Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ MỘT SỐ MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.18 KB, 10 trang )

BÀI GIẢNG: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ, PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VÀ MỘT SỐ MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TRÊN THẾ GIỚI
I. Những vấn đề cơ bản về lý thuyết tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế
-

-

Tăng trưởng và phát triển kinh tế là những mục tiêu hàng đầu của các quốc gia, đặc
biệt là đối với các nước đang phát triển có thu nhập bình quân đầu người thấp muốn
nhanh chóng đạt được sự tiến bộ về kinh tế- xã hội và hội nhập với các nước trên thế
giới.
Bước vào thế kỷ XXI loài người đang chứng kiến sự đa dạng và sự khác nhau về trình
độ và con đường phát triển giữa các quốc gia. Song từ đó, chúng ta cũng không khỏi
không suy nghĩ xem mục tiêu và ý nghĩa đích thực của phát triển là gì; đằng sau
những qui luật chung của các hiện tượng và các quá trình kinh tế thì cái gì tác động và
chi phối con đường và thành tựu phát triển mà mỗi quốc gia đạt được; và cần phải làm
gì, làm như thế nào để lựa chọn cho mình con đường đúng đắn, phát huy được những
nhân tố thuận lợi, khắc phục những nhân tố ngăn cản, kìm hãm trong quá trình phát
triển.

1. Những khái niệm cơ bản
a. Tăng trưởng kinh tế
-

Mọi quốc gia trên thế giới muốn tồn tại và phát triển đều phải có chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội phù hợp, huy động và sử dụng có hiệu quả tất cả mọi nguồn lực như
tài nguyên thiên nhiên, lao động, khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, v.v… để
tạo nên sự tiến bộ toàn diện cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Trong đó tăng trưởng
kinh tế là nhân tố đảm bảo vị trí quốc tế của một quốc gia, là điều kiện cơ bản cần
thiết cho sự phát triển.



-

Khái niệm:Tăng trưởng kinh tế là một chỉ tiêu cơ bản trong phát triển kinh tế - xã hội
ở các quốc gia, là sự gia tăng thực tế quy mô giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ của
nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.
Ví dụ: Quy mô GDP VN 2011 = 122 tỷ USD
Quy mô GDP TQ 2011 = 7260 tỷ USD
Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế của thời kỳ này so với thời kỳ khác, người ta
thường dùng các thước đo sự gia tăng thực tế về quy mô và tốc độ giá trị tổng sản
phẩm trong nước (GDP) và tổng thu nhập quốc gia (GNI) tính trên phạm vi toàn bộ
nền kinh tế hay tính theo bình quân đầu người.
Quy mô tăng trưởng: nói đến tiềm lực của nền kinh tế
Tốc độ tăng trưởng: khả năng của nền kinh tế
Quy mô tăng trưởng được tính bằng giá trị tuyệt đối. Tốc độ tăng trưởng được tính
bằng giá trị tương đối thông qua việc so sánh quy mô tăng trưởng của 2 thời kỳ. Quy
mô năm sau so với năm trước càng tăng thì tốc độ tăng trưởng càng cao. Tuy nhiên,
không phải tốc độ tăng trưởng càng cao thì càng tốt. Tốc độ tăng trưởng cao nhưng có
thể chất lượng cuộc sông không tăng.
Ví dụ: Biểu đồ biểu thị tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam (1986-2011); thu nhập
bình quân đầu người tại VN và một số quốc gia
1% tăng trưởng của Trung Quốc = 60% GDP VN
 Điều này chứng tỏ sự tụt hậu về kinh tế của Việt Nam so với các quốc gia trên
toàn thế giới, mặc dù tốc độ tăng trưởng rất cao.
VN là một trong 7 nền kinh tế mới nổi có nguy cơ tăng trưởng nóng cao nhất thế giới.
Chúng ta không tránh khỏi vòng xoáy khủng hoảng toàn cầu và đang phải đối mặt với

-

-


-

-


-

nhiều vấn đề bất ổn kinh tế vĩ mô như lạm phát, thâm hụt ngân sách, thâm hụt thương
mại,… Tăng trưởng kinh tế với các chỉ tiêu đo lường được sử dụng làm thước đo trình
độ phát triển kinh tế như trên rất cụ thể và dễ hiểu, nó cũng là mục tiêu phấn đấu của
chính phủ , là tiêu chí để người dân đánh giá hiệu quả điều hành đất nước của chính
phủ. Nhưng TTKT không phản ánh được cuộc sống của nhiều nhóm dân cư khác nhau
trong xã hội, cũng như những bất bình đẳng, những chênh lệch giữa người giàu và
người nghèo, giữa thành thị và nông thôn; hay để chạy theo mục tiêu tăng trưởng mà
tài nguyên thiên nhiên có được khai thác và sử dụng hiệu quả, đúng mức hay không.
Tăng trưởng kinh tế là một chỉ tiêu cơ bản trong phát triển kinh tế - xã hội ở các quốc
gia. Đây là mục tiêu của hầu hết các quốc gia, dù quốc gia đó giàu, nghèo hay thuộc
các chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Trong những năm gần đây, do sự tác động
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nền kinh tế thế giới đã đạt tốc độ
tăng trưởng cao và thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu. Nhưng trên thực tế, cùng với đạt tốc
độ tăng trưởng cao về kinh tế lại xảy ra nghịch lý là sự huỷ hoại môi trường, các mâu
thuẫn xã hội nảy sinh, chu kỳ tăng trưởng không ổn định...Vì vậy, điều cốt lõi của quá
trình phát triển không chỉ là tốc độ tăng trưởng kinh tế mà chất lượng tăng trưởng
kinh tế mới là vấn đề có ý nghĩa quyết định. Tôi xin trình bày phần thứ hai đó là phát
triển kinh tế.

b. Phát triển kinh tế
- Khái niệm: Là sự tiến bộ về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định
- Phát triển kinh tế được biểu hiện:

 Sự tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và liên tục trong thời gian dài
Ví dụ: Các nước công nghiệp mới
Từ ngữ “các nước công nghiệp mới” bắt đầu được sử dụng ở thập niên 1970 khi "Bốn con
hổ châu Á" là Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan nổi lên với sự tăng trưởng
ngoạn mục từ thập niên 1960. Thuật ngữ "các nước công nghiệp mới" được dùng để chỉ
các quốc gia trên trong giai đoạn đó. Ngày nay, các nước quốc gia và vùng lãnh thổ này
đã vượt qua giai đoạn công nghiệp hóa, và "NIC" được dùng chỉ các nước tiếp bước con
đường thành công của họ. Bốn con hổ châu Á giờ đây đã đạt trình độ tương đương các
nước phát triển với tiến trình cởi mở chính trị, GDP trên đầu người cao, và chính sách
kinh tế mạnh mẽ, hướng về xuất khẩu. Các quốc gia và vùng lãnh thổ này có chỉ số phát
triển con người (HDI) ở mức hơn 90% chỉ số trung bình của Liên minh châu Âu
Các NIC thường mang đặc điểm chung là:
Quyền dân sự và tự do xã hội được cải thiện
Có tốc độ tăng trưởng cao (thường là hướng về xuất khẩu). Quá trình công nghiệp hóa
nhanh chóng là một chỉ số quan trọng để trở thành một nước công nghiệp mới.
• Kinh tế chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp, đặc biệt là lĩnh vực chế tạo
• Nền kinh tế thị trường ngày càng mở, cho phép tự do thương mại với các nước trên
toàn thế giới
• Các tập đoàn quốc gia lớn bành trướng hoạt động ra toàn cầu
• Hấp thu luồng đầu tư tư bản dồi dào từ nước ngoài
 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội theo hướng tiến bộ
 Trước đây, TTKT ở nước ta chủ yếu nhờ vào khả năng sản xuất các sản phẩm gia
công hàng loạt, sử dụng nhiều lao động kỹ năng thấp và sản xuất khối lượng lớn các
sản phẩm lương thực và hàng hóa nông nghiệp cho xuất khẩu.
 Ví dụ: Cơ cấu xuất khẩu
 20 năm trở lại đây, có sự thay đổi cơ cấu, ngành dịch vụ Việt Nam trở thành ngành
lớn nhất trong nền kinh tế và đóng góp nhiều nhất vào tốc độ tăng trưởng. Việt Nam





đón nhận lượng du khách tăng mạnh => đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào bất động
sản và khách sạn, nhà hàng.
 Mô hình phát triển của nền kinh tế nước ta trong nhiều năm qua là hướng ngoại, dựa
nhiều vào xuất khẩu, nhập khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Mô hình này chỉ có thể
phù hợp trong điều kiện bình thường, nhưng lại khiến nền kinh tế và nền tài chính, tài
khóa trong nước bị tổn thương khi kinh tế thế giới có sự biến động và lâm vào tình
trạng bất ổn.
Qua đồ thị ta thấy giá trị xuất nhập khẩu của nước ta luôn tăng qua các năm, trong khi
đó giá trị nhập khẩu lại lớn hơn giá trị xuất khẩu (năm 2008 gần 2000 triệu USD); là
nền kinh tế hướng về xuất khẩu, nhưng càng tăng xuất khẩu thì nhập siêu lại càng cao.
Điều này dẫn đến hệ quả, khi độ mở nền kinh tế ngày càng lớn thì nền kinh tế rất dễ bị
tổn thương do những tác động từ bên ngoài. Và càng mở cửa, càng hội nhập thì nền
kinh tế Việt Nam chịu tác động bên ngoài rất lớn, nên buộc chúng ta phải “gia cố” bên
trong. Do đó gia cố cơ cấu kinh tế là giải pháp cấp thiết nhất hiện nay.
 Ví dụ: Cơ cấu kt: ở các nước phát triển và ở VN hiện nay
 Phấn đấu đến năm 2020: chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đô thị hóa, cụ thể:
 Năng lực nội sinh của nền kinh tế ngày càng được gia tăng
 Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay, nguồn lực nước ngoài
đóng vai trò quan trọng, bao gồm nguồn lực vật chất và kinh nghiệm quản lý. Nhưng
nguồn lực đóng vai trò là yếu tố quyết định chính là năng lực nội sinh. Có phát huy
được nội lực thì chúng ta mới thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn lực nước ngoài; mới
đảm bảo được độc lập, tự chủ về kinh tế, chủ động hội nhập. Ngược lại nếu như nội
lực bị lấn áp, chèn ép, kìm hãm thì nguy cơ bị lệ thuộc, phá sản, ảnh hưởng đến độc
lập tự chủ, thậm chí dẫn đến khủng hoảng.
 Ví dụ: Cơ cấu vốn
 Năng lực nội sinh ngày càng được gia tăng, đặc biệt là tính tích cực, năng động sáng
tạo của con người, năng lực khoa học, công nghệ quốc gia và sức cạnh tranh của nền
kinh tế.

 Ví dụ: Chỉ số năng lực cạnh tranh (WB)
 Chất lượng cuộc sống của nhân dân được nâng cao
 Có nhiều cách để đánh giá chất lượng cuộc sống của người dân, như là các hộ có đủ
thu nhập để trang trải cuộc sống hàng ngày hay không, có đủ để tích lũy hay không;
người dân có được tiếp cận với giáo dục và y tế hay không; con người có quyền được
tôn trọng, có bị nô lệ hay không… thông thường có ba tiêu chuẩn là thu nhập bình
quân đầu người, y tế và giáo dục.
 Ví dụ
 Phát triển kinh tế có tính quy luật, trình độ phát triển từ thấp lên cao.

c. Phát triển bền vững
Thuật ngữ "bền vững" ở đây không phải là duy trì tốc độ tăng trưởng cao và lâu dài về
thời gian như một số người nghĩ (điều này cũng giúp lý giải vì sao nền kinh tế Việt Nam từ
những năm đổi mới đến nay tuy đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định nhưng cũng
không được coi là bền vững).PTBV xuất hiện đầu tiên bắt nguồn từ quá trình phát triển kinh
tế từ trước thập niên 1970
 do các quốc gia chạy theo mục tiêu tăng trưởng nhanh,
 sử dụng quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên,
 bất bình đẳng giữa các nước và trong từng nước tăng trưởng nhanh,
 vi phạm quyền con người và truyền thống văn hóa.
Tại hội nghị thượng đỉnh Trái đất 1992 tại Rio De Janero và hội nghị thượng đỉnh thế giới
về phát triển bền vững tại Johanesburg đều thống nhất khẳng định: “ Phát triển bền vững là


quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển là
phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống con
người trong hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai.”
- Phát triển bền vững về kinh tế:
 Theo quan niệm như trên thì tăng trưởng kinh tế không nhất thiết phải đạt tốc độ quá

cao, mà chỉ cần cao ở mức hợp lý nhưng bền vững.
 Phải cân nhắc đến hiệu quả sử sụng các nguồn lực phát triển kinh tế. Điều đó cũng chỉ
ra rằng, để tăng trưởng có hiệu quả kinh tế cao trong điều kiện hiện nay, cần đầu tư
nâng cao chất lượng ngành giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, nghiên cứu và triển
khai.
- Phát triển bền vững về xã hội: gắn TTKT với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội,
bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
 Một số quốc gia thực hiện chính sách xã hội đi sau chính sách kinh tế (các nước
tư bản phát triển trước đây), họ làm mọi cách để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế và hy
sinh các vấn đề xã hội. Hậu quả là xung đột xã hội, bất công, sự chênh lệch giàu nghèo,
giữa thành thị và nông thôn. Sau đó họ đã phải chi ra số tiền khổng lồ để giải quyết các
vấn đề xã hội đó.
 Hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây thì ngược lại: gắn với thể chế kinh tế kế hoạch hóa
tập trung bao cấp, thực hiện chính sách xã hội đi trước chính sách kinh tế. Nhà nước tổ
chức sản xuất, phân phối, cung ứng các dịch vụ xã hội. Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái
khủng hoảng thì chính nhà nước không đủ năng lực cung ứng các dịch vụ xã hội thiết
yếu, vì vậy xã hội cũng rơi vào khủng hoảng.
 Như vậy, nếu quá quan tâm đến tăng trưởng mà ít chú ý đến công bằng xã hội sẽ dẫn
đến bất ổn xã hội và tăng trưởng không thể bền vững, ngược lại, nếu quá đề cao công
bằng xã hội thì sẽ không có động lực để thúc đẩy tăng trưởng. Sự kết hợp hài hoà giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội sẽ tạo ra chất lượng của tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là nguồn gốc tạo thêm của cải cho xã hội. Tăng trưởng gắn liền với
việc sử dụng của cải cho phúc lợi xã hội như thế nào. Phúc lợi không chỉ thể hiện ở thu
nhập bình quân đầu người mà còn là chất lượng cuộc sống, môi trường xã hội, môi
trường tự nhiên, cơ hội học tập và chăm lo sức khoẻ,v.v… Mỗi thành quả của kinh tế
phải được cân nhắc tính toán hợp lý để vừa đầu tư vào tái sản xuất, vừa đầu tư cho phát
triển xã hội.
- Phát triển bền vững về môi trường
Các nghiên cứu của WB về chất lượng tăng trưởng cho thấy trên thế giới đã hình thành
những chiến lược phát triển như sau:

- Các nước công nghiệp đặt mục tiêu nâng cao thu nhập bình quân đầu người cùng với
mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái. Các quốc gia Tây Âu và Nhật Bản đã đạt được cả hai
mục tiêu, nhưng Hoa Kỳ lại thất bại trước mục tiêu bảo vệ môi trường. Chính vì vậy mà
Hoa Kỳ chưa tham gia Nghị định thư Kyôtô về bảo vệ môi trường.
- Các nước đang phát triển ở khu vực Đông Á như Hàn Quốc, Trung Quốc,
Inđônêxia, Thái Lan đã và đang kinh qua thời kỳ công nghiệp hoá tăng trưởng cao nhưng
phải trả giá đắt cho môi trường bị huỷ hoại.
- Các quốc gia Nam Á và Châu Phi tuy tăng trưởng kinh tế chậm, thậm chí tăng
trưởng âm (thập kỷ 80 - thập kỷ mất mát của Châu Phi) nhưng môi trường vẫn bị tổn thất
lớn do khai thác nguồn tài nguyên vô tổ chức và quản lý lỏng lẻo.
Như vậy, quan điểm tăng trưởng kinh tế trước, khắc phục hậu quả môi trường sau là
không hợp lý. Phải tạo ra sự cân bằng giữa tăng trưởng và bảo vệ môi trường.
Phát triển bền vững về môi trường không chỉ là chất lượng môi trường tự nhiên, mà còn
là môi trường xã hội (tình trạng tội phạm, tham nhũng), chất lượng của người lao động (vốn
nhân lực) và chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế (vốn vật chất), trong đó
quan trọng nhất là hệ thống giao thông vận tải, viễn thông liên lạc, điện, nước.


Việt Nam chúng ta đã ký cam kết thực hiện chương trình nghị sự 21 (1992), là chương trình
về phát triển bền vững toàn cầu, bao gồm 2500 khuyến nghị hành động, và chúng ta đang
từng bước thực hiện các nội dung trong chương trình này: giảm các mô hình sản xuất và
tiêu dùng gây nhiều lãng phí, chống đói nghèo, bảo vệ chất lượng nước, không khí, công
nghiệp hóa sạch,…

d. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối quan hệ với
nhau.
Sự khác nhau thể hiện rõ nhất ở chỗ, tăng trưởng kinh tế phản ánh sự thay đổi thuần túy về
mặt kinh tế, về mặt lượng của nền kinh tế. Trong khi đó, phát triển kinh tế không chỉ phản
ánh sự thay đổi về lượng mà phản ánh cả sự thay đổi về chất của nền kinh tế; phản ánh

không chỉ sự tiến bộ về mặt kinh tế, mà còn phản ánh cả sự thay đổi về xã hội trong quá
trình phát triển của một quốc gia.
Song cũng vì thế chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau:
- Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để phát triển kinh tế. Tiến bộ kinh tế là cơ sở, là điều
kiện cơ bản để đạt được những tiến bộ về xã hội. Sự tích lũy về lượng của nền kinh tế là
điều kiện để tạo ra sự nhảy vọt về chất của nền kinh tế và cũng là điều kiện cơ bản giúp cho
cải thiện cuộc sống của con người.Tăng trưởng kinh tế cao và dài hạn là cơ sở để nâng cao
năng lực nội sinh của nền kinh tế và mở ra cơ hội cho việc thu hút các nguồn lực vào hoạt
động kinh tế, nhờ đó tạo điều kiện cho mọi người tham gia hoạt động kinh tế, tạo thu nhập
và cải thiện đời sống. Tăng trưởng kinh tế cũng tạo điều kiện để tăng thu ngân sách nhà
nước. Nhờ đó, Nhà nước có thể tăng đầu tư công và chi tiêu công vừa đảm bảo phát triển
kinh tế, vừa có điều kiện để thực hiện xoá đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Ở
những nước đang phát triển, đặc biệt là những nước có thu nhập bình quân đầu người thấp,
nếu không đạt được tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm, thì khó có điều kiện để
nâng cao trình độ phát triển của đất nước và cải thiện mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội của
người dân.
- Ngược lại, phát triển kinh tế bao hàm cả sự tiến bộ về chất của nền kinh tế và sự tiến bộ
xã hội tạo cơ sở kinh tế xã hội vững chắc để đạt được những thành tựu tăng trưởng kinh tế
trong tương lai.
- Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế không phải là điều kiện đủ để phát triển kinh tế. Tăng
trưởng chỉ mới là biểu hiện của sự gia tăng về lượng, tự nó chưa phản ánh sự biến đổi về
chất của nền kinh tế. Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế có thể được thực hiện bởi những phương
thức khác nhau và dẫn đến những kết quả khác nhau. Nếu phương thức tăng trưởng kinh tế
không gắn với sự thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, không làm gia
tăng, mà thậm chí lại làm xói mòn năng lực nội sinh của nền kinh tế, thì tăng trưởng kinh tế
như vậy không tạo ra phát triển kinh tế. Nếu phương thức tăng trưởng kinh tế chỉ đem lại
lợi ích kinh tế cho nhóm dân cư này, vùng này, mà không hoặc đem lại lợi ích không đáng
kể cho nhóm dân cư khác, vùng khác thì tăng trưởng kinh tế như vậy sẽ khoét sâu bất bình
đẳng xã hội. Những phương thức tăng trưởng kinh tế như vậy, rốt cục, cũng chỉ đem lại kết
qủa ngắn hạn, không thúc đẩy được phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế như vậy sẽ

không tồn tại lâu dài.

2. Các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế theo yêu
cầu phát triển bền vững
Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế với quan niệm như trên, cần được đánh gia theo
các tiêu chí hướng theo yêu cầu phát triển bền vững: tăng trưởng kiinh tế, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế-xã hội và sự tiến bộ xã hội.


a. Các chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng kinh tế
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP – Gross domestic product) là tổng giá trị của tất cả
các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra bởi các yếu tố sản xuất trong lãnh thổ
kinh tế của quốc gia trong từng thời kỳ nhất định (thường được tính cho 1 năm).
- Về nguyên tắc, Tổng sản phẩm trong nước được tính theo 3 phương pháp:
* Phương pháp sản xuất (còn gọi là phương pháp giá trị gia tăng). Theo phương pháp này
GDP được xác định bằng cách tổng hợp giá trị gia tăng của mọi doanh nghiệp (hoặc ngành)
cộng với thuế nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài.
* Phương pháp thu nhập (từ thu nhập tạo ra trong quá trình sản xuất hàng hóa chứ không
phải là giá trị của bản thân hàng hóa)
GDP = W + I + R + Pr + D + Te
* Phương pháp chi tiêu về sản phẩm và dịch vụ cuối cùng
GDP = C+I+G+X-M
Trong đó:
C là các khoản chi tiêu của các hộ gia đình về hàng hóa và dịch vụ
I là tổng đầu tư của khu vực tư nhân (không tính các khoản đầu tư tài chính như cổ phiếu,
trái phiếu, tiền gửi tiết kiệm)
G là chi tiêu của Chính phủ (không tính các khoản thanh toán chuyển giao như chi cho các
dịch vụ an sinh xã hội, phúc lợi và trợ cấp thất nghiệp)
X-M là xuất khẩu ròng (giá trị kim ngạch xuất khẩu trừ đi kim ngạch nhập khẩu)
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNI - Gross National Income) đo lượng toàn bộ thu nhập hay

giá trị sản xuất mà các công dân của một quốc gia tạo ra trong một thời kì nhất định, không
kể trong hay ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia.
-

Để phản ánh quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế giữa năm thứ n với năm
thứ n-1 thông qua chỉ tiêu GDP1 được tính như sau:
Qui mô tăng trưởng kinh tế của năm thứ n so với năm thứ n-1:
∆GDPn = GDPn – GDPn-1
Trong đó, ∆GDPn: Qui mô tăng trưởng GDP của nền kinh tế năm thứ n so với năm thứ n-1
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của năm thứ n so với năm thứ n-1:

g (GDPn) =

GDPn − GDPn −1
GDPn −1

=

∆GDPn

x100 %

GDPn −1

Trong đó, g(GDPn): Tốc độ tăng trưởng tính theo GDP của nền kinh tế năm thứ n so với năm
thứ n-1. GDP được tính theo giá so sánh (GDP thực).
Trong trường hợp sử dụng để so sánh quốc tế, GDP được tính theo sức mua tương
đương (PPP).

Qui mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cũng có thể tính theo tổng thu nhập quốc dân

(GNI –Gross National Income). Khi đó, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền
kinh tế của một thời kỳ (thường là 1năm) nhất định so với kỳ (thường là năm) gốc.


Qui mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể tính trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, cũng có thể
tính theo GDP (GNI) bình quân đầu người. Qui mô và tốc độ tăng trưởng GDP (GNI) bình
quân đầu người không chỉ phụ thuộc vào qui mô và tốc độ tăng trưởng GDP (GNI) của nền
kinh tế, mà còn phụ thuộc vào qui mô và tốc độ gia tăng dân số của quốc gia.
Nhóm các chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng kinh tế:
Đó là các chỉ tiêu phản ánh qui mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm hay bình quân
hàng năm của một giai đoạn nhất định. Các chỉ tiêu này có thể tính cho cả nền kinh tế hay theo
bình quân đầu người, cụ thể là:
*Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
*Tốc độ tăng trưởng bình quân đầu người
b. Các chỉ tiêu phản ánh sự biến đổi cơ cấu kinh tế-xã hội:
Đây là nhóm chỉ tiêu phản ánh sự thay đổi về chất, về trình độ phát triển kinh tế, xã hội của
nền kinh tế, bao gồm các chỉ tiêu phản ánh sự biến đổi cơ cấu kinh tế và các chỉ tiêu phản ánh
sự biến đổi về cơ cấu xã hội.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh sự biến đổi về cơ cấu kinh tế, bao gồm:

+ Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu kinh tế theo ngành. Tuỳ theo yêu cầu đánh giá, phân tích người
ta có thể sử dụng các chỉ tiêu cơ cấu kinh tế theo ngành một cách tổng hợp hoặc chi tiết khác
nhau.
Chẳng hạn, ở mức độ tổng hợp cao có thể sử dụng cơ cấu ngành kinh tế theo tỷ trọng khu vực
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trên GDP. Ở mức độ chi tiết hơn, có thể sử dụng chỉ tiêu
cơ cấu kinh tế theo tỷ trọng đóng góp của các ngành cấp I trong GDP (trong bảng phân loại
các ngành kinh tế quốc dân).
+ Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu thương mại quốc tế. Chẳng hạn, chỉ tiêu tỷ trọng tổng kim
ngạch xuất khẩu trên GDP; tỷ trọng tổng kim ngạch nhập khẩu trên GDP; tỷ trọng thâm hụt
(thặng dư) thương mại quốc tế…Theo xu thế phát triển của mỗi nước, nền kinh tế có xu hướng

mở ngày càng đa dạng, mức độ thâm hụt thương mại quốc tế ngày càng giảm, cơ cấu mặt
hàng xuất khẩu ngày càng giảm dần tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô và hàng hóa có dung
lượng lao động nhiều, tăng dần tỷ trọng hàng hóa có giá trị kinh tế cao.

- Nhóm các chỉ tiêu phản ánh sự biến đổi cơ cấu dân cư.

Gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá là quá trình biến đổi


cơ cấu dân cư theo vùng. Trong các chỉ tiêu này, chỉ tiêu cơ
cấu dân số nông thôn - đô thị có ý nghĩa quan trọng phản ánh quá trình đô thị hoá gắn với quá
trình công nghiệp hoá đất nước. Sự biến đổi cơ cấu dân cư còn thể hiện ở các chỉ tiêu như: cơ
cấu giới tính, cơ cấu theo độ tuổi, cơ cấu theo trình độ đào tạo...
Các chỉ tiêu phản ánh năng lực nội sinh của nền kinh tế

Gồm các chỉ tiêu như: tỷ lệ tiết kiệm (đầu tư) trên GDP; các chỉ tiêu phản ánh trình độ năng
lực công nghệ quốc gia; các chỉ tiêu phản ánh chất lượng của nguồn lao động…
Các chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển xã hội.
Để đánh giá trình độ phát triển của xã hội - mục tiêu cuối cùng của phát triển, người ta thường
xem xét trên hai phương diện cơ bản : sự phát triển con người và tình trạng nghèo đói, bất bình
đẳng xã hội.
a) Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển con người:

- Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức sống:

+ Chỉ tiêu GNI/người và tốc độ tăng trưởng GNI/người phản ánh khả

năng và tốc độ gia tăng của việc nâng cao mức sống trung bình của người dân

+ Khả năng thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng tính theo calo bình quân đầu người/ngày...

- Các chỉ tiêu phản ánh trình độ dân trí và giáo dục như:

+ Tỷ lệ người lớn biết chữ (tính cho những người từ 15 tuổi trở lên) có phân theo giới tính,
khu vực

+ Tỷ lệ nhập học của các cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông

+ Số năm đi học trung bình của người dân (tính cho những người từ 7 tuổi trở lên)

+ Tỷ lệ ngân sách chi cho giáo dục so với tổng chi ngân sách nhà nước hay so với GDP;


- Các chỉ tiêu phản ánh tuổi thọ bình quân và chăm sóc sức khoẻ :

+ Tuổi thọ bình quân kỳ vọng từ thời điểm mới sinh
+ Tỷ lệ chết yểu của trẻ sơ sinh hoặc trong thời gian 5 năm
+ Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng theo các tiêu chuẩn chiều cao, cân nặng,
+ Tỷ lệ các bà mẹ tử vong vì lý do sinh sản (số bà mẹ chết trong thời gian mang thai hoặc sau
khi sinh so với 1000 trẻ em sinh ra còn sống),
+ Tỷ lệ trẻ em được tiêm phòng dịch
+ Tỷ lệ ngân sách chi cho y tế so với tổng chi ngân sách nhà nước hay so với GDP.
-

Nhóm chỉ tiêu về dân số và việc làm:

+ Tốc độ tăng trưởng dân số tự nhiên
+ Tỷ lệ thất nghiệp thành thị
+ Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn
- Chỉ số phát triển con người (HDI- Human development index)


Các nhóm chỉ tiêu nói trên phản ánh từng lĩnh vực khác nhau của phát triển xã hội. Để đánh
giá tổng hợp và xếp loại trình độ phát triển kinh tế-xã hội giữa các quốc gia hay vùng khác
nhau Liên hợp quốc đã đa ra một chỉ số tổng hợp, được gọi là chỉ số phát triển con người
(HDI). HDI chứa đựng 3 yếu tố cơ bản, phản ánh 3 phương diện: thu nhập (GNI/người), trình
độ học vấn (thông qua chỉ số học vấn) và sức khoẻ (thể hiện qua tuổi thọ bình quân kỳ vọng
tính từ thời điểm mới sinh).

HDI nhận
giá trị từ 0
đến 1.
HDI càng
gần 1 có
nghĩa là
trình độ
phát triển


con người càng cao, trái lại càng gần 0 có nghĩa là trình độ phát triển con người càng thấp.

b) Các chỉ tiêu phản ánh nghèo đói và bất bình đẳng:

Ngoài các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển con người, để đánh giá sự phát triển xã hội còn
phải quan tâm đến các chỉ tiêu phản ánh tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng. Đây là vấn
đề không chỉ phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế, mà còn phụ thuộc vào phân phối kết quả
tăng trưởng đó như thế nào. Có nhiều chỉ tiêu để phản ánh tình trạng nghèo đói và bất bình
đẳng về kinh tế với các nội dung và ý nghĩa khác nhau. Sau đây là một số chỉ tiêu thường
được sử dụng:
- Các chỉ tiêu phản ánh nghèo đói:

+ Chỉ tiêu tỷ lệ hộ nghèo (phân theo vùng, giới tính và dân tộc) dựa trên tiêu chuẩn quốc

gia hay quốc tế, phản ánh qui mô hay diện rộng của tình trạng nghèo đói.
+ Chỉ tiêu khoảng cách nghèo (phân theo vùng, giới tính và dân tộc) phản ánh độ sâu của
nghèo đói.
- Các chỉ tiêu phản ánh sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập

+ Tỷ lệ chênh lệch thu nhập giữa nhóm dân cư giàu nhất và nghèo nhất,

+Hệ số Gini phản ánh tình trạng bất bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm dân cư.



×