Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa trưởng thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.96 KB, 9 trang )

MỞ ĐẦU
Trẻ em là tương lai của đất nước. Để tương lai của đất nước tốt đẹp, trẻ em cần
được sống trong một môi trường phát triển lành mạnh, để các ưm được phát triển lành
mạnh, đế các em được phát triển một cách bình thường và hài hòa về cả vật chất,tinh
thần và trí tuệ. Do vậy, trẻ em cần được gia đình, nhà trường , xã hội quan tâm, chăm
sóc, yêu thương, đây là trách nhiệm của những chủ thể này, mà trước tiên là trách
nhiệm của bậc cha mẹ. Xuất phát từ quan điểm này, pháp luật quốc tế đã có những văn
bản quy định về việc bảo vệ quyền trẻ em mà trực tiếp lá công ước quốc tế về quyền
trẻ em, trên cơ sở đó các văn bản pháp luật trong nước như luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000; luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 và những văn bản khác
đã có những quy định về bảo vệ quyền trẻ em. Tuy nhiên, hiện nay việc áp dụng những
quy định này vào thực tiễn còn nhiều vấn đề khó khan, trẻ em chưa được bảo vệ một
cách tốt nhất, quyền trẻ em còn bị vi phạm, nhất là trong xã hội, còn có những trẻ em
kém may mắn, cha mẹ chúng vì lợi ích vật chất mà quên mất nghĩa vụ làm cha, làm mẹ
của mình, vi phạm nghiêm trọng các nghĩa vụ đối với con cái họ, nhất là đối với con
chưa thành niên.
Vì vậy, để trẻ em nói chung và con chưa thành niên nói riêng được bảo vệ tốt
nhất thì những hành vi xâm phạm đến quyền lợi cảu các em cần được xem xét, để có
biện pháp phòng ngừa và xử lý kịp thời. Trên cơ sở đó, Luật HN&GĐ năm 2000 đã kế
thừa quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 về hạn chế quyền của cha mẹ đối với con
chưa thành niên, đồng thời có làm rõ hơn và mở rộng hơn một số trường hợp. Vậy việc
áp dụng quy định này và vấn đề bảo vệ quyền trẻ em được thực hiện như thế nào.Bài
viết sau đây sẽ đi tìm hiểu vấn đề này.

NỘI DUNG
I. Áp dụng quy định về hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên
1. Quy định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên trong Luật
HN&GĐ.
Theo Điều 34 Luật HN&GĐ 2000 quy định: cha mẹ có nghĩa vụ và quyền
thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con;
tôn trọng ý kiến của con chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh


về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có
ích cho xã hội. Đó chính là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con, tuy nhiên khi
cha mẹ vi phạm những quyền này thì họ sẽ bị hạn chế quyền, nhưng pháp luật chỉ quy
định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên tức con chưa đủ 18 tuổi,


bởi lẽ đã thành niên về nguyên tắc thông thường thì họ có đủ khả năng để bảo vệ mình,
còn chưa thành niên theo quy định của pháp luật thì về nguyên tắc họ chưa đủ năng lực
hành vi dân sự nên chưa đủ khả năng để bảo vệ mình trước hành vi vi phạm của cha
mẹ. Vậy cha mẹ vi phạm quyền và nghĩa vụ đến đâu thì bị hạn chế quyền. Theo quy
định tại Điều 41 Luật HN&GĐ thì Tòa án có thể dựa trên những căn cứ sau để ra quyết
định hạn chế quyền của cha mẹ, cụ thể là:
Thứ nhất: căn cứ vào việc cha mẹ đã bị kết án về một trong những tội cố ý xâm
phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con. Cha mẹ có thể bị kết án các tội trong bộ
luật Hình sự như tội cố ý gây thương tích hay gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
(Điều 104); tội làm nhục người khác (Điều 121); tội ngược đãi, hành hạ (Điều 151)…,
cha mẹ là người đầu tiên phải bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
con, nhưng họ lại không bảo vệ mà còn vi phạm nghĩa vụ này thì họ bị kết án về các tội
này, bên cạnh việc kết án về mặt hình sự thì đây cũng là một căn cứ để tòa án hạn chế
quyền của họ đối với người con mà họ vi phạm
Thứ hai: cha mẹ có hành vi vi phạm nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con. Cha mẹ phải có nghĩa vụ trông nom con tức là “quản lý, giữ gìn
con, không để con bị những người khác làm xâm hại hoặc không để con rơi vào tình
trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe”; chăm sóc là việc cha mẹ cần quan tâm sức
khỏe, tinh thần và giáo dục cho con, tùy theo điều kiện của mình mà cha mẹ tạo cho
con những điều kiện vật chất tốt nhất có thể để con phát triển tốt về thể chất, trí tuệ.
Vậy vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ này là như thế nào? Hiện nay pháp luật chưa có
hướng dẫn cụ thể vì vậy rất khó cho Tòa án áp dụng những căn cứ này. Do vậy khi áp
dụng căn cứ này cần hiểu vi phạm nghiêm trọng là trường hợp cha mẹ đã bỏ mặc con,
không bảo vệ quyền hoặc không lường trước được những nguy hiểm mà lẽ ra phải biết

đối với con, làm cho con bị rơi vào tình trạng nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng,
danh dự, nhân phẩm, hay không có một môi trường sống an toàn ảnh hưởng đến sự
phát triển bình thường của con.
Thứ ba: cha mẹ có hành vi phá hoại tài sản của con. Pháp luật nước ta công
nhận con có quyền có tài sản riêng, theo quy định của Bộ luật Dân sự thì tài sản của
con dưới 15 tuổi do cha mẹ quản lý, như vậy cha mẹ có nghĩa vụ bảo vệ khối tài sản
của con, không được phá tài sản của con, cha mẹ không có quyền định đoạt tài sản của
con, nhưng hiện nay có vướng mắc với quy định này là như khi tài sản của cha mẹ
không đủ thì phải lấy tài sản của con để đảm bảo cho những nhu cầu thiết yếu của gia
đình và nhu cầu của con, vậy khi đó có được coi là phá tán tài sản hay không? Hay cha
mẹ dung tài sản của con vào đầu tư kinh doanh nhưng chẳng may bị phá sản, bị mất,


vậy có được coi là phá tán hay không:…Và vô số những trường hợp khác nữa. Vì vậy
nên coi trường hợp cha mẹ phá tán tài sản của con là việc cha mẹ dung tài sản của con
để đánh bạc, ăn chơi, không dùng vào nhu cầu chung cho gia đình và dùng vào những
mục đích không tốt khác.
Thứ tư: cha mẹ có lối sống đồi trụy, xúi giục, ép buộc con làm những việc tría
pháp luật, trái đạo đức xã hội. Cha mẹ có nghĩa vụ tạo cho con có một môi trường sống
lành mạnh và cha mẹ phải là những tấm gương sáng để con phát triển tốt về thể chất,
trí tuệ và đạo đức, nếu cha mẹ có lối sống đồi trụy, tức là cha mẹ đã tạo ra một môi
trường sống không lành mạnh, do vậy sẽ ảnh hưởng xấu tới sự phát triển bình thường
của con, nhất là về đạo đức và tinh thần. Tuy nhiên rất khó để xem cha mẹ có lối sống
nào là lối sống đồi trụy để hạn chế quyền của cha mẹ. Ngoài ra, nếu cha mẹ xúi giục,
ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội cũng là một căn cứ hạn
chế quyền, đây là một hiện tượng xuất hiện nhiều trong những năm gần đây như ép và
lôi kéo con vào việc buôn bán ma túy, ép hay bao che cho con ăm trộm hay lôi kéo con
vào việc gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe cho người khác, ép con bán dâm… Đó là
một hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của cha mẹ, cha mẹ đã không bảo vệ con
mà còn tạo cho con hình thành nhân cách không tốt, ảnh hưởng tới trật tự công cộng.

2. Chủ thể có quyền yêu cầu tòa án hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa
thành niên:
Theo quy định tại Điều 42 Luật HN&GĐ, những chủ thể sau có quyền yêu cầu
Tòa án hạn chế quyền của cha mẹ khi cha mẹ có những hành vi vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ của mình, cụ thể là:
Thứ nhất: cha, mẹ, người thân thích của con chưa thành niên có quyền tự mình
yêu cầu tòa án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án hạn chế một số quyền của
cha mẹ đối với con chưa thành niên. Khi người cha hoặc mẹ có hành vi vi phạm theo
Điều 41 thì người cha hoặc người mẹ còn lại có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền
của người vi phạm, nếu cả hai cha mẹ cùng vi phạm thì những người than thích có thể
là ông bà nội ngoại, cô, dì, chú, bác, anh, chị, em…có thể yêu cầu, vì đây là những
người cùng là những thành viên trong gia đình với người con, họ biết rõ nhất là người
con bị vi phạm đến mức nào. Do vậy họ có điều kiện nhất để bảo vệ cho con bọ cha,
mẹ vi phạm nghĩa vụ.
Thứ hai: ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ, đây là những
tổ chức xã hội có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em và
phụ nữ vì vậy khi mà con bị ngược đãi bởi cha mẹ thì những tổ chức này cần nâng cao


vai trò và trách nhiệm của mình để bảo vệ quyền lợi cho người con. Ngoài ra, các cơ
quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Tòa án hạn chế
quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Thứ ba: Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha mẹ đối
với con chưa thành niên. Tuy nhiên hiện nay, theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự
2004 thì Viện kiểm sát không còn là chủ thể có quyền khởi tố vì lợi ích của cá nhân
nữa. Do vậy cần có sự điều chỉnh quy định của Luật HN&GĐ sao cho phù hợp với Bộ
luật tố tụng Dân sự.
3. Hậu quả pháp lý của việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên:
Theo quy định tại Điều 43 Luật HN&GĐ thì khi mà người cha hoặc người mẹ bị
hạn chế quyền đối với con chưa thành niên thì họ không được trực tiếp thực hiện quyền

trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện theo pháp
luật cho con, tùy theo tùng mức độ vi phạm và tùy từng trường hợp mà thời hạn bị hạn
chế quyền này kéo dài từ 1 năm đến 5 năm. Việc chăm nom, nuôi dưỡng, giáo dục con,
quản lý tài sản riêng của con và đại diện pháp luật cho con sẽ do người cha, hoặc người
mẹ không bị hạn chế thực hiện, nếu cả hai cha mẹ cùng bị hạn chế thì người thực hiện
những công việc này là do người giám hộ cho con thực hiện, việc cử giám hộ cho con
theo quy định của Bộ luật dân sự. Khi cha mẹ bị hạn chế quyền đối với con thì những
người đó vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con tức là vẫn phải đảm bảo và cung
cấp cho con những nhu cầu vật chất.
4. Thực tiễn áp dụng quy định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành
niên:
Hiện nay, rất nhiều trẻ em bị những hành vi vi phạm nghĩa vụ nghiêm trọng xâm
phạm quyền của mình, nhưng bộ phân lớn xã hội coi đó là chuyện bình thường của gia
đình, cho đến khi có nhiều trường hợp cha, mẹ có hành vi bạo lực về tinh thần cũng
như về thể chất với con, ép buộc con làm những việc trái pháp luật mà được báo chí
đưa tin và vấn dề này đã trở nên báo động thì các cơ quan chức năng mới giật mình và
đặt ra câu hỏi làm gì với những bậc cha mẹ để bảo vệ các em, mặc dù trong Luật
HN&GĐ 2000 có hẳn các quy dịnh về việc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa
thành niên. Nhưng thực tế từ khi Luật 2000 có hiệu lực cho đến nay thì trường hợp cha
mẹ bị xử lý hạn chế quyền đối với con là rất ít so với các trường hợp trong thực tiễn, và
việc áp dụng quy định này còn rất lung túng, cụ thể như sau:


Thứ nhât: các chủ thể có quyền yêu cầu tòa án hạn chế quyền của cha mẹ, cũng
như những cơ quan chức năng chưa nhận thức và hiểu rõ về quy định này của pháp
luật nên chưa có nhiều trường hợp cha mẹ bị xử lý hạn chế quyền.
Theo quy định tại Điều 42 Luật HN&GĐ thì rất nhiều chủ thể có quyền yêu cầu
Tòa án hạn chế quyền của cha mẹ khi mà người cha, người mẹ này có hành vi vi phạm
nghiêm trọng đối với con họ, hành vi đó thảo mãn căn cứ theo Điều 41 của Luật
HN&GĐ. Gần nhất là người cha hoặc người mẹ, cũng như những người thân thích của

con họ không hề biết hoặc biết nhưng không quan tâm đến quy định hạn chế quyền của
cha mẹ, khi có hành vi vi phạm của người cha hoặc người mẹ hoặc của cả hai cha mẹ
thì những người này cho rằng đó là chuyện riêng của gia đình, đó là quyền của họ dạy
con cái, họ là cha mẹ nên họ có quyền tất đối với con họ nhất lại là người con chưa
thành niên thì tư tưởng này càng cao, do vậy việc họ đánh mắng con thậm tệ là do lỗi
của con và làm như vậy để con khôn ngoan hơn, cha mẹ bắt con làm việc trái pháp luật
hay không đảm bảo môi trường lành mạnh cho con phát triển là vì cuộc sống của họ
không có điều kiện nên mới bắt con họ như vậy, và vô số những lý do cùng những
hành vi vi phạm nghiêm trọng của cha mẹ đối với con nhưng người cha, người mẹ
hoặc người thân không quan tâm, làm ngơ hoặc chỉ ngăn nhưng không nhờ sự giúp đỡ
của các cơ quan chức năng…thì những cơ quan này rất lung túng không biết phải làm
thế nào mà chỉ bắt viết cam kết, hơn lắm là phạt hành chính, còn rất ít, thậm chí là
không có trường hợp nào yêu cầu tòa án hạn chế quyền của người cha, người mẹ này.
Theo thống kê của cục trưởng cục bảo vệ chăm sóc trẻ em của Bộ LĐTBXH thì hàng
năm có khoảng 5956 vụ trẻ em bị bạo hành, cũng theo Đại tá Nguyến Chí Việt- phó
cục trưởng cục cảnh sát hình sự thì những nạn nhân là trẻ em bị gia đình, bạn bè bạo
lực chiếm khoảng 56%; qua số liệu nêu trên thấy được số vụ con chưa thành niên bị
cha mẹ có hành vi vi phạm nghiêm trọng rất lớn, nhưng số việc Tòa án giải quyết hạn
chế quyền của cha mẹ là rất ít.
Tiếp theo, Tòa án cũng rất ít trường hợp tự mình ra quyết định hạn chế quyền
của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc hiểu không đúng về bản chất của việc
hạn chế quyền này. Khi có các căn cứ theo quy định tại Điều 41 thì Tóa án có thể tự
mình ra quyết định hạn chế quyền của người cha, người mẹ vi phạm, nhưng thực tế thì
Tòa án dường như rất ít trường hợp thực hiện việc ra quyết định này. Thậm chí có
những vụ án Tòa án đã xử người cha, người mẹ về mặt hình sự bởi những hành vi bạo
hành với con, ép buộc con làm những việc trái pháp luật nhưng trong bản án đó không
hề có việc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên. Chẳng hạn vụ bé
Loan (16 tuổi) và bé Phượng (15 tuổi) ở Ninh Kiều, TP Cần Thơ bị mẹ đẻ ép đi bán
dâm, thậm chí em còn bị đánh đập, bỏ đói, có ngày phải tiếp đến 15 lượt khách, hai em



sau bốn tháng đi bán dâm đã trốn thoát. Tại bản án của TAND quận Ninh Kiều đã
tuyên phạt mẹ của các em 9 năm tù nhưng không hề có nội dung tuyên hạn chế quyền
của người mẹ này đối với các em. Tương tự, là việc Nguyễn Thị Dung ở TP HCM đã
tổ chức mại dâm và môi giới mại dâm, trong đó có việc ép con đẻ của Dung (sinh năm
1993) bán dâm từ năm 2007, tháng 12/2009 trong bản án sơ thẩm của TAND TP HCM
tuyên 12 năm tù về tội chứa mại dâm và 7 năm về tội môi giới mại dâm, Tòa án phúc
thẩm TAND tối cao giống án sơ thẩm, và trong hai bản án đều không hề có nội dung
hạn chế quyền của Dung với người con này. Thấy rằng, mặc dù số năm phải thi hành
án phạt tù của những người mẹ này là thích đáng, và cũng sẽ không còn có thể bắt các
em làm việc này nữa. Nhưng thiết nghĩ trong các bản án này Tòa án cần phải có nội
dung hạn chế quyền của những người mẹ này, để phần nào răn đe và làm cho những
người cha, người mẹ này hiểu rằng không phải họ là cha, là mẹ mà có thể bắt con họ
làm gì cũng được, nhưng các thẩm phán đã quên mất quy định này.
Thực tế rất hiếm hoi có trường hợp Tòa án khi tuyên phạt về hình sự với người
cha, người mẹ có hành vi bạo lực đối với con và trong bản án đó cũng đã nêu phần hạn
chế quyền của cha, hoặc mẹ nhưng chưa hiểu rõ bản chất của việc hạn chế này. Chẳng
hạn trường hợp TAND tỉnh Bình Phước xử phúc thẩm vụ bé Nguyễn Thị Hảo bị mẹ đẻ
là bà Mỳ đánh đập, bà Mỳ bị xử phạt 2 năm tù giam về tội cố ý gây thương tích cho bé
Hảo, đồng thời “Tòa án còn hạn chế quyền nuôi dưỡng bé Nguyễn Thị Hảo cảu vợ
chồng Mỳ trong vòng 5 năm sau khi bà Mỳ ra tù”. Nếu theo bản án này thì Tòa án hạn
chế quyền nuôi dưỡng là không đúng mà vợ chồng bà Mỳ vẫn phải có nghĩa vụ nuôi
dưỡng bé Hảo, chỉ hạn chế quyền đối với việc chăm sóc, trông nom, giáo dục, quản lý
tài sản của bé, và đại diện pháp luật cho bé (theo Điều 43 của Luật HN&GĐ 2000).
Thứ hai: không có đủ điều kiện để thực hiện việc hạn chế quyền của cha mẹ đối
với con chưa thành niên vào thực tiễn.
Theo quy định của pháp luật thì khi hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa
thành niên tức là họ không có quyền chăm sóc, quản lý tài sản riêng của con cũng như
đại diện theo pháp luật cho con, nhưng họ vẫn phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng người con
này. Như vậy, ở nước ta, ngay trong quy định của pháp luật cũng không có hướng dẫn

nào về việc tách người con đó ra khỏi người cha, người mẹ đã có hành vi vi phạm. Hơn
nữa với phong tục tập quán và điều kiện kinh tế nước ta hiện nay thì người con vẫn
sống chung với cha mẹ, vậy nên khi có hạn chế quyền cha mẹ thì về mặt lý thuyết
người con đó vẫn cần phải sống chung với họ, dẫn tới nếu có hạn chế thì cũng chỉ là về
mặt hình thức và trên bản án, quyết định của Tòa án thôi chứ khó có thể thực hiện triệt
để và đúng bản chất thực tế, vì vậy quyền của người con chưa được bảo vệ. Còn nếu


tách các em ra khỏi người cha, người mẹ như nhiều nước phương Tây thực hiện thì còn
thiếu cơ chế quy định của pháp luật cũng như điều kiện ở nước ta chưa đủ để thực hiện.
Bởi sẽ giao các em cho tố chức nào nếu hạn chế quyền của cha mẹ, vì thực tế hiện nay
chưa có một cơ sở chăm sóc để cho các em có cha mẹ bị hạn chế quyền ở được hinh
thành ở nước ta; còn nếu hạn chế quyền của mỗi mẹ hoặc mỗi cha thì người còn lại vẫn
có quyền và nghĩa vụ của của người cha, người mẹ không bị hạn chế quyền, vậy sẽ
phải tính làm sao nơi ở của các em và cha hoặc mẹ các em, do vậy các em vẫn phải
sống chung với người cha, người mẹ có hành vi vi phạm.
Tiếp nữa, hiện nay, nước ta chưa có những biện pháp và tạo điều kiện cho các
em chưa thành niên biết về việc các em được bảo vệ trước hành vi vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ của cha mẹ các em. Mặc dù như em biết thì hiện nay đã có đường dây
nóng 18001567 để các em bày tỏ ý kiến của mình trước hành vi bị xâm phạm, tuy
nhiên đường dây đó chỉ có tác dụng đối với những em có điều kiện, biết nhận thức và
câu hỏi đặt ra là có bao nhiêu em biết số điện thoại này, khi các em điện đến đường
dây này thì các em cũng chỉ nhận được những chia sẻ của tổng đài viên chứ thực sự các
em chưa nhận được sự giúp đỡ của những cơ quan chức năng, mà cốt yếu là các em
cần những biện pháp thực tế nhằm bảo vệ quyền của các em, như trường hợp khi các
em gọi điện đến thì nên có một tổ chức ngay lập tức đến đón các em đến nơi tạm lánh,
như vậy cần có những nhà tạm lánh và người chăm sóc ở nhà tạm lánh này khi các em
bị xâm phạm nghiêm trọng. Đồng thời nên có những cơ chế để chăm sóc các em khi
các em có cha mẹ bị hạn chế quyền cũng như có những biện pháp quản lý kinh tế để
lấy tiền nuôi dưỡng các em từ cha mẹ các em bị hạn chế quyền.

II. Nghĩa vụ của cha mẹ nhằm bảo vệ quyền cơ bản của các con, không đặt mình
rơi vào tình trạng bị hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên:
Thứ nhất: cha mẹ cần hiểu rõ quyền và nghĩa vu của mình đối với con, tránh lối
tư duy là cha mẹ là có tất cả quyền đối với con, nhất là con chưa thành niên, tránh tư
tưởng con luôn luôn phải nghe lời cha mẹ dù đó không đúng và cho rằng là cha mẹ thì
lời nói ra luôn đúng.
Thứ hai: cha mẹ phải thể hiện sự yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng, trông nom
con. Cha mẹ cần tạo mọi điều kiện tốt nhất có thể phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của
mình để con được phát triển bình thường, lành mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần và trí
tuệ.
Thứ ba: cha mẹ cần tôn trọng, bảo vệ tính mạng. sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của con.


Trẻ em phải được cha mẹ tôn trọng, thể hiện cho sự tôn trọng này là cha mẹ
không được áp đặt suy nghĩ của mình cho con, cha mẹ cần tôn trọng những suy nghĩ
của con, tôn trọng sự lựa chọn của con về sở thích, học tập và bạn bè. Mặc dù đôi khi
việc cha mẹ không tôn trọng con chưa tới mức đặt cha mẹ rơi vào tình trạng bị hạn chế
quyền nhưng sự không tôn trọng con của cha mẹ dễ dẫn tới ảnh hưởng về tinh thần của
con, làm cho con bị thụ động, không chủ động, tự ti trong cuộc sống.
Cha mẹ cần tôn trọng và bảo vệ tính mạng.sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
con. Đối với những trường hợp cha mẹ có hành vi bạo lực đối với con mà diễn ra
nghiêm trọng, thường xuyên thì nên yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha mẹ đối với
con, khi đó quyền lợi của các em mới không bị xâm hại nữa.
Cha mẹ cần tôn trọng và bảo vệ danh dự nhân phẩm của con. Việc không tôn
trọng danh dự, nhân phẩm của con cũng là một dạng bạo lực, đó là bạo lực tinh thần
đối với con, làm cho các em bị tổn thương về tâm lý.
Thứ tư: cha mẹ không dược xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp
luật, như phân tích ở phần 1 thì đây không chỉ là một căn cứ hạn chế quyền của cha
mẹ, mà hành vi này của cha mẹ còn xâm hại nghiêm trọng tới quyền trẻ em. Cha mẹ đã

đẩy con mình vào con đường phạm tội , ảnh hưởng tới cuộc sống hiện tại và tương lai
của những đứa trẻ này đồng thời còn gây hâu quả xấu là gánh nặng cho xã hội.
Thứ năm: cha mẹ phải đảm bảo quyền có tài sản riêng của con và không được
có hành vi phá hoại tài sản của con. Quyền có tài sản riêng là một quyền của trẻ em,
đối với trẻ em dưới 15 tuổi do đặc điểm về năng lực hành vi nên các trẻ em chưa có đủ
điều kiện để tự quản lý tài sản cảu mình vì vậy cha mẹ các em là người có nghĩa vụ
quản lý tài sản riêng cảu các con, và bảo vệ khối tài sản này, như vậy mới bảo vệ được
quyền của trẻ em.
III. Các biện pháp để thực hiện tốt những quy định về hạn chế quyền của cha mẹ
đối với con chưa thành niên vào thực tế và đồng thời bảo vệ quyền của trẻ em.
Thứ nhất: các cơ quan chức năng địa phương cần phải tuyên truyền cho cha mẹ
cũng như các thành viên trong địa phương mình hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của
cha mẹ đối với con theo Luật HN&GĐ, quyền của trẻ em trong Luật bảo vệ, chăm sóc,
giáo dục trẻ em. Làm cho cha mẹ biết mình thực hiện những quyền và nghĩa vụ ra sao,
được làm gì và không được làm gì với con. Đồng thời tuyên truyền cho cha mẹ biết
được những quy định hạn chế quyền của cha mẹ khi cha mẹ vi phạm quyền đối với
con. Cùng với đó là chỉ dẫn biết cách bảo vệ quyền của trẻ em, khi quyền của trẻ em bi


xâm hại thì phải phát hiện kịp thời và báo cho cơ quan chức năng biết để xử lý kịp thời
những hành vi vi phạm của cha mẹ.
Thứ hai: cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước,
các tổ chức xã hội trong việc bảo vệ quyền trẻ em. Các cơ quan này nên có cơ chế phù
hợ để phối hợp với nhau chặt chẽ triong việc bảo vệ quyền trẻ em. Phát hiện và xử lý
kịp thời các hành vi vi phạm này. Cần xây dựng và tuyên truyền cho trẻ em biết về
đường dây nóng hỗ trợ các em, khi các em cần sự giúp đỡ thì phải thông báo ngay cho
cơ quan đoàn thể địa phương nhất là chính quyền xã có biện pháp tức thời bảo vệ các
em. Cần có những cơ sở để các em được nuôi dưỡng khi có quyết định hạn chế quyền
của cha mẹ các em khi cha mẹ các em có hành vi vi phạm.
Thứ ba: khi có hành vi vi phạm xảy ra, cần xử lý nghiêm minh các hành vi này

của cha mẹ. Đồng thời Tòa án trong các bản án khi xử lý về mặt hình sự với người cha,
người mẹ thì cũng cần phân tích để người che, người mẹ này cũng như những người
khác biết và tìm hiểu thêm về hành vi trái pháp luật của người cha, người mẹ vi phạm,
đồng thời bên cạnh hình phạt về mặt hình sự, thì trong trường hợp cần thiết, Thẩm
phán nên tuyên hạn chế quyền của người cha, người mẹ này, để đảm bảo quyền lợi cho
những người con, đưa người con đó đến một nơi, hoặc một chủ thể tin cậy để chăm
sóc, để đứa trẻ được phát triển trong một môi trường sống lành mạnh.

KẾT LUẬN
Như vậy, khi cha mẹ thực hiện tốt các nghĩa vụ của mình đối với con chưa thành
niên thì cũng là việc cha mẹ không đặt mình vào các trường hợp phải hạn chế quyền.
Bên cạnh đó, việc hạn chế quyền của cha mẹ khi cha mẹ có hành vi vi phạm nghiêm
trọng đối với con chưa thành niên cũng là một việc để bảo vệ quyền trẻ em, ngăn ngừa
hành vi vi phạm của cha mẹ, giúp các em có một môi trường sống lành mạnh đế các
em sống và phát triển lành mạnh, khắc phục dần những tổn thương về thể chất, tinh
thần mà cha mẹ đã gây ra cho các em.



×