu hóa kinh tế khi xây dựng chiến lược phát triển đất nước, đồng thời tranh
thủ cơ hội, vượt qua thách thức do nó đặt ra với tư cách "địi hỏi bức bách của
tồn dân tộc", như Đảng ta khẳng định tại Đại hội X của Đảng, khi thực hiện chủ
trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo phương châm "vừa có
hợp tác, vừa có đấu tranh” nhằm tiếp tục đổi mới hơn nữa, phát triển nhanh và
bền vững hơn, là bởi:
Thứ nhất, về phương diện lý luận, tồn cầu hóa, như các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác đã chỉ rõ từ hơn 150 năm trước, do sự "xâm lấn khắp toàn cầu" và
"bóp nặn thị trường thế giới" của chủ nghĩa tư bản đã khiến cho cả quá trình sản
xuất lẫn quá trình tiêu thụ sản phẩm ở tất cả các nước đều "mang tính chất thế

giới" và làm cho "cơng nghiệp mất cơ sở dân tộc", cịn những ngành cơng nghiệp
vốn là lợi thế của mỗi dân tộc thì bị thay thế bởi những ngành công nghiệp mà
việc du nhập chúng "trở thành một vấn đề sống còn đối với tất cả các dân tộc văn
minh". Khơng chỉ thế, tồn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản chủ động tạo ra và nắm
quyền khống chế, chi phối, như các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng định,
còn khiến cho tình trạng cơ lập, tự cung tự cấp ở các quốc gia dân tộc bị thay thế
một cách tất yếu và khơng thể cưỡng nổi bởi q trình "phát triển những quan hệ
phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc". Theo đó, có thể nói, tồn cầu
hóa, mà trước hết là tồn cầu hóa kinh tế, trong quan niệm của các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác, về thực chất, là sự hội nhập toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, là xu thế phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy luật của xã hội
lồi người và do vậy, khơng một quốc gia dân tộc nào có thể tránh khỏi ảnh hưởng
của nó.
Thứ hai, trong bối cảnh quốc tế hiện thời, tồn cầu hóa kinh tế, mặc dù
mang một nội dung mới, với những nét đặc thù mới, khác rất nhiều so với dự báo
của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, song về cơ bản, vẫn là quá trình hội nhập
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

12


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và trên thực tế, nó đã thực sự
trở thành một xu thế khách quan, xu thế tất yếu mà để tiếp tục phát triển, không
một quốc gia dân tộc nào có thể đứng ngồi.
Thật vậy, tồn cầu hóa kinh tế hiện nay không chỉ là một xu thế khách
quan, mà cịn là một q trình hiện thực, trong đó cả lực lượng sản xuất lẫn quan

hệ kinh tế đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia dân tộc và phạm vi khu vực để đạt
tới quy mơ tồn thế giới. Trong q trình tồn cầu hóa kinh tế ấy, hàng hóa, vốn,
tiền tệ, cơng nghệ sản xuất, thơng tin khoa học đang vận động một cách thơng
thống, chuyển giao liên tục. Khơng chỉ thế, trong q trình đó, sự phân công lao
động và hợp tác lao động đã thực sự mang tính quốc tế; cịn mối quan hệ kinh tế
giữa các quốc gia dân tộc, các khu vực thì đã thực sự có sự đan xen lẫn nhau và
đang hình thành nên một mạng lưới song phương, đa phương, vận hành theo các
định chế mà người ta vẫn thường gọi là các "luật chơi" chung được hình thành
trên cơ sở vừa đấu tranh, vừa hợp tác giữa các thành viên trong cộng đồng thế
giới. Trong xu thế phát triển đó, mối quan hệ giữa các nền kinh tế dân tộc ngày
càng trở nên gắn bó và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng cũng ngày càng lớn.
Thêm vào đó, các yếu tố đóng vai trị quy định q trình tồn cầu hóa kinh
tế hiện nay khơng chỉ là tốc độ phát triển của sản xuất hàng hóa, của lực lượng
lao động với sự hợp tác, phân công ngày càng sâu sắc và của sự giao lưu, hợp tác
kinh tế ở tầm quy mơ quốc tế, mà cịn là sự phát triển với tốc độ vũ bão của khoa
học và công nghệ hiện đại mà sự bùng nổ của công nghệ thơng tin, hệ thống
internet tồn cầu chỉ như những ví dụ cụ thể. Thêm nữa, sau sự sụp đổ của Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, trên thế giới hiện thời đã khơng cịn
sự tồn tại của hai nền kinh tế, hai thị trường vận động theo các quy luật khác
nhau; các nước tư bản phát triển cũng khơng cịn tiến hành phân chia thị trường
thế giới thành các vùng ảnh hưởng rõ rệt mà cùng một lúc thâm nhập, cạnh tranh
với nhau trên các thị trường khác nhau; nhiều nước trên thế giới chủ trương tích
cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã làm cho tính chất tồn cầu của nền kinh
tế này ngày càng gia tăng rõ rệt. Cùng lúc đó, cả thế giới hiện thời đang phải đối
mặt và cùng nhau giải quyết nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc, như "khoảng cách
chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn; sự gia tăng
dân số cùng với các luồng dân di cư; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn
kiệt tài nguyên, môi trường tự nhiên bị hủy hoại; khí hậu diễn biến ngày càng
xấu, kèm theo những thiên tai khủng khiếp; các dịch bệnh lớn, các tội phạm
xuyên quốc gia có chiều hướng tăng".

Tất cả những yếu tố đó đang làm cho q trình tồn cầu hóa kinh tế hiện
nay vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực; vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh;
vừa có khả năng tạo ra cơ hội phát triển, vừa chứa đựng nhiều mâu thuẫn và
mang đến những thách thức lớn, khó lường cho mọi quốc gia dân tộc. Toàn cầu
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

13


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

hóa kinh tế hiện nay đã đem lại cho các nền kinh tế quốc gia - dân tộc mối quan
hệ gắn bó, hữu cơ, tùy thuộc vào nhau và khiến cho xu hướng liên kết kinh tế
giữa các nền kinh tế này trở thành tất yếu. Song, mặt khác, tồn cầu hóa kinh tế
hiện nay vẫn đang bị một số nước tư bản phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản
xuyên quốc gia có sự tăng biến chưa từng thấy trong lịch sử khống chế, chi phối,
còn các nền kinh tế dựa trên tính ưu việt của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
đã khơng cịn giữ được ưu thế vốn có trước đây của mình và do vậy, về thực chất,
nền kinh tế toàn cầu hiện nay vẫn là nền kinh tế của tư bản tồn cầu. Với tính
chất và bản chất đó, tồn cầu hóa kinh tế hiện nay vẫn luôn tiềm ẩn những yếu tố
bất trắc, những thách thức lớn, khó lường và khiến cho sự bất bình đẳng trong
phát triển vốn đã lớn lại ngày càng lớn hơn, gây nên nhiều khó khăn cho các
nước đang phát triển mà Việt Nam chúng ta là một ví dụ.
Tuy nhiên, cũng với tính chất ấy, bản chất ấy, những thuận lợi và cơ hội
lớn mà tồn cầu hóa kinh tế hiện nay đang mang lại cho tất cả các nền kinh tế
quốc gia - dân tộc là điều không thể phủ nhận. Những thuận lợi và cơ hội đó
trước hết là ở chỗ, nhờ tồn cầu hóa kinh tế mà thị trường được mở rộng, sự giao
lưu hàng hóa trở nên thơng thống hơn, hàng rào thuế quan ngày một giảm và do

vậy, sự trao đổi hàng hóa trong phạm vi khu vực và quốc tế tăng nhanh, đem lại
cơ hội đẩy nhanh tốc độ sản xuất hàng hóa cho nhiều nền kinh tế quốc gia - dân
tộc. Cùng với việc mở rộng thị trường, tồn cầu hóa kinh tế hiện nay còn làm cho
các luồng chuyển giao vốn vượt ra khỏi biên giới quốc gia - dân tộc và dẫn đến
sự hình thành nhiều hình thức đầu tư và hợp tác sản xuất. Điều này đem lại cho
nhiều nền kinh tế quốc gia - dân tộc khả năng tiếp cận đa dạng với các nguồn
vốn, công nghệ sản xuất, kinh nghiệm quản lý và theo đó, sự phân cơng lao động
quốc tế theo hướng có lợi cho cả bên đầu tư vốn lẫn bên tiếp nhận vốn được hình
thành. Cũng nhờ tồn cầu hóa kinh tế mà các thành tựu khoa học và công nghệ đã
được chuyển giao một cách nhanh chóng, được ứng dụng rộng rãi trên phạm vi
thế giới. Điều này đã đem lại cho các quốc gia - dân tộc đi sau trong sự phát triển
kinh tế cơ hội tiếp cận với những thành tựu ấy để phát triển. Khơng chỉ thế, tồn
cầu hóa kinh tế cịn góp phần thúc đẩy q trình giao lưu và hợp tác văn hóa giữa
các quốc gia - dân tộc, làm cho họ ngày càng hiểu nhau, ngày càng xích lại gần
nhau và qua đó, tạo mơi trường thuận lợi cho cuộc đấu tranh vì hồ bình, hợp tác
và phát triển.
Trên cơ sở nhận thức rõ và đánh giá đúng khơng chỉ những cơ hội thuận
lợi, mà cịn cả những khó khăn, thách thức lớn do tồn cầu hóa kinh tế mang lại
và đặt ra đối với cơng cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, khi đưa ra chủ trương
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Đảng ta đã xác định rõ phương
châm chủ đạo để thể hiện chủ trương đúng đắn này. Phương châm chủ đạo đó là:
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

14


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại


phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ
gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ mơi trường.
Có thể nói, trong bối cảnh quốc tế hiện thời, nhất là trong bối cảnh toàn
cầu hóa kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan, phương châm thực hiện chủ
trương hội nhập kinh tế quốc tế mà Đảng ta đã đưa ra là hoàn toàn đúng đắn. Bởi
lẽ, bằng cách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, một mặt, chúng ta sẽ
tận dụng được những cơ hội thuận lợi, những điều kiện thiết yếu để phát triển
kinh tế, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; mặt khác, chỉ có trên cơ sở tự chủ
được về kinh tế, chúng ta mới có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực một cách có hiệu quả, mới có thể bảo đảm chủ quyền quốc gia và lợi ích dân
tộc .
Thật vậy, với Việt Nam chúng ta hiện nay, chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực khơng chỉ nhằm mục đích tạo thêm nguồn lực, tạo ra
sức mạnh tổng hợp để đẩy nhanh tốc độ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mà cịn
nhằm mục đích đáp ứng u cầu và lợi ích quốc gia trong q trình phát triển và
qua đó, phát huy vai trị, ảnh hưởng của chúng ta tới quá trình hợp tác và phát
triển của thế giới và khu vực, góp phần thiết thực vào cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Kiên
định phương châm bảo đảm vững chắc độc lập tự chủ về đường lối, chính sách
phát triển kinh tế, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc và coi đó như một nguyên tắc cơ bản trong hội nhập kinh tế quốc tế là cơ
sở nền tảng để chúng ta thực hiện thành công chủ trương chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế hiện nay.
Khơng chỉ thế, việc xây dựng một tiềm lực kinh tế đủ mạnh để trên cơ sở đó, khai
thác tối đa các lợi thế cạnh tranh, vượt qua mọi nguy cơ, thách thức trong hội
nhập cũng là một yếu tố quan trọng, đảm bảo cho q trình chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực có được những thắng lợi ngày càng to lớn và

vững chắc. Thực hiện phương châm hội nhập này, chúng ta không những cần
phải nâng cao mức tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, mà còn phải xây dựng
một cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh cao, đồng bộ hóa và ngày càng hiện
đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao năng lực nội sinh
về khoa học và công nghệ. Khơng chỉ thế, chúng ta cịn phải chủ động xây dựng
lộ trình hội nhập hợp lý, "tiếp tục đổi mới thế chế kinh tế, rà soát lại các văn bản
pháp quy, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật bảo đảm tính
đồng bộ, nhất quán, ổn định và minh bạch". Và, cùng với việc không ngừng cải
thiện môi trường đầu tư, thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư, đổi mới cơ chế
quản lý, chúng ta cần phải "phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

15


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế"; "xúc tiến
mạnh thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương
hiệu mới"; đồng thời "khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên
doanh với các doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài".
Chủ động hội nhập và phát triển kinh tế quốc tế trong bối cảnh tồn cầu
hóa kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan, việc bảo đảm ngun tắc bình
đẳng, tơn trọng lẫn nhau và cùng có lợi trong quan hệ song phương và đa phương
với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế, các
trung tâm kinh tế cũng cần phải được coi là một phương châm cơ bản. Thực hiện
nguyên tắc này trong hội nhập kinh tế quốc tế để Việt Nam chúng ta trở thành
bạn, thành đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích

cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, một mặt, chúng ta khơng được
phép để phương hại đến lợi ích cần có và hợp lý mà chúng ta xứng đáng được
hưởng; mặt khác, chúng ta cũng phải chấp nhận một sự chia sẻ lợi ích hợp lý cho
các đối tác tham gia đầu tư và hợp tác sản xuất kinh doanh với chúng ta. Đồng
thời, chúng ta cũng cần phải giữ vững nguyên tắc vừa hợp tác, vừa đấu tranh; vừa
kiên quyết, vừa mềm dẻo để đạt tới mục tiêu và bảo vệ được lợi ích chính đáng
của chúng ta trong quá trình đầu tư và hợp tác sản xuất kinh doanh.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh tồn cầu hóa
kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan còn đòi hỏi chúng ta phải thực hiện
nhất quán phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế. Bởi lẽ,
chỉ có trên cơ sở thực hiện tốt phương châm này, chúng ta mới có thể có được
khả năng bảo đảm lợi ích quốc gia, bảo vệ an ninh và chủ quyền quốc gia trong
hội nhập; đồng thời cịn có được khả năng giữ vững độc lập tự chủ và sự cân
bằng trong quan hệ quốc tế, tránh được sự lệ thuộc, phụ thuộc một chiều vào một
đối tác hay một số đối tác nào đó trong q trình hội nhập. Và, cũng chỉ có trên
cơ sở thực hiện tốt phương châm này, chúng ta mới có thể tránh được sự độc
quyền kinh doanh của một tập đoàn hay một số tập đồn kinh tế nào đó trên đất
nước ta, không để họ nắm quyền chi phối, khống chế, thao túng nền kinh tế nước
ta, đồng thời tạo ra sự cạnh tranh giữa các đối tác nước ngoài trong quá trình liên
kết, hợp tác làm ăn với nước ta, tạo ra những lợi thế cần thiết cho các doanh
nghiệp nước ta vươn ra làm ăn trên thị trường thế giới và khu vực.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh tồn cầu hóa
kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan còn đòi hỏi chúng ta phải phát huy
cao độ nguồn lực trong nước, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài, kết hợp
chặt chẽ nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp theo phương châm lấy
phát huy cao độ nguồn lực trong nước làm cái có ý nghĩa quyết định, lấy tranh
thủ tối đa nguồn lực bên ngoài làm cái có ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽ, trong bối
cảnh tồn cầu hóa kinh tế hiện nay, chỉ có trên cơ sở phát huy cao độ nguồn lực
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A


16


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

trong nước, chúng ta mới có thể tranh thủ được và sử dụng được một cách tối đa
nguồn lực bên ngoài, mới biến ngoại lực thành nội lực cho sự phát triển kinh tế xã hội nhanh, có hiệu quả và ngày càng bền vững.
Như vậy, có thể nói, với Việt Nam hiện nay, chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế trong bối cảnh tồn cầu hóa đã trở thành một xu thế khách quan
để có thể tranh thủ, tận dụng và khai thác tối đa những cơ hội thuận lợi, đồng thời
có thể khắc phục và vượt qua mọi nguy cơ, thách thức, mọi khó khăn, trở ngại
trong quá trình hội nhập, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải gắn liền với chủ trương
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực thành
nguồn lực tổng hợp nhằm phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
* Thái độ và hành động của Việt Nam tham gia vào q trình tồn cầu
hóa kinh tế một cách có hiệu quả nhất trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Việt Nam đã thực hiện chính sách "Đổi mới" từ hơn 15 năm nay và đã đạt
được những thành tựu đáng phấn khởi: "kinh tế phát triển nhanh; tổng sản phẩm
quốc dân trong nước tăng gấp đôi trong 10 năm; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
và năng lực sản xuất (một số sản phẩm quan trọng) tăng hơn trước; đất nước đã
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nền kinh tế từ chỗ thiếu lương thực và hàng
tiêu dùng đến chỗ có dư; từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã chuyển sang cơ
chế thị trường theo định hướng XHCN; từ chỗ chủ yếu có 2 thành phần kinh tế
chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.

Văn hóa - xã hội có những tiến bộ mới; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng an ninh được giữ vững. Quan hệ đối ngoại
mở rộng" .
Coi tụt hậu là nguy cơ lớn nhất, Việt Nam tiếp tục quá trình đổi mới, mở
cửa, "khẳng định và nhất quán chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong hội
nhập kinh tế quốc tế", "tranh thủ các thời cơ để hội nhập" trong khi "xác định độc
lập, tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản, bảo đảm sự bền vững của độc
lập, tự chủ về chính trị" trên "nguyên tắc bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập,
tự chủ và định hướng XHCN, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ vững bản sắc văn
hóa dân tộc, bảo vệ mơi trường; hợp tác bình đẳng cùng có lợi, chống lại sự áp
đặt khơng cơng bằng, khơng bình đẳng".
Việt Nam ý thức được rằng tồn cầu hóa là một quá trình đầy mâu thuẫn,
mà mâu thuẫn đặc trưng cho các nước đi theo con đường phát triển chủ nghĩa xã
hội là ngoài độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia bị đụng chạm, cịn có sức ép
của xu hướng tư bản chủ nghĩa mà tồn cầu hóa chi phối, khống chế đòi phải tự
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

17


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

do hóa, tư nhân hóa kinh tế, mở toang cánh cửa kinh tế để từ đó đi đến chuyển
hóa chế độ chính trị.
Do đó, Việt Nam chủ trương chủ động "hội nhập" và xác định quá trình
hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh. Việt Nam không bao giờ ảo
tưởng rằng các nước tư bản, đặc biệt là các nước tư bản phát triển nhất, lại hỗ trợ
cho mình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngay khi tuyên bố bình thường hóa quan hệ

với Việt Nam, Tổng thống Hoa Kỳ Bin Clinton cũng thẳng thừng nói rằng sẽ
chuyển hóa Việt Nam như họ đã từng chuyển hóa Liên Xơ, Đơng Âu trước đây.
Các nước đầu tư vào Việt Nam cũng ln địi hỏi Việt Nam phải cải cách hơn
nữa, phải tạo môi trường đầu tư thuận lợi hơn nữa... họ khơng bao giờ bằng lịng
với những cố gắng của Việt Nam. Họ địi Việt Nam phải nhanh chóng tư nhân
hóa nhằm xóa bỏ sự chủ đạo của kinh tế nhà nước, cơ sở của định hướng XHCN.
Họ khuyến khích dân chủ hóa, ln vu cáo Việt Nam vi phạm quyền con người...
Là một nước kém phát triển tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua con
đường phát triển tư bản chủ nghĩa, Việt Nam phải tính tóan kỹ cách thức hội
nhập, mở cửa sao cho không "chệch hướng XHCN", để vừa tranh thủ tối đa các
cơ hội và loại trừ, hạn chế hết mức những rủi ro và cạm bẫy. Lênin từng nói "giai
cấp vơ sản buộc phải để cho chủ nghĩa tư bản tham gia vào sự nghiệp của mình"
(Lênin: Tồn tập, trang 25, và trang 141), và các nước kém phát triển như Việt
Nam lại càng cần phải "học hỏi" và "tranh thủ" chủ nghĩa tư bản về phương thức
quản lý, về nguồn vốn và kỹ thuật, công nghệ... tức là Việt Nam có thể "mượn
tiền đề từ các nước tư bản phát triển" để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và chúng ta
tin tưởng rằng chúng ta sẽ khơng bị chệch hướng, bởi vì :
- Sự nghiệp "đổi mới", "hội nhập", "mở cửa" của Việt Nam do Đảng Cộng
sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo nhằm mục tiêu xây dựng thành công xã
hội chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Chúng ta "đổi mới", "hội nhập", "mở cửa" với mục đích giải phóng lực
lượng sản xuất, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao đời
sống nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
- Chuyển từ nền kinh tế hai thành phần sang nền kinh tế nhiều thành phần,
từ chế độ công hữu đơn nhất sang nhiều loại hình sở hữu, lấy cơng hữu làm nền
tảng, chính là sử dụng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phục vụ cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Việt Nam vận dụng cơ chế thị trường kết hợp với kế hoạch hướng dẫn để
vận hành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Cùng với chính sách phát huy tối đa nội lực, Việt Nam thực hiện chính

sách "mở cửa", "hội nhập" với tất cả các nước trên thế giới để thu hút ngoại lực
nhằm đẩy nhanh cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong khi hội nhập, mở cửa, chúng ta vẫn giáo dục vận động nhân dân và
có những chính sách đúng đắn nhằm bảo tồn nền văn hóa và bản sắc dân tộc.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

18


Bài kiểm tra

Học phần: Kinh Tế Đối Ngoại

Đồng thời chúng ta kiên quyết đấu tranh chống lại những ý đồ can thiệp vào công
việc nội bộ dưới mọi biểu hiện của "diễn biến hồ bình".
Chúng ta đã từng trả giá cho việc bị bao vây cấm vận về kinh tế và cơ lập
về chính trị. Nền kinh tế nước ta đã từng rơi vào khủng hoảng trầm trọng kéo
theo nhiều khó khăn, tiêu cực xã hội. Hơn ai hết chúng ta lại thấm nhuần bài học
"kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại" và với tinh thần "chủ động và
sáng tạo" trong sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, việc tham gia vào q
trình tồn cầu hóa sẽ giúp chúng ta lợi dụng được sự phân công lao động quốc tế
mới và nếu biết đi tắt đón đầu một số ngành mũi nhọn hợp với khả năng và trình
độ của ta, chắc chắn chúng ta sẽ tranh thủ được những cơ hội mà tồn cầu hóa tạo
ra.
Như vậy, có thể nói, với Việt Nam hiện nay, chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế trong bối cảnh tồn cầu hóa đã trở thành một xu thế khách quan
để có thể tranh thủ, tận dụng và khai thác tối đa những cơ hội thuận lợi, đồng thời
có thể khắc phục và vượt qua mọi nguy cơ, thách thức, mọi khó khăn, trở ngại
trong q trình hội nhập, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc

lập tự chủ và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải gắn liền với chủ trương
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực thành
nguồn lực tổng hợp nhằm phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Giàu – GDCT 3A

19



×