Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Vận dụng qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.74 KB, 36 trang )

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận..........................................................................................
1. Các khái niệm.........................................................................................
2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.......................................................................................................
II. Vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam..............
1. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là
một tất yếu lịch sử.................................................................................................
2. Việt Nam trong thời kỳ đầu đi lên chủ nghĩa xã hội (1976 - 1986)........
3. Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nước ta
từ sau công cuộc đổi mới (1986) đến nay.............................................................
3.1. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần...
3.2. Nội dung đường lối đổi mới của Đảng................................................
3.3. Những thành tựu kinh tế - xã hội đã đạt được.....................................
3.3.1. Nền kinh tế tăng trưởng liên tục, nhiều năm có tốc độ cao..............
3.3.2. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ................................
3.3.3. Kiềm chế và đẩy lùi được lạm phát...................................................
3.3.4. Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh...................................................
3.3.5. Đời sống nhân dân được cải thiện....................................................
3.4. Những vấn đề còn tồn tại.....................................................................
3.5. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020.............................
C. PHẦN KẾT LUẬN...............................................................................
1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
Xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển không thể không sản xuất ra của


cải vật chất mà trình độ phát triển của nó được biểu hiện chính bởi phương thức sản
xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Từ khi con người mới xuất hiện trên hành
tinh đã trải qua năm phương thức sản xuất. Đó là: Cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu
nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa. Tư duy nhận thức của con người
không dừng lại ở một chỗ mà theo thời gian ngày càng phát triển hoàn thiện hơn, từ
đó kéo theo sự thay đổi phát triển trong sản xuất. Lịch sử phát triển của sản xuất
trong xã hội loài người là lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất kế tiếp
nhau. Phương thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, là cách thức sản xuất ra của cải vật chất mà trong đó lực lượng sản
xuất đạt đến một trình độ nhất định, thống nhất với quan hệ sản xuất tương ứng với
nó. Phương thức sản xuất vừa là hạt nhân đồng thời vừa là động lực thúc đẩy và quy
đinh mọi mặt của đời sống xã hội. Không thể thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế
nếu không hiểu biết về cách thức sản xuất và không có những biện pháp tối ưu tác
động nhằm hoàn thiện phương thức sản xuất mà cụ thể chính là hoàn thiện mối quan
hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất đã được Mac và Ăngghen khái quát thành quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng định rằng lực
lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất và ngược lại, có thể
thúc đầy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Xã hội ngày càng phát
triển thì mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là không thể tách
rời, đây là quy luật chung của sự phát triển và là một trong những quy luật quan trọng
quy định sự tồn tại, phát triển và tiến bộ xã hội. Chính vì thế mà không phải ngẫu
nhiên việc nghiên cứu quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
2


phát triển của lực lượng sản xuất là một trong những nội dung quan trọng của công
cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang tiến hành hôm nay.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát

triển của chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, do
đó sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đó cũng có những điểm khác
so với trước đây.
Trước những năm 1986, do nhận thức và vận dụng sai lầm lý luận của chủ
nghĩa Mác –Lênin vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến những thất
bại to lớn như sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN ở Liên xô và các nước Đông
Âu, còn ở Việt nam do nhận thức và vận dụng sai lầm đã dẫn đến tụt hậu về kinh tế
và khủng hoảng về chính trị.
Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt, các lĩnh
vực của quá trình đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đồng
thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá;
trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế lẫn lĩnh vực chính
trị, Đảng ta cũng xem đổi mới kinh tế là trọng tâm.
Thực tiễn hơn 20 năm đổi mớỉ nước ta mang lại nhiều bằng chứng xác nhận
tính đúng đắn của những quan điểm nêu trên. Đại hội đại biểu lần thứ VIII của đảng
đã khẳng định “xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư
duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và chinhs sách đối nội đối ngoại.
Không có sự đổi mới đó thì không có sự đổi mới khác”.
Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về nhiệm vụ xây dựng CNXH trong
thời kỳ quá độ lên CNXH, tôi đã lựa chọn đề tài: "Vận dụng qui luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.

3


B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Các khái niệm
a) Lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội nhất
định, ở một thời kỳ nhất định. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ tác động
giữa con người với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con người và năng lực
thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với tri
thức, phương pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ. Trong các
yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất, người lao động là chủ thể và bao giờ cũng là
lực lượng sản xuất cơ bản, quyết định nhất của xã hội.
Ngày nay, khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì nội dung
khái niệm lực lượng sản xuất được bổ sung, hoàn thiện hơn. Các cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ đã làm xuất hiện những khu vực sản xuất mới và làm cho
năng suất lao động tăng lên gấp bội. Năng suất lao động được xem như là tiêu chí
quan trọng trọng nhất để đánh giá trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và suy
cho cùng cũng là yếu tố quyết định sự chiến thắng của một trật tự xã hội này đối với
một trật tự xã hội khác.
b) Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình
sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội (sản xuất và tái sản xuất
xã hội).
Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên, tác
động vào giới tự nhiên, mà còn có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau. Hơn nữa, chỉ

4


có trong quan hệ tác động lẫn nhau thì con người mới có sự tác động vào tự nhiên và
mới có sản xuất.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối quan hệ
giữa con người với con người trên ba mặt chủ yếu sau:
- Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan hệ giữa con người với

con người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
- Quan hệ trong tổ chức và quản lý là quan hệ giữa con người với con
người trong việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động cho
nhau.
- Quan hệ phân phối lưu thông là quan hệ giữa con người với con người
trong phân phối và lưu thông sản phẩm xã hội.
Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết, tác động
qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết
định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản xuất thì giai cấp đó
là giai cấp thống trị; giai cấp ấy đứng ra tổ chức, quản lý sản xuất và sẽ quyết định
tính chất, hình thức phân phối, cũng như quy mô thu nhập. Ngược lại, giai cấp, tầng
lớp nào không có tư liệu sản xuất thì sẽ là giai cấp, tầng lớp bị thống trị, bị bóc lột vì
buộc phải làm thuê và bị bóc lột dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tuy vậy, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối lưu thông cũng có
tác động trở lại quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất trong tính hiện thực của nó không phải là những quan hệ
ý chí, pháp lý mà là quan hệ kinh tế được biểu diễn thành các phạm trù, quy luật kinh
tế.
Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của con người. Sự thay đổi của các kiểu quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
5


c) Phương thức sản xuất:
Phương thức sản xuất là cách thức con người khai thác những của cải vật
chất (tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt) cần thiết cho hoạt động tồn tại và phát triển
của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định.
Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã

hội: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức
sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực
lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
2 - Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất
a) Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay
đổi quan hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện
chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất (quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội).
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi
quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi
đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng
thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất.
Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho
lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết

6


hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản
xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho
quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản
xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển
lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản

xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực
lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản
xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới
ra đời thay thế.
b) Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát
triển của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất
không hoàn toàn thụ động mà tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất có thể tác động đến lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của
sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức
phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ... và
do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách
giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản
xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển.
7


Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay
thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm
hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương
lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
II. Vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội ở Việt Nam
Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta là nền kinh tế đang thực hiện những
cuộc cải biến cách mạng toàn diện và sâu sắc trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế đó là việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng
quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa gắn liền với quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa, từng bước chuyển
nền kinh tế nhiều thành phần, sản xuất nhỏ là chủ yếu lên nền kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế quá độ, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo và
cùng với kinh tế hợp tác làm nền tảng cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện vai trò ấy, theo Nghị quyết Đại
hội VIII, kinh tế nhà nước phải được tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả, nắm
vững những vị trí then chốt, những lĩnh vực trọng yếu trong nền kinh tế như kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản
xuất và thương mại, dịch vụ quan trọng. Các doanh nghiệp nhà nước phải có quy mô
vừa và lớn, phát huy được ưu thế về kỹ thuật và công nghệ, nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ, tạo nguồn thu
lớn cho ngân sách nhà nước.
8


Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ: vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
thể hiện ở chỗ “làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn
đề xã hội, mở đường, hướng dẫn , hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển;
làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô,
tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”.
1. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử
Từ khi hoà bình được lập lại năm 1954, miền Bắc nước ta đã bước vào thời
kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội với đặc điểm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:

“Đặc điểm to nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa”.
Từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống
nhất, cách mạng dân tộc - dân chủ đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả
nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta
nói rõ hơn thực trạng kinh tế và chính trị của đất nước: “Nước ta quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến,
lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để
lại còn nặng nề, những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch
thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của
nhân dân ta”.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ
nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất
phát triển, bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao nhưng vẫn
còn cần phải cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hoá mới.
9


Dĩ nhiên, đối với những nước thuộc loại này, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn,
thời kỳ quá độ có thể diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc
hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì lại càng phải trải qua
một thời kỳ quá độ lâu dài.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
là một thời lỳ lịch sử mà: “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng
nền tảng vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,…tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có
công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá, khoa học tiên tiến. Trong quá trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền
kinh tế mới, mà trong đó xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.

Tuy vậy, sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, bằng sự
nỗ lực sáng tạo của quần chúng, các ngành, các cấp, chúng ta đã vượt qua được
khủng hoảng, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong hoạt động thực
tiễn trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế tăng trưởng nhanh, chính trị ổn
định, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tận
dụng nguồn vốn và công nghệ, phát huy nội lực đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; bộ mặt kinh tế - xã hội thay da đổi thịt hàng ngày, đời sống nhân dân
được cải thiện rõ rệt.
Trong quá trình đổi mới, một trong những vấn đề tư duy lý luận cốt lõi
thuộc về đường lối là sự chuyển đổi từ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Đảng và nhà nước ta đã chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý điều tiết của nhà nước.
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, gắn liền với xây dựng quan hệ sản
xuất mới cho phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
10


2. Việt Nam trong thời kì đầu đi lên chủ nghĩa xã hội (1976 - 1986)
Sau 30/4/1975 nước ta hoàn toàn giải phóng, chúng ta đã đạt được
nhiều thành tựu trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh. Tuy nhiên nền kinh tế
nước ta vẫn là nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển mang nặng tính tự cấp, tự túc.
Trang bị kỹ thuật và kết cấu xã hội yếu kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, cơ cấu kinh
tế tập trung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu quả nặng nề. Nền kinh tế kém hiệu
quả, năng suất lao động thấp, khủng hoảnh kinh tế kéo dài, các tệ nạn tham nhũng...
lan rộng. Đảng cộng sản còn yếu kém trong việc quản lý và xây dựng nền kinh tế - xã
hội mới, đội ngũ cán bộ còn yếu về năng lực, các thế lực đế quốc và phản động ráo
riết thực hiện chiến lược diễn biến hoà bình, phá hoại và bao vây kinh tế. Nếp sống
văn hoá, đạo đức bị xói mòn, lòng tin vào Đảng và nhà nước bị giảm sút.

Mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở miền Bắc được áp dụng trên phạm vi
cả nước. Mặc dù có nỗ lực rất lớn trong xây dựng và phát triển kinh tế, Nhà nước đã
đầu tư khá lớn nhưng vì trong chính sách có nhiều điểm duy ý chí nên trong 5 năm
đầu (1976 - 1980) tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm chạp chỉ đạt 0,4%/năm (kế hoạch
là 13 - 14%/năm) thậm chí có xu hướng giảm sút và rơi vào khủng hoảng. Biểu hiện
ở các mặt:
• Kinh tế tăng trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ
hai và ba không đạt được. Tất cả 15 chỉ tiêu kế hoạch đặt ra cho năm 1976 - 1980 đều
không đạt được, thậm chí tỉ lệ hoàn thành còn ở mức rất thấp. Chỉ có 7 chỉ tiêu đạt 50
- 80% so với kế hoạch (điện, cơ khí, khai hoang, lương thực, chăn nuôi lợn, than, nhà
ở) còn 8 chỉ tiêu khác chỉ đạt 25 - 48% (trồng rừng, gỗ tròn, vải lụa, cá biẻn, giấy, xi
măng, phân hoá học, thép).
• Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của nền kinh tế Quốc dân còn yếu kém, thiếu
đồng bộ, cũ nát, trình độ nói chung còn lạc hậu (phổ biến là trình độ kỹ thuật của
những năm 1960 trở về trước) lại chỉ phát huy được công suất ở mức 50% là phổ biến
11


công nghiệp nặng còn xa mới đáp ứng được nhu cầu tối thiểu; công nghiệp nhẹ bị
phụ thuộc 70 - 80% nguyên liệu nhập khẩu. Do đó đa bộ phận lao động vẫn là lao
động thủ công, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ. Phân công lao động xã hội kém
phát triển, năng suất lao động xã hội rất thấp.
• Cơ cấu kinh tế chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Sản
xuất phát triển chậm, không tương xứng vưói sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra. Sản
xuất không đủ tiêu dùng, làm không đủ ăn, phải dựa vào nguồn bên nogài ngày càng
lớn. Toàn bộ qũy tích luỹ (rất nhỏ bé) và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào nguồn
nước ngoài (riêng lương thực phải nhập 5,6 triệu tấn trong thời gian 1976 - 1980.
Năm 1985 nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỉ Rup - USD cái hố ngăn cách giữa nhu cầuvà
năng lực sản xuất ngày càng sâu.
• Phân phối lưu thông bị rối ren. Thị trường tài chính, tiền tệ không ổn định.

Ngân sách Nhà nước liên tục bị bội chi và ngày càng lớn năm 1980 là 18,1%, 1985 là
36,6% dẫn đến bội chi tiền mặt. Năm 1976, trên phạm vi cả nước, lạm phát đã xuất
hiện và ngày càng nghiêm trọng giá cả tăng nhanh. Đời sống nhân dân ngày càng khó
khăn, do đó tiêu cực và bất công xã hội tăng lên. Trật tự xã hội bị giảm sút. Những
điều đó chứng tỏ trong giai đoạn này nước ta bị khủng hoảng kinh tế chính trị, xã hội.
Thực trạng trên có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại và hậu quả của nhiều
năm chiến tranh, song chủ yếu là chúng ta đã vi phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi
phạm các quy luật khách quan trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong tién hành công
nghiệp hoá và trong cơ chế quản lý kinh tế đặc biệt là không có sự phù hợp giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chúng ta đã quên mất điều cơ bản là nước ta quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Chúng ta đã thiết lập
chế độ công hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Đồng nhất
chế độ công hữu với chủ nghĩa xã hội lẫn lộn đồng nhất giữa hợp tác hoá và tập thể
hoá. Chúng ta đã ra sức vận động gần như cưỡng bức nông dân đi vào hợp tác xã, mở
12


rộng phát triển quy mô nông trường quốc doanh, các nhà máy, xí nghiệp lớn mà
không tính đến trình độ lực lượng sản xuất đang còn thời kỳ quá thấp kém. Chúng ta
đã tạo ra những quy mô lớn và ngộ nhận là đã có “quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”
và còn nói rằng: mỗi bước cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất
mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của lực lượng sản xuất mới. Quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa có khả năng “vượt trước” “mở đường” cho sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Thực tế nhiều năm qua đã chứng minh quan điểm đó là sai lầm
bởi quan hệ sản xuất bị thúc đẩy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo đã làm cho nó
tách rời với trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất.
Phải thấy rằng quan hệ sở hữu thể hiện trong việc xoá bỏ tất cả chế
độ tư hữu, thiết lập công hữu về tư liệu sản xuất không phải chỉ thời gian ngắn là
xong. Nhưng dẫu có làm được thì cũng không phải là mục tiêu trước mắt của nước ta
khi mà chế độ công hữu này chưa thể phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có. Chúng

ta đều biết, khi nghiên cứu xã hội tư bản, C.Mac và Ph.Ăng-ghen đã phát hiện ra mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa. Mâu thuẫn đó là cơ sở sâu xa làm nảy sinh các mâu thuẫn khác và quy định sự
vận động phát triển của xã hội tư bản. Từ đó các ông đi đến dự báo về sự thay thế chế
độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng chế độ công hữu. Việc thay thế ấy, theo
quan điểm của các ông, không thể tiến hành ngay một lúc, mà phải là một quá trình
lâu dài. Tuy nhiên lúc đó các ông vẫn chưa chỉ ra mô hình cụ thể về chế độ công hữu.
Sau đó, khi vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng của C.Mac và Ăng-ghen vào điều
kiện cụ thể của nước Nga, V.I.Lenin cũng khẳng định con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội đối với các nước lạc hậu chưa qua tư bản phải trải qua nhiều khâu trung gian,
nhiều bước quá độ khác nhau. Ông đã cực lực phê phán những tư tưởng nóng vội
muốn xác lập ngay chế độ công hữu, khi mà những thành phần kinh tế khác vẫn còn
nhiều khả năng góp phần làm cho sản xuất phát triển. Chúng ta phải thừa nhận một
13


trong những sai lầm cơ bản mà chúng ta đã vấp phải là xoá bỏ quá sớm quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa khi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của chúng ta còn chưa đủ sức
thay thế. Điều đó ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của lực lượng sản xuất và đã
làm mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội. Cũng vậy, chúng ta xoá
sạch tiểu thương khi hệ thống thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán của
ta chưa làm nổi vai trò “người nội trợ cho xã hội ” gây nhiều khó khăn ách tắc cho
lưu thông hàng hoá và không đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho nhân dân.
Trước tình hình đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã khởi xướng lãnh đạo thực
hiện công cuộc đổi mới.
3. Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội
nước ta từ sau công cuộc đổi mới (1986) đến nay
3.1. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
Sau độc lập, nền kinh tế nước ta còn gặp vô vàn khó khăn do thói quen lao
động tự cung tự cấp, nền sản xuất nhỏ lẻ, trình độ khoa học kém phát triển, đời sống

xã hội vô cùng khó khăn… Với hoàn cảnh mới, đất nước tiến lên CNXH, đòi hỏi
nước ta phải có một chế độ kinh tế phù hợp, đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần.
Thời gian qua, chúng ta quá coi trọng vai trò của quan hệ sản xuất, cho rằng có
thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để mở đường san đất, thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển. Quan niệm ấy là sai lầm, sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời
gian qua là minh chứng cho điều ấy và do đó gây ra sự mâu thuẫn giữa yêu cầu phát
triển lực lượng sản xuất với hình thức kinh tế - xã hội được áp đặt một cách chủ quan
trên đất nước ta. Mối mâu thuẫn ấy đã đem theo nhiều hậu quả ngoài ý muốn: Kinh tế
kém phát triển, xã hội nảy sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn, trình độ quản lý yếu kém…
yêu cầu cấp thiết là phải giải quyết đúng đắn mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất, từ đó khắc phục khó khăn và tiêu cực của nền kinh tế - xã hội.
14


Thiết lập quan hệ sản xuất mới với những bước đi phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất để thúc đẩy sản xuất phát triển với hiệu quả kinh tế cao. Đó là sự
cho phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản, buôn bán tự do rộng rãi, nâng cao
đời sống xã hội,… Như lời của đồng chí Lê Khả Phiêu nói: "… không chất nhận Việt
Nam theo con đường chủ quan của tư bản nhưng không phải triệt tiêu tư bản trên đất
nước Việt Nam và vẫn quan hệ với CNTB trên cơ sở có lợi cho đôi bên và như vậy
cho phép phát triển thành phần kinh tế tư bản là sáng suốt". Hay quan điểm từ Đại
hội Đảng VI cũng khẳng định: không những khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư
nhân và kinh tế cá thể mà còn phải phát triển chúng rộng rãi theo chính sách của
Đảng và Nhà nước. Nhưng điều quan trọng là phải nhận thức được vai trò của thành
phần kinh tế nhà nước trong thời kì quá độ.
Tại Đại hội Đảng VI (tháng 12 / 1986) đã xem lại một cách căn bản về vấn đề
cải tạo XHCN và đưa ra quan điểm về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và coi
nó là nhiệm vụ cơ bản cho quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế. Vậy nền kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng

XHCN.
Quan điểm về mô hình nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đã thay đổi căn bản và
đến nay đã được xác lập, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
không chỉ có hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà tồn tại nhiều thành
phần kinh tế khác nhau. Qua quá trình phát triển nhận thức, cũng như tư duy lý luận
về các thành phần kinh tế ngày một hoàn chỉnh, đến Đại hội X của Đảng, nền kinh tế
nước ta được xác lập gồm 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư hữu tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài(*). Sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng không chỉ dừng lại
ở việc xác định số lượng các thành phần kinh tế tồn tại trong nền kinh tế, mà còn xác
15


lập đúng vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Có thể
nói, sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về các thành phần kinh tế có tầm quan trọng
đặc biệt, nó tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức trong toàn xã hội phát
huy mọi tiềm năng, sáng tạo, tạo ra sức mạnh to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế,
xã hội của đất nước, đồng thời nó là động lực to lớn cho chúng ta phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới tư duy kinh tế về phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần còn góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa thông qua tính dân chủ trong hoạt động kinh tế, mọi cá
nhân đều có quyền tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách bình đẳng theo
pháp luật.
3.2. Nội dung đường lối đổi mới của Đảng
Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về CNXH và về thời kỳ
quá độ lên CNXH, dựa vào những kết quả bước đầu của sự đổi mới từng phần, lắng
nghe, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm của nhân dân, của các địa phương và cơ sở,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã hoạch
định đường lối đổi mới. Trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối đổi mới do Đại
hội VI đề ra, nhiều Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và đặc biệt

Đại hội VII (6-1991) với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đại hội VIII (6-1996) và Đại hội IX (4-2001) đã không ngừng bổ sung,
phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới, làm rõ hơn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
của công cuộc đổi mới và xây dựng CNXH ở Việt Nam. Có thể thấy rõ những nội
dung đổi mới quan trọng và chủ yếu cả về nhận thức, tư duy lý luận và cả về lãnh
đạo,

chỉ

đạo

thực

tiễn

suốt

20

năm

qua.

Thứ nhất, đó là đổi mới tư duy lý luận mà thực chất là nắm vững và vận dụng
đúng đắn quy luật khách quan, khắc phục căn bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí.
Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thức rằng, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
16


hội phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan và độ dài của thời kỳ

đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước. “Thời kỳ quá độ ở
nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn”1. Đại hội IX
(4-2001) tổng kết 15 năm đổi mới, khẳng định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực
là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài
với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới
và cái cũ”. Trong hàng loạt các quy luật khách quan, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
nhận thức rõ hơn quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, sửa chữa sai lầm trước đó là là đã đưa quan hệ sản xuất đi quá
nhanh, quá xa trong khi lực lượng sản xuất còn rất lạc hậu, tập trung phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất thông qua thực hiện cách mạng khoa học - công nghệ, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, từ đó điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp.
Các quy luật vận động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là các quy luật
kinh tế đã từng bước nhận thức và vận dụng đúng đắn và có hiệu quả hơn. Khi quyết
định đường lối đổi mới ở Đại hội VI Đảng ta đã nghiêm túc chỉ ra rằng, cuộc sống
cho ta một bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật.
Thứ hai, từ nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ, Đảng quyết định đổi mới
cơ cấu kinh tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ. Đại hội VI đã vận dụng đúng đắn quan điểm của Lênin về kinh tế nhiều
thành phần. Chính Lênin cũng cho rằng tên nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa là để
khẳng định hướng tiến lên chứ điều đó chưa có nghĩa là nền kinh tế của ta đã hoàn
toàn là kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, ở nước ta cần thiết phải có nhiều thành phần
kinh tế phát triển bình đẳng trước pháp luật, đó là yêu cầu khách quan. Đại hội VI
17


khẳng định nước ta có các thành phần: kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực
quốc doanh và khu vực tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân;

kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp. Đại hội IX bổ sung thêm một
thành phần nữa là kinh tế 100% vốn nước ngoài. Trong quá trình đổi mới, 20 năm
qua, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực tiễn đổi mới cũng cho thấy nhiều
thành phần kinh tế đương nhiên là có nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành

nền

tảng

vững

chắc.

Cùng với đổi mới cơ cấu kinh tế, Đảng chủ trương đổi mới cơ chế quản lý dứt khoát
bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán,
kinh doanh và từng bước đưa nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản
lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả
ba mặt sở hữu, quản lý, phân phối.
Thứ ba, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và vai trò, chức
năng quản lý điều hành của Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Củng cố sức mạnh của hệ thống chính trị. Đại hội VI của Đảng đặt ra
yêu cầu xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền, tăng

cường sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực tiễn, đổi mới phong
cách làm việc, đi sâu, đi sát thực tế, sát cơ sở, gắn bó với nhân dân. Nâng cao trình độ
trí tuệ, nắm bắt và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, hiểu biết sâu sắc những
18


vấn đề kinh tế, xã hội. Từ HNTW3 khoá VII (6-1992), đặc biệt từ HNTW6 (lần 2)
khóa VIII (1-1999) Đảng đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng chỉnh đốn Đảng, học tập và
làm

theo

Di

chúc

của

Chủ

tịch

Hồ

Chí

Minh.

Đại hội VI của Đảng đã xác định rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - xã
hội của bộ máy Nhà nước, nghĩa là, Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và chính

sách để điều hành, quản lý nền kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô. Từ sau Đại hội VII, đặc
biệt là HNTW8 khoá VII (1-1995), HNTW3 khoá VIII (6-1997) đẩy mạnh xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Quan
điểm cơ bản là: quyền lực Nhà nước là thống nhất, song có sự phân công và phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ Quốc hội khoá VIII (1987), khoá IX (1992), khoá X (1997) và khoá XI (2002)
hoạt động của Quốc hội ngày càng đổi mới và thực hiện có hiệu quả các chức năng
lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và quyền giám sát tối
cao. Từng bước đẩy mạnh công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước cả về chức
năng, cơ chế vận hành, quản lý, tổ chức bộ máy và đội ngũ công chức. Bộ máy và
hoạt động tư pháp được củng cố và tăng cường. Cùng với việc xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, nhiệm vụ xây dựng hoàn thiện Nhà nước là những nội dung quan trọng về đổi
mới hệ thống chính trị và có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ tiến trình của sự nghiệp
đổi mới.
Thứ tư, thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tăng cường và đổi mới công tác vận động quần chúng
nhân dân và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng đã rút ra
bài học là trong toàn bộ hoạt động, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”,
xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Chính lợi ích sáng kiến
của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới... Một trong những nguyên
tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới mà HNTW6 (khoá VI) 3-1989 nêu ra là phải thực hiện
19


tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng dân chủ luôn luôn gắn liền với tập trung, gắn
liền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân, với kỷ cương, kỷ luật pháp luật, dân chủ
phải có lãnh đạo và lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ. Nghị quyết Trung ương 8B
(khoá VI) 3-1990 về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ
giữa Đảng và nhân dân. Đảng nhấn mạnh các quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp
của dân, do dân và vì dân; động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi

ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với
nghĩa vụ công dân; các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng; công tác vận động
quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Đảng cũng chủ
trương đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân. Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân. Cùng với Đảng, Nhà nước, tổ chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân như Tổng liên
đoàn lao động, Hội nông dân, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp
Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh hợp thành hệ thống chính trị. Công tác vận động quần
chúng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị ở tất cả các cấp.
Đảng chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc đổi mới. Đoàn kết các giai cấp, các thành
phần kinh tế, đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, mọi tầng lớp, cá nhân yêu nước,
đoàn kết người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài nhằm phát
huy

nội

lực

của

dân

tộc

Việt

Nam.

Thứ năm, đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hoá,

Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới trên cơ sở giữ
vững độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ
quốc phù hợp với tình hình mới. Tại Đại hội VI (12-1986), Đảng ta đã nêu rõ chủ
trương: khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là
đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao. Đi đôi với công bố luật đầu tư, cần
20


có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt
kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh. Luật đầu tư nước ngoài là luật sớm nhất của
thời kỳ đổi mới, được Quốc hội khoá VIII thông qua ngày 29-12-1987 và có hiệu lực
từ 1-1-1988. Đại hội VII của Đảng tuyên bố chính sách đối ngoại rộng mở, Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình độc
lập và phát triển. Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh sự hợp tác nhiều mặt, song
phương và đa phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Tích cực đóng góp cho
hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Mở rộng
quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ. Đại hội IX của
Đảng tiếp tục chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế. Đảng ta luôn luôn xác định, nhiệm vụ của công tác đối
ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công
cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
3.3. Những thành tựu kinh tế - xã hội đã đạt được
Với những nội dung rất căn bản và chủ yếu trong đường lối đổi mới cùng
với bản lĩnh chính trị vững vàng và trách nhiệm trước đất nước, giai cấp và dân tộc,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thách thức, kể
cả tác động tiêu cực do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu
và Liên Xô đưa lại, không ngừng đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo con đường của

chủ nghĩa xã hội và qua 20 năm đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của đất nước, cải thiện đáng kể đời sống của nhân
dân, như các văn kiện trình Đại hội X của Đảng đã khẳng định.

21


Có thể thấy rõ thành tựu của 20 năm đổi mới cả về thực tiễn và nhận thức lý
luận để vững tin vào con đường đã lựa chọn và sự phát triển của đất nước.
3.3.1. Nền kinh tế tăng trưởng liên tục, nhiều năm có tốc độ cao
Trong suốt thời kỳ đổi mới từ năm 1986 cho đến nay nền kinh tế Việt Nam
luôn có nhịp độ tăng trưởng dương, đặc biệt đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và
liên tục trong suốt thời gian từ 1986-1997.
Trong 5 năm đầu đổi mới (1986-1990), khi chế độ bao cấp bị xoá bỏ dần, các
doanh nghiệp Nhà nước và các hợp tác xã gặp nhiều khó khăn, khu vực kinh tế tư
nhân và cá thể chưa phát triển nền kinh tế rơi vào tình trạng bất ổn định, bình quân
chỉ đạt 3,9%/năm (riêng năm 1986 đạt 0,3%) và lạm phát cao kéo dài. Nhưng đầu
thập kỷ 90, nền kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng ổn định và đạt đến đỉnh cao là
9,5% vào năm 1995. Đặc biệt trong kế hoạch 5 năm (1991-1995), lần đầu tiên ta đã
hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu của kế hoạch này. Đại hội VIII của Đảng (năm
1996) đã nhận định: "Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội nhưng một số
mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và
chuẩn bị tiền đề cho công nghiêp hoá đã hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tất cả các mục tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm (1996-2000) và chiến
lược kinh tế 10 năm (1991-2000) đều đạt và vượt kế hoạch; GDP trong 10 này tăng
bình quân hàng năm 7,56%/năm nhờ vậy GDP năm 2000 đã gấp 2,07 lần năm 1990.
Riêng 2 năm 1998-1999 nền kinh tế tăng trưởng châm hơn trước (5,8% và 4,8%) vì
bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ cùng với thiên tai xảy ra trong
nhiều vùng trên cả nước. Tuy nhiên đến năm 2000-2002 tốc độ tăng trưởng lại tăng

lên đạt 6,7%; 68% và 70% đặc biệt năm2005 là 8,0% đưa tốc độ tăng trưởng bình
quân trong 5 năm 2001-2005 từ 7,5%.

22


Từ năm 1991 đến nay, sản xuất không chỉ đáp ứng được tiêu dùng mà còn
dành một phần để tích luỹ (năm 1991: 10,1%; 1995: 20%; năm 2000: 27% GDP).
Dưới đây là thành tựu của một số ngành.
• Nông nghiệp phát triển toàn diện cả về trồng trọt và chăn nuoi nghề rừng và
thủy sản. Thành tựu nổi bật nhất là đã giải quyết vững chắc, an toàn lương thực quốc
gia. Sản lượng lương thực đã tăng nhanh: từ 21,5 triệu tấn (năm 1990) lên 27,5 triệu
tấn (năm 1995) và 34,5 triệu tấn (năm 2000) gần 36 triệu tấn (năm 2002). Bình quân
mỗi năm tăng 1,4 triệu tấn. Sản lượng lương thực bình quân đầu người nhờ đó cũng
tăng lên. Việt Nam đã từ một nước thiếu lương thực (trước năm 1989 trở thành nước
xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới sau Thái Lan).
Những chuyển biến trên mặt trận lương thực đã góp phần quan trọng vào việc
ổn định đời sống nhân dân.
Các vùng cây ăn quả tập trung cũng được hình thành, nhiều mặt hàng nông sản
đã chiếm được vị trí đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu. Trong 10 năm 1991-2000,
bình quân mỗi năm xuất khẩu gạo tăng 7,6%; cao su tăng 12,4%; cà phê tăng 17,7%;
rau quả tăng 10,8%; hạt tiêu tăng 24,8%; hạt điều tăng 37,5%. Tổng giá trị nông sản
xuất khẩu chiếm khoảng 40% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Một nền nông
nghiệp hàng hoá đã hình thành gắn với thị trường quốc tế.
• Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ 2 con số. Bình quân thời
kỳ 1991-1995 tăng 13,7%, thời kỳ 1996-2000 tăng 13,2%. Mức bình quân đầu người
của nhiều sản phẩm công nghiệp nhưu điện, than, vải, thép, xi măng… tăng nhanh
trong những năm đổi mới và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất, đời sống nhân
dân và xuất khẩu.
Thời kỳ này đã hoàn thành một số công trình lớn: thuỷ điện Hoà Bình, Trị An,

Yaly, đường dây 500 KV Bắc - Nam, nhiệt điện Phả Lại, Phú Mỹ… Sản lượng điện

23


đã tăng từ 5,7 tỷ KWh năm 1986 lên 26,6 tỷ KWh năm 2000. Nhờ đó điện lưới quốc
gia đã phủ tới 98% số huyện 70% số xã, 90% số hộ thành thị, 60% số hộ nông dân.
• Hệ thống đường giao thông, bưu điện được xây dựng mới và nâng cấp đang
vươn tới mọi miền của đất nước, kể cả vùng sâu, vùng xa. Hoạt động thương mại có
nhiều khởi sắc, cơ chế cung cấp theo tem phiếu và thu mua theo nghĩa vụ bị bãi bỏ
thay thế vào đó là tự do lưu thông, thống nhất một giá. Thị trường đầy ắp hàng hoá và
dịch vụ, giá cả ổn định, chất lượng ngày càng cao, phương thức mua bán thuận tiện.
3.3.2. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ
• Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng khu vực I (gồm nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản) tuy vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục nhưng tỉ trọng đã
giảm xuống, trong khi đó tỉ trọng của khu vực II (gồm công nghiệp và xây dựng cơ
bản) và khu vực II (các ngành dịch vụ đã tăng lên).
• Cơ cấu các thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế trong GDP đã có sự chuyển dịch từ chủ yếu là quốc
doanh, hợp tác xã sang đa thành phần, nhưng vai trò chủ đạo kinh tế quốc doanh vẫn
được tăng cường.
Doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp lại để hoạt động có hiệu quả hơn: số
doanh nghiệp đã giảm từ hơn 1200 (đầu 1990) xuống còn gần 6000 doanh nghiệp vào
cuối năm 1990, tuy vậy tỉ trọng kinh tế Nhà nước vẫn tăng lên từ 29,4% năm 1990
lên 39% năm 2000. Doanh nghiệp Nhà nước từng bước được đổi mới và phát triển.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng có sự biến đổi khá nhanh.
+ Kinh tế hợp tác: từ năm 1988 đến 1994, cả nước đã giải thể 2998 hợp tác xã
yếu kém và 33804 tập đoàn sản xuất. Tính đến năm 1997 cả nước có 13000 hợp tác
xã nông nghiệp, 38000 tổ hợp tác. Nhiều hợp tác xã nông nghiệp chuyển sang mô

hình kiểu mới.
24


+ Kinh tế tư nhân hoạt động dưới các hình thức khác nhau đã tăng lên nhanh
chóng: từ 132 doanh nghiệp năm 1991 tăng lên 42393 doanh nghiệp vào cuối năm
1999. Đặc biệt từ khi Nhà nước ban hành luật doanh nghiệp 1/1/2000, thì khu vực
kinh tế tư nhân tăng lên rất nhanh.
+ Kinh tế cá thể và tiểu chủ cũng rất phổ biến, tính đến năm 1995 có gần 2
triệu hộ kinh doanh trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ và hơn 3 triệu hộ
gia đình nông dân cá thể.
Sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có ý nghĩa quan trọng
trong việc tận dụng nguồn vốn và lao động, tự tạo việc làm, tăng thu nhập của dân cư
và đóng góp vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tuy nhiên khu vực này vẫn
còn đang có trạng thái phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của nó.
3.3.3. Kiềm chế và đẩy lùi được lạm phát
Trong những năm 1986-1988 lạm phát đã tăng tới 3 con số làm cho nền kinh tế
chao đảo. Từ năm 1989, lạm phát được chậm lại ở mức 2 con số sau đó giảm xuống 1
con số. Năm 1986: 774,7%; năm 1990: 67,4%; năm 1995: 12,7%; năm 1997: 3,7%;
năm 1999: 0,1%. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao.
3.3.4. Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh
Quan hệ kinh tế đối ngoại ở nước ta ngày càng được mở rộng. Sau nhiều năm
bị bao vây cấm vận, ngày 11/7/1995, Mỹ tuyên bố bình thường hoá uan hệ và ngày
12/7/1994 đã thiết lập quan hệ kinh tế với Việt Nam. Và từ đó đến nay, chúng ta đã
mở rộng quan hệ hợp tác với 150 nước và vùng lãnh thổ vào năm 2000.
Hoạt động xuất nhập khẩu có sự tiến bộ vượt bậc. Năm 2001, Việt Nam đạt
kim ngạch xuất khẩu 15,027 tỷ USD, nhập khẩu là 16,162 tỷ USD so với 822,9 triệu
USD và gần 221,6 tỷ USD năm 1986. Kim ngạch XNK tăng bình quân hàng năm trên
20%. Sở dĩ kim ngạch XNK tăng nhanh như vậy là do nước ta thực hiện chính sách


25


×