Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong các gia đình ở xã Mỹ thành huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.5 KB, 36 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC
------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài
Tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức
cho thiếu niên trong các gia đình ở xã Mỹ thành huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà bình

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Gia đình là đặt nền móng đầu tiên cho sự hình thành nhân cách con
trẻ và có ảnh hưởng lâu dài trong suốt củaộc đời của mỗi cá nhân. Công
củaộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đắt nước đang đặt ra những yêu cầu
to lớn về chất lượng của con người. Đó là sự phát triển toàn diện về thể
chất, trí tuệ, phẩm chất đạo đức và nhân cáh của con người Việt Nam,
nhất là thế hệ trẻ.
Giáo dục đạo đức là một trong những điểm chủ yếu, cốt lõi của nội
dung giáo dục. Nó giữ vị trí chủ đạo và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình
giáo dục nhân cách để hình thành nên những phẩm chất đạo đức cho thiếu
niên, giúp các em xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển và hình
thành nhân cách.
Hiện nay, kinh tế đất nước có những biến chuyển tích cực và không
ngừng phát triển, nên đời sống của gia đình cũng được cải thiện, nâng
cao. Bên cạnh đó một bộ phận không nhỏ của các bậc làm cha, mẹ mải lo
kiếm tiền, ham lợi công danh, phó mặc con cái mình cho nhà trường, cho
xã hội. Họ cho rằng chỉ cần đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho con về vật chất là


con trẻ có thể sống thoải mái và được phát triển về mọi mặt. Chính vì điều
đó họ đã quên đi, xao nhãng trách nhiệm dạy dỗ con cái của mình. Bên
cạnh đó con trẻ đang chịu ảnh hưởng các hiện tượng sống buông thả, vô
trách nhiệm, thực dụng, cư sử vô văn hoá hàng ngày hàng giờ. Thực tế
cho thấy gần đây hiện tượng trẻ em hỗn láo với cha mẹ, vô lễ với thầy cô,
gây gổ đánh lộn, lừa đảo, trộm cắp v.v.... không còn là những trường hợp
cá biệt.
Thực trạng giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong gia đình đang đặt
ra hàng loạt những vấn đề bức xúc cần nghiên cứu và ga.
Xuất phát từ đó chúng tôi lựa chọn đề tài “Thực trạng giáo dục đạo
đức cho thiếu niên ở xã Mỹ Thành (Lạc Sơn - Hoà Bình)” là đề tài nghiên
cứu cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
2


2. Đối tượng nghiên cứu.
Thực trạng giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong các gia đình tại xã
Mỹ Thành, Lạc Sơn, Hoà Bình.
3. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong các gia
đình tại xã Mỹ Thành, Lạc Sơn, Hoà Bình hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra
một số khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức cho thiếu niên trong các gia đình hiện nay.
4. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài này có:
- 150 thiếu niên là học sinh trường trung học cơ sở xã Mỹ Thành Lạc Sơn - Hoà Bình trong độ tuổi từ 11 đến 15 tuổi.
- 150 bậc phụ huynh học sinh ở xã Mỹ Thành, Lạc Sơn, Hoà Bình,
là chủ thể của công tác giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong gia đình.
- 20 thầy cô giáo chủ nhiệm lớp tại trường trung học xã Mỹ Thành,
Lạc Sơn, Hoà Bình, cùng với các ông bà làm công tác quần chúng trong

xã Mỹ Thành, những người trực tiếp tham gia phối hợp với gia đình trong
việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài tập trung giải quyết hai nhiệm vụ:
- Nhiệm vụ lý luận: Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
- Nhiệm vụ thực tiễn: Khảo sát đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức
thiếu niên trong các gia đình ở xã Mỹ Thành, Lạc Sơn, Hoà Bình.
Trên cơ sở đó đề xuất những khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho thiếu niên của gia đình.
6. Giả thuyết khoa học.
Hiện nay ở xã Mỹ Thành, vẫn còn một bộ phận không nhỏ các em
thiếu niên trong các gia đình có những hành vi vi phạm đạo đức, nhiều
gia đình vẫn còn sử dụng những phương pháp giáo dục đạo đức thiếu tính
3


khoa học không phù hợp với lứa tuổi thiếu niên và chưa tích cực phối hợp
với nhà trường, xã hội trong việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên.
7. Phạm vi nghiên cứu.
- Địa bàn được nghiên cứu là xã Mỹ Thành, Lạc Sơn, Hoà Bình.
8. Phương pháp nghiên cứu.
8.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản.
8.2. Phương pháp nghiên cứu bằng bảng hỏi.
Phương pháp này sử dụng để tìm hiểu thực trạng đạo đức cho thiêu
niên trong các gia đình tại xã Mỹ Thành, Lạc Sơn, Hoà Bình.
Có 3 loại bảng hỏi:
1. Bảng hỏi dành cho bậc cha mẹ.
Gồm 17 câu hỏi trong đó:
+ Tìm hiểu sự hiểu biết của cha mẹ về quy luật phát triển tâm lí lứa
tuổi thiếu niên và vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho

thiếu niên.
+ Tìm hiểu các nội dung giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong gia
đình.
+ Tìm hiểu các hình thức và các phương pháp giáo dục đạo đức cho
thiếu niên trong gia đình.
+ Tìm hiểu những khó khăn và những thuận lợi của gia đình trong
việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên.
+ Tìm hiểu sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong
việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên.
2. Bảng hỏi dành cho các em thiếu niên:
Gồm 13 câu hỏi, trong đó:
+ Kiểm tra mức độ quan tâm của cha mẹ trong việc giáo dục đạo
đức cho thiếu niên.
+ Tìm hiểu các nội dung và hình thức giáo dục đạo đức cho thiếu
niên mà các gia đình thường áp dụng.

4


+ Tìm hiểu các mong muốn và thái độ của các em thiếu niên đối với
sự giáo dục đạo đức của gia đình.
+ Tìm hiểu sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường xã hội trong việc
giáo dục đạo đức cho thiếu niên.
3. Bảng hỏi dành cho các thầy (cô) giáo chủ nhiệm.
* Phương pháp thống kê toán học.
Phương pháp này chủ yếu được dùng để chia tỉ lệ % tính điểm trung
bình các số liệu thu thập được.

5



PHẦN 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.
1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ.
Trong những năm gần đây vấn đề giáo dục ở nước ta được nhiều
người quan tâm, suy nghĩ và bàn cãi. Số người quan tâm rất lớn và phạm
vi quan tâm rất rộng rãi, từ các bậc cha mẹ đến các thầy cô giáo, từ các cơ
quan pháp luật đến các tổ chức đoàn thể xã hội, từ các nhà khoa học, nhà
giáo dục đến các nhà lãnh đạo các cấp chính quyền.v.v...
Từ góc độ tâm lý học, giáo dục học, có nhiều chương trình đã
nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho học sinh của nhiều tác giả trong nước
đã công bố.
Ở những thập kỷ củaối thế kỷ XX, các tác giả Hà Thế Ngữ, Nguyễn
Đức Minh, Phạm Hoàng Gia, Phạm Minh Hạc, Phạm Tất Dong, và nhiều
tác giả khác đã có những công trình nghiên cứu và đề xuất các giải pháp
giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua giảng dạy các bộ môn khoa học,
từ đó giáo dục nhân sinh quan, thế giới quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức,
hướng dẫn thực hiện các hành vi đạo đức cho học sinh.
- Phạm Minh Hạc nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc nhân cách và
đề xuất việc thực hiện giáo dục đạo đức cho học sinh trong quá trình giáo
dục nhân cách, xem đó là mục tiêu quan trọng nhất của việc thực hiện
chất lượng giáo dục.
- Phạm Tất Dong nghiên cứu cơ sở tâm lý của việc giáo dục hướng
nghiệp gắn với hoạt động giáo dục đạo đức, nhằm hình thành lí tưởng
nghề nghiệp cho thế hệ trẻ.
- Phạm Hoàng Gia nghiên cứu mối quan hệ giữa giáo dục nhận thức
khoa học với giáo dục đạo đức, những biểu hiện nhân cáh trong lối sống
từ đó đưa ra dự báo mô hình nhân cách thanh niên năm 2000.
Ngoài ra, trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học hết sức
quan tâm hiện tượng suy thoái, thậm chí băng hoá đạo đức ở một bộ phận


6


thanh thiếu niên do tác động tích cực từ những mặt trái của cơ chế thị
trường nên đã có những chương trình khoa học đáng quan tâm như:
- Đề tài: “Cải tiến công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và
lối sống cho học sinh và sinh viên trong hệ thống giáo dục quốc dân” do
giáo sư Phạm Tất Dong làm chủ nhiệm (mã số NN7). Đề tài này mang lại
nhiều nội dung mới về giáo dục đạo đức chính trị, tư tưởng trong các
trường học từ bậc tiểu học đến bậc đại học.
- Đề tài: “Giá trị định hướng giá trị, giáo dục giá trị” do giáo sư
Phạm Minh Hạc chủ trì (mã số KX07, 1991-1995). Đề tài này nghiên cứu
con người với tư cách là mục tiêu và động lực của sự phát triển, trong đó
có đề cập khá nhiều đến vấn đề giáo dục đạo đức, nhân cách con người.
Ngoài ra còn rất nhiều chương trình nghiên cứu và nhiều bài viết
khác về đề tài giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, khó có thể liệt kê ra hết
được.
Trong khoá luận của mình, tôi đã cố gắng kế thừa kết qủa nghiên
cứu của các công trình trên để xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài của mình,
góp tiếng nói khẳng định tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho
thế hệ tiếp nối, đó là trẻ em những chủ nhân tương lai của đất nước.
2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI.
2.1. Khái niệm giáo dục.
Giáo dục là hoạt động đặc trưng của xã hội nhằm hình thành và phát
triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai
đoạn lịch sử nhất định, thuật ngữ giáo dục thường được hiểu theo nghĩa
rộng và nghĩa hẹp.
Trong nghĩa rộng, bao gồm cả việc dạy lẫn việc học cùng với hệ
thống các tác động sư phạm khác diễn ra ở trong và ngoài lớp, trong và

ngoài nhà trường cũng như trong gia đình và ngoài xã hội. Đó là quá trình
hình thành nhân cách con người, được tổ chức một cách có mục đích và
có kế hoạch thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa người giáo dục
và người được giáo dục nhằm bồi dưỡng cho con người những phẩm chất
7


đạo đức, phát triển trí tuệ, thể lực và tình cảm lao động, thẩm mỹ, chuẩn
bị cho con người tham gia tích cực vào đời sống xã hội.
Từ những điều đó ta thấy khái niệm giáo dục có yêu cầu rất cao về
phẩm chất con người.
Giáo dục theo nghĩa hẹp: Đó là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về
mặt đạo đức, tư tưởng và hành vi.... Nhằm hình thành lên những nhân
cách này đến những nhân cách khác, tác động của giáo dục đến người
được giáo dục cũng như tác động của những người được giáo dục với
nhau. Chính thông qua các loại hình giáo dục được thực hiện trong những
mối liên hệ xã hội nhất định mà nhân cách của người học được hình thành
và phát triển.
2.2. Khái niệm đạo đức.
*Đinh nghĩa đạo đức:
Đạo đức là một hiện tượng xã hội, phản ánh các mối quan hệ hiện
thực bắt nguồn từ bản thân củaộc sống con người. Trong đời sống mỗi con
người, quy luật xã hội tất yếu đòi hỏi họ phải ý thức được ý nghĩa, mục
đích hoạt động của mình trong qua khứ, hiện tại và nhu cầu phải làm gì
trong tương lai. Những hoạt động đó bao giờ cũng có sự chi phối về mối
tương quan giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội cho phép tới một
giới hạn nhất định trong vòng trật tự chung của cộng đồng, của dân tộc
nhằm đảm bảo quyền lợi cho tất cả các thành viên vươn lên tích cực, tự
giác, tạo thành động lực phát triển của hội. Đó chính là quy tắc chuẩn
mực hoàn toàn tự giác trong hành động của mỗi cá nhân trong tất cả các

quan hệ xã hội, để từ đó đánh giá con người có đạo đức hay phi đạo đức.
Vì vậy có thể hiểu đạo đức một cách khái quát theo một vài định
nghĩa sau:
- Theo củaốn từ điển Bách khoa Việt Nam thì đạo đức là một trong
những hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc
chuẩn mực xã hội, nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình

8


sao cho phù hợp với lợi ích hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội
trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội.
- Đạo đức là toàn bộ những quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và
đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và
quan hệ với tự nhiên.
- Đạo đức là hệ thống những quy tắc chuẩn mực biểu hiện sự tự giác
trong quan hệ giữa con người với con người với cộng đồng xã hội với tự
nhiên và với cả bản thân mình.
- Có thể nói đạo đức là một hình thái ý thức xã hội được hình thành
rất sớm trong lịch sử phát triển nhân loại và được mọi xã hội, mọi giai
cấp, mọi thời đại quan tâm. Sự phát triển của đạo đức xã hội từ thấp lên
cao như những nấc thang giá trị của văn minh con người trên cơ sở phát
triển của sức sản xuất vật chất và thông quá sự đấu tranh gạn lọc, kế thừa
mà nội dung đạo đức ngày càng phong phú và hoàn thiện hơn. Trong
củaộc sống hiện thực, đạo đức bao giờ cũng gồm ý thức, tình cảm và hành
động thực tiễn. Cả ba mặt đó thường thì thống nhất với nhau nói lên năng
lực phục vụ một cách tích cực, tự giác của cá nhân trong mối tương quan
vì lợi ích của người khác và xã hội.
Do đó, việc giáo dục đạo đức phải bao gồm cả ba mặt nhằm hình
thành những dạng đạo đức luôn luôn mang tính tích cực xã hội.

*Chức năng của đạo đức:
- Chức năng định hướng giáo dục: Con người muốn làm được điều
thiện, tránh được điều ác, muốn cho những hành vi của mình được mọi
người chấp nhận, không bị dư luận xã hội lên án thì họ phải nắm được
những quan điểm, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản,
từ đó con người có thể tự do lựa chọn cho mình những hành vi phù hợp,
đồng thời mới có khả năng đánh giá đúng đắn các hiện tượng hành vi
trong quan hệ xã hội theo quan niệm đạo đức tiến bộ xã hội. Vì vậy công
tác giáo dục đạo đứcgóp phần quan trọng vào việc hình thành, phát triển
nhân cách.
9


Nhờ có chức năng giáo dục và khả năng tự giáo dục mà người ta
học tập được ở những tấm gương đạo đức cao cả xả thân làm việc nghĩa,
hi sinh quên mình cho đất nước, kiên cường đấu tranh cho chân lí.... Góp
phần làm cho xã hội ngày càng công bằng, văn minh, tiến bộ. Chính vì
vậy mà khi xem xét nhân cách, người ta coi đạo đức và năng lực (đức và
tài) là hai mặt cơ bản hợp thành nhân cách con người. Nhiều quan điểm
cho rằng đạo đức là gốc của nhân cách, vì thế “tiên học lễ, hậu học văn”,
hoặc như tục ngữ phương Tây “người thành đạt trong học thức mà không
thành đạt trong đạo đức coi như không thành đạt”.
- Chức năng điều chỉnh hành vi.
Để đảm bảo cho xã hội ngày càng phát triển tốt đẹp, tất yếu phải có
một hệ thống quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực nhằm kết hợp cách này hay
cách khác lợi ích của cá nhân và xã hội. Vì vậy chức năng điều chỉnh của
đạo đức gắn bó mật thiết với chức năng quản lí xã hội. Trong củaộc sống
hiện thực, con người có nhiều mối quan hệ rất đa dạng phức tạp, đòi hỏi
phải giải quyết. Giải quyết mối quan hệ không chỉ ở trong suy nghĩ mà
phải bằng hành động. Nhất là các mối quan hệ có liên quan đến lợi ích

giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội, chúng luôn có những
mâu thuẫn cấu xé nhau, cho nên chủ thể của đạo đức phải đấu tranh bản
thân vô cùng quyết liệt, nếu không dựa vào một hệ thống nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mực của xã hội thì cá nhân không thể lựa chọn cân nhắc, điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Tuy nhiên, việc điều chỉnh hành vi
của cá nhân do nhiều thiết chế xã hội như pháp luật, phong tục tập quán
nhưng về phía đạo đức là do dư luận xã hội lên án hay đồng tình, do
lương tâm thoải mái hay không thoải mái. Bản chất của sự điều chỉnh
hành vi tức là quá trình đấu tranh chiến thắng của cái thiện với cái ác
v.v... Như vậy chức năng giáo dục và điều chỉnh của đạo đức luôn gắn
liền với nhau trong đời sống đạo đức.
- Chức năng kiểm tra, đánh giá. Trên cơ sở của những điều kiện
kinh tế vật chất xã hội nhất định, thời đại nào cũng có những yêu cầu về
10


tri thức đạo đức tương ứng làm nền tảng cho củaộc sống. Mỗi cá nhân vì
củaộc sống của mình, vì hoạt động cho tiến bộ của xã hội đều phải có
những phẩm chất đạo đức và năng lực nhất định. Vì vậy họ phải nắm được
những tri thức phản ánh đời sống xã hội một cách tích cực, đó là những
quan điểm tư tưởng, những nguyên tắc những chuẩn mực hành vi đạo đức
tiến bộ. Nhờ đó mà chủ thể đạo đức phân biệt được cái tốt cái xấu, cái
thiện, cái ác trong thực tiễn củaộc sống thường xuyên biến đổi và định
hướng chính xác, tin tưởng vào hành vi của mình.
Những quan điểm đạo đức sai lầm, lạc hậu không giúp cho con
người nhận thức đúng quy luật phát triển xã hội dẫn đến những hành vi
sai lạc làm cho con người bi quan, chán nản, bế tắc trước củaộc sống hiện
tại, mất định hướng trong tương lai.
Những tri thức đạo đức và những phẩm chất đạo đức tiến bộ không
phải tự nhiên mà có, mà phải thông qua quá trình giáo dục, tự giáo dục,

rèn luyện trong lao động và đấu tranh bền bỉ hàng ngày như Bác Hồ đã
dạy “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” mới có thể
giữ vững và nâng cao được những phẩm chất tốt đẹp của cá nhân, phù hợp
với lợi ích chung của xã hội.
2.3. Khái niệm gia đình.
Gia đình là môi trường xã hội đầu tiên của mỗi người là tế bào hợp
thành xã hội. Tuỳ thuộc vào góc độ nghiên cứu, cho đến nay có nhiều
quan niệm khác nhau về gia đình:
* Định nghĩa gia đình:
- Từ góc độ xã hội học, gia đình được xem như một nhóm nhỏ của
xã hội, gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân huyết thống. Xã hội chủ
yếu nghiên cứu những vấn đề xã hội của gia đình như mối quan hệ bên
trong gia đình tác động qua lại giữa gia đình, xã hội.
- Từ góc độ kinh tế học, gia đình được coi là một đơn vị kinh tế,
đơn vị tiêu dùng nhằm thoả mãn các nhu cầu ăn, mặc, học hành, chăm sóc
sức khoẻ.... của các thành viên trong gia đình.
11


- Từ góc độ của văn hoá học, gia đình là một thiết chế xã hội mang
màu sắc dân tộc và đánh dấu tiến trình phát triển về văn hoá.
- Từ góc độ tâm lý học xã hội, gia đình được định nghĩa như sau:
“Gia đình là một nhóm nhỏ của xã hội, các thành viên trong nhóm
có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, cùng có
chung các giá trị vật chất, tinh thần ổn định trong các thời điểm lịch sử
nhất định” (theo Lê Công Hoàn, tâm lý giáo dục.
* Đặc điểm của gia đình.
- Từ định nghĩa trên ta thấy gia đình có các đặc điểm sau đây:
+ Gia đình là một nhóm xã hội, một đơn vị kinh tế, là nơi tái sản
xuất ra con người, các thành viên trong gia đình sống chung một mái nhà.

Các thành viên trong gia đình có thể thuộc nhiều thế hệ, gắn bó với nhau
bởi quan hệ tình cảm, huyết thống, chịu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp
với nhau về nếp sống, sinh hoạt, phong tục.... tạo nên bản sắc văn hoá
riêng của gia đình.
+ Các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về đặc điểm tâm
sinh lý, cha mẹ truyền lại cho con cái những đặc điểm thể chất qua kênh
gen di chuyền sinh học và giáo dục con cái hình thành nếp sống theo văn
hoá riêng của mỗi gia đình.
+ Các thành viên trong gia đình có quan hệ kinh tế, sống và hoạt
động bằng một ngân sách chung do các thành viên trong gia đình lao động
đem lại.
*Chức năng của gia đình:
Từ góc độ tâm lý học và giáo dục học, gia đình có chức năng sau
đây:
- Chức năng sinh sản ra con người duy trì nòi giống:
Đây là một chức năng rất quan trọng của gia đình, vì con người là
“sản phẩm” quý nhất của xã hội, là điều kiện và nhân tố không thể thiếu
để xã hội tồn tại và phát triển. Việc sinh con không chỉ nhằm thoả mãn

12


nhu cầu, mong ước của người chồng, người vợ còn là một vấn đề xã hội,
vấn đề duy trì tính liên tục của xã hội loài người.
- Chức năng xã hội hoá và giáo dục con cái.
Trong lịch sử phát triển nhân loại, gia đình là nhân tố đầu tiên giáo
dục thế hệ trẻ, góp phần quan trọng làm cho họ lĩnh hội được kinh nghiệm
xã hội lịch sử, có thái độ hành động phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Chính trong quá trình này mỗi cá nhân được xã hội hoá . Theo
G.Andreeva đây là một quá trình gồm hai mặt, mặt cá nhân tiếp nhận khái

niệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ thống các
quan hệ xã hội. Mặt khác cá nhân tái sản xuất một cách chủ động các mối
quan hệ xã hội qua chính việc họ tham gia vào các hoạt động và thâm
nhập vào các mối quan hệ xã hội. Như vậy, trong quá trình xã hội hoá, cá
nhân không chỉ đơn thuần thừa nhận kinh nghiệm xã hội mà còn chuyển
nó thành giá trị tâm thế, xu hướng.... của cá nhân và trên cơ sở đó tham
gia tái tạo sản xuất chúng trong xã hội.
Không thể phủ nhận vị trí quan trọng của giáo dục gia đình, bởi gia
đình là môi trường xã hội, môi trường giáo dục đầu tiên, quan trọng vào
bậc nhất của mỗi cá nhân. Trong quá trình sống, trước khi tiếp thu những
yếu tố văn hoá chung của xã hội, mỗi người tiếp nhận đặc điểm văn hoá
của gia đình mình. Những kinh nghiệm sống, các quy tắc ứng xử, các giá
trị.... đầu tiên của con người được tiếp nhận từ chính quá trình quan hệ
với các thành viên trong gia đình (với bố, mẹ, ông, bà). Một đặc điểm cơ
bản trong việc lĩnh hội những nét văn hoá đặc trưng này củaatrer là bắt
chước, noi theo, kết quả của sự bắt chước, noi theo của trẻ có thể diễn ra
ngay thời điểm đó, nhưng cũng có thể xuất hiện bột phát trong ứng xử của
trẻ tại một thời điểm khác. Vì vậy, “tấm gương toàn diện trong nhân cách
của ông bà, cha mẹ, anh, chị” có ý nghĩa rất lớn trong đời sống tinh thần
của trẻ. Củaộc sống đời thường qua nói năng ứng xử, đi lại, những thói
quen quan trọng trong gia đình đều có thể được trẻ “sao chép nguyên
mẫu” trong nhận thức của trẻ, dần xuất hiện thói quen trong nói năng, ứng
13


xử của trẻ mà không ít người ngộ nhận đó là sự “duy truyền tâm lý”.
N.I.Noricôp đã từng nói rằng: “không gì có thể tác động lên tâm hồn non
nớt của trẻ mạnh hơn quyền lực của sự làm gương, còn giữa muôn vàn
tấm gương thì không có gì gây ấn tượng sâu sắc và bền chặt bằng sự mẫu
mực của bố mẹ”.

- Chức năng kinh tế:
Gia đình là một đơn vị kinh tế, đồng thời cũng là một đơn vị tiêu
dùng của xã hội, có trách nhiệm tổ chức củaộc sống cho mọi thành viên
trong gia đình, đảm bảo sự hoạt động bình thường của các cá nhân trong
gia đình sống chung dưới một mái nhà.
- Chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm lý của các thành viên trong
gia đình:
Để thoả mãn các nhu cầu tâm lý của các thành viên trong gia đình
thì trước hết, gia đình phải là tổ ấm, tổ ấm gia đình chứa đựng nội dung
tình cảm rõ nét. Nơi đây mọi thành viên được thoả mãn các nhu cầu vật
chất và tinh thần ở mức tối đa có thể có được.
Chức năng thoả mãn nhu cầu tâm ly, tình cảm của các thành viên
trong gia đình là một chức năng quyết định sự bền vững và phát triển của
gia đình. Hạnh phúc hay bất hạnh của gia đình phần lớn cũng do chức
năng này có đảm bảo hay không, trong đó, yếu tố quyết định đến việc
thoả mãn hay không thoả mãn nhu cầu tâm lý, tình cảm của các thành viên
trong gia đình là tình yêu thương. Bắt đầu từ sự hình thành tình yêu đôi
lứa (giữa nam và nữ) rồi nảy sinh thành tình yêu vợ chồng, cha con, mẹ
con, và anh chị em. Đây là chất keo dính các thành viên trong gia đình.
Thiếu vắng tình yêu thương, gia đình không còn là tổ ấm, không còn là
chỗ dựa tinh thần của mỗi thành viên trong gia đình. Tình cảm gia đình là
yếu tố quyết định sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các thành viên trong quá
trình hình thành và phát triển nhân cách của họ.
Tóm lại, gia đình là trường học đầu tiên của củaộc đời mỗi người,
có ý nghĩa quan trọng nhất đối với việc hình thành và phát triển nhân cách
14


của thế hệ trẻ. Làm thế nào để gia đình là nơi hình thành những phẩm chất
nhân cách tốt đẹp cho trẻ là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan

tâm hàng đầu đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
2.4. Khái niệm giáo dục gia đình.
*Định nghĩa:
Giáo dục gia đình là toàn bộ những tác động có mục đích, có nội
dung và phương pháp cụ thể được tiến hành ngay trong gia đình, nhằm
hình thành và phát triển nhân cách của các thành viên trong gia đình,
trước hết là thế hệ trẻ.
*Những nét đặc thù của giáo dục gia đình.
Giáo dục gia đình có những nét đặc thù mà giáo dục nhà trường và
giáo dục xã hội không thể có.
- Giáo dục gia đình có sự tham gia của tất cả các thành viên trong
gia đình, mỗi người đều có tác động và ảnh hưởng đến các thành viên
khác. Ông bà dạy dỗ con cháu, cha mẹ giáo dục con, anh chị em học hỏi
lẫn nhau, đồng thời cha mẹ, ông bà tự giáo dục hoàn thiện, điều chỉnh bản
thân mình.
- Bao trùn lên giáo dục gia đình là việc nuôi, dạy đan xen vào nhau.
Trong nuôi có dạy, dạy và nuôi cho con ăn là nuôi, ăn thế nào là dạy.
Nuôi nhằm phát triển thế chất; dạy giúp con khôn lớn về tinh thần cho trẻ.
- Đặc điểm nổi bật của giáo dục gia đình là sự giáo dục bằng tình
yêu thương. Ông bà, cha mẹ luôn dành cho con, cháu tình yêu thương tràn
đầy, vô bờ bến. Thậm chí, ông bà, cha mẹ còn sẵn sàng hi sinh điều kiện
vật chất tinh thần của bản thân, dành mọi thuận lợi cho con, cháu miễn
sao con, cháu nên người.
- Giáo dục gia đình mang tính đa dạng và nhiều chiều, thể hiện ở
chỗ: Đa dạng về nội dung, phương pháp giáo dục, đa dạng về giới tính,
lứa tuổi, kinh nghiệm.... của các thành viên trong gia đình. Nhiều chiều,
có tác động từ bà, cha mẹ đến con cháu; từ anh, chị đến em.

15



- Giáo dục gia đình là hình thức giáo dục toàn diện, không chỉ
truyền đạt tri thức mà còn truyền đạt lối sống cách ứng xử....
Đồng thời giáo dục gia đình còn mang tính cụ thể hoá, cá biệt hoá
cao. Cha mẹ dạy con cách đi đứng, nói năng. Tuỳ thuộc vào giới tính, đặc
điểm, tính cách của trẻ.
Ví dụ: Trẻ trai ưa hoạt động thì cha mẹ dạy con đi đứng thong thả,
nói năng từ tốn, còn nếu trẻ nhút nhát thì cha mẹ dạy con đi đứng đàng
hoàng, nhanh nhẹn, nói năng rõ ràng.
*Một số nguyên tắc trong giáo dục gia đình.
Giáo dục gia đình là một bộ phận của giáo dục xã hội nên càng phải
tuân theo nguyên tắc chung của công tác giáo dục, đồng thời tuân theo các
nguyên tắc riêng của mình, đó là:
+ Nguyên tắc bảo đảm tính khoa học khách quan.
Việc giáo dục con cái bao giờ cũng phải xuất phát từ cơ sở tự nhiên
- xã hội mà người đó đang sống. Trong gia đình, giáo dục con cần dựa vào
các quy luật tâm sinh lí của người được giáo dục để chọn ra nội dung và
phương pháp tác động thích hợp. Đồng thời cần dựa vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể đề ra những yêu cầu giáo dục cho phù hợp. Thiếu sự hiểu biết
về tâm lí của trẻ, các bậc cha mẹ rất dễ mắc sai lầm, tiến hành giáo dục
con người một cách phản khoa học cản trở phát triển và hoàn thiện nhân
cách của trẻ.
+ Nguyên tắc tôn trọng nhân cách của trẻ.
Con cái chưa đến tuổi trưởng thành phải sống phụ thuộc vào cha mẹ
là lẽ đương nhiên, nhưng không vì thế mà cha mẹ lại lạm dụng quyền
hành của mình để tước bỏ những quyền lợi tối thiểu của trẻ. Xã hội càng
phát triển càng làm nảy sinh nhiều nhu cầu, hững thú hoạt động mà trước
đây ở thế hệ ông bà, cha mẹ chưa có. Tuy vậy, trên thực tế, vẫn còn tình
trạng “quyền của trẻ em” bị phụ thuộc hoàn toàn vào các khuôn khổ lớn
hay bé, rộng hay hẹp do cha mẹ quy định. Mỗi người một khác. Thậm chí


16


có những lúc cha mẹ dùng quyền của mình để thủ tiêu, chèn ép những nhu
cầu, nguyện vọng của trẻ.
+ Nguyên tắc nghiêm khắc và bao dung, độ lượng:
Nghiêm khắc trước hết thể hiện ở việc cha mẹ tự nghiêm khắc với
bản thân mình bằng sự mẫu mực trong lời nói và việc làm đầy trách nhiệm
với con cái, với tư cách là người chủ gia đình. Trên cơ sở đó đề ra yêu cầu
cao đối với hành vi, hoạt động của con cái. Tuy nhiên, cần tuyệt đối tránh
nghiêm khắc quá mức dẫn đến độc đoán, cực đoan, dễ gây ra hậu quả
nặng nề.
Trên thực tế không phải bậc cha mẹ nào cũng có ý thức được sự cần
thiết phải nghiêm khắc đúng mức với con cái, mà thường tỏ ra khoan dung
độ lượng một chiều với con cái. Sự khoan dung, độ lượng xuất phát từ
lòng yêu thương con trẻ, thể hiện sự tôn trọng, tin tưởng của cha mẹ dành
cho con là rất cần thiết đối với sự phát triển của mối đứa trẻ, nhưng nó
không đồng nhất với thái độ quá dễ dãi, vì quá chiều con, để con muốn gì
được nấy, tự do, tuỳ tiện, vô tổ chức, vô kỷ luật.
+ Nghiên tắc đòi hỏi cao nhưng vừa sức:
Các bậc làm cha, làm mẹ ai cũng muốn con mình khôn ngoan, công
thành doanh toại. Đó là nguyện vọng chân chính, song để đạt được điều
đó, không có nghĩa là cha mẹ luôn đặt ra yêu cầu quá cao đối với con,
thậm chí dù con có cố gắng hết sức cũng không thể đạt tới. Điều đó dễ
làm nảy sinh bi quan, chán nản, tự ti ở trẻ. Vì vậy trong gia đình cha mẹ
cần nắm vững sự phát triển tâm lí của trẻ để đặt ra những yêu cầu cao
nhưng vừa sức với con trẻ. Chúng chỉ cần cố gắng trong hành động là có
thể đạt được. Có như vậy mới thúc đẩy sự tiến bộ, sự phát triển của trẻ.
+ Nguyên tắc thống nhất mục tiêu giáo dục:

Giáo dục trẻ trong giả định sẽ đạt được kết quả tốt đẹp nếu cha mẹ,
ông bà.... đều có sự tác động định hướng thống nhất nhằm mục đích hình
thành và ở trẻ những phẩm chất hành vi, thói quen tốt, phù hợp với đặc
điểm truyền thống của gia đình. Nêu trong gia đình, giữa ông bà cha mẹ
17


không có sự thống nhất trong việc giáo dục trẻ thì sẽ tạo ra kẽ hở để trẻ
dựa vào đó tìm lí do biện minh cho sai trái của mình. Do đó ảnh hưởng
xấu đến hiệu quả giáo dục. Tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”
trong giáo dục gia đình sẽ cản trở sự định hướng, hình thành niềm tin
trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
+ Nguyên tắc giáo dục cá biệt:
Trong gia đình, việc giáo dục thế hệ trẻ cần hướng vào giáo dục cá
biệt, vì gia đình có điều kiện thuận lợi để làm điều đó. Giáo dục cá biệt
tức là tuỳ từng cá nhân để lựa chọn nội dung, phương pháp giáo dục phù
hợp. Đồng thời giáo dục gia đình cần theo một phép tắc, lịch trình nhất
định một cách nghiêm túc, liên tục thì mới giáo dục con người có nhân
cách nhất quán, cẩn thận không bừa bãi....
2.5. Khái niệm đạo đức gia đình.
Đạo đức gia đình được hiểu là hệ thống những giá trị tốt đẹp, tích
cực trong lối sống của một gia đình, phù hợp với các giá trị truyền thống,
với phong tục tập quán và với mong muốn của xã hội. Đạo đức gia đình
được hình thành từ đạo đức của mỗi cá nhân thành viên trên cơ sở nhu cầu
giữ mối quan hệ hợp lí giữa các thành viên trong gia đình, dưới sức ép
của các chuẩn mực xã hội, đặc biệt là các phong tục tập quán, truyền
thống xã hội.
Giữa đạo đức gia đình và đạo đức xã hội có một số điểm tương đồng
nhau vì nó đều là sự thể hiện những nét tốt đẹp trong lối sống, trong quan
hệ người - người. Nhưng đạo đức gia đình có những nét đặc thù riêng bởi

những thành viên gia đình, đối tượng mà nó hướng đến giáo dục, điều
chỉnh ngoài quan hệ xã hội ra còn có một quan hệ đặc thù gia đình, đó là
quan hệ huyết thống hôn nhân.
2.6. Khái niệm thiếu niên.
Lứa tuổi thiếu niên bao gồm các em ở độ tuổi từ 11 - 15 tuổi, đó là
những em đang theo học từ lớp 6 - 9 ở các trường trung học cơ sở. Vị trí
đặc biệt của lứa tuổi thiếu niên, trong quá trình phát triển tâm lý trẻ em
18


nói chung, được một số nhà tâm lý học gọi đây là “thời kỳ khó khăn”,
“tuổi khủng hoảng”, “tuổi khó bảo”....
Lứa tuổi thiếu niên khác biệt với các lứa tuổi khác ở chỗ đây là thời
kỳ chuyển từ thời thơ ấu sang tuổi trưởng thành. Lứa tuổi thiếu niên là
thời kỳ diễn ra những biến đổi căn bản trong cơ thể của trẻ trên con đường
trưởng thành về mặt sinh học, triển khai quá trình phát dục. Khởi đầu của
sự cải tổ cơ thể có liên quan đến sự tăng cường hoạt động của các tuyến
nội tiết (như tuyến sinh dục, tuyến giáp trạng....). Từ đó tạo ra nhiều thay
đổi trong cơ thể của trẻ, trong đó rõ nhất là sự tăng vọt về chiều cao.
Chính sự tăng vọt về mặt giải phẫu sinh lý đã tạo ra sự mất cân đối tạm
thời giữa các chức năng sinh lý, do đó có liên quan tới sự mất cân bằng
tạm thời trong tâm lý.
Do sự phát triển không cân bằng giữa tim và mạch máu gây ra sự
thiếu máu ở từng bộ phận trên vỏ não và đôi khi làm cho hoạt động của hệ
tim mạch bị hỗn loạn, do đó trẻ ở lứa tuổi thiếu niên tuy rất sôi nổi, hiếu
động nhưng cũng dễ mệt mỏi, dễ bị kích thích, dễ nổi nóng, đôi khi có
những phản ứng vô cớ, những hành vi bất thường.
Một trong những đặc điểm quan trọng của sự phát triển nhân cách ở
lứa tuổi thiếu niên là sự hình thành tự ý thức. Sự bắt đầu hình thànhvà
phát triển tự ý thức có ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống tâm lý

của thiếu niên, đến hoạt động học tập, đến sự hình thành mối quan hệ qua
lại với mọi người. Sự tự ý thức của lứa tuổi này bắt đầu từ sự nhận thức,
hành vi của mình, rồi đến nhận thức về những phẩm chất đạo đức, tính
cách và khả năng của mình. Các em có khuynh hướng muốn đi sâu khám
phá bản thân mình. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý, ở lứa tuổi thiếu
niên, các em thường đánh giá bản thân mình cao hơn thực tế. Vì vậy, ta
thấy ở các em thường xuyên xuất hiện sự ganh đua, hiếu thắng trong giao
tiếp. Các em thiếu niên thường bận tâm đên việc làm thế nào để mọi
người đếy đến mình. Các em thiếu niên cho rằng mình không còn là trẻ
con và có nguyện vọng được đối sử như người lớn. Đây là nguyện vọng
19


chính đáng của các em, đòi hỏi cha mẹ phải có thái độ đúng đắn, tế nhị.
Tuy nhiên nhiều bậc cha mẹ vẫn giữa nguyên tắc thái độ coi các em là trẻ
con nên đòi hỏi các em phải nhất nhất vâng lời người lớn. Đó là nguyên
nhân gây “đụng độ”, “mâu thuẫn” giữa các em với cha mẹ và người lớn
nói chung.
Hiện nay, lứa tuổi thiếu niên ở nước ta đang có nhiều biến đổi, có
nhiều đặc điểm khác so với thế hệ thiếu niên vài ba thập kỷ trước. Lứa
tuổi thiếu niên hiện nay tiếp nhận nhiều thông tin nên sự hiểu biết phong
phú hơn, niềm tin ở các em mang nhiều yếu tố lý tính. Một mặt các em tin
vào sự đúng đắn của lời khuyên, răn dạy, giáo huấn của người lớn mà
chúng yêu mến, tin cậy. Song mặt khác, niềm tin ấy còn bao hàm cả sự
cân nhắc, tính phê phán, hoài nghi, bởi trên thực tế chúng thường phát
hiện ra hiện tượng không có sự ăn khớp giữa những điều tốt đẹp trong lời
nói của một số người lớn với hành động của họ.
Tóm lại, lứa tuổi thiếu niên là lứa tuổi hồn nhiên, trong sáng, vô tư,
tiềm tàng những khả năng tốt đẹp để trở nên những con người tốt đẹp với
những biểu hiện tốt như: hào hiệp, chân thành, vị tha, khát khao hiểu biết,

khát khao được tin cậy, kết giao bạn bè không vụ lợi, rung động tinh tế
trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người và củaộc sống.... Đây là lứa tuổi
tiềm ẩn khả năng dễ giáo dục, tuổi đặt nền móng cho sự phát triển nhân
tính, song trong tâm lý của các em thiêu niên chứa đầy những mâu thuẫn
phức tạp đòi hỏi các bậc cha mẹ phải có những phương pháp giáo dục phù
hợp thì sự giáo dục của cha mẹ mới đạt hiệu qủa cao. Đồng thời cần phải
đặt các em thiếu niên trong môi trường giáo dục thuận lợi - như
Xukhomlinxky gọi đó là “môi trường kỷ cương, tình thương, trách
nhiệm”.
Lứa tuổi thiếu niên, do sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của sự
ý thức, do sự mở rộng quan hệ xã hội nên đạo đức của các em được phát
triển mạnh mẽ. Giáo dục đạo đức cho thiếu niên cần dựa trên nền tảng tôn

20


trọng nhân cách của họ, dựa trên lòng nhân ái, bao dung, sự cổ vũ, khích
lệ trẻ hướng thiện.
Một đặc điểm tâm lý quan trọng trong quá trình hình thành đạo đức
ở lứa tuổi thiếu niên là sự hình thành ý thức đạo đức và lĩnh hội tiêu
chuẩn của hành vi đạo đức, những giá trị. Do tự ý phát triển nên hành vi
của các em thiếu niên bắt đầu chịu sự chỉ đạo của những quan điểm riêng,
những sáng kiến riêng và niềm tin của thiếu niên.
Đạo đức của thiếu niên hình thành phụ thuộc vào việc thiếu niên có
được các kinh nghiệm đạo đức như thế nào, thực hiện hành động đạo đức
nào? Do đó, cha mẹ cần lưu tâm đến sự hình thành cơ sở đạo đức ở độ
tuổi thiếu niên, vì đôi khi trong ý thức thiếu niên có thể hình thành những
khái niệm đạo đức và niềm tin đạo đức mâu thuẫn với nhận thức và niềm
tin đạo đức mà cha mẹ muốn hình thành ở các em. Do đó, khi giáo dục
đạo đức cho các em, cha mẹ cần chú ý giúp các em hiểu khái niệm đạo

đức một cách chính xác, khắc phục những quan điểm chưa đúng của các
em. Bằng những câu chuyện thân mật, giải thích cho các em thấy thực
chất chỗ chưa đúng của mình, đồng thời chú ý tổ chức hành động để thiếu
niên có được kinh nghiệm đúng đắn, để các em tin vào sự công bằng và sự
hiển nhiên của các chuẩn mực đạo đức, tin rằng cần phải làm theo những
chuẩn mực đó.
3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH CHO THIẾU
NIÊN TRONG GIA ĐÌNH.
3.1. Bản chất tâm lý của việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong
gia đình.
Giáo dục đạo đức là nội dung bao trùm và xuyên suốt toàn bộ hoạt
động giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội, nhằm hình thành nhân
cách cho thế hệ trẻ. Giáo dục đạo đức phải trở thành mối quan tâm của
toàn xã hội, là vấn đề của mọi vấn đề trong chiến lược giáo dục đạo đức
vì sự phát triển con người và vì sự phát triển xã hội.
21


Nhà trường có vai trò định hướng trong giáo dục đạo đức còn gia
đình là môi trường phương tiện để giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo đức
cho thế hệ trẻ không thể tách rời gia đình và nhà trường, đoàn thể, xã hội.
Mục đích của giáo dục đạo đức của thiếu niên trong gia đình là
nhằm giáo dục các em trở thành con ngoan, trò giỏi, sau này trở thành
những công dân gương mẫu, có những phẩm chất tốt đẹp trong lao động
và trong lối sống, có ý chí bản lĩnh, sáng tạo, năng động, trách nhiệm cao.
Trước hết muốn giáo dục đạo đức cho thiếu niên, cha mẹ phải hiểu
con cái. C.Mác đã từng nói: “để tác động mang lại kết quả thì cần phải
biết được thứ vật liệu mà ta sẽ tác động vào nó”, ý kiến này của C.Mác rất
đúng với việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên. Lứa tuổi thiếu niên có
những đặc điểm tâm lý khác với những lứa tuổi khác, đòi hỏi cha mẹ phải

có phương pháp giáo dục đúng đắn, phù hợp thì sự giáo dục của cha mẹ
mới đạt hiệu quả cao. Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Người
lớn thường không hiểu “cái tôi” của trẻ. Chỉ có thể hiểu con cái khi cha
mẹ tôn trọng và gần gũi vì con cái. Sự vội vàng, không lắng nghe, không
tìm hiểu những gì đang diễn ra trong thế giới nội tâm của con, chỉ tin
tưởng vào kinh nghiệm của mình.... là những nguyên nhân tạo nên hàng
rào tâm lý ngăn cách cha mẹ với con cái, đồng thời còn tạo ra khả năng
“tự vệ tâm lý” của trẻ em với cha mẹ, người lớn.
Ngoài ra, cha mẹ cũng cần phải củang cấp cho con những tri thức
đạo đức, như sự hiểu biết về bổn phận, trách nhiệm phải làm, thái độ phải
có.... Đây là một khâu quan trọng của giáo dục đạo đức trong gia đình.
Việc làm này có tác dụng làm cho đạo đức của trẻ em được xây dựng trên
cơ sở lí trí, từ đó các em có thể nhìn nhận, đánh giá cái thiện, cái ác, cái
cao thượng, cái nhỏ nhen.
Mặt khác, cha mẹ cũng cần phải tác động vào tình cảm và ý chí của
con trẻ để chuyển tri thức đạo đức thành niềm tin đạo đức, tình cảm đạo
đức. Việc tổ chức cho trẻ tiếp xúc với người thật, việc thật có tác động
mạnh gấp nhiều lần so với lý thuyết dài dòng về những điều nên làm và
22


những điều không nên làm. Việc thực người thực có khả năng đi thẳng
vào niềm tin của trẻ, trở thành hành vi mẫu mực để trẻ noi theo. Gia đình
có nhiều thuận lợi để làm việc đó. Tấm gương của ông, bà, cha mẹ trong
gia đình có ý nghĩa quan trọng trong giáo dục đạo đức. nhất là đối với cá
em thiếu niên, bởi vì các em đã có một vốn kiến thức nhất định nên đã có
thể phân tích, so sánh, đánh giá các hiện tượng xung quanh mình. Nếu cha
mẹ làm những điều sai, điều xấu, uy tín của họ đối với con cái sẽ giảm
sút, dẫn đến làm giảm sút niềm tin đạo đức của con trẻ. Việc xây dựng
niềm tin đạo đức phải dựa trên cơ sở hài hoà giữa nhận thức và tình cảm

đạo đức, tập luyện hành vi và trau dồi thói quen ứng xử đạo đức của trẻ
với ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, bạn bè.... để hình thành nhu cầu đạo đức
và văn hoá đạo đức ở trẻ. Đó là nhu cầu hàng đầu của đời sống tinh thần,
thế giới tinh thần, nói lên trình độ trưởng thành đạo đức và nhân cách của
con người. Điểm căn bản trong giáo dục đạo đức cho thiếu niên là cha mẹ
cần đặc biệt chú trọng tới thực hành đạo đức của trẻ, cần giáo dục con sao
cho trẻ luôn chứng minh được tính đạo đức, sự trung thực đạo đức của
mình trong củaộc sống lao động và học tập.
3.2. Các nội dung giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong gia đình.
Từ xưa đến nay, lòng kính trọng, hiếu thảo đối với ông, bà, cha, mẹ
vẫn được coi là yếu tố đạo đức quan trọng nhất dối với trẻ ở trong gia
đình. Bởi lẽ nếu một con người không có lòng hiếu thảo, nghĩa là không
biết tôn kính, chăm sóc ông, bà, cha mẹ - những người ruột thịt đã sinh
thành, nuôi dưỡng mình - thì cũng không thể có tình cảm yêu thương cộng
đồng, dân tộc, lòng nhân ái đối với con người.
Cha mẹ cần giáo dục trẻ sự cảm thông sâu sắc với điều kiện, hoàn
cảnh gia đình để trẻ biết sống “tuy gia phong kiệm” không đòi hỏi, ganh
tỵ với những gia đình khá giả giàu có hơn gia đình mình nhằm tạo nên
không khí thuận hoà, ấm cúng, đồng cam cộng khổ trong gia đình.

23


Cha mẹ cũng cần giáo dục cho trẻ biết làm theo lẽ phải và biết hoàn
thành những công việc được giao với thái độ vui vẻ, với tinh thần trách
nhiệm cao.
Mặt khác cha mẹ cần giáo dục con cái ý thức tôn trọng quan hệ tôn
ty trật tự ở trong gia đình, làm anh làm chị phải tôn trọng, bao dung,
nhường nhịn các em; làm em phải tôn trọng anh chị, phải có thái độ yêu
thương, cư sử đúng mực với anh, chị em trong gia đình, với cô, gì, chú,

bác trong gia tộc.
Cha mẹ cần giáo dục trẻ sống nhân ái, đó là giáo dục lòng yêu
thương con người, sẵn sàng giúp đỡ những người gặp khó khăn, hoạn nạn,
không tham lam, độc ác để trở thành người lương thiện. Hiện nay trong
điều kiện của nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, việc giáo dục
lòng nhân ái cho thế hệ trẻ của gia đình lại càng có ý nghĩa quan trọng,
giúp các em hình thành và phát triển những phẩm chất của người công dân
biết dung hoà quyền lợi của cá nhân mình với quyền lợi của tập thể, của
gia đình và xã hội, góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh,
tiến bộ.
Gia đình cũng cần phải có giáo dục cho trẻ tính khiêm tốn, chân
thực, không tự cho mình hơn người khác, không dối trá, lừa lọc mọi
người. Người có tính chân thực, khiêm tốn không những biết học tập ở
người khác những điều hay mà còn biết cư sử chu đáo, cẩn thận, biết tôn
trọng nhân cách, phẩm giá của mình, không để người khác coi thường
mình. Khiêm tốn, chân thực là những nét nhân cách đẹp của con người,
song để rèn luyện giáo dục được nó vô cùng khó khăn. Bởi vậy cha mẹ
cần đặc biệt quan tâm giúp đỡ trẻ nỗ lực ý trí, chiến thắng bản thân mình,
biểu hiện ở việc: biết nhận lỗi, biết tôn trọng sự thật, lời nói phải đi đôi
với việc làm...
Ngoài ra gia đình cần quan tâm giáo dục con tình cảm yêu quê
hương đất nước, sẵn sàng làm mọi việc để quê hương thoát khỏi cảnh
nghèo nàn, lạc hậu. Trên cơ sở đó giáo dục thiếu niên lòng yêu nước, yêu
24


Chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng hi sinh phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội, dân chủ, văn minh.
Tóm lại, ngày nay giáo dục đạo đức trong các gia đình Việt Nam
đang đứng trước những thử thách lớn lao, khi nền kinh tế theo cơ chế thị

trường đang làm thay đổi nhiều giá trị chuẩn mực, tạo ra biết bao tệ nạn
xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhân cách của trẻ em, nhất là lứa tuổi thiếu
niên - lứa tuổi đang sống và học tập dưới sự bảo trợ của gia đình. Vì vậy
các bậc cha mẹ cần quan tâm giáo dục trẻ những yếu tố đạo đức truyền
thống, tốt đẹp mang đậm bản sắc dân tộc, để hình thành nên những con
người chân chính, lương thiện, góp phần tạo ra đời sống hạnh phúc của
gia đình và xã hội.
3.3. Các phương pháp giáo dục đạo đức cho thiếu niên thường được
sử dụng trong gia đình hiện nay.
Phương pháp giáo dục đạo đức là những cách thức, con đường tác
động của nhà giáo dục (cha, mẹ....) tới ý thức, tình cảm và ý chí của đối
tượng giáo dục (con cái) nhằm mục đích hình thành niềm tin, kỹ xảo, thói
quen, hành vi đạo đức ở đối tượng giáo dục.
Có nhiều phương pháp giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong gia
đình, mỗi phương pháp có những mặt mạnh của nó. Việc sử dụng phối
hợp nhiều phương pháp giáo dục sẽ gây ra một sự tác động tổng hợp tới
các em thiếu niên.
3.3.1. Phương pháp thuyết phục.
Trong gia đình phương pháp thuyết phục thường được các bậc cha
mẹ sử dụng. Thuyết phục là sự tác động cả cha mẹ đến con cái bằng lời
nói để giảng giải cho con hiểu được các quan niệm, các chuẩn mực đạo
đức, để tin tưởng vào cha mẹ và chính bản thân các em.
Trong thuyết phục vừa có giảng giải, vừa có đàm thoại tranh luận
giữa cha mẹ và con cái. Thuyết phục chỉ có hiệu quả khi giữa cha mẹ và
con cái không xuất hiện một hàng rào tâm lý, tức là không có thái độ thờ

25



×