Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

SKKN dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.12 KB, 31 trang )

Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Trường THPT Đoàn Kết
Mã số:………..
Mã số:……..

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI

DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ VỚI VIỆC ỨNG DỤNG
TRONG GIẢNG DẠY BỘ MÔN GDCD BẬC THPT

- Người thực hiện: Mai Hữu Thành
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lí giáo dục
- Phương pháp dạy học bộ môn
- Phương pháp giáo dục
- Lĩnh vực khác
ó đính kèm: Mô hình
Phần mềm

Phim ảnh
Năm học 2014 - 2015

SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT


SƠ LƯỢC LÍ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên:
Mai Hữu Thành
2. Ngày tháng năm sinh: 10/ 07/1982
3. Nam, nữ:
Nam
4. Địa chỉ:
TT. Tân Phú, Đồng Nai
5. Điện thoại:
0919.486.489
6. Fax:
E-mail:
7. Chức vụ:
P. Bí thư Đòan trường - Giáo viên
8. Đơn vị công tác:
Trường THPT Đoàn Kết
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị cao nhất:
Thạc sỹ
- Năm nhận bằng:
2011
- Chuyên ngành đào tạo: Triết học
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy GDCD
- Số năm kinh nghiệm: 10 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: 05

SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết



Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ VỚI VIỆC ỨNG DỤNG VÀO GIẢNG DẠY BỘ
MÔN GDCD BẬC THPT

I.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đổi mới giáo dục luôn đòi hỏi người tham gia quá trình giáo dục trước hết
phải đổi mới phương pháp giáo dục cho phù hợp với yêu cầu của thời đại. Căn cứ
vào những yếu tố như; sự tương quan về vị trí, vai trò và nhu cầu kiến thức ... giữa
người dạy và người học, từ đó có những định hướng cách thức khai thác bài dạy
nhằm tôn chỉ phát huy vai trò của đối tượng giáo dục. Cụ thể, trong những năm
qua, với việc coi người học nắm giữ vị trí trung tâm, chúng ta đã tiến một bước dài
trong việc thay đổi căn bản, toàn diện cách tiếp cận về phương pháp dạy và học.
Song cũng có thể thấy rằng; một khi bối cảnh của hoạt động đổi mới
phương pháp dạy – học đã hầu như được tiếp cận phổ biến…thì giờ đây, đã đến lúc
chúng ta cần hướng tới một mục tiêu khác có tính quyết định, ảnh hưởng vô cùng
mạnh mẽ tới quá trình giảng dạy và chất lượng của nó, đó là: đổi mới nội dung
chương trình dạy học.
Bởi lẽ:
Nếu đổi mới phương pháp dạy – học chỉ giải quyết vấn đề “cách phải dạy
và học như thế nào”, thì đổi mới về nội dung kiến thức lại giúp ta giải quyết vấn đề
“dạy cái gì là trọng tâm, trong điểm”, là “mấu chốt cơ bản của kiến thức, kĩ năng,
hoạt động”…đáp ứng cho nhu cầu của đối tượng giáo dục.
Trên phương diện lý luận, chúng tôi đồng tình với quan điểm khi cho rằng;
Nếu phương pháp dạy được đổi mới như thế nào (nguyên nhân), thì cũng cần có
một kiểu mô thức nội dung tương ứng, đủ tầm về nội hàm để phương pháp đó
có thể phát huy hết tác dụng nhằm khai thác toàn bộ nội dung đó theo hướng
tích cực nhất như thế ấy (hệ quả).
Thực tế hiện nay, trước nhu cầu về đổi mới phương pháp mạnh mẽ và toàn

diện, chúng tôi nhận thấy bắt đầu có sự mâu thuẫn giữa phương pháp và nội dung
dạy – học. Nếu như phương pháp được quan tâm trước một bước và đang được
dùng để khai thác bài học một cách nhịp nhàng, hiệu quả thì nội dung học hiện nay
lại đang tự nó lâm vào những hạn chế nhất định gây khó khăn cho phương pháp
dạy – học.
Không ít trường hợp nội dung, kiến thức dạy bắt đầu bộc lộ những hạn chế
nhất định, trong đó tập trung một số điểm:
+ Kiến thức mang tính hàn lâm, chậm cập nhật
+ Nội dung dạy trùng lặp nhiều ở một số bộ môn, thậm chí ở các khối, lớp
trong cùng bộ môn.
+ Nhiều chủ đề có liên hệ với nhau đôi khi bị chia nhỏ, rời rạc. Đôi khi,
được khai thác ở góc nhìn của từng bộ môn, chưa tổng thể, liên hệ với nhau.
Điều này thường dẫn tới hệ quả là; chủ đề kiến thức học trở nên nhàm chán,
thiếu tính mới mẻ, xâu chuỗi, liên kết, liên hệ thực tiễn. Chủ đề học cũng trở nên
khô khan và người học thường rơi vào trạng thái thụ động. Nó hòan toàn trái
ngược với yêu cầu đổi mới toàn diện giáo dục.
SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

Với bộ môn GDCD, trong thời gian qua cũng chứa đựng những vấn đề
tương tự, làm ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng giáo dục.
Từ thực trạng này, vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao để có thể khắc phục
những hạn chế nêu trên và làm cho mối quan hệ giữa nội dung và phương pháp dạy
– học trở nên hài hòa, phù hợp càng trở nên cấp thiết.
Có rất nhiều giải pháp để giải quyết vấn đề này xuất phát từ kinh nghiệm
thực tiễn giàng dạy của giáo viên bộ môn và đa phần cho rằng cần hướng tới việc
đổi mới hòan tòan nội dung giáo dục hiện có sao cho phù hợp với không chỉ nhu
cầu người học mà còn phù hợp với chính phương pháp dạy học tích cực mà chúng

ta đang ứng dụng.
Song theo thiển ý của tác giả, hiện nay nếu chưa có những quy định về hành
lang pháp lý và chưa đưa ra một khung chương trình mới để có thể đổi mới hoàn
toàn về nội dung dạy học, thì với nội dung chương trình hiện có, chúng ta cũng
có thể bắt đầu với việc tái thiết kế lại nội dung chương trình bằng giải pháp xây
dựng lại bố cục, kết cấu nội dung chương trình theo hướng giản tiện, liên hệ
chặt chẽ và có tính liện hệ thực tiễn thành từng chủ đề học có tính súc tích, tổng
thể, toàn diện, sinh động…để khắc phục tình trạng nhàm chán, thiếu tính liên
hệ hoặc trùng lặp mắc phải ở bộ môn đang giảng dạy.
Một trong những giải pháp mang tính khả thi có thể giúp chúng ta giải quyết
vấn đề này, trong thời gian gần đây được nhắc đến chính là giải pháp “dạy học
theo chủ đề”.
Dạy học theo chủ đề là hình thức tìm tòi những khái niệm, tư
tưởng, đơn vị kiến thức, nội dung bài học, chủ đề,… có sự giao thoa,
tương đồng lẫn nhau, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được
đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của môn học đó (tức là con
đường tích hợp những nội dung từ một số đơn vị, bài học, môn học có
liên hệ với nhau) làm thành nội dung học 1 trong một chủ đề có ý nghĩa
hơn, thực tế hơn, nhờ đó học sinh có thể tự hoạt động nhiều hơn để tìm ra
kiến thức và vận dụng vào thực tiễn.
Đây được xem là một trong những cách tiếp cận có tính khả dụng
trong bối cảnh nhiều môn học, nhiêu nội dung kiến thức học đang trở nên
quá tải, trung lặp và không có tính liện hệ…trong sách giáo khoa hiện
nay ở một số bộ môn học.
Với bộ môn GDCD, ngoài yếu tố môn phụ được cho là kém hấp dẫn
học sinh, thì các yếu tố như trung lặp, kiến thức nhiều và nặng… cũng
còn tồn tạ nhiều ở một số bài học.
Qua quá trình nghiên cứu và thử nghiệm có kết quả tương đối khả
quan, chúng tối cho rằng dạy học theo chủ đề hòan tòan có thể áp dụng
vào việc xây dựng lại kết cấu nội dung bài dạy, nó còn có thể góp phần

làm giảm tải một số đơn vị kiến thức trong chương trình. Hơn thế, đây
còn là giải pháp giúp học sinh hứng thú hơn với môn học qua quá trình
các em tham gia vào quá trình học.
1

Tức hoạt động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập, cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác
nhau trong cùng một kế hoạch dạy học
SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

Với mong muốn góp phần tháo gỡ những khó khăn trong việc tăng
cuờng đổi mới nội dung và phương pháp dạy học và tăng cường tính năng
động, hứng thú trong giảng dạy – học tập, cũng như góp phần giới thiệu
và phác họa bước đầu thế nào là dạy học theo chủ đề cùng với đó là
những định hướng khi ứng dụng vào bộ môn GDCD, tác giả chọn “ Dạy
học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc
THPT” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình.
Rất mong nhận được sự quan tấm, góp ý của quý đồng nghiệp.
II. TỔNG QUAN VỀ DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ VÀ NHỮNG TIỀN
ĐỀ CƠ SỞ LÍ LUẬN - THỰC TIỄN TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI
GIÁO DỤC HIỆN NAY
1. Thế nào là dạy học theo chủ đề?
Dạy học theo chủ đề (themes based leraning) là hình thức tìm tòi
những khái niệm, tư tưởng, đơn vị kiến thức, nội dung bài học, chủ đề,…
có sự giao thoa, tương đồng lẫn nhau, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận
và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của môn học
đó (tức là con đường tích hợp những nội dung từ một số đơn vị, bài học,
môn học có liên hệ với nhau) làm thành nội dung học 2 trong một chủ đề

có ý nghĩa hơn, thực tế hơn, nhờ đó học sinh có thể tự hoạt động nhiều
hơn để tìm ra kiến thức và vận dụng vào thực tiễn.
Dạy học theo chủ đề là sự kết hợp giữa mô hình dạy học truyền
thống và hiện đại, ở đó giáo viên không dạy học chỉ bằng cách truyền thụ
(xây dựng) kiến thức mà chủ yếu là hướng dẫn học sinh tự lực tìm kiếm
thông tin, sử dụng kiến thức vào giải quyết các nhiệm vụ có ý nghĩa thực
tiễn.
Dạy học theo chủ đề là một mô hình mới cho hoạt động lớp học
thay thế cho lớp học truyền thống (với đặc trưng là những bài học ngắn,
cô lập, những hoạt động lớp học mà giáo viên giữ vai trò trung tâm) bằng
việc chú trọng những nội dung học tập có tính tổng quát, liên quan đến
nhiều lĩnh vực, với trung tâm tập trung vào học sinh và nội dung tích
hợp với những vấn đề, những thực hành gắn liền với thực tiễn.
Với mô hình này, học sinh có nhiều cơ hội làm việc theo nhóm để
giải quyết những vấn đề xác thực, có hệ thống và liên quan đến nhiều
kiến thức khác nhau; thu thập thông tin từ nhiều nguồn kiến thức.
Việc học của học sinh thực sự có giá trị vì nó kết nối với thực tế và
rèn luyện được nhiêu kĩ năng hoạt động và kĩ năng sống. Học sinh cũng
được tạo điều kiện minh họa kiến thức mình vừa nhận được và đánh giá
mình học được bao nhiêu và giao tiếp tốt như thế nào.Với cách tiếp cận
này, vai trò của giáo viên chỉ là người hướng dẫn, chỉ bảo thay vì quản lý
trực tiếp học sinh làm việc.
Dạy học theo chủ đề ở bậc THPT là sự cố gắng tăng cường tích hợp
kiến thức, làm cho kiến thức có mối liên hệ mạng lưới nhiều chiều; là sự
2

Tức hoạt động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập, cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác
nhau trong cùng một kế hoạch dạy học
SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết



Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

tích hợp vào nội dung những ứng dụng kĩ thuật và đời sống thông dụng
làm cho nội dung học có ý nghĩa hơn, hấp dẫn hơn . Một cách hoa mỹ; đó
là việc “thổi hơi thở” của cuộc sống vào những kiến thức cổ điển, nâng
cao chất lượng “cuộc sống thật” trong các bài học.
Theo một số quan điểm, dạy học theo chủ đề thuộc về nội dung dạy học chứ
không phải là phương pháp dạy học nhưng chính khi đã xây dựng nội dung dạy
học theo chủ đề, chính nó lại tác động trở lại làm thay đổi rất nhiều đến việc lựa
chọn phương pháp nào là phù hợp, hoặc cải biến các phương pháp sao cho phù hợp
với nó.
Vì là dạy học theo chủ đề nên căn bản quá trình xây dựng chủ đề tạo ra quá
trình tích hợp nội dung3 (đơn hoặc liên môn) trong quá trình dạy.
2. Ưu thế của dạy học chủ đề so với dạy học theo cách tiếp cận
truyền thống hiện nay.
Mọi sự so sánh giữa bất kì mô hình hay phương pháp dạy nào cũng
trở nên khập khiễng bởi mỗi một mô hình hay phương pháp đều có những
ưu thế hoặc những hạn chế riêng có.
Tuy nhiên, nếu đặt ra vấn đề cho ngành giáo dục hiện nay là: Làm
thế nào để nội dung kiến thức trở nên hấp dẫn và có ý nghĩa trong cuộc sống?
Làm thế nào để việc học tập phải nhắm đến mục đích là rèn kĩ năng giải quyết vấn
đề, đặc biệt là các vấn đề đa dạng của thực tiễn? Có phải cứ phải dạy kiến thức
theo từng bài thì học sinh mới hiểu và vận dụng được kiến thức? Làm thế nào để
nội dung chương trình dạy luôn được cập nhật trước sự bùng nổ vũ bão của thông
tin để các kiến thức của việc học và dạy học thực sự là thế giới mới cho những
người học?
Việc trả lời các câu hỏi trên đồng nghĩa với việc xác định mục tiêu giáo dục,
mô hình dạy học trong thời đại mới. Đồng thời, cũng sẽ chỉ ra cho ta thấy những
lợi thế nhất định của từng mô hình khi áp dụng vào giảng dạy.

Rõ ràng, nếu căn cứ vào việc tìm câu trả lời cho những câu hỏi này thì dạy
học theo chủ đề khi so sánh với dạy học theo cách tiếp cận truyền thống hiện nay,
sẽ có những ưu điểm4 sau:
Dạy học theo cách tiếp cận truyền Dạy học theo chủ đề
thống hiện nay
1- Tiến trình giải quyết vấn đề tuân 1- Các nhiệm vụ học tập được giao,
3

Thường gọi là dạy học theo chủ đề tích hợp (đơn môn, liên môn). Đây cũng là cách gọi thông thường hiện nay
trong giới nghiên cứu về các loại chủ đề tích hợp. Trong đó, “Chủ đề đơn môn” đề cập đến kiến thức thuộc về một
môn học nào đó còn “Chủ đề liên môn” đề cập đến kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học. Còn về phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học thì không có gì khác biệt.
Đối với một chủ đề, dù đơn môn hay liên môn, thì vẫn phải chú trọng việc ứng dụng kiến thức của chủ đề ấy,
bao gồm ứng dụng vào thực tiễn cũng như ứng dụng trong các môn học khác.
Do vậy, về mặt phương pháp dạy học thì không có phân biệt giữa dạy học một chủ đề đơn môn hay dạy học một
chủ đề liên môn, tích hợp. Điều quan trọng là dạy học nhằm phát triển năng lực học sinh đòi hỏi phải tổ chức hoạt
động học tích cực, tự lực và sáng tạo cho học sinh, mà các hoạt động ấy phải được tổ chức ở trong lớp, ngoài lớp,
trong trường, ngoài trường, ở nhà và cộng đồng, đặc biệt quan tâm đến hoạt động thực hành và ứng dụng kiến thức
vào giải quyết những vấn đề thực tiễn.
4
Chúng tôi so sánh trên hai phương diện:
(1) Nội dung dạy theo chủ đề ;
(2) kĩ thuật, phương pháp khai thác và các hệ quả từ các kĩ thuật, phương pháp giảng dạy theo chủ đề.
SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

theo chiến lược giải quyết vấn đề
trong khoa học vật lý: logic, chặt

chẽ, khoa học.. do giáo viên (SGK)
áp đặt (G.viên là trung tâm).
2- Nếu thành công có thể góp phần
đạt tới mức nhiều mục tiêu của môn
học hiện nay: chiếm lĩnh kiến thức
mới thông qua hoạt động, bồi
dưỡng các phương thưc tư duy khoa
học và các phương pháp nhận thức
khoa học: PP thực nghiệm, PP
tượng tự, PP mô hình, suy luận
khoa học…)
3- Dạy theo từng bài riêng lẻ với
một thời lượng cố định.
4- Kiến thức thu được rời rạc, hoặc
chỉ có mối liên hệ tuyến tính (một
chiều theo thiết kế chương trình
học).
5- Trình độ nhận thức sau quá trình
học tập thường theo trình tự và
thường dừng lại ở trình độ biết,
hiểu và vận dụng (giải bài tập).
6- Kết thúc một chương học, học
sinh không có một tổng thể kiến
thức mới mà có kiến thức từng phần
riêng biệt hoặc có hệ thống kiến
thức liên hệ tuyến tính theo trật tự
các bài học.
7- Kiến thức còn xa rời thực tiễn
mà người học đang sống do sự
chậm cập nhật của nội dung sách

giáo khoa.
8- Kiến thức thu được sau khi học
thường là hạn hẹp trong chương
trình, nội dung học.

9- Không thể hướng tới nhiều mục
tiêu nhân văn quan trọng như: rèn
luyện các kĩ năng sống và làm việc:
giao tiếp, hợp tác, quản lý, điều
hành, ra quyết định…
SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết

học sinh quyết định chiến lươc học
tập với sự chủ động hỗ trợ, hợp tác
của giáo viên (Học sinh là trung
tâm).
2- Hướng tới các mục tiêu: chiếm
lĩnh nội dung kiến thức khoa học,
hiểu biết tiến trình khoa học và rèn
luyện các kĩ năng tiến trình khoa
học như: quan sát, thu thập thông
tin, dữ liệu; xử lý (so sánh, sắp xếp,
phân loại, liên hệ…thông tin); suy
luận, áp dụng thực tiễn.
3- Dạy theo một chủ đề thống nhất
được tổ chức lại theo hướng tích
hợp từ một phần trong chương trình
học.
4- Kiến thức thu được là các khái
niệm trong một mối liên hệ mạng

lưới với nhau.
5- Trình độ nhận thức có thể đạt
được ở mức độ cao: Phân tích, tổng
hợp, đánh giá.
6- Kết thúc một chủ đề học sinh có
một tổng thể kiến thức mới, tinh
giản, chặt chẽ và khác với nội dung
trong sách giáo khoa.
7- Kiến thức gần gũi với thức tiễn
mà học sinh đang sống hơn do yêu
cầu cập nhật thông tin khi thực hiện
chủ đề.
8- Hiểu biết có được sau khi kết
thúc chủ đề thường vượt ra ngoài
khuôn khổ nội dung cần học do quá
trình tìm kiếm, xử lý thông tin
ngoài nguồn tài liệu chính thức của
học sinh.
9- Có thề hướng tới, bồi dưỡng các
kĩ năng làm việc với thông tin, giao
tiếp, ngôn ngữ, hợp tác.


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

* Điểm tương đồng giữa dạy học chủ đề và dạy học truyền thống là
VẪN COI VIỆC LĨNH HỘI NỘI DUNG LƯỢNG KIẾN THỨC NỀN
TẢNG, vì thế dạy học theo chủ đề là mô hình dạy học có thể vận dụng
vào thực tiển hiện nay dễ dàng hơn một số mô hình khác. Điều cần làm
để có thể vận dụng nó là phải tổ chức lại một số bài học thành một chủ

đề được cho là sự tích hợp tốt hơn, có ý nghĩa thực tiễn hơn cách trình
bày của sách giáo khoa mà chúng ta đang có.
* Điểm khác biệt cơ bản dẫn tới nhiều khác biệt ở trên là :
Một, dạy học theo chủ đề cũng như một số mô hình tích cực khác,
giáo viên không được coi học sinh là chưa biết gì trước nội dung bài học
mới mà trái lại, luôn phải nghĩ rằng các em tự tin và có thể biết nhiều
hơn ta mong đợi, vì thế dạy học cần tận dụng tốt đa kiến thức, kinh
nghiệm, kĩ năng có sẵn của các em và khuyến khích khả năng biết nhiều
hơn thế của học sinh về một vấn đề mới để giảm tối đa thời gian và sự
thụ động của học sinh trong khi tiếp nhận kiến thức mới, để tăng hiểu
biết lên nhiều lần so với nội dung cần dạy.
Hai, dạy học theo chủ đề nhắm tới việc sử dụng kiến thức, hiểu biết
vào thực tiễn các nhiệm vụ học tập nhắm tới sự lĩnh hội hệ thống kiến
thức có sự tích hợp cao, tinh giản và tính công cụ cao, đồng thời hướng
tới nhiều mục tiêu giáo dục tích cực khác (VD các năng lực), trong khi
dạy học theo truyền thống lại coi trọng việc xây dựng kiến thức nên chỉ
nhắm tới các mục tiêu được cho là quá trình này có thể mang lại.
Ba, trong dạy học theo chủ đề kiến thức mới được học sinh lĩnh hội
trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ học tập, đó là kiến thức tổ chức
theo một tổng thể mới khác với kiến thức trình bày trong tất cả các nguồn
tài liệu. Hơn nữa, với việc học sinh lĩnh hội kiến thức trong quá trình giải
quyết nhiệm vụ học tập, cũng mang lại một lợi thế to lớn đó là mở rộng
không gian, thời gian dạy học, tinh giản thời gian dạy, độ ứng dụng thực
tế cao hơn nhiều.
Bốn, với dạy học theo chủ đề, vai trò của giáo viên và học sinh cơ bản
là thay đổi và khác so với dạy học truyền thống. Người giáo viên từ chỗ
là trung tâm trong mô hình truyền thống đã chuyển sang là người hướng
dẫn, học sinh là trung tâm.
3. Tại sao nên quan tâm đến dạy học theo chủ đề trong tiến
trình đổi mới giáo dục hiện nay?

* Về mặt lý luận
Hiện nay, có ba lý do quan trọng cần lưu tâm và đặt chúng ta phải nghĩ đến
một giải pháp làm thế nào để đáp ứng và giải quyết được ba vần đề này, chình là:
Một, trước yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục – trong đó chú
trọng đổi mới phương pháp, cách tiếp cận dạy học theo định hướng phát huy tính
tích cực của học sinh.
Hai, tính giới hạn về định lượng nội dung trong sách giao khoa và quá trình
bùng nổ thông tin, tri thức kèm theo đó là nhu cầu cập nhật kiến thức vô hạn đối
với sự học của người học.
SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

Ba, với cách tiếp cận giảng dạy truyền thống hiện có, liệu chúng ta đủ khả
năng để thực hiện các mục tiêu dạy học tích cực như; tăng cương tích hợp các vấn
đề cuộc sống, thời sự vào bài giảng; tăng cường sự vận dụng kiến thức của học
sinh sau quá trình học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn; rèn luyện các kĩ năng
sống phong phú vốn rất cần cho người học hiện nay?
Thêm vào đó, ngoài việc quá trình dạy học hướng tới định hướng nội dung
học như đã có, thì đổi mới dạy học hiện nay còn có tham vọng tiến xa hơn đó là
định hướng hình thành NĂNG LỰC cho học sinh.
Do đó, dạy học theo chủ đề với những lợi thế về đặc điểm như đã so sánh ở
trên so với dạy học theo cách tiếp cận truyền thống, đặc biệt là nó có thể giải quyết
được ba vấn đề trên, chính là bước chuẩn bị tương đối phù hợp cho đổi mới
chương trình và sách giáo khoa trong thời gian tới.
* Trên phương diện thực tiễn
Cần khẳng định rằng, mục tiêu giáo dục hiện nay của chúng ta đã bắt đầu
chuyển hướng sang chú trọng tới định hướng phát triển năng lực học sinh. Theo
đó, chúng ta kì vọng vào quá trình dạy học, kiểm tra đánh giá chú trọng tăng cường

tính vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn của người học và
nhờ vào quá trình đó các năng lực được hình thành.
Tuy nhiên, trong thực tế, diện mạo đời sống xã hội không hiện diện đầy đủ ở
bất cứ bài nào trong chương trình học. Nói cách khác, không thể gom hết toàn bộ
xã hội sinh động vào nội dung chương trình của bất kì một môn học nào như một
dạng kim chỉ nam xuyên suốt, kinh điển, giáo điều.
Thực tế trên cho thấy, khi giải quyết một vấn đề trong thực tiễn, bao gồm cả
tự nhiên và xã hội, đòi hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp hoặc liên
quan đến nhiều môn học. Vì vậy, dạy học cần phải tăng cường theo hướng tích hợp
đa chiều, liên môn. Do đó, hệ quả là buộc chúng ta phải xây dựng các chủ đề để
tiến hành dạy học.
Tất nhiên, việc xây dựng các chủ đề trong dạy học cũng không tham vọng sẽ
giải quyết việc đưa toàn bộ thực tiễn vào chương trình, thậm chí mô hình này cũng
chưa thể tạo ra một phương pháp giáo dục hoàn toàn mới, nhưng quan trọng hơn
hết chính là nó mở đường cho giáo viên và học sinh tiếp cận với kiến thức theo
một hướng khác. Không phải là sự thụ động mà là chủ động của học sinh. Không
phải là sự tiếp nhận kiến thức sau khi học mà có thể là ngay khi làm nhiệm vụ học.
Nó cũng không chỉ dừng ở mục tiêu “đầu vào” về kiến thức mà nó còn hướng tới
định hướng “đầu ra” (tức khả năng vận dụng kiến thức vào giải quyết thực tiễn 5)
nhờ vào việc xác định các năng lực cần phát triển song song với những mục tiêu về
chuẩn nội dung kiến thức, kĩ năng trong chương trình học.
Ngoài ra, một thực tế khác cũng đáng quan tâm: hiện nay, ít nhiều trong
chương trình học (bao gồm cả trong một bộ môn theo bậc hoặc các môn khác nhau
theo một bậc) cũng có nhiều đơn vị kiến thức có tính giao thoa, liên hệ tương đối
gần hoặc trùng lặp.

5

Được gọi là định hướng phát triển năng lực học sinh, xin xem thêm trong Tài liệu hướng dẫn đổi mới kiểm tra
đánh giá đầu ra theo định hướng phát triển năng lực học sinh, 2014.

SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

Ví dụ 1: Ở cấp độ đơn môn, môn GDCD bậc THPT, các đơn vị bài: bài 8 –
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, (GDCD 11, tr 81); bài 7 – Công dân với các quyền
dân chủ (GDCD 12, tr 68 - 78), nội dung có sự liên hệ;
Hoặc: bài 12 – Công dân với tình yêu hôn nhân và gia đình (GDCD 10);
mục 1 bài 4 – Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống
xã hội (GDCD 12, tr 32 -35), nội dung có sự liên hệ gần nhau và phát triển cao hơn
ở tầm nhận thức lũy tiến từ khối 10 lên khối 12, từ giáo dục ý thức đạo đức lên ý
thức pháp luật.
Ví dụ 2: ở cấp độ liên môn như: bài 14 – Công dân với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc (GDCD 10, tr95); bài 14 – Chính sách quốc phòng an ninh
(GDCD 11, tr 110); và bài 5 – Chính sách quốc phòng an ninh và bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa (GDQP) có nội dung tương đối gần và có sự lặp lại ở một số khái
niệm.
Nhằm tránh hiện trạng trên, cũng như nhằm tạo ra một đơn vị kiến thức học
có tính sâu sắc hơn, có tính liên hệ tổng thể, bao quát và đầy đủ hơn, thì việc xây
dựng các chủ đề tích hợp các nội dung như đã trình bày là cần thiết.
III. ỨNG DỤNG DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ ĐỐI VỚI BỘ MÔN
GDCD BẬC THPT HIỆN NAY VÀ NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG THỰC HIỆN
1. Tình hình ứng dụng việc dạy học theo chủ đề trong bộ môn GDCD
hiện nay
Dạy học theo chủ đề không phải là mô hình dạy học hoàn toàn mới trên thế
giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc quan tâm đến mô hình này mới chỉ dừng lại ở
bước đầu tiếp cận. Song, căn cứ vào thực tiễn và kế hoạch đổi mới căn bản nền
giáo dục hiện nay, có thể khẳng định mô hình dạy học này sẽ còn tiếp tục được
nghiên cứu và thử nghiệm để có được những bài học kinh nghiệm xác đáng trước

khi chính thức áp dụng phục vụ cho chủ trương đối mới căn bản, toàn diện giáo
dục hiện nay.
Nhìn lại quá trình tiếp cận và triển khai, có thể liệt ra một số chủ trương lớn
và các hoạt động bổ trợ liên quan đã và đang cụ thể hóa trong “khâu chuẩn bị”
trong lộ trình xây dựng mô hình dạy học theo chủ đề ở nước ta như sau:
+ Chủ trương giảm tải, cắt bỏ nhiều nội dung không cần thiết và trùng nhau
gây áp lục và khó khăn cho việc dạy và học trong suốt những năm qua.
+ Tập huấn về đổi mới kiểm tra đánh giá đầu ra theo định hướng phát triển
năng lực học sinh (2014). Thực chất, đây là khâu “đi tắt, đón đầu” trong lộ trình
trang bị kiến thức cần thiết cho giáo viên dần tiếp cận việc dạy học theo chủ đề,
trước khi có sự đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục trên phương diện nội dung,
đó là: cơ cấu lại môn học sau năm 2015. Đây cũng là bước đệm quan trọng của Bộ
GD & ĐT nhằm trang bị cho giáo viên những kỹ năng, thao tác, quy trình để giáo
viên có thể áp dụng trước vào khâu kiểm tra đánh giá học sinh khi các em tham gia
vào một tiết học theo chủ đề.
+ Bên cạnh đó, trong năm 2014, việc triển khai Hướng dẫn sinh hoạt chuyên
môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá… theo công văn số
5555/ BGDĐT, ngày 18/10/2014 của Bộ giáo dục và Đào tạo, theo đó; mỗi tổ
chuyên môn (trong đó có môn GDCD) xây dựng ít nhất một học kỳ 02 chủ đề để
giảng dạy thử, dự giờ, phân tích, rút kinh nghiệm…cũng là khởi đầu quan trọng
SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

giúp giáo viên có được vốn hiểu biết nhất định về thế nào là xây dựng tiết dạy, bài
dạy theo chủ đề trước khi có khung chương trình cụ thể.
+ Ở Đồng Nai, các nội dung trên cũng đã được tổ chức, kèm theo đó là Kế
hoạch tổ chức Hội thi Sử dụng kiến thức liên môn để giải quyết nội dung bài dạy ở
các bộ môn năm 2014(trong đó có môn GDCD) cũng là minh chứng cho thấy tình

hình ứng dụng dạy học theo chủ đề hiện nay là có cơ sở và được quan tâm nhiều từ
các phía ban ngành.
Các hoạt động trên, chính là tiền đề thuận lợi giúp giáo viên bộ môn có cơ
hôi tiếp cận mô hình dạy học này trong giai đoạn sắp tới mà không vấp phải sự bỡ
ngỡ, khó khăn ngay khi chúng ta bước vào giai đoạn thực hiện khung chương trình
đổi mới giáo dục.
2. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện dạy học theo chủ đề đối
với bộ môn GDCD bậc THPT
Bất kì môn học nào hiện nay khi đối diện với vấn đề dạy học theo chủ đề
cũng gặp khó khăn nhất định. Phần vì đây là cách tiếp cận mới. Hơn nữa, chưa có
một khung chương trình thống nhất hoặc hướng dẫn địa chỉ cần xây dựng chủ đề
trong chương trình học hiện hành...v.v. Không những vậy, khó khăn này còn thể
hiện ở chỗ: không chỉ bởi sự độc lập 6 hay sự khác biệt tương đối về mặt nội dung 7
mà còn xuất phát từ phía giáo viên bộ môn với những hạn chế như: sự hiểu biết
sâu, rộng về kiến thức liến khối, liên môn; khả năng, kinh nghiệm nắm bắt các thao
tác, quy trình xây dựng chủ đề; kĩ năng vận dụng phương pháp dạy học linh hoạt
đối với từng chủ đề mình xây dựng.
Tuy nhiên, ngoài khó khăn cũng không phải không có những thuận lợi khi
áp dụng. Trong bài viết, xin được nêu ra lợi thế xét trên cả hai khía cạnh: nội dung
và khả năng hiện nay của giáo viên dạy bộ môn GDCD THPT (bao gồm kiến thức,
kĩ năng sử dụng kĩ thuật, phương pháp dạy học).
Về phần nội dung
Một, như đã biết, bộ môn GDCD có nội dụng học là vô cùng bao quát, phổ
biến. Nội dung môn học trang bị bao gồm thế giới quan và nhân sinh quan, cũng
như các vấn đề cơ bản của đời sống xã hội trên rất nhiều lĩnh vực có tính thực tiễn,
gần gũi. Do đó, nội dung đề cập đến một lượng kiến thức dồi dào, thực tiễn, sinh
động, không trừu tượng (như toán, hóa, lý…). Điều này cũng có nghĩa là khi xây
dựng chủ đề, nhất là chủ đề liên môn, giáo viên sẽ có trước tiên là nhiều môn học,
đề tài được chọn để đưa vào tích hợp, thêm vào đó trong quá trình dạy các nhiệm
đặt ra đối với học sinh cũng dễ dàng được tiến hành một cách chất lượng và đảm

bảo bởi hai yêu tố: nguồn tài liệu dồi dào (từ thực tiễn, hoặc kiến thức liên môn
khác mà học sinh sẵn có) và tri thức thực tiễn sẵn có từ học sinh.
Vì là bộ môn trang bị thế giới quan và nhân sinh quan cũng như các vấn đề
cơ bản của đời sống xã hội, nên quá trình tích hợp xây dựng chủ đề liên môn, bản
thân đơn vị kiến thức môn GDCD trong chủ đề thường là được sử dụng thường
xuyên làm kim chỉ nam cho định hướng giải quyết vấn đề của học sinh, do đó giáo
viên cũng dễ dàng kiểm soát được nội dung cơ bản của chủ đề môn học, không rơi
vào tình trạng sa đà, lệch chuẩn.
6
7

Đối với dạy học theo chủ đề đơn môn.
Đối với dạy học theo chủ đề liên môn

SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

Hai, bộ môn GDCD cũng là bộ môn có chứa nhiều đơn vị kiến thức liên đới
nhau theo chủ đề từng chương mục8. Ví dụ: GDCD 10- Phần thứ nhất, toàn bộ nội
dung chỉ xoay quanh chủ đề thế giới quan, phương pháp luận (triết học); Phần thứ
2: Nội dung xoay quanh chủ đề đạo đức học. Trong chủ đề này có thể chia ra các
chủ đề nhỏ như: Đạo đức và các phạm trù cơ bản (tích hợp 2 bài 10 và 11);
Hoặc như, trong phạm vi bậc THPT, chủ đề Đạo đức với đời sống, chúng ta
cũng tìm thấy nội dung có sự liên hệ và đưa vào chủ đề là Mối quan hệ giữa Pháp
luật và đạo đức (mục c. bài 1, GDCD 12, tr 9)
Do đó, việc xây dựng chủ đề là khá dễ dàng, ngay cả khi môn này nhận
thêm nhiệm vụ tích hợp, lông ghép các chủ đề ngoài giờ lên lớp khác.
Ví dụ: lồng ghép, tích hợp giáo dục phòng chống tham nhũng 9 và học tập

làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh10, cũng có thể được đưa vào chủ đề Đạo
đức với đời sống.
Ba, bộ môn GDCD cũng là bộ môn có nội dung liên hệ nhiều với các bộ
môn như Sử, Địa, Văn, Sinh học, GDQP, NGLL… Do đó, khi dạy theo chủ đề,
học sinh dễ dàng tiếp cận hơn, dễ dàng nhận nhiệm vụ học tập nhờ vào sức tự tin
về kiến thức sẵn có khi yêu cầu giải quyết nhiệm vụ thực tiễn. Vì thế, môn học
cũng hứa hẹn thái độ tích cực, hứng thú và chủ động hơn từ phía học sinh.
Về khả năng của giáo viên
Khả năng của giáo viên bao gồm: kiến thức, kĩ năng sự dụng kỹ thuật,
phương pháp dạy học.
Ưu thế vượt trội của giáo viên GDCD so với các giáo viên khác chính là
việc quen thuộc với nhiều phân loại kiến thức khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội
và nhân văn. Từ triết, đạo đức học, kinh tế chính trị, pháp luật học cho đến các chủ
đề nhỏ từng được đưa vào giảng dạy tích hợp, lồng ghép hàng chục năm qua như
giáo dục kĩ năng sống, giáo dục trật tự ATGT, giáo dục sức khỏe giới tính, bình
đẳng giới, tích hợp giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, giáo dục chủ quyền
biển đảo, giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục phòng chống các tệ nạn xã hội, ….
Do vậy, dữ liệu các kênh tri thức liên môn là vô cùng phong phú, dồi dào. Đây
cũng là các chủ đề dễ dàng được giáo viên tích hợp thành chủ đề để đưa vào giảng
dạy nếu được áp dụng mô hình dạy học này.
Ngoài ra, về phương diện sử dụng kĩ thuật và phương pháp dạy học, không
chỉ riêng giáo viên GDCD mà ở các bộ môn khác cho đến nay, về cơ bản đã từng
tiếp cận và kinh qua tương đối thành công rất nhiều các kĩ thuật và phương pháp
dạy học tích cực (vd: như phương pháp dự án, thảo luận nhóm, trực quan…), điều
này vô cùng hữu dụng và là tiền đề cho việc sử dụng nó vào việc khai thác các đơn
vị kiến thức trong tiết dạy học theo chủ đề. Về cơ bản, dạy học theo chủ đề rất cần
những phương pháp này để khai thác nội dung bài học, cũng như đây là cách để
học sinh liên hệ thực tiễn.
Đối với học sinh
8


Xin xem ví dụ ở mục 1.3.2 chương 1 của tài liệu.
Tham nhũng là hành vi vi phạm đạo đức trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, cá nhân với cộng đồng.
10
Nêu gương lời dạy Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức hoặc cũng có thể lấy tâm gương đạo đức của Hồ Chí
Minh minh chứng cho các đơn vị kiến thức trong chủ đề, ví dụ: Hạnh phúc trong chủ đề và niềm hạnh phúc của Hồ
Chí Minh trong trích đoạn trả lời về niềm mơ ước lớn nhất của Người, “Ham muốn tột bậc……. là làm cho nhân
dân ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”
9

SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

Khả năng đón nhận cao vì trước hết, các chủ đề được xây dựng theo dạng
tích hợp, liên môn có tính thực tiễn sinh động nên chủ đề học bao giờ cũng hấp
dẫn, dễ tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp,
liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết
các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Quan trọng
hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều
lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm
chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của
kiến thức tổng hợp vào thực tiễn.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế, riêng với môn học GDCD khi áp dụng
dạy học theo chủ đề cũng gặp một số khó khăn, như:
+ Giáo viên chưa chuẩn bị tâm lý, ngại thay đổi.
+ Học sinh vẫn coi GDCD là môn phụ.
+ GDCD là môn học có tần suất và nội dung được đưa vào tích hợp nhiều
những vấn đề khác ngoài chương trình, do đó có thể gây khó khăn và lúng túng

cho giáo viên khi xác định nội dung xây dựng chủ đề hoặc phá vỡ kết cấu nội
dung, làm nhạt nội dung chính của chương trình.
+ Thời gian học 1 tiết trên lớp, khiến chủ đề khi đưa vào giảng dạy dễ bị
chia nhỏ, manh mún, ảnh hưởng đến việc trình bày sản phẩm, kết quả học tập của
học sinh. Đồng thời, khiến chủ đề học dễ rơi vào tình trạng chỉ là một dạng thức
hình thành trên cơ sở của tổng đại số đơn thuần các đon vị kiến thức (không liên
hệ, không mở rộng, không lũy tiến).
+ Độ ngắn dài hay nội dung chủ đề phụ thuộc rất nhiều vào nhóm năng lực
mà từng giáo viên, từng môn, từng địa phương đề ra trong quá trình giáo dục, khó
thống nhất dễ gây xáo trộn chương trình chung.
+ Quan trọng hơn hết là chưa có một khung chương trình xây dựng các chủ
đề, từ đơn môn đến liên môn. Do đó, điều này cần sự bàn bạc, thống nhất giữa các
giáo viên trong tổ bộ môn và giữa các bộ môn, thậm chí là những nhà quản lý giáo
dục, các chuyên gia giáo dục để có sự thống nhất đồng bộ, đảm bảo không thiếu
sót hoặc lặp lại kiến thức, không tạo ra tính ỷ lại ở bộ môn này cho môn khác;
không tạo ra sự mầu thuẫn giữa các quan điểm lập trường chuyên môn người dạy
giữa các môn; không quan trọng hóa môn học này hay môn học khác trong quá
trình tích hợp theo chủ đề.
3. Xây dựng chủ đề dạy học trong bộ môn GDCD và những điểm cần
chú ý khi ứng dụng
Trước tiên, cần tái khẳng định lại rằng; dạy học theo chủ đề là một cách tiếp
cận hoàn toàn mới mẻ. Do đó, việc đưa ra những định hướng trong quá trình xây
dựng chủ đề, bao gồm cách thức, quy trình và những nguyên tắc xây dựng chủ đề
chỉ là những gợi mở, tham khảo và chờ đợi sự đóng góp tích cực từ kinh nghiệm
giảng dạy của giáo viên trực tiếp tham gia thực hiện mô hình này để chuyên đề có
tính khả dụng.
Tuy nhiên, từ các dữ liệu nghiên cứu, hầu hết đều cho rằng, trước khi bắt tay
vào xây dựng chủ đề học (không chỉ đối với môn GDCD mà còn cả đối với các
môn học khác) cần nắm vững những điểm sau:


SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

Một là; Chủ đề tích hợp được soạn theo yêu cầu hình thành một năng lực
nào đó cho học sinh trong thực tiễn. Các năng lực này tùy vào tình hình thực tế tại
cơ sở có thể thay đổi tùy vào trình độ của học sinh.
Hai là; Công cụ của dạy học theo chủ đề là: giáo án về chủ đề đó, có liên
quan đến ít nhất kiến thức của hai đơn vị nội dung học hoặc bài trong một bộ môn
hoặc hai bộ môn trở lên. Trong quá trình này, phương pháp dạy học có thể sử dụng
chính các phương pháp tích cực trong dạy học hiện nay để khai thác chủ đề
(phương pháp dự án, thảo luận…). Đồng thời, chú trọng đến yếu tố Công nghệ
thông tin như một phương tiện hỗ trợ đắc lực khi khai thác chủ đề.
Ba là; Kết quả chủ yếu, căn bản cần đạt được khi dạy học theo chủ đề phải
trả lời cho câu hỏi: Sau chủ đề học, học sinh biết làm gì? Hình thành năng lực gì?
Bốn là; Tùy theo nội dung chương trình sách giáo khoa hiện nay mà việc
xây dựng chủ đề dạy học có thể là:
Chủ đề tích hợp: dành cho giáo viên (đưa kiến thức từ đời sống đến bài
dạy);
Chủ đề liên môn: dành cho học sinh (đưa kiến thức từ nhiều môn học để giải
quyết các tình huống trong thực tiễn cuộc sống).
Chủ đề dạy học: tập hợp các đơn vị kiến thức gần nhau để xây dựng thành
một chủ đề.
Tuy nhiên, ranh giới giữa các hình thức chủ đề trên cũng tương đối. Đôi khi,
một chủ đề dạy học vẫn có thể bao gồm cả những đặc điểm của hai chủ đề còn lại
(cách phân loại này chỉ có tác dụng đối với giáo viên khi muốn xác định cấp độ
đơn giản hay phức tạp của nội dung tích hợp trong chủ đề, ứng với trình độ, năng
lực cụ thể của học sinh).
Năm là; Hình thức dạy học chủ đề tích hợp có thể được tiến hành dạy luôn

trong chương trình. Quỹ thời gian lấy ở các bài đơn lẻ, đã được dạy trong bài dạy
tích hợp. Có thể dạy trong nhiều tiết, nên từ 2-3 tiết/chủ đề. Không gian tổ chức có
thể tại lớp, sân trường… khuyến khích không gian trải nghiệm (các hoạt động thực
hành, trải nghiệm, xưởng sản xuất, đi thực tế, tham quan…) .
Sáu là; đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu
thế thì có thể bố trí dạy trong chương trình của môn đó và không dạy lại ở các môn
khác.
Trường hợp nội dung kiến thức có tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành
các chủ đề liên môn để tổ chức dạy học riêng vào một thời điểm phù hợp, song
song với quá trình dạy học các bộ môn liên quan.
IV. QUY TRÌNH XÂY DỰNG, SOẠN GIẢNG CHỦ ĐỀ HỌC TRONG
BỘ MÔN GDCD BẬC THPT VÀ NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
QUÁ TRÌNH KHAI THÁC CHỦ ĐỀ TRONG GIẢNG DẠY
1. Các bước cơ bản xây dựng chủ đề và tiến trình soạn giảng chủ đề học
môn GDCD bậc THPT
Khó khăn nhất hiện nay của giáo viên bộ môn chính là việc định hình quy
trình xây dựng và tiến hành soạn giảng một chủ đề. Trong thực tế, chưa có sự
thống nhất cuối cùng để đưa ra một hướng dẫn cụ thể, tất cả mới dừng lại ở việc
tìm tòi, vừa thử nghiệm vừa rút kinh nghiệm.
SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

Theo tìm hiểu bước đầu của tác giả, để xây dựng một chủ đề đảm bảo tính
khoa học và đáp ứng các mục tiêu dạy học, có thể tiến hành tuần tự theo các bước
sau:
Bước 1: Xác định nội dung, phạm vi kiến thức muốn đưa vào chủ đề. Nội
dung có thể là sự tích hợp một đơn vị kiến thức trong một bài, nhiều bài, một môn,
nhiều môn.

Yêu cầu: Có sự liện hệ tri thức gần nhau, giao thoa hoặc trùng lặp hay có độ
liên đới lũy tiến, đi lên phù hợp trình độ nhận thức của học sinh.
Bước 2: Căn cứ các nội dung đã được xác định tích hợp, giáo viên tiến hành
xây dựng chủ đề.
Yêu cầu: Tên chủ đề bao quát các đơn vị kiến thức muốn tích hợp, kết cấu
nội dung chủ đề phải hợp lý, các đơn vị kiến thức trong chủ đề phải theo trình tự
nhận thức từ dễ đến khó, đơn giản đến phức tạp hoặc nhóm thành các chủ đề nhỏ
phù hợp với nhiệm vụ học tập được giao cho học sinh.
Chủ đề xây dựng vừa đúng, đủ, phù hợp và đảm bảo các yêu cầu về chuẩn
kiến thức, kĩ năng trong chương trình chuẩn, cũng như các năng lực cần xây dựng,
kiểm tra, đánh giá đối với học sinh.
Bước 3: Tiến hành soạn giáo án theo chủ đề đã xây dựng. Có thể tham khảo
theo mẫu (01) sau:
Ngày soạn: …………………
Ngày dạy: từ ngày … đến ngày….

Tuần: từ tuần… đến tuần…..
Tiết: từ tiết….. đến tiết…….

TÊN CHỦ ĐỀ:………………………………
Số tiết: ……………………………
I. MỤC TIÊU (chung cho cả chủ đề)
1.Kiến thức: ……………………………
2.Kỹ năng: ……………………………..
Lưu ý: Đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng theo chương trình hiện hành, trên quan điểm phát
triển năng lực học sinh11.
3. Năng lực cần phát triển……………
Lưu ý:
a. Bao gồm những năng lực chuyên biệt ở từng đơn vị kiến thức, bài hoặc chương cần phát
triển cho học sinh khi học xong chủ đề.

b. Trong số các năng lực cần phát triển đó, giáo viên sắp xếp theo thứ tự ưu tiên từ trên xuống
dưới tùy vào mục đích, yêu cầu và dung lượng của các đơn vị kiến thức được tích hợp trong chủ
đề đó.
II. BẢNG MÔ TẢ CÁC NĂNG LỰC CẦN PHÁT TRIỂN
Nội dung chủ đề
Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng thấp
Vận dụng cao
………………….
……………..
……………..
……………..
……………..
………………….
……………..
……………..
……………..
……………..
Lưu ý:
1. Giáo viên mô tả chi tiết các mức độ cần đạt để phát triển năng lực cho HS, cơ sở của bảng
mô tả này là các năng lực mà giáo viên đã đưa ra ở mục 3 phần I (mục tiêu).
2. Giáo viên không nhầm lẫn giữa bảng mô tả với ma trận đề kiểm tra.
III. HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
11

Theo chuẩn chương trình của Bộ GD & ĐT và tài liệu Hướng dẫn giảm tải của Sở GDĐT Đồng Nai 2013

SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết



Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

1. Đối với chủ đề là một bài dạy với thời lượng là 1 tiết (45 phút ) hoặc nhiều tiết (bài có nhiều
nội dung) giáo viên thiết kế hoạt động dạy học tương tự hoạt động dạy học trong các giáo án
theo quy định hiện hành, như sau:
TL

HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN
Hoạt động 1: Nội dung 1
…………………………
Hoạt động 2: Nội dung 2
…………………………
Hoạt động 3: Nội dung 3
…………………………
…………………………..

HOẠT ĐỘNG CỦA HS
Nhiệm vụ a, b,c …………………
Nhiệm vụ a, b,c ………………..
Nhiệm vụ a, b, c…………………
…………………………….

NỘI DUNG ĐẠT ĐƯỢC
I. Nội dung
1: ………………….
II. Nội dung
2: ………………….
III. Nội dung
3: ………………….

……………………..

2. Đối với chủ đề có nhiều bài dạy (có thể các bài dạy trong 1 chương hoặc không phải là 1
chương nhưng có nhiều nội dung liên quan 12…) giáo viên có thể tham khảo mẫu thiết kế như
sau:
TL

HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO
VIÊN
Hoạt động 1: Nội dung 1
(bài 1)
…………………………….
Hoạt động 2: Nội dung 2
(bài 2)
……………………………
Hoạt động 3: Nội dung 3
(bài 3)

HOẠT ĐỘNG CỦA HS

NỘI DUNG ĐẠT ĐƯỢC

Nhiệm vụ a, b, c, ……………................

I. Nội dung
1: ……………………….

Nhiệm vụ a, b, c, ………………………

II. Nội dung

2: ……………………….

Nhiệm vu a, b, c, ………………………

III. Nội dung
3: ……………………….

…………………………….

………………………………………….

……………………….....

Ngoài ra, các bước còn lại như củng cố, chuẩn bị nội dung học mới tương tự
như giáo án theo quy định hiện hành.
Lưu ý: Về thời gian dạy dạng chủ đề có nhiều bài dạy
Giáo viên tự bố trí thời gian hợp lý cho từng nội dung nhưng phải đảm bảo
cung cấp cho học sinh những kiến thức, kỹ năng và những năng lực cần phát triển
như đã yêu cầu ở phần mục tiêu và không được ít hơn hoặc nhiều hơn thời gian
dành để dạy cho một chương hoặc cho nhiều bài (đã gộp lại thành một chủ đề) theo
tổng số tiết đã được quy định trong phân phối chương trình.
Bước 4: Dựa trên các nhiệm vụ học tập được đư ra theo kế hoạch, giáo viên
tiến hành thực hiện dự án dạy. Ở bước này, giáo viên cần bám sát những nhiệm vụ
học của học sinh, đề ra các phương pháp phù hợp khai thác hiệu quả nội dung chủ
đề. Tiết dạy học theo chủ đề thường được tiến hành giống như một tiết học bình
thường ngay tại lớp học hoặc ngoài trời, nơi không gian trải nghiệm. Tuy nhiên,
dạy học theo chủ đề thướng gắn với các nhiệm vụ học tập và gắn với giải quyết các
vấn đề thực tiễn nên khâu chuẩn bị có thể sẽ phải tiến hành trước tiết dạy nhiều
tuần. Các dự án cần có kế hoạch theo dõi tiến trình thực hiện để có cơ sở kiếm tra,
đánh giá các năng lực học sinh ngay trong quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập.

Bước 5: Sau khi dạy học theo chủ để giáo viên có thể tiến hành kiểm tra
đánh giá việc học theo chủ đề với những câu hỏi/ bài tập phù hợp.
12

Mẫu này cũng có thể áp dụng cho việc soạn giáo án theo chủ đề liên môn.

SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

Thông thường trong dạy học chủ đề có một số lưu ý về câu hỏi/ bài tập
như sau:
Một, phải căn cứ vào bảng mô tả ở trên GV mới tiến hành xây dựng các
câu hỏi và bài tập tương ứng13 để khai thác và kiểm tra đánh giá học sinh.
Hai, câu hỏi/ bài tập đưa ra nhằm kiểm tra, đánh giá việc tiếp thu kiến
thức, kỹ năng trong đó chú ý đến các năng lực cần phát triển sau khi học sinh học
xong chủ đề (tương tự như câu hỏi/bài tập mà giáo viên dùng để củng cố bài trong
các tiết dạy hiện nay).
Ba, đối với câu hỏi/ bài tập liên quan đến phát triển năng lực học sinh
yêu cầu câu hỏi/bài tập đưa ra phải đánh giá được 4 mức độ như trong bảng mô tả
(nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao) trong đó ưu tiên những câu
hỏi/bài tập gắn liền với thực tiễn đòi hỏi học sinh vận dụng kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm của bản thân để giải quyết các tình huống thực tiễn đó.
Bốn, sau mỗi chủ đề giáo viên có thể kiểm tra học sinh dưới dạng đề
kiểm tra 15 phút. Nếu sau chương hoặc sau các bài không nằm trong một chương
nhưng giáo viên đã gộp lại để dạy dưới dạng một chủ đề mà có bài kiểm tra 1 tiết
theo quy định của phân phối chương trình thì giáo viên xây dựng đề kiểm tra 1 tiết.
Trong đề kiểm tra 1 tiết cũng phải đảm bảo các yêu cầu như ở mục 2, 3 của bước 5
này. Đề kiểm tra 15 phút hoặc một tiết giáo viên vẫn phải xây dựng ma trận đề.

2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình khai thác hiệu quả tiết dạy học
theo chủ đề
Một, phương pháp dạy học
Một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc khai thác chủ đề học có chất
lượng và đi đúng với những mục tiêu ban đầu của giáo viên hay không tùy thuộc
rất nhiều vào phương pháp khai thác chủ đề học. Không ít trường hợp cho rằng,
với mô hình mới cần phải có phương pháp mới. Tuy nhiên, cần khẳng định lại mô
hình dạy học theo chủ đề là vấn đề liên quan đến nội dung chứ không phải phương
pháp. Do vậy, mô hình này vẫn có thề sử dụng các phương pháp dạy học hiện có.
Tất nhiên, do yêu cầu về đổi mới giáo dục tăng cường định hướng phát triển năng
lực học sinh mà một số phương pháp truyền thống có thể ít nhiều không phù hợp
(ví dụ phương pháp đàm thoại), nhưng còn đó rất nhiều các phương pháp như
phương pháp dự án, thảo luận nhóm, nêu vấn đề… đặc biệt rất cần cho mô hình
dạy học này. Do đó, việc nắm vững các phương pháp khai thác của giáo viên như
thế nào sẽ góp phần quan trọng vào việc khai thác nội dung chủ đề học tốt hay
không như thế ấy.
Hai, cách thức xây dựng câu hỏi/ bài tập và việc giao nhiệm vụ học tập
Như đã biết, theo cách tiếp cận dạy học theo chủ đề mang tính chất tổng
quát, hàm chứa các nội dung kiến thức mà chúng ta cần trang bị cho học sinh.
Những kiến thức này có thể liến quan đến một hay nhiều lĩnh vực khác nhau và có
thể tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Căn cứ vào mục tiêu dạy học, nội dung kiến
thức trong chủ đề cũng như trình độ học sinh, một hệ thống câu hỏi định hướng sẽ
được xây dựng với sự thỏa thuận giữa giáo viên và học sinh. Căn cứ vào câu hỏi
định hướng này, giáo viên tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh nhằm giải
quyết vấn đề, trả lời những câu hỏi đặt ra. Như vậy, việc học tập của học sinh được
13

Xem lại tài liệu hướng dẫn đổi mới kiểm tra đánh giá năm 2014..

SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết



Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

định hình với những yêu cầu cụ thể và tự nó trở nên có tính mục đích cao. Thông
qua các hoạt động học tập đó, giáo viên tạo cơ hội cho học sinh chủ động xây dưng
cho mình một hệ thống kiến thức mang tính chặt chẽ, sâu sắc, bản chất, thiết thực
và hệ thống. Theo cách tiếp cận dạy học này, việc thiết lập hệ thống câu hỏi định
hướng (Framing Question) có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng
học tập của học sinh14. Do đó, nếu giáo viên không nắm được các loại câu hỏi định
hướng, cách thức, yêu cầu khi xây dựng một câu hỏi định hướng coi như dạy học
theo chủ đề không khác một tiết dạy truyền thống, khô cứng và thiếu sinh động.
Thêm vào đó, cũng cần chú ý nội dung câu hỏi/ bài tập đã đáp ứng được
mục tiêu chuẩn kiên thức kĩ năng và đặc biệt là những yêu cầu về năng lực học
sinh mà chủ đề đang hướng tới hay chưa.Trường hợp không đáp ứng các yêu cầu
này, chủ đề học trở nên rời rạc, thiếu liên kết và các hoạt động học tập cũng trở nên
thiếu động lực.
Ba, năng lực, trình độ học sinh
Chính năng lực trình độ học chứ không phải nội dung chương trình môn học
hoặc liên môn quyết định đến việc xây dựng và soạn giảng chủ đề. Bởi lẽ, dạy học
theo chủ đề lấy học sinh là trung tâm. Từ tính tích cực, chủ động thực hiện các
nhiệm vụ học tập, vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn mà tri
thức và các năng lực được hình thành. Do vậy, khi trình độ có sự phân hóa cao,
dạy học heo chủ đề sẽ khó thực hiện được các mục tiêu về chuẩn kiến thức, kĩ năng
cũng như các năng lực cần phát huy, kiểm tra, đánh giá đối với người học.
Bốn, phương tiện dạy học, đặc biệt là công nghệ thông tin, truyền thông
Công nghệ thông tin, truyền thông là một yếu tố ảnh hưởng không hề nhỏ
đến quá trình dạy học theo chủ đề. Bởi lẽ, trong mỗi chủ đề học tập, với những
nhiệm vụ học tập đã được đặt ra trước đó, học sinh phải tìm kiếm, thu thập, xử lý
thông tin từ nhiều ngồn khác nhau; phải trao đổi, xuất bản thông tin để chia sẻ với

người khác… do vậy công nghệ thông tin và truyền thông sẽ được đưa vào sử dụng
như một nhu cầu tư nhiên trong quá trình học. Do đó, khâu chuẩn bị một tiết dạy
theo chủ đề, với những dự án học tập, cần thiết phải bổ sung vào danh mục đồ
dùng, phương tiện dạy học những trang thiết bị, cơ sở vật chất cần thiết phục vụ
cho việc trình bày sản phẩm mà nhiệm vụ học tập đã đề ra đối với học sinh./.
V. NHỮNG HIỆU QUẢ BƯỚC ĐẦU KHI THỰC HIỆN VIỆC DẠY
HỌC THEO CHỦ ĐỀ TẠI CƠ SỞ
Dạy học theo chủ đề là một trong những giải pháp quan trọng cần thiết đáng
được quan tâm trong tiến trình đổi mới giáo dục. Nó không chỉ tối ưu hóa góp
phần giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong nội dung chương trình học hiện nay
như: góp phần phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình học; tăng cường
định hướng phát triển năng lực học sinh thông qua vận dụng kiến thức giải quyết
các vấn đề thực tiễn, cùng với đó là việc giúp học sinh giảm thiểu nhàm chán, áp
lực do sự trùng lặp kiến thức khi học và hướng tới kết cấu lại những đơn vị kiến
thức có tính liên hệ, tổng thể hơn giúp học sinh nắm bắt bản chất kiến thức sau khi
học.
14

Hệ thống câu hỏi này bao gồm câu hỏi khái quát (Essential Questions – EQ), câu hỏi bài học (Unit Questions UQ), câu hỏi nội dung (Content Questions – CQ).
SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

Đây là giải pháp đang được tiếp cận bởi tính khả dụng của nó khi đối chiếu
với lộ trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục ở nước ta sau năm 2015.
Ở một phương diện khác, nhằm trang bị kiến thức, kĩ năng, phương pháp
dạy học khi có sự đổi mới về mô hình dạy học và chương trình dạy học, nhiều môn
học đã bước đầu chủ động tiếp cận, tìm hiểu và ít nhiều đã tiến hành thử nghiệm
dạy học theo chủ đề.

Tuy còn liên quan đến nhiều yếu tố đòi hỏi phải có quá trình chuẩn bị cho
việc dạy học theo chủ đề như chương trình sách giáo khoa, tổ chức dạy học,
phương pháp dạy học, đánh giá, kiểm tra, thi cử… song những sáng kiến, kinh
nghiệm và các kết quả thu được bước đầu… đã góp phần giải quyết một số những
khúc mắc về vấn đề lý luận, cũng như trong thực tiễn, đồng thời làm tư liệu tham
khảo có ích cho các bộ môn khác.
Với môn GDCD, tuy mới bước đầu ứng dụng, song kết quả đạt được tại cơ
sở giáo dục của tác giả cho thấy sự khả quan ở một số mặt như:
+ Lượng thời gian dành cho một đơn vị kiến thức sau khi đưa vào dạy học
theo chủ đề có sự phân bố hợp lý; giảm tải được thới gian đứng lớp do một số
nhiệm vụ được giao cho hoc sinh đẽ thực hiện ở ngoài giờ lên lớp;
+ Nội dung học có sự liên kết, khái quát cao nhờ được tái xây dựng bố cục
chủ đề;
+ Kiến thức học sinh thu được có tính liên hệ thực tiễn cao và nhiều hơn
lượng chuẩn kiến thức cần truyền tải, do trong quá trình nhận nhiệm vụ học tập
(thông qua phương pháp dự án), học sinh buộc phải thu thập thông tin, xử lý và
chắt lọc và do đó nắm băt được nhiều khía cạnh của vấn đề;
+ Thông qua dạy dạy chủ đề, việc hình thành các kĩ năng làm việc nhóm,
hợp tác, tự đánh giá bản thân, kĩ năng quyết định, kĩ năng xử lý thông tin, sử dụng
ngôn ngữ, kĩ năng trình bày…của học sinh được cải thiện đáng kể;
+ Giáo viên giảm tải được một số chủ đề kiến thức bị trùng lặp trong khung
chương trình hiện hành;
+ 83,7% Học sinh cho biết có hứng thú hơn với cách học này, trong đó tập
trung ở lý do cho rằng kiến thức học không áp lực, không nhàm chán; có nhiều
thời gian tra cứu ở nhà; thích được giao nhiệm vụ, được tự thiết kế kế hoạch và có
cơ hội được trình bày sản phẩm của mình;
+ 92% học sinh cho rằng có thể tự tiếp cận bài học bằng cách tự làm việc
nhóm và xâu chuỗi kiến thức; tự so sánh; tự đọc các khái niệm được giao ở các bài
vừa nêu.
+ 85, 3% bày tỏ muốn được tiếp tục dạy học theo chủ đề trong bộ môn

GDCD, nhiều hơn 1 chủ đề trong một năm học. Đồng thời, mong muốn được thực
hành kiến thức qua không gian trải nghiệm nhiều hơn.
Kết quả sơ lược trên cho thấy dạy học theo chủ đề thực sự có ý nghĩa đối với
bộ môn GDCD trong bối cảnh đây là môn học đòi hỏi vừa giáo dục thế giới quan,
nhân sinh quan vừa giáo dục các em nhiều vấn đề thiết yếu có liên quan mật thiết
đến đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục; kèm theo đó là hàng
chục chủ đề tích hợp, lồng ghép. Nó không chỉ giúp chúng ta có cách sắp xếp bố trí
kiến thức chính khóa và ngoại khóa vào từng chủ đề phù hợp, mà còn giúp giáo

SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

viên thúc đẩy học sinh vận dụng thực tiễn vào giải quyất vấn đề, trải nghiệm kiến
thức, kinh nghiệm, kĩ năng mà bản thân sở hữu.
Qua những tác dụng đó, vị trí môn học và tình cảnh học sinh danh cho môn
học cũng được nâng lên.
VI. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Tuy chỉ mới tiến hành thử nghiệm, song tá giả nhận thấy có thể triển khai và
mở rộng cho giáo viên bộ môn không chỉ tại cơ sở mà cả cho các đồng nghiệp ở
các đơn vị khác.
Thời gian vừa qua, đề tài này cũng đã được Hội đồng bộ môn thông qua và
tiến hành triển khai cho toàn bộ giáo viên trong tỉnh Đồng Nai vào tháng 3 năm
2015, với hi vọng bước đầu cung cấp cho đồng nghiệp những thông tin tổng quan
về dạy học theo chủ đề và bước đầu yêu cầu thử nghiệm để đánh giá rút kinh
nghiệm.
Chúng tôi hi vọng nhận được sự quan tâm và đóng góp thiết thực từ quý
đồng nghiệp và hội đồng bộ môn để đề tài được hoàn thiện.
- HẾT Tác giả


Mai Hữu Thành
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GDCD 10, Nxb. Giáo dục. HN 2007
2. GDCD 11, Nxb Giáo dục. HN 2007
3. GDCD 12, Nxb Giáo dục. HN 2007
4. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn GDCD, Nxb Giáo dục, 2010.
5. Chuyên đề GDCD bậc THPT năm học 2012- 2013, Sở GDĐT Đồng Nai, 2013.

SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

PHỤ LỤC 1
GỢI Ý CÁC ĐỊA CHỈ KIẾN THỨC CÓ THỂ TÍCH HỢP DẠY HỌC THEO
CHỦ ĐỀ MÔN GDCD THPT
(THAM KHẢO)
Trong thực tế, việc thực hiện thiết kế chủ đề có thể là chủ đề đơn môn, liên khối
hoặc rộng ra là các chủ đề liên môn. Song, như đã nói, hiện nay mức độ mở rộng
phạm vi của chủ đề đối với các đơn vị kiến thức còn tùy thuộc vào chủ trương, kết
cấu chương trình sách giáo khoa, thời lượng môn học, thậm chí là quan điểm tích
hợp riêng của từng đơn vị cơ sơ giáo dục, cũng như quan điểm và năng lực của
từng giáo viên bộ môn, hoặc phụ thuộc vào các yếu tố đặc thù giữa các nhóm bộ
môn với nhau v.v...
Dưới đây, trong phạm vi bộ môn GDCD và qua tham khảo bước đầu, chúng tôi
xin được phép GỢI Ý một số địa chỉ đơn vị kiến thức trong bộ môn (đơn môn) và
tích hợp theo từng khối để quý đồng nghiệp cùng nghiên cứu và đóng góp ý kiến
cho chuyên đề.
A. GDCD 12

Tên CĐ15

Số tiết
CĐ16
15

PPCT
của

KT T. Hợp18

Kết cấu ND của CĐ19

Địa chỉ KTTH20

PPCT
của

ND học cần tích hợp22

Tên chủ đề (GV cần đặt tên chủ đề sao cho phản ánh nội dung toàn bộ các kiến thức định đưa vào chủ đề)

SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

Chủ
đề:
Quyền bình

đẳng
của
CD trong
một số lĩnh
vực của đời
sống xã hội

CĐ17
1

6

Bài 3, M.1,2

4
Bài 4: M1a,b + 2a,b +
3a,b
Bài 5, M 1a,b +2a,b
Bài 3, mục 3
1
HS giải quyết NV học tập
Tham khảo M3, tr 29 +
iải quyết nhiệm vụ học
tập

Chủ
đề:
Pháp luật
với đời sống


6
2

Bài 1
M1a, b và M2a,b + M3c
+ tham khảo GDCD 10, tr
62

4
Bài 1
M4a
Bài 9
M2a, c,d,e
Bài 1. M4b

Chủ
đề:
Quyền KD
và những
vấn đề cơ
bản
khi
thực hiện
quyền KD

2

1

1


Bài 4, M3.

Bài 9, M2a

I.Thế nào là bình đẳng trước PL?
1. Bình đẳng là gì?
2. Bình đẳng trước PL được hiểu như thế
nào?
II. Quyền BĐ của CD trong một số lĩnh
vực cơ bản
1.
Bình đẳng trong HNGĐ
2.
BĐ trong lao động
3.
BĐ trong KD
4.
BĐ giữa các DT, TG
III. Ý nghĩa và trách nhiệm nhà nước,
công dân trong việc đảm bảo quyền bình
đẳng trước PL
1.Ý nghĩa khi thực hiện quyền BĐ trong các
lĩnh vực của đời sống XH.
2.Trách nhiệm NN, CD trong việc thực hiện
quyền BĐ trước PL
a.TN nhà Nước.
b. Công dân

I. Tổng quan chung về PL

1. Khái niệm
2. Đặc trưng, bản chất
3. Mối quan hệ giữa PL và đạo đức
II. Vai trò của PL với đời sống xã hội.
1. Đối với NN
a.
Nhà nước SD PL như là một
phương tiện quản lý XH
b.
NN định hướng phát triển bền
vững đất nước thông qua tác
động của các chính sách PL
2. Đối với CD

I. Quyền bình đẳng trong KD
1. Bình đẳng trong KD là gì?
2.Nội dung quyền bình đẳng trong KD
II. CD với quyền và nghĩa vụ KD
1.CD có quyền được TDKD
2. Nghĩa vụ của CD khi thực hiện quyền
KD?

16

tr.27

KTTH21
t7

tr.32

tr32

t9

tr35
tr37
tr 45

t10
t11
t12,13

tr29

t7

tr 4 -10

tiết1,2

I.1:
+ Bình đẳng là gì?
I.2:
+ Bình đẳng về quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm Plý.
II.1
+ Bình đẳng trong HNGĐ
+ Bình đẳng trong lao động
+ Bình đẳng trong KD
+ Bình đẳng giữa các Dt, TG


III.1:
+ Nêu ngắn gọn ý nghĩa việc
thực hiện quyền bình đẳng trong
các lĩnh vực tương ứng.
III.2:
+ Nêu TN Nhà nước đảm bảo
thực hiện quyền bình đẳng CD
trước PL.
+ HS liên hệ thực tiễn những
trách nhiệm CD khi thực hiện
quyền bình đẳng.
* Lưu ý: GV có thể dạy chủ đề
trên từ tiết 8/ PPCT (sau KT 45,
đôn 1 tiết so với CT chuẩn)
I.1:
+ K/N Pháp luật
+ Các đặc trưng cơ bản của PL
+ QH giữa PL và đạo đức
II: Giao nhiệm vụ cho học sinh,
chỉ ra được các nội dung sau:

tiết 3
tr10
tr97 tr102

tiết
28,29, 30,
31


tr11

tiết 3

tiết 11
tr38
tiết 28
tr97

II.1: a) + Các nội dung thể hiện
PL là phương tiện NN quản lý
xã hội, chứng minh.
b) + Các định hướng chính sách
của NN trong từng lĩnh vực
quản lý, làm nổi bật vai trò của
PL đối với các chính sách đó.
II.2:
+ Căn cứ các quy định PL CD
thực hiện quyền, nghĩa vụ,…
của mình
* Lưu ý:
- Chủ đề này có thể dạy từ tiết 1
đến 6 / PPCT
I.
+ K/N bình đẳng trong KD
+ Các nội dung cơ bản trong
quyền bình đẳng KD
II:
+ K/N quyền TDKD
+ Các nghĩa vụ cơ bản khi thực

hiện quyền tự do kinh doanh
+ Giao nhiệm vụ học sinh tìm
hiểu thêm và liên hệ thực tế
những trường hợp vi phạm và
hệ quả của những trường hợp
trên, rút ra kết luận.
* Lưu ý:
- GV có thể dạy chủ đề này từ
tiết 11/ PPCT

Số tiết của chủ đề
Phân phối chương trình của chủ đề (căn cứ vào số tiết thực có của các bài, các đơn vị kiến thức lấy ra từ chương
trình, sao cho tổng số tiết của chủ đề = tổng số tiết của kiến thức tích hợp)
18
Đơn vị kiến thức tích hợp (các đơn vị dự định cần tích hợp thành một chủ đề)
19
Kết cấu nộidụng của chủ đề (được sắp xếp lại cho thích hợp với tên chủ đề và mục đích tích hợp của kế hoạch dạy
học)
20
Điạ chỉ kiến thức tích hợp (theo chương trình hiện hành SGK GDCD 10 7/2006; GDCD11 6/2007;GDCD 12,
4/2009, NXb Giáo dục)
21
Phân phối chương trình của kiến thức tích hợp (theo tài liệu hướng dẫn chuẩn của Bộ GD & ĐT + Hướng dẫn
giảm tải của Sở GD &ĐT)
22
Nội dung học cần tích hợp (đầy đủ theo đơn vị kiến thức đưa vào và bám vào chuẩn kiến thức , kĩ năng + năng lực
GV dự định kiểm tra, đánh giá)
17

SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết



Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

B. GDCD 11
Tên CĐ

Số tiết


PPCT của


Chủ đề: Nền sản
xuất vật chất và
chiến lược phát
triển KT ở nước ta
hiện nay.

6

2

KT
T.Hợ
p
Bài 1

2


Bài 6

2

Bài 7

Kết cấu ND của CĐ

Địa chỉ
KTTH

PPCT của
KT T. Hợp

Nội dung học cần
tích hợp

I. SXCCVC và vai trò của nó đối
với đời sống XH
1. K/N SXCCVC và vai trò của nó
đối với đời sống XH
2. Các yếu tố của quá trình
SXCCVC
II. Công dân với vấn đề phát
triển KT
1. Phát triển kinh tế là gì?
2. Ý nghĩa của phát triển
KT đối với cá nhân gia
đình, xã hội.
III. Chính sách phát triển kinh

tế, xây dựng đất nước ta hiện
nay
1. Thực hiện CNH, HĐH đất
nước
a. CNH,HĐH là gì?
b. Nội dung CNH, HĐH ở nước ta.
c. Trách nhiệm CD đối với sự
nghiệp CNH,HĐH.
2. Thực hiện nền KT nhiều
thành phần trong nền kinh tế
nước ta hiện nay
a. Tính tất yêu của KT NTP
b. Các thành phần kinh tế ở nuơc ta
hiện nay.
c. TN của CD đối với việc thực
hiện KT NTP.

tr4 -11

tiết 1, 2 /
PPCT

I:
+ K/N SXCCVC
+ Vai trò của
SXCCVC đối với
con người
+ Nội dung các yếu
tố QTSX VC
II:

+ K/N phát triển
KT
+ Ý nghĩa PTKT
đối với cá nhân, gia
đình, xã hội.

tiết 11,12

III:
1. Nêu bật quan
điểm vì sao thực
hiện CNH, HĐH.
Liên hệ kiến thức
phần I để thấy mối
quan hệ giữa 2 đơn
vị kiến thức.
+ K/N CNH, HĐH
+ Tình tất yêu phải
CNH, HĐH
+ Nội dung CNH,
HĐH
+ Trách nhiệm CD
đối với CNH, HĐH
2.
Thực
hiện
KTNTP có liên hệ
gì KT (I)?
Đảm bảo KT:
+ K/N KTNTP

+ Vì sao thực hiện
KTNTP?
+ Các Thành phần
KT
+ Trách nhiệm CD
thực hiên KTNTP
* Lưu ý: GV có thể
dạy chủ đề từ tiết
11/ PPCT
I:
+ CNXH là gì?
+ Quá độ lên
CNXH và tíh tất
yêu quá độ lên
CNXH ở VN
+ Đặc trưng của
CNXH

tr 49
tr 51
tr 53
tr 57

tiết 13,14

tr57
tr58
tr61

Chủ đề: Những vấn

đề kinh tế cơ bản
trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam

6

1.5

Bài
10,
M1b,2

2
Bài 7:
M1,2
2.5

I. Thời kì quá độ lên CNXH ở
VN và những đặc trưng cơ bản
1. Tính tất yếu của quá độ lên
CNXH ở VN
2. Đặc trưng cơ bản của thời kì quá
độ lên CNXH ở VN
II. Các chính sách KT cơ bản
của VN trong thời kì quá độ
1. Thực hiện kinh tế nhiều thành
phần, phát triển theo định hướng
XHCN có sự quản lý của Nhà
nước

2. Thực hiện CNH, HĐH đất nước
III. Trách nhiệm CD đối với các
chính sách KT
a. Đối với việc thực hiện chính
sách kinh tế nhiều thành phần
b. Đối với sự nghiệp công nghiệp

SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết

tiết 15,16
tr69
tr 68

tiết 13,14
II:
tr56
tiết 12,12
tr48

tiết 13,14
tiết 11,12

1.
+ KTNTP là gì?
+ Các TPKT ở VN
+ vai trò NN trong
việc
quản

KTNTP



Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT
Bài 6:
M 1,
M2
Bài
7M1c
Bài 6,
M3

hóa, hiện đại hóa

2.
+ K/N CNH, HĐH
+ Tính tất yêu
CNH, HĐH
+ Nội dung cơ bản
CNH,HĐH
III.
+ Trách nhiệm CD
đối với chính sách
KT NTP
+ TN của Cd đối
với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
* Lưu ý:
- GV có thể dạy chủ
đề này từ tiết 11/

PPCT

C. GDCD 10
Tên CĐ

Số
tiết


Chủ
đề:
Một
số
phạm trù
đạo đức và
ý
nghĩa
của nó đối
với công
dân trong
mối liên hệ
với
đời
sống cộng
đồng

PPCT
của



KT
hợp

T.

7
1
3

1

2

Bài 10
Bài11

Bài 16

Bài 15

Bài
M1b

13,

Kết cấu của CĐ

I.Đạo đức và một số phạm trù
đạo đức cơ bản.
1. Tổng quan về đạo đức

2. Những phạm trù đạo đức cơ
bản
a. Nghĩa vụ
b. Lương Tâm
c. Nhân phẩm, danh dự
d. Nhân nghĩa
e. Hòa nhập
f. Hợp tác
g. Hạnh phúc
II. Ý nghĩa của việc thực hành
các chuẩn mực đạo đức đối với
CD và trong một số lĩnh vực
của đời sống cộng đồng
1. Cá nhân trước hết tự hoàn
thiện bản thân nhờ vào rèn
luyện đạo đức.
a. Từ tự nhận thức bản thân đến
nhu cầu hòan thiện bản thân
b. CD cần làm những gì để tự
hoàn thiện bản thân?
2. Những vấn đề cấp thiết của
cộng đồng hiện nay và trách
nhiệm đạo đức của CD
a. Vai trò của cộng đồng đối với
sự tồn tại, phát triển CD
b. Thái độ, hành vi đạo đức CD
trước các vấn đề cấp thiết của
cộng đồng.
(Trách nhiệm đạo đức của CD
trước các vấn đề trên trong mối

quan hệ giữa cá nhân với cộng
đồng)

Địa
chỉ
KTTH

tr62
tr 67

PPCT
của
KT
T.Hợ
p
tiết 19
tiết
20,21

tr67
tr69
trtr71
tr88
tr90
tr92
tr73

tr 113

SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


I.1:
+ Đạo đức là gì?
+ So sánh, mqh đạo đức
- PL
+ Vai trò đạo đức đối với
sự phát triển cá nhân, gia
đình, xã hội.
I.2:
+ Nội dung các chuẩn
mực đạo đức (a,b,c,d,e,f,
g) theo chuẩn KT và
TLHD giảm tải.

tiết 31
II.1a:
+ Tự hòan thiện bản thân
là gì? Vị trí của tự hòan
thiện bản thân
II.1b:
+ Vì sao phải tự hoàn
thiện bản thân?
+ Làm thế nào để tự
hoàn thiện bản thân?

tr 87

tiết 26

tr 102


tiết 30
Bài 15
M1b, 2b,
3b, 4b

Nội dung học cần tích
hợp

II.2.a:
+ Cộng đồng là gì?
+ Cộng đồng đối với sự
tồn tại và phát triển của
CD
II.2.b:
+ Bên cạnh thí độ, hành
vi pháp luật trước các
vấn đề cấp thiết của
cộng đồng, thì thái độ,
hành vi đạo đức cũng
góp phần giải quyết các
vấn đề cấp thiết của nhân
loại. Cụ thể, HS chỉ ra
được:


Dạy học theo chủ đề với việc ứng dụng vào giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

Chủ
đề:

Đạo đức
với vấn đề
tự
hoàn
thiện bản
thân của
CD

4
1
1,5

Bài 10,
M1
Bài 11

0.5
1

Bài
M2

10,

I. Đạo đức và một số phạm trù
đạo đức cơ bản.
1. Quan niệm về đạo đức
2. Những phạm trù đạo đức cơ
bản
II. Vai trò của đạo đức và tính

tất yêu phải tự hoàn thiện bản
thân mỗi CD
1. Vai trò của đạo đức đối với cá
nhân, gia đình, xã hội
2. CD với vấn đề tự rèn luyện
đạo đức, hoàn thiện bản thân

tr62
tr 63
tr 67

tiết 19
tiết
20,21

tr67

tiết 19

tr 113

tiết 31

tr62
tr 63

tiết 19
tiết
20,21


Bài 16

Chủ đề:
Các phạm
trù cơ bản
của đạo
đức với
trách
nhiệm xây
dựng và
bảo vệ tổ
quốc

5
1
1,5

Bài 10,
M1
Bài 11

1
1,5

Bài
M1

14,

Bài 14;

M2,3

I. Đạo đức và một số phạm trù
đạo đức cơ bản.
1. Quan niệm về đạo đức
2. Những phạm trù đạo đức cơ
bản
II. Trách nhiệm đạo đức đối
với vấn đề xây dựng và bảo vệ
tổ quốc.
1. Những phẩm chất đạo đức nào
góp phần vào sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ tổ quốc?
2. Trách nhiệm CD đối với việc
xây dựng và bảo vệ tổ quốc được
thể hiện ra như thế nào?

tr 67
NVHS
tr 95
NVHS
tr98

tiết 28
+

tiết 29

+ “Nghĩa vụ”, “lương
tâm” và sự “hợp tác” và

ý nghĩa của nó đối với
vấn đề bảo vệ môi
trường.
+ “Nghĩa vụ”, “hợp tác”
và quan niệm “hạnh
phúc” với vấn đề bùng
nổ dân số.
+ “Nghĩa vụ”, “hòa
nhập”, “nhân phẩm,
danh dự” với việc đẩy lùi
dịch bệch hiểm nghèo…
Lưu ý: GV có thể dạy
chủ đề từ tiết 19/PPCT
I.1:
+ Đạo đức là gì?
+ Mqh Đạo đức - PL?
I.2:
+ Nghĩa vụ; Lương tâm
+ Nhân phẩm, danh dự
+ Hạnh phúc…
II.1:
+ Vai trò của đạo đức
đối với cá nhân gia đình,
xã hội.
II.2:
+ Tự nhận thức bản thân
là gì?
+ Vì sao phải tự hoàn
thiện bản thân?
+ Hoàn thiện bản thân

theo các chuẩn mực đạo
đức cần làm những gì?
* Lưu ý: GV có thể dạy
chủ đề từ tiết 19/PPCT
I.1:
+ Đạo đức là gì?
+ Mqh Đạo đức PL?
+ Vai trò đạo đức
I.2:
+ Nghĩa vụ; Lương tâm;
Nhân phẩm, danh dự;
Hạnh phúc…
II. 1:
+ Vai trò đạo đức trong
xây dựng, bảo vệ tổ
quốc?
+ “Yêu nước”, “nghĩa
vụ”, “nhân phẩm”,“danh
dự”, “lương tâm”... là
những phẩm chất đạo
đức cần thiết của CD đối
với sự nghiệp xậy dựng,
bảo vệ tổ quốc. VD
chứng minh.
II.2:
+ TN CD xây dựng, bảo
vệ TQ

Lưu ý: Trên đây chỉ là những địa chỉ kiến thức có thể tích hợp thành chủ đề
mang tính GỢI MỞ. Quý đồng nghiệp có thể xây dựng các chủ đề khác ở mức độ,

phạm vi lớn nhỏ, nhiều ít tùy thuộc vào khả năng vận dụng kiến thức và cách xây
dựng kết cấu nội dung của chủ đề.

SKKN 2015 TG: Mai Hữu Thành - THPT Đòan Kết


×