Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Bài tiểu luận án lệ lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (854.67 KB, 35 trang )

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

ÁN LỆ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TP. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2015


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

.

LỜI NÓI ĐẦU
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là một
trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong chương trình cải cách hiện nay. Việc quản
lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật chỉ là một yếu tố cần nhưng chưa đủ của một nhà
nước pháp quyền. Trong một nhà nước pháp quyền, ngoài các tiêu chí khác, thì cần đòi hỏi
phải áp dụng pháp luật một cách thống nhất. Việc áp dụng thống nhất pháp luật của tòa án
thể hiện ở chỗ những vụ án giống nhau thì phải được xử một cách giống nhau.
Có thể nói, trong chừng mực nào đó, pháp luật Việt Nam mang truyền thống pháp
luật Châu Âu lục địa, hay còn gọi là hệ thống dân luật (Civil Law). Điều này có nghĩa là
án lệ (precedent) không phải là nguồn luật được áp dụng ở Việt Nam và do đó, nó không
mang tính ràng buộc đối với tòa án. Mặc dù vậy, khi nói đến sự thống nhất trong công tác
xét xử là nói đến việc thống nhất trong giải quyết các vụ án có tình tiết tương tự nhau, hay
nói cách khác là việc xét xử “bây giờ” phải giống với việc xét xử “trước đây”.
Vì thế, nghiên cứu để phát triển án lệ là một trong những ưu tiên quan trọng của
ngành tư pháp nước ta hiện nay. Vừa qua, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Toà án nhân
dân 2014, có hiệu lực từ tháng 6, 2015 với những điều khoản về vai trò của Toà án nhân


dân tối cao trong việc chuẩn bị, công bố và phát triển án lệ. Đây là một tín hiệu đáng vui
mừng cho ngành tư pháp Việt Nam, tạo ra một nguồn luật mới đa dạng và phong phú.
Đề tài tiểu luận “Án lệ - Lí luận và thực tiễn” là một chủ đề “nóng hổi”, mang đậm
tính thời sự. Là một tiểu luận môn học của sinh viên, nghiên cứu sẽ không tránh khỏi một
số thiếu sót nhất định, nhóm hi vọng sẽ được sự góp ý chân thành của mọi người, đặc biệt
là cô Thu Trang – giảng viên phụ trách môn. Trên hết, việc nghiên cứu đề tài này đã cho
chúng em một lượng kiến thức vô cùng quan trọng và có giá trị cao trong điều kiện thực
tiễn hiện nay.
Thay mặt nhóm nghiên cứu
Nguyễn Hữu Cường

2


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

MỤC LỤC

Lời nói đầu ...........................................................................................................................2
MỤC LỤC ...........................................................................................................................3
Phần I. Khái quát về án lệ .................................................................................................4
CHƯƠNG 1: Khái niệm và nguồn gốc ra đời của án lệ .............................................4
Phần II. Lí luận về án lệ ....................................................................................................8
CHƯƠNG 2: Lí luận về sự hình thành án lệ ...............................................................8
CHƯƠNG 3: Học thuyết về án lệ .............................................................................18
CHƯƠNG 4: Ý nghĩa và hạn chế của án lệ ..............................................................21
Phần III. Án lệ với tình hình thực tiễn thế giới và Việt Nam ......................................23
CHƯƠNG 5: Án lệ trong các hệ thống pháp luật .....................................................23

CHƯƠNG 6: Sự phát triển của án lệ tại Việt Nam ...................................................26
Phần IV. Mở rộng ............................................................................................................29
CHƯƠNG 7: So sánh Thông luật và Dân luật ..........................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................33

3


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

Phần I. KHÁI QUÁT VỀ ÁN LỆ

CHƯƠNG 1

KHÁI NIỆM VÀ NGUỒN GỐC RA ĐỜI CỦA ÁN LỆ
1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM ÁN LỆ
Theo từ điển Black’s Law thì án lệ được hiểu như sau:
“Án lệ là việc làm luật của tòa án khi công nhận và áp dụng các quy tắc mới trong
quá trình xét xử; vụ việc đã được giải quyết làm cơ sở để đưa ra phán quyết cho những
trường hợp có tình tiết hoặc vấn đề tương tự sau này ”1.
Từ đó, có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của án lệ như sau:
Thứ nhất, án lệ do tòa án tạo ra trong qua trình xét xử nên nguồn luật án lệ còn được
gọi là luật được hình thành từ vụ việc ("case law”) hay luật do thẩm phán ban hành ("judge
make law”)2. Trong khi đó, nguồn luật văn bản chủ yếu được tạo ra bằng con đường nghị
viện ban hành.
Thứ hai, án lệ được hình thành phải mang tính mới. Vụ việc đó phải liên quan tới
các vấn đề chưa từng được đề cập thì khi này tòa án mới tạo ra án lệ khi giải quyết.
Thứ ba, việc xây dựng và vận hành là dựa vào yếu tố tương tự. Các thẩm phán khi

giải quyết một vụ việc cần phải xác định và đánh giá lý lẽ tương tự, từ đó để xác định áp
dụng hoặc không áp dụng lý lẽ trong bản án trước để giải quyết vụ việc hiện tại.

2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
2.1. Cuộc chinh phạt nước Anh của William I
Năm 1066, dưới sự chỉ huy của công tước William (còn được gọi là William – kẻ
chinh phục) quân Norman đã đánh bại quân Anglo-Saxon của vua Harold II, thống nhất

1

Black's Law Dictionary, 1979, 5th edition, tr.1059.
Đỗ Thành Trung, 2013, Án lệ: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Trường Đại học Luật Tp.HCM, truy cập
29 tháng 11 năm 2015, < />2

4


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

nước Anh. William lên ngôi vua, lấy tên gọi là William I, cai trị vương quốc cho đến khi
mất (1066 – 1087)3.
William I là người có tinh thần hoà giải nhân dân, ông tự xưng mình là người thừa
kế hợp pháp của các vị vua Anglo-Saxon, đồng thời không áp đặt luật lệ của người Norman
lên cư dân bản địa, không hủy bỏ các tập quán truyền thống của Anh. Nhà vua vẫn cho giữ
nguyên pháp luật ở Anh và hệ thống tòa án ở các địa phương vì vậy mà ở Anh không có
một bộ luật chung nhất.
2.2. Tòa án Hoàng gia được thiết lập
Tại nước Anh lúc đó tồn tại nhiều vùng miền khác nhau, ở mỗi vùng lại có những

tập quán riêng biệt, người Anh coi những tập quán này là luật. Ở mỗi địa phương đều có
những tòa địa hạt (County court) được chủ trì bởi các giám mục và các hạt trưởng. Việc
xét xử dựa theo tập quán của từng địa phương4.
Ở Anh lúc bấy giờ không hề có luật để xét xử cho người Norman nên khi lên ngôi,
nhà vua đã lập nên một tòa án đặt tại cung điện Buckingham (gọi là tòa Hoàng gia) chuyên
dùng để giải quyết các vấn đề có liên quan đến những người Norman đã đến Anh cùng
ông. Tới thế kỉ XII, tòa Hoàng gia đã thay mặt nhà vua giải quyết được nhiều vấn đề khác
như thuế, đất đai, trừng phạt những tội phạm nguy hiểm, các vấn đề tranh chấp có thể ảnh
hưởng tới sự thịnh vượng của vương triều… Từ đó nó dần được mở rộng cả về mặt thẩm
quyền lẫn cơ cấu, quy mô tổ chức.
Theo thời gian, tòa Hoàng gia ngày càng chiếm được nhiều ưu thế do tính hiện đại
và chuyên nghiệp. Tòa Hoàng gia cứ thể mở rộng thẩm quyền cũng như uy tín đến mức
các tòa địa phương không còn có thể cạnh tranh được nữa (mất tác dụng)5 và cuối cùng trở
thành cơ quan xét xử duy nhất trên toàn nước Anh.
2.3. Tiền lệ pháp ra đời
Nhằm củng cố uy tín cho tòa Hoàng gia cũng như có thể giải quyết thấu đáo hơn
các vấn đề người dân khiếu nại, các thẩm phán của tòa Hoàng gia đã được phái đi thực tế
tại các địa phương từ thời của William I. Những thẩm phán này trở thành các thẩm phán

Fromont, M. 2001, Các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới, Trương Quang Dũng dịch, Nguyễn Văn
Bình hiệu đính, Hà Nội: Nhà xuất bản Tư pháp.
4 Bogdan, M. 2002, Comparative law, Nhà xuất bản Kluwer, Norstedts Juridik, Tano.
5 Bell, G. 1996, The U.S. Legal Traditions in the Westerrn Legal Systems, New York: Foundation Press.
3

5


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


TIỂU LUẬN

lưu động, có nhiệm vụ đi khắp mọi nơi thuộc quyền cai trị của nhà vua, thay mặt đức vua
để giải quyết các vấn đề bằng các phiên tòa xét xử lưu động6.
Ở các vùng cần đến để thực hiện nhiệm vụ, ban đầu các thẩm phán đều xét xử dựa
theo phong tục tập quán của vùng miền đó chứ không hề áp đặt luật lệ của Hoàng gia. Sau
một thời gian thực thi nhiệm vụ tại các vùng đất khác nhau, các vị thẩm phán thường tập
trung lại tại Westminster để thảo luận và trao đổi về các tập quán tại các vùng mà mình đã
từng áp dụng để xét xử, từ đó đúc kết lại những quyết định, phán quyết mang tính thuyết
phục cao làm cơ sở cho các thẩm phán khác tham khảo và áp dụng xét xử cho các vụ việc
có tình tiết tương tự sau này7.
Cách áp dụng tương tự này ngày càng phổ biến và được các thẩm phán sử dụng
ngày càng nhiều, dần dà trở thành tiền lệ và là khung mẫu chung để các thẩm phán đưa ra
phán quyết cho các vụ việc khác nhau. Họ cũng đồng thời lập nên nguyên tắc tiền lệ “Stare
decisis” nghĩa là tiền lệ phải được tôn trọng nhằm đảm bảo cho việc đưa ra phán quyết
mang tính khuôn mẫu.
Về sau nguyên tắc này được cơ quan chuyên trách pháp luật của nhà Vua công nhận
như một nguyên tắc xét xử chung cho toàn thể mọi vùng lãnh thổ nước Anh, đó chính là
sự ra đời của tiền lệ pháp. Nhờ tiền lệ pháp, Tòa Hoàng gia có thể xét xử các vụ việc xảy
ra ở các địa phương khác nhau theo nguyên tắc pháp luật chung mà không gặp phải những
khó khăn như trước đây, từ đó quyết định của các toà án hoàng gia dần dần trở thành luật
chung cho cả vương quốc, kể từ lúc này, hệ thống pháp luật của nước Anh cơ bản được
thống nhất. Thuật ngữ "Common Law" – Thông luật hay Luật thông lệ (nghĩa đen là pháp
luật chung) đã ra đời và được hiểu là truyền thống pháp luật dựa trên các án lệ (luật án lệ)8.
Sự ra đời của tiền lệ pháp gắn liền với sự ra đời của Thông luật, là hình thức pháp
luật và nguyên tắc pháp lý đặc trưng cho hệ thống pháp luật Anh. Có thể nói sự ra đời của
tiền lệ pháp là tất yếu nhằm đáp ứng nhu cầu thống nhất luật pháp của chế độ quân chủ ở
Anh trong thời kì này. Ngoài ra, tiền lệ pháp ra đời bên cạnh vai trò của các thẩm phán
trong việc xây dựng và áp dụng những nguyên tắc mới trong quá trình xét xử, còn do sự


Bogdan, M. 2002, Comparative law, Nhà xuất bản Kluwer, Norstedts Juridik, Tano.
Rene, D. 2003, Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại, Nhà xuất bản Tổng hợp thành
phố Hồ Chí Minh.
8 Rene, D. 2003, Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại, Nhà xuất bản Tổng hợp thành
phố Hồ Chí Minh.
6
7

6


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

kế thừa trực tiếp từ hình thức tập quán pháp, đó là những tập quán khác nhau ở mỗi địa
phương mà các thẩm phán đã chọn lọc, thao khảo và dùng làm cơ sở để đưa ra phán quyết.
Sự kế thừa này là một điều tất yếu vì đây chính là đặc điểm mang tính lịch sử của pháp luật
Anh, đó là tình kế thừa và "tính kết nối bền vững không thể phủ nhận được với quá khứ"9.

9

Bogdan, M. 2002, Comparative law, Nhà xuất bản Kluwer, Norstedts Juridik, Tano.

7


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN


Phần II. LÍ LUẬN VỀ ÁN LỆ

CHƯƠNG 2

LÍ LUẬN VỀ SỰ HÌNH THÀNH ÁN LỆ
Theo Michael Bogdan, cần phải có những yêu tố sau đây để một bản án trở thành án lệ. Ta
sẽ đi vào phân tích rõ từng điều kiện.
 Phải có vấn đề về mặt pháp lý;
 Phải có quan điểm, đường lối giải quyết rõ ràng của thẩm phán;
 Phải xuất phát từ tranh chấp giữa các bên trong vụ án;
 Phải được tạo ra bởi tòa án có thẩm quyền;
 Phải được công bố và hệ thống hóa;
 Phải gắn với các nguyên tắc tiền lệ.10

1. PHẢI CÓ VẤN ĐỀ VỀ MẶT PHÁP LÝ
Trước hết một bản án được coi là án lệ thì phải liên quan đến vấn đề về pháp lý. Có
nghĩa là khi các sự biến pháp lý hoặc quan hệ phát sinh tranh chấp đã rõ, đã được pháp luật
quy định thì Thẩm phán áp dụng những điều luật đã có sẵn để phán quyết, cho nên những
bản án trong các vụ án này không tạo ra án lệ.
Một trong những yếu tố quan trọng để tạo ra án lệ là quyết định của thẩm phán trong
vụ án cụ thể liên quan đến các vấn đề pháp luật mới nảy sinh hoặc một nghi vấn pháp luật.
Đó là các vấn đề nảy sinh trong các vụ án có liên quan đến câu hỏi luật cần áp dụng đối
với sự kiện thực tế nảy sinh trong vụ án là gì và nó được áp dụng vào các sự kiện thực tế
trong vụ án như thế nào? Thực chất vấn đề pháp luật ở đâu chưa được giải quyết, chưa hề
có lời giải đáp trong thực tiễn. Do đó khi xét xử thẩm phán đã tìm ra lời giải đối với vấn
đề pháp luật đặt ra trong vụ án. Và như vậy thẩm phán đã sáng tạo ra pháp luật. Điều này

10


Bogdan, M. 2002, Comparative law, Nhà xuất bản Kluwer, Norstedts Juridik, Tano.

8


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

cũng đồng nghĩa với việc phán quyết của thẩm phán trong vụ việc cụ thể này đã tạo ra một
án lệ (một tiền lệ pháp) cho các vụ việc trong tương lai.
Ta có thể lấy một ví dụ một án lệ cụ thể: R. V. Elizabeth Manley, [1933] (CA)
Vụ án này xảy ra vào năm 1933, liên quan đến cô Elizabeth Manley. Cô này đã trình
báo với cảnh sát rằng có một người đàn ông đã đánh cô và lấy toàn bộ tiền bạc. Tuy nhiên,
khi cảnh sát tiến hành điều tra đã phát hiện vụ việc trên là không có thật. Tòa án đã kết tội
cô Elizabeth Manley với tội danh "làm ảnh hưởng đến trật tự công cộng ". Tội danh này
không có trong luật (Đây là nội dung liên quan đến vấn đề pháp luật). Do đó, tòa án đã đưa
ra hai lý do và sau đó hình thành nên tiền lệ. Thứ nhất, đặt người vô tội trước nguy cơ bị
bắt giữ; thứ hai, là tốn thời gian và công sức cho cảnh sát trong quá trình điều tra một vụ
việc không có thật.
Từ vụ án Alizabeth Manley đã hình thành nên một tiền lệ trong phán quyết của Tòa án "
Bất kỳ người nào đặt người vô tội vào tình trạng bị truy tố và làm cảnh sát phải điều tra
một vụ án không có thật thì bị buộc vào tội danh gây rối, ảnh hưởng đến trật tự công cộng"11.
Tiếp sau đó là vụ án của bà mayjones vào năm 1997 (theo Án lệ: R v mayjonnes [1997]
(CA)). Bà Jones đang đi mua sắm ở cửa hàng thì phát hiện mình bị mất chiếc ví. Bà ta nhớ
lại trước đây ít phút có một người đàn ông đã đi lướt qua và chạm vào người bà. Bà ta lập
tức báo cảnh sát và miêu tả nhận dạng người đàn ông đấy. Ngày sau đó cửa hàng điện thoại
đến và báo rằng bà Jones đã để quên ví tiền tại cửa hàng. Trong vụ này bà Jones cũng bị
kết tội như cô Manley vì đã làm cảnh sát điều tra một vụ việc không có thật và đặt người
vô tội trước rủi ro bị truy tố. Hai vụ án cách nhau 64 năm tuy nhiên tiền lệ trước đây vẫn

được áp dụng để giải quyết cho vụ án sau (án bà May Jones) vì hai vụ án trên có tính chất
tương tự với nhau.
Từ vụ án này cho thấy, tội danh "gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng" chưa hề có trong
mặt có nghĩa là hành vi của cô Manley trước khi có tội danh này rơi vào vấn đề pháp luật
(đây cũng được gọi là "các vụ việc được giải quyết lần đầu"). Việc tòa án đưa ra tội danh
này trong phán quyết đã làm ra án lệ và như vậy những hành vi tương tự như cô Manley sẽ
bị áp dụng tội danh này. Giống như hành vi của bà mayjones sau này.

11

Chisholm, R. và G. Neitheim. 1997, Undersatanding Law, Butter worths.

9


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

2. PHẢI CÓ QUAN ĐIỂM, ĐƯỜNG LỐI GIẢI QUYẾT RÕ RÀNG
Trong bản án phải thể hiện thái độ, quan điểm của thẩm phán hoặc của các thẩm
phán trong hội đồng xét xử về các vấn đề pháp luật được đặt ra. Nếu không có quan điểm,
đường lối giải quyết trong bản án thì không thể trở thành án lệ (vì án lệ có thể hiểu ở góc
độ là một đường lối xét xử)
Thông thường những bản án tạo thành những án lệ phổ biến gắn liền với việc các
thẩm phán thể hiện quan điểm của mình đối với vấn đề pháp luật đặt ra một cách rõ ràng,
dứt khoát.
Ta sẽ xét một ví dụ: Vụ án Moorgate Mercantili kiện Twitchings ở Án lệ: Moorgate
Mercantili v Twitchings [1976].1.QB, 225, CA
Trong vụ án này, Thẩm phán Lord Denning đã thể hiện quan điểm của ông đối với

việc áp dụng chế định Estoppel ("ngăn không cho phủ nhận") trong luật Anh một cách rất
rõ ràng làm cơ sở để xử lý các vấn đề pháp lý được đặt ra trong vụ án này và thuyết phục
các bên, làm nên một bản án "thấu tình đạt lý", có giá trị to lớn về sau này.
Quan điểm và thái độ của thẩm phán đối với vấn đề pháp lý mới nảy sinh trong vụ
án sẽ được chấp nhận khi thẩm phán có những lập luận đưa ra trong một án lệ phải hợp lý
và có lô-gic pháp luật.
Cụm từ mà người ta dùng để đánh giá tính hợp tình hợp lý đối với thẩm phán "làm
luật" sáng tạo ra pháp luật khi xét xử đó là "tính hợp lý" hay "lập luận hợp lý". Đặc điểm
này là một đặc trưng rất cơ bản trong văn hóa pháp lý của các vị thẩm phán trong các hệ
thống pháp luật bị ảnh hưởng bởi truyền thống Thông luật.
Hiện nay, lý luận về lập luận hợp lý là một yếu tố góp phần tạo ra án lệ không chỉ phổ
biến ở trong hệ thống pháp luật các nước thuộc hệ thống thông luật, mà nó đã ảnh hưởng
đến các án lệ của tòa án Châu Âu khi xét xử về các lĩnh vực của pháp luật thuộc phạm vi
của Liên minh Châu Âu. Ví dụ như nguyên tắc về lập luận hợp lý trong pháp luật cạnh
tranh12.

Nguyễn Thanh Trí. 2007, Nguyên tắc lập luận hợp lý và nguyên tắc vi phạm mặc nhiên trong pháp luật
cạnh tranh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2007, tr. 52-62.
12

10


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

3. PHẢI XUẤT PHÁT TỪ TRANH CHẤP GIỮA CÁC BÊN TRONG VỤ ÁN
Án lệ do thẩm phán tạo ra phải xuất phát từ tranh chấp giữa các bên trong vụ án. Điều này
có nghĩa là án lệ được tạo ra trong bối cảnh phải có một tranh chấp xác định. Thẩm phán

đứng trước nhiệm vụ phải đưa ra phán quyết trong tranh chấp giữa các bên, bằng cách này
thẩm phán đã tạo ra luật trong một trường hợp cụ thể.
Nếu xét về con đường hình thành ra pháp luật thì cách tạo ra luật bởi thẩm phán
trong điều kiện này khác hẳn với công việc xây dựng luật của các nhà lập pháp trong nghị
viện. Các thẩm phán trong hệ thống Thông luật đặc biệt là trong pháp luật Anh không coi
công việc của họ đơn thuần là áp dụng pháp luật mà họ còn có chức năng sáng tạo ra pháp
luật (qua các án lệ) để góp phần hoàn thiện pháp luật.
Đối với những trường hợp mà dù đã có quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ phát
sinh tranh chấp, thì án lệ được tạo ra chính là lời giải đáp cho việc áp dụng các quy định
pháp luật chứa đựng những nguyên tắc chung trong một trường hợp cụ thể. Một thực tế
hiển nhiên là văn bản pháp luật do cơ quan lập pháp tạo ra rất nhiều trường hợp có chứa
đựng các quy phạm với cách khái quát rất cao và trừu tượng.
Cũng có những trường hợp các nhà lập pháp không thể tiên đoán hết các thay đổi
của điều kiện thực tế của cuộc sống xã hội: điều này tạo điều kiện cho các thẩm phán tạo
ra các án lệ khi giải thích và áp dụng các văn bản luật cũng như các đạo luật. Cũng có
những trường hợp án lệ được tạo ra trong một vụ án cụ thể phát sinh trên cơ sở tranh chấp
giữa các bên không phải vì lý do luật chưa tiên đoán được sự việc trên thực tế sẽ phát sinh,
cũng như lỗi về ngôn ngữ trong điều luật. Trường hợp này án lệ được ra khi điều luật cần
áp dụng trong trường hợp phức tạp của thực tiễn.
Ví dụ: Án lệ Chief Adjudication Officer v Webber [1989], 11234, CA.
Trong vụ Chief Adjudication Officer kiện Webber. Câu hỏi đặt ra trong vụ kiện này
liên quan đến tranh chấp giữa bên nguyên đơn và bị đơn về khái niệm từ "Sinh viên"
(Student). Cần hiểu như thế nào cho đúng để áp dụng theo quy định tại Điều 61 của Luật
Hỗ trợ trong thu nhập năm 1987.
Theo luật này một người được coi là sinh viên từ thời điểm bắt đầu của khóa học
tập trung chính quy cho đến tận ngày cuối cùng của khóa học, kể cả thời gian của các kỳ
nghỉ.

11



ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

Án lệ trong vụ Chief Adjudication kiện Webber có khác biệt ở chỗ thẩm phán của
Tòa phúc thẩm xét xử vụ kiện này tuyên bố định nghĩa từ "sinh viên" nói trên không áp
dụng đối với người đã thi trượt một số đơn vị học phần và phải thi lại như những sinh viên
tại chức.
Như vậy có thể nói, án lệ trên do thẩm phán tạo ra luôn dựa trên cơ sở của các vụ kiện
cụ thể, và khi nó được coi là án lệ thì có thể áp dụng cho các vụ việc trong tương lai có
những tình huống tương tự. Khi đó, những nội dung của án lệ sẽ được các thẩm phán viện
dẫn, nhắc lại để phục vụ cho lập luận hợp lý của họ.

4. PHẢI ĐƯỢC TẠO RA BỞI TÒA ÁN CÓ THẨM QUYỀN
Án lệ được thiết lập ngay tại Tòa án, tuy nhiên không phải tòa án nào cũng tạo ra án
lệ mà những bản án, quyết định thuộc các Tòa có thẩm quyền mới đáp ứng điều kiện để
trở thành án lệ. Ở nước Anh, việc hình thành án lệ, hệ thống thứ bậc và hiệu lực án lệ gắn
bó mật thiết với tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án. Ví dụ ở Anh13:
1- Cấp độ thấp nhất trong hệ thống Tòa án là tòa án địa phương (Tòa Địa hạt –
County Court), Tòa án quận, Tòa sơ thẩm ở các thành phố lớn. Gọi chung là các Tòa sơ
cấp, phán quyết của các tòa sơ cấp không được coi là án lệ.
2- Tòa cấp cao (Hight Court) bao gồm 3 phân tòa là Tòa Công bình, Tòa Nữ hoàng,
Tòa Gia đình. Phán quyết của tòa cấp cao dù chỉ là các phán quyết tại các phiên xét xử sơ
thẩm nhưng các phán quyết đó có giá trị như án lệ. Án lệ của tòa cấp cao có giá trị bắt buộc
đối với các tòa địa phương và tòa sơ thẩm ở các thành phố. Xét về mặt thứ bậc hiệu lực thì
phán quyết của tòa cấp cao đương nhiên không phải là án lệ có tính bắt buộc đối với tòa án
ở cấp cao hơn.
3- Tòa phúc thẩm (Court of appeal) có cấp độ cao hơn tòa cấp cao và tòa Hoàng gia.
Do tính chất và thẩm quyền của tòa phúc thẩm cho nên các bản án của Tòa phúc thẩm rất

có giá trị 25% được xuất bản thành các tập án lệ và có giá trị bắt buộc đối với các tòa cấp
dưới và ngay cả tòa phúc thẩm.

Nguyễn Văn Nam, 2003, Án lệ và hệ thống Tòa án nước Anh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng
Quốc hội, số 02/2003.
13

12


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

4- Thượng nghị viện (House of Lord) – Đây là cấp tòa tối thượng trong hệ thống tòa
án Anh. Án lệ của thượng nghị viện (3/4 trong đó được xuất bản) có giá trị bắt buộc đối
với tất cả các tòa án cấp dưới và đối với cả thượng nghị viện. Tuy nhiên do yêu cầu của
việc phát triển pháp luật, vào năm 1966, thượng viện tuyên bố rằng thượng nghị viện sẽ
không bị bắt buộc phải theo các án lệ của chính mình14.

5. PHẢI ĐƯỢC CÔNG BỐ VÀ HỆ THỐNG HÓA
Các phán quyết phải được công bố và hệ thống hóa. Việc công bố và hệ thống hóa
án lệ phải tuân theo một trình tự thủ tục chặt chẽ.
Công bố án lệ: Các án lệ của các tòa được đăng tải trong các báo cáo riêng, có các
ký hiệu quy định. Các án lệ được công bố trong các tập báo cáo luật được xuất bản thành
các tập, không đánh số liên tục mà theo năm xuất bản, việc tra cứu các án lệ dựa vào số
trang trong các báo cáo luật. Một quyết định của tòa án được công bố thường dưới tên của
các bên. Việc sử dụng phương pháp này khiến các quyết định của tòa án Anh được sắp xếp
theo chữ cái mà không theo thứ tự thời gian trong chính mỗi tập báo cáo luật.
Trong hệ thống pháp luật của các nước coi án lệ là nguồn luật có hiệu lực bắt buộc

trong các nguồn thì việc hệ thống và xác định ký hiệu các án lệ cụ thể luôn phải tuân theo
quy chuẩn chặt chẽ mang tính bắt buộc.
Công việc đó có ý nghĩa rất lớn vì: Thứ nhất, đây là một trong những nguyên tắc để
xây dựng tiền lệ pháp; thứ hai, đây là điều kiện bắt buộc để một phán quyết trở thành án lệ.
Chỉ có 1/10 các phán quyết của tòa cấp cao được xuất bản và vì vậy giá trị của các phán
quyết được coi là án lệ. Thứ ba, việc công bố các án lệ cùng với sự loại trừ nhất định toà
càng thấp thì tỉ lệ phần trăm quyết định được công bố càng giảm, sẽ bớt số lượng khổng lồ
của những quyết định có thể làm lạc hướng luật gia Anh và làm suy yếu uy tín của án lệ.
Đây là hoạt động có vai trò rất quan trọng để một bản án trở thành án lệ nhất thiết phải
qua khâu này. Đây là một trong những đặc điểm của án lệ và cũng là một trong những
nguyên tắc xây dựng án lệ – tiền lệ pháp.

14

Pratice Statement (Judicial Precendent), 1966. W.L.R. 226, HL.

13


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

6. PHẢI GẮN VỚI CÁC NGUYÊN TẮC TIỀN LỆ
Án lệ khi được giải thích và áp dụng phải được gắn liền với nguyên tắc “Stare decisis”
tức là tiền lệ phải được tôn trọng.
Trong hệ thống pháp luật Anh cũng như các nước việc giải thích và áp dụng các án
lệ là một khâu cực kỳ quan trọng trong đó việc giải thích các án lệ là điểm mấu chốt còn
việc áp dụng án lệ là hệ quả trực tiếp từ việc giải thích.
Việc đó có nghĩa là các thẩm phán Anh sẽ trình bày, diễn giải cho những quyết định

do mình đưa ra thậm chí vượt ra khỏi khuôn khổ của vụ án và đưa ra các quy tắc chung.
Nguyên tắc “Tiền lệ phải được tôn trọng” trong việc giải thích và áp dụng yêu cầu hai vụ
việc với các tình tiết chính tương tự nhau thì sẽ được xét xử như nhau.
Vậy thì khi so sánh vụ việc đang thụ lý với các vụ việc đã xảy ra trước đây làm thế
nào xác định được tình tiết nào là tình tiết chính, tình tiết nào là tình tiết tương tự hoặc có
liên quan trong một bản án dài với nhiều lập luận? Đâu là ranh giới giữa án lệ bắt buộc và
án lệ không bắt buộc, giữa phần bắt buộc và phần không bắt buộc của bản án. Không phải
mọi nội dung hay tất cả các phần trong một bản án được coi là án lệ đều có giá trị bắt buộc,
mà chỉ có những phần chính (Lý do để đưa ra quyết định) mới có giá trị bắt buộc, và được
tòa án xem xét các tình tiết trong đó được coi như là những cơ sở quan trọng chủ yếu để
lập luận cho phán quyết của mình. Khi đưa ra phán quyết thì bản thân của người thẩm phán
sẽ không xác định đâu là phần chính hay đâu là phần ngẫu nhiên mà điều đó sẽ do một
người thẩm phán khác sẽ làm khi xem xét quyết định đó có phải là án lệ cho vụ việc đang
giải quyết hay không. Tuy nhiên việc phân biệt này không phải lúc nào cũng đơn giản,
nhiều khi nó còn phụ thuộc vào sự biện luận của luật sư, và các thẩm phán trong xét xử vụ
kiện.
Ta sẽ xét một ví dụ: một người bị con chó của nhà hàng xóm cắn và tòa án đã buộc
người chủ con chó phải bồi thường với lý do chủ của vật nuôi có trách nhiệm nếu con vật
đó làm bị thương người khác. Thời gian sau, một người khác bị con trăn Nam Mỹ của nhà
hàng xóm gây ra thương tích và vấn đề đặt ra là quyết định trước đây có phải là án lệ bắt
buộc đối với vụ việc mới này (thông thường đây là quan điểm của luật sư bên bị hại) hay
không phải là bắt buộc (đây là quan điểm của bị đơn).

14


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN


Xét qua thì rõ ràng việc bị thương do con trăn gây ra đã được nói đến trong tuyên
bố của tòa án tại vụ việc thứ nhất. Thông thường luật sư của thân chủ có con trăn sẽ cố
gắng thuyết phục thẩm phán rằng phán quyết ở vụ trước đó chỉ có tính bắt buộc đối với
những vụ khi con vật gây ra thương tích là chó, bởi con trăn Nam Mỹ hoàn toàn khác với
con chó và vì thế trong trường hợp này không nhất thiết phải áp dụng quy định này một
cách giống nhau đối với cả hai loài động vật.
Qua ví dụ trên ta có thể thấy hai khía cạnh của việc phân tích án lệ, nó không chỉ
đơn thuần là việc phân biệt giữa đâu là phần bắt buộc hay phần không bắt buộc, mà nó còn
là việc chứng minh những điểm tương đồng từ những tình tiết liên quan của vụ án sau so
với vụ án trước nhằm tạo ra những tình huống tương tự nhau để áp dụng chính xác án lệ.
Ngoài ra, về một khía cạnh nào đó ta có thể tránh được tính bắt buộc của án lệ.
Ở khía cạnh thứ nhất việc chứng minh những điểm tương đồng, ta thấy có những án
lệ mà thoạt nhìn người ta không thấy nó có điểm tương đồng với một vụ việc cụ thể đang
xét xử, nhưng bằng những lập luận hợp lý, thẩm phán vẫn có thể viện dẫn án lệ đó.
Ví dụ: trong vụ án Attia kiện British Gas năm 1987.
Đây là vụ án mà nguyên đơn là bà Attia đã kiện Công ty cung cấp khí gas Anh
(British gas) về việc bồi thường thiệt hại do hành vi bất cẩn của Công ty này làm cháy ngôi
nhà của bà. Tòa Phúc thẩm Anh khi xử vụ án này đã ra phán quyết dựa trên Án lệ của
Thượng Nghị viện trong vụ Macloughtin kiện O’Brian. Điều đáng lưu ý ở đây là bà Attia
được Tòa Phúc thẩm tuyên thắng kiện trong một vụ kiện yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại
về tài sản và tinh thần (do hành vi bất cẩn của Công ty cung cấp gas Anh đã làm cháy ngôi
nhà của bà) dựa trên án lệ trong vụ bà Macloughlin kiện O’Brian với nội dung về bồi
thường thiệt hại về vật chất và tinh thần trong một vụ tai nạn giao thông (đây là vụ án mà
bà Macloughlin đã kiện O’Brian- một tài xế lái xe đã làm chết chồng và hai người con của
bà trong một vụ tai nạn).
Quả thật hai vụ kiện này có vẻ như khác xa nhau, một bên là bị sốc do chứng kiến
những người thân thiết nhất trong gia đình bị mất đi và bị thương nặng, một bên là bị sốc
do chứng kiến ngôi nhà bị thiêu rụi, thế nhưng tòa vẫn lấy vụ kia làm cơ sở để xử vụ này
bằng những lập luận hợp lý.


15


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

Đó là, khi mô tả về sự việc ngôi nhà bị cháy, Thẩm phán của Tòa phúc thẩm dùng
từ "house" có thể dịch là ngôi nhà. Còn khi nói về mối liên hệ giữa bà Attia và ngôi nhà
của bà, Tòa không dùng chữ "house" mà lại dùng từ "home", có thể dịch là "tổ ấm". Trong
tiếng Anh, cả hai đều có nghĩa là nhà, nhưng chữ house dùng để chỉ một kết cấu vật chất
còn chữ home thì có ý nghĩa lớn lao hơn, thiêng liêng hơn: chỉ tổ ấm, chỉ về gia đình...
Chính vì vậy, ngôi nhà bị thiêu rụi đó cũng gây đau khổ cho bà Attita không kém gì nỗi
đau mất người thân của bà Macloughtin trong vụ án trước đó. Ở đây thẩm phán đã có cách
chơi chữ rất tinh tế kết hợp với truyền thống văn hóa từ đó đưa ra lập luận cho mình15.
Ở khía cạnh thứ hai, chính là phương thức phân biệt. Nếu các thẩm phán muốn tránh
không gặp phải áp dụng nguyên tắc “Stare decisis” (tiền lệ phải được tôn trọng ) thì ông ta
có thể tuyên bố là các tình tiết của vụ án mình đang xét xử không giống với các tình tiết
trong vụ án đã xét xử trước đó. Đây gọi là phương thức phân biệt.
Ngay cả trong trường hợp các tình tiết được coi là giống nhau, thẩm phán cũng có
quyền không chịu sự ràng buộc của nguyên tắc này trong một phán quyết được ban hành
trước đó nên cho rằng tình tiết đó không phải là căn cứ có tính chất quyết định đặc biệt là
trong trường hợp căn cứ đó chỉ có tính bổ sung hoặc là căn cứ đó đang còn được tranh cãi
hay trong trường hợp quy tắc được đưa ra vượt ra khỏi khuôn khổ của vụ việc cần xét xử16.
Có thể thấy rằng giá trị của bản án với tư cách là án lệ có thể mở rộng ra bên ngoài
câu chữ của chính thẩm phán (dù điều này ít khi xảy ra).
Quay lại ví dụ về trách nhiệm của người chủ đối với người bị thương do vật nuôi
của mình. Để không phải áp dụng án lệ đã có, không chỉ bằng cách chứng minh rằng con
trăn Nam Mỹ hoàn toàn khác với con chó - một loài được thuần dưỡng, loài kia là nòi
hoang dã, mà còn có thể chứng minh về sự khác biệt có liên quan ngay cả khi hai trường

hợp đều bị chó cắn, như: con chó trong án lệ được viện dẫn là con chó màu đen, có tên là
Tiểu Hắc, trong khi con chó trong vụ việc sau màu trắng, tên là Tiểu Tuyết cũng như việc
một con cắn vào ngày thứ hai còn con kia cắn vào ngày thứ tư khó có thể coi là sự khác
biệt có liên quan, nhưng vấn đề sẽ khác nếu như Luật sư tìm được sự khác biệt khó có thể

Nguyễn Lâm, 2006, "House" hay "Home" và tầm minh triết của pháp luật, Tạp chí nghiên cứu lập pháp,
số 13 (78) tháng 7/2006, tr. 26.
16 Fromont, M. 2001, Các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới, Trương Quang Dũng dịch, Nguyễn Văn
Bình hiệu đính, Hà Nội: Nhà xuất bản Tư pháp.
15

16


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

bỏ qua như việc chó cắn bị thương thứ nhất xảy ra ngay tại nhà người chủ có chó, còn vụ
việc kia thì việc chó cắn xảy ra ngay tại nơi công cộng (ở công viên chẳng hạn).
Như vậy, có nhiều cách xoay xở để giới hạn tính bắt buộc của án lệ bằng việc chỉ ra
sự khác biệt (khác biệt giới hạn). Nếu thẩm phán Anh không tán thành án lệ cụ thể nào đó
thì ông ta sẽ né tránh bằng cách chỉ ra sự khác biệt giữa án lệ đó với vụ việc ông ta đang
xem xét bằng mọi tình tiết có thể và như vậy chỉ một chi tiết khác biệt cũng có thể được
coi là đủ.
Tóm lại theo nguyên tắc tiền lệ phải được tôn trọng có nghĩa là nếu bản án sau được
xem xét có những điểm tương đồng mang tính chất chính của vụ án thì sẽ phải xử theo án
lệ trước đó.

17



ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

CHƯƠNG 3

HỌC THUYẾT VỀ ÁN LỆ
Dựa trên nguyên tắc bất thành văn Stare decisis – "Tiền lệ phải được tôn trọng" (ra
đời vào thế kỷ 12 và chính thức bắt buộc vào thế kỷ 17), các nước theo hệ thống Thông
luật đã cụ thể hoá thành những quy định trong việc xây dựng tiền lệ pháp và được hệ thống
lại thành học thuyết về tiền lệ (The Doctrine of Precedent) với những nguyên tắc sau:

1. NGUYÊN TẮC TÔN TRỌNG QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA CẤP TRÊN
Mỗi tòa án cấp thấp hơn phải tuân thủ theo phán quyết của tòa án cấp cao hơn trong
cùng hệ thống hoặc tòa án đã tạo ra tiền lệ đó. Nếu như một phiên tòa có nhiều hơn 1 thẩm
phán thì các thẩm phán không bắt buộc phải nghe theo phán quyết của thẩm phán kia hay
nói rõ hơn là một thẩm phán không bắt buộc phải tuân theo phán quyết của thẩm phán khác
trong cùng một cấp Tòa án và trong cùng một hệ thống Tòa án17.
Ví dụ: Ở nước Anh, Tòa sơ cấp – Tòa án địa phương (county court) phải tuân theo
án lệ của Tòa cấp cao, Tòa hoàng gia, Tòa phúc thẩm và Tòa tối thượng (Thượng Nghị
viện). Tương tự thì thòa cấp cao phải tuân theo án lệ của Tòa Hoàng gia, Tòa phúc thẩm
và Thượng Nghị viện…
Đối với nước có nhiều tiểu bang như Mĩ thì ở mỗi tiểu bang, các tòa án cấp thấp
phải tuân theo án lệ của các tòa án cấp cao trong cùng tiểu bang đó.

17

Lê Mạnh Hùng, 2015, Án lệ trong hệ thống tòa án Australia lựa chọn nào cho Việt Nam trong việc phát


triển án lệ?, Công ty Luật Minh Khuê, truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2015, < />
18


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

2. NGUYÊN TẮC KHÔNG BUỘC PHẢI TUÂN THEO ÁN LỆ CỦA HỆ THỐNG
TÒA ÁN KHÁC
Khi các tòa án thuộc hệ thống tòa án khác nhau thì tòa án cấp thấp không nhất thiết
phải xử án theo quyết định của tòa án cấp cao trước đây. Lúc này quyết định của tòa án cấp
cao chỉ mang tính tham khảo để có thể giúp giải quyết vấn đề tuy nhiên phán quyết của tòa
án cấp cao tất nhiên sẽ mang giá trị thuyết phục cao hơn.
Ví dụ: Ở Úc, theo học thuyết tiền lệ thì Tòa án Sơ thẩm thuộc tiểu bang New South
Wales sẽ buộc phải tuân theo những phán quyết trước đây của Tòa án Phúc thẩm thuộc tiểu
bang New South Wales nhưng nó không buộc phải tuân theo những quyết định của Tòa án
Tối cao thuộc tiểu bang Victoria. Tuy nhiên phán quyết của tòa án tối cao thuộc tiểu bang
Victoria sẽ có giá trị thuyết phục hơn so với bản án của tòa cấp thấp hơn thuộc tiểu bang
Victoria đối với tòa án thuộc tiểu bang New South Wales khi đưa ra một bản án đối với
một vụ án tương tự.

3. NGUYÊN TẮC PHẢI DỰA VÀO CƠ SỞ PHÁP LÝ
Khi nói về nguyên tắc này cần đề cập đến cụm từ “Ratio decidendi”. Cụm từ này
theo tiếng Latin có nghĩa là lý do đưa ra quyết định, hay là “quy tắc pháp lý của vụ kiện”
do thẩm phán đưa ra để biện luận cho phán quyết của mình. Trong trường hợp có nhiều
thẩm phán cùng xét xử và mỗi thẩm phán đều đưa ra lý do phán quyết, lý do nào được đa
số thẩm phán đưa ra sẽ là ratio. Nếu không lý do nào được đa số thẩm phán đưa ra, sẽ
không có án lệ phải tuân theo đối với tòa án sau này. Nếu các thẩm phán đưa ra hai hay

nhiều hơn quy tắc pháp lý, thì mỗi quy tắc pháp lý đó đều tạo nên một ratio decidendi bắt
buộc phải tuân theo trong tương lai18. Nói một cách ngắn gọn hơn thì đây chính là phần cơ
sở pháp lý hay chứng cứ pháp lý của một vụ án và chỉ cần là án lệ thì bắt buộc không thể
thiếu phần này được.

Nguyễn Đức Lam, 2011, Các khái niệm về án lệ ở Úc, Văn phòng Luật sư Trương Anh Tú, truy cập ngày
19 tháng 11 năm 2015, < />18

19


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

4. NGUYÊN TẮC THAM KHẢO ĐỐI VỚI PHẦN BÌNH LUẬN
Những nhận định hoặc quyết định của tòa án trước đó đối với một vụ án không dựa
trên cơ sở pháp lý mà chỉ dựa trên cơ sở bình luận của thẩm phán sẽ không có giá trị bắt
buộc tòa án cấp dưới phải tuân thủ và được gọi là những “Obiter dictum”. Theo tiếng Latin
thì cụm từ này nghĩa là “Một lời nhận xét ngẫu nhiên”, đây là phần bình luận của thẩm
phán trong bản án. Nó chính là lời nhận xét, bình luận, ý kiến phụ của thẩm phán, không
có giá trị bắt buộc, không mang nội dung trực tiếp của vụ tranh chấp, và không thể viện
dẫn như một tiền lệ. Có hai loại obiter dictum: loại thứ nhất là các quy tắc được thẩm phán
đưa ra mà không dựa trên các sự kiện pháp lý của vụ kiện, loại thứ hai là các quy tắc pháp
lý do thẩm phán đưa ra dù đã dựa trên các sự kiện pháp lý của vụ kiện, nhưng không phải
là cơ sở của quyết định tòa án, ví dụ như quy tắc do thẩm phán thiểu số đưa ra 19. Mặc dù
không có tính bắt buộc nhưng đôi khi Obiter dictum vẫn rất đáng tin cậy như Ratio
decidendi và được áp dụng tùy theo uy tín của thẩm phán, cấp bậc của tòa án, bối cảnh,
tình huống của vụ án.


5. NGUYÊN TẮC HIỆU LỰC BẤT KỂ THỜI GIAN
Đối với án lệ, cho dù thời gian có là bao lâu đi nữa thì tiền lệ đó vẫn không thay đổi.
Theo nguyên tắc này, cho dù tiền lệ đó đã xảy ra hàng trăm năm thì cho đến nay nếu gặp
sự việc tương tự vẫn có thể áp dụng để đưa ra phán quyết cho vụ án một cách bình thường.
Thậm chí, thời gian càng lâu thì tiền lệ đó càng có tính thuyết phục cao chứ không hề bị
mai một lỗi thời khác so với hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, án lệ càng mới thì tính
giải thích càng cao.
Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa là các án lệ không thể bị loại bỏ. Công việc loại
bỏ các án lệ dài dòng, lạc hậu này thường do toà án cấp cao nhất của các quốc gia thực
hiện. Điều này khiến cho việc vận dụng pháp luật trở nên mềm dẻo hơn, hạn chế sự cứng
nhắc của nguyên tắc.

Nguyễn Đức Lam, 2011, Các khái niệm về án lệ ở Úc, Văn phòng Luật sư Trương Anh Tú, truy cập ngày
19 tháng 11 năm 2015, < />19

20


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

CHƯƠNG 4

Ý NGHĨA VÀ HẠN CHẾ CỦA ÁN LỆ
1. Ý NGHĨA CỦA ÁN LỆ
1.1. Lấp đầy các “lỗ hỗng pháp lý”20
Xã hội luôn luôn vận động và phát triển dẫn đến các vấn đề trong cuộc sống cũng
ngày càng trở nên phức tạp và mới mẻ hơn. Trong khi đó, các văn bản pháp luật lại mang
tính ổn định trong một thời gian khá dài nên đôi lúc lại không đầy đủ và hợp lý để giải

quyết tất cả các vấn đề tranh chấp trong xã hội. Cho nên án lệ đã trở thành một công cụ
hữu ích để giải quyết các vấn đề này. Án lệ mang đậm “hơi thở của cuộc sống”21, vì hình
thành từ thực tế (từng vụ án cụ thể) cho nên tiền lệ pháp có thể thay đổi theo sự thay đổi
của thời gian, điều đó thể hiện tính linh hoạt, mềm dẻo của tiền lệ pháp, phù hợp với sự
thay đổi nhanh chóng của xã hội.
Ví dụ như, khi các quy tắc án lệ của một nước sử dụng thông luật không đầy đủ
hoặc hợp lý để giải quyết một tranh chấp nào đó, thì các thẩm phán sẽ tìm các lý lẽ hợp lý
để sửa đổi, bổ sung các quy tắc án lệ hiện có. Việc này sẽ nhanh chóng hơn và kịp thời hơn
việc phải trải qua một quy trình và thủ tục lập pháp rất chậm chạp và phức tạp.
1.2. Tạo ra sự công bằng và chống oan sai22
Có một nguyên tắc mà đến nay đã trở thành tiêu chí chung ở hầu hết các nước:
Trong cùng một quốc gia, không thể xử những vụ án giống nhau bằng những bản án khác
nhau. Áp dụng án lệ là cách để nguyên tắc này được thể hiện rõ ràng nhất. Bởi lẽ, những
lập luận, phán quyết có tính chuẩn mực của tòa án trong một vụ việc cụ thể được vận dụng
để giải quyết một vụ việc cụ thể khác, bảo đảm rằng những vụ việc như nhau được giải
quyết giống nhau, đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.

Đinh Văn Mậu và Phạm Hồng Thái, 2001, Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Đà Nẵng: Nhà xuất
bản Tổng hợp.
21 Nguyễn Văn Nam. 2003, Án lệ và hệ thống Tòa án nước Anh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng
Quốc hội, số 02/2003.
22 Triệu Quang Khánh, 2006, Việc sử dụng án lệ trong hệ thống pháp luật dân sự, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, Văn phòng Quốc hội, số 7 (79) tháng 7/2006, tr. 51.
20

21


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


TIỂU LUẬN

Mặt khác, án lệ cũng giúp cho tình trạng oan sai, chạy án trở nên hiếm xảy ra hơn
vì hai bản án giống nhau phải được xử lý giống nhau cũng như không có tình trạng xử nặng
hơn hay nhẹ hơn bản án trong quá khứ đã được xử lý. Đối với các đương sự, khi tiếp cận
án lệ họ tự hình dung ra vụ việc của mình sẽ đến đâu để tự quyết định có mời luật sư hay
không, theo đuổi vụ việc hay không, họ cũng không ấm ức với phán quyết của tòa vì cho
rằng mình bị xử sai vì vụ việc như họ thì đều được giải quyết giống nhau cả. Điều đó thúc
đẩy sự ổn định, chắc chắn và có thể dự đoán trước được của pháp luật, thúc đẩy sự công
khai, minh bạch trong hệ thống pháp luật.
3. Giải thích pháp luật và cải tạo luật
Án lệ tạo điều kiện cho thẩm phán có thể đưa ra những quan điểm tư tưởng, đường
lối mới trong việc áp dụng pháp luật để phù hợp với thực tế. Ngoài ra, khi mà các bộ luật
không thể dự đoán trước được tất cả các vấn đề tranh chấp của xã hội trong tương lòa, thì
các quy tắc án lệ sẽ là nguồn tư liệu quý giá cho việc cải cách luật sau này23, lấp đầy khoảng
cách giữa bộ lực mới và bộ luật cũ một cách chi tiết và đầy đủ nhất.

2. HẠN CHẾ CỦA ÁN LỆ
Án lệ khá cứng nhắc24 vì trong quá trình xét xử, tính chất mỗi vụ án không hoàn
toàn giống nhau, nhưng thẩm phán bắt buộc phải tuân theo tiền lệ trước đó. Ngoài ra, việc
áp dụng án lệ có thể khiến các thẩm phán bị lệ thuộc, vô cảm và áp dụng máy móc các quy
định trong án lệ vào những vụ án cụ thể và trở thành một lực cản vô hình đối với sự sáng
tạo của thẩm phán.
Thẩm phán sẽ gặp khó khăn khi sử dụng án lệ vì khối lượng án lệ tăng theo thời
gian, thông qua các quyết định của tòa án và bản án25. Ngoài ra, án lệ được hình thành từ
các bản án riêng lẻ của những tình tiết của mỗi vụ việc vì vậy nó không mang tính tính
thống nhất và hệ thống cao như luật thành văn nên cũng gây ra khá nhiều khó khăn cho
việc áp dụng án lệ. Cho nên, việc áp dụng án lệ có hợp lý hay không,điều này phụ thuộc
rất nhiều vào trình độ của thẩm phán.


Nguyễn Mạnh Bách, 2004, Luật Dân sự Việt Nam, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 64.
Bogdan, M. 2002, Comparative law, Nhà xuất bản Kluwer, Norstedts Juridik, Tano, tr. 92.
25 Đinh Văn Quế, 1999, Pháp luật thực tiên và án lệ, Đà Nẵng : Nxb. Đà Nẵng, tr. 304.
23
24

22


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

Phần III. ÁN LỆ VỚI TÌNH HÌNH THỰC TIỄN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

CHƯƠNG 5

ÁN LỆ TRONG CÁC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
1. ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG DÂN LUẬT
Thực tế cho thấy, án lệ ở các nước theo hệ thống Dân luật vẫn được thừa nhận như
một loại nguồn pháp luật, nhưng ở mỗi quốc gia, vai trò của nó rất khác nhau.
Mục đích của sự ra đời án lệ là để thống nhất pháp luật và đường lối xét xử. Trong
khi đó, hệ thống tòa án của các nước châu Âu lục địa là một hệ thống phi tập trung và được
chuyên môn hoá cao nên không cần sự thống nhất thông qua án lệ của tòa cấp cao26. Vì thế
mà án lệ có một vị trí khá thấp ở các nước châu Âu lục địa.
Tuy nhiên, việc này không đồng nghĩa là phán quyết của các thẩm phán là đáng tin
cậy. Do tính đề cao phát điển hoá, mọi quy định đều phải được ghi trong luật nên là cho
các bộ luật quá đồ sộ và khá trừu tượng, trong khi lại được áp dụng cho mọi tình huống
pháp lý nảy sinh. Sự đề cao tính học thuật và pháp điển hoá cũng ảnh hưởng không tốt tới
chất lượng thẩm phán. Ý chí của thẩm phán được tôn trọng là một trong các lí do khiến các

thẩm phán Anh – Mỹ được đào tạo bài bản hơn, được trang bị lí luận vững vàng hơn các
thẩm phán trẻ tuổi, ít kinh nghiệm ở châu Âu.
Tuy nhiên, theo dòng thời gian, cùng với quá trình phát triển, tình hình này đã thay
đổi một cách căn bản. Bằng chứng là ở nhiều nước châu Âu hiện nay, vị trí, vai trò của án
lệ đã được cải thiện đáng kể. Ở Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, vai trò kiến tạo luật của tòa án cũng
như kinh nghiệm xét xử rất được coi trọng. Điều 1 Bộ luật Dân sự Thụy Sĩ quy định:
“Trường hợp không tìm thấy quy phạm thích ứng trong văn bản pháp luật, thẩm phán cần

Đào Trí Úc, 2015, Án lệ: lịch sử, hiện tại và triển vọng phát triển ở Việt Nam, Phòng Tư pháp Tp. Tam
Kỳ, Quảng Nam, < />26

23


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

căn cứ vào luật tập quán hiện hữu để giải quyết vấn đề và quyết định trên cơ sở quy tắc do
mình tạo ra theo tinh thần tự đặt mình vào vị trí của nhà lập pháp”.27
Một số nước châu Âu như Đức, Đan Mạch, Hy Lạp, Ý, Nauy, Phần Lan, Thụy Điển,
Hà Lan không có sự thừa nhận chính thức nhưng trên thực tế thì án lệ được xây dựng, án
lệ tồn tại và án lệ được áp dụng. Tại các quốc gia đó, tòa án tối cao có vai trò lớn trong việc
bảo đảm và hướng dẫn áp dụng pháp luật, giải thích pháp luật và các tòa án cấp dưới vẫn
coi các quyết định của tòa án tối cao như là án lệ khi giải quyết những vấn đề pháp lý mà
chưa có căn cứ trong pháp luật thực định của nhà nước.
Nói về vị trí, vai trò của án lệ của các quốc gia châu Âu lục địa, có thể tóm gọn trong
ba nhận xét sau đây:
1- Ở một số nước, án lệ không được thừa nhận chính thức và hạn chế sử dụng trong
thực tiễn xét xử; số quốc gia này càng ngày càng ít đi.

2- Ở nhiều nước, án lệ không được thừa nhận chính thức nhưng được dùng rộng rãi.
3- Ở một số nước, án lệ được thừa nhận chính thức và được sử dụng khá phổ biến
trong thực tiễn xét xử và có vị trí ngang với luật thực định.
Như vậy có thể thấy rằng, án lệ của các tòa án ở các nước thuộc hệ thống Dân luật
đã và đang được hình thành và phát triển trên cơ sở và trong một khuôn khổ nhất định định.
Do đó, chỉ có thể hiểu được chính xác vai trò của án lệ ở các nước này khi ta đặt nó trong
mối liên hệ với pháp luật thực định. Chính vì vậy, hoạt động kiến tạo luật của các tòa án
được diễn ra thông qua hoạt động giải thích pháp luật thực định, thông qua chức năng giải
thích pháp luật của tòa án.

2. ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG THÔNG LUẬT
Nhìn chung, các quốc gia trong hệ thống thông luật đều từng là thuộc địa của Anh
hoặc chịu ảnh hưởng lớn của Anh. Vì thế mà các đặc điểm của hệ thống pháp luật ở các
quốc gia này có sự tương đồng nhất định với hệ thống thông luật ở Anh.

Đào Trí Úc, 2015, Án lệ: lịch sử, hiện tại và triển vọng phát triển ở Việt Nam, Phòng Tư pháp Tp. Tam
Kỳ, Quảng Nam, < />27

24


ÁN LỆ - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TIỂU LUẬN

Nguyên tắc Stare Decisis - tiền lệ phải được tôn trọng, có thể khái quát hoát tầm
quan trọng của án lệ trong hệ thống thông luật thông qua ba nội dung cơ bản của tính bắt
buộc áp dụng án lệ28:
1- Bản án và quyết định của Thượng nghị viện (kể từ năm 2009 là của Tòa án tối
cao) tạo thành án lệ bắt buộc đối với mọi tòa án, không có ngoại lệ.

2- Bản án và quyết định của Tòa phúc thẩm có hiệu lực của án lệ bắt buộc đối với
tất cả các tòa án cấp dưới.
3- Bản án và quyết định của tòa án cấp trên có hiệu lực án lệ bắt buộc đối với tất cả
các tòa án cấp dưới.
Như đã nói, trong những thập niên gần đây, quy tắc Stare decisis ở Anh đã bớt đi
tính cứng nhắc của nó, nghĩa là Tòa án tối cao đã đưa ra quan điểm có thể thay đổi án lệ
của chính mình khi cần thiết với mục đích tạo không gian cho sự phát triển linh hoạt của
pháp luật. Theo đó, giống như quan điểm của Tòa án tối cao Hoa Kỳ, Tòa án tối cao Anh
tự cho mình quyền không bắt buộc tuân theo án lệ có trước của chính mình.
Các Tòa phúc thẩm Anh cũng đưa ra nguyên tắc về khả năng không nhất thiết phải
tuân theo án lệ trước đó của mình trong ba trường hợp: thứ nhất, khi tòa cấp trên cho là án
lệ trước đó của mình có thể đã được đưa ra do có sơ suất, thiếu sự cẩn trọng cần thiết nên
có thể không còn phù hợp với tình hình mới; thứ hai, án lệ này có nội dung tỏ ra không
còn phù hợp cho việc quyết định về vấn đề tương ứng của Tòa án tối cao nảy sinh sau khi
có án lệ này; thứ ba, khi có một đạo luật thực định được ban hành có giá trị thay thế nó
hoặc nó bị Ủy ban Tư pháp của Hội đồng Cơ mật bác bỏ.

Đào Trí Úc, 2015, Án lệ: lịch sử, hiện tại và triển vọng phát triển ở Việt Nam, Phòng Tư pháp Tp. Tam
Kỳ, Quảng Nam, < />28

25


×