Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấucủa Đảng bộ xã Mường Khoa, huyện Bác Yên, tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.71 KB, 47 trang )

MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài.
Trong thời kỳ mới, Đảng ta tiếp tục thực hiện chủ trương phát triển kinh
tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa nền tảng tinh thần của xã hội. Sự nghiệp CNH,HĐH càng phát triển và đi vào
chiều sâu, càng đòi hỏi tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) với tư cách là hạt nhân
lãnh đạo chính trị phải trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
Qua 82 năm chiến đấu xây dựng và trưởng thành, Đảng cộng sản Việt
Nam đã xây dựng được một hệ thống tổ chức chính trị vững mạnh từ Trung
ương đến cơ sở, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ và khẳng định vai trò là Đảng
duy nhất cầm quyền, lãnh đạo đưa đất nước từng bước quá độ lên CNXH, bảo
vệ vững chắc độc lập dân tộc và các thành quả cách mạng đã giành được. Một
trong những đóng góp hết sức quan trọng vào những thành công của cách
mạng đó chính là hệ thống tổ chức Đảng cơ sở. Trong suốt quá trình cách
mạng, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN, đặc
biệt ngày nay trong sự nghiệp đổi mới đất nước, tổ chức Đảng ở cơ sở đã luôn
làm tốt vai trò, nhiệm vụ của mình, là nền tảng của Đảng, là hạt nhân lãnh
đạo chính trị ở cơ sở. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã ghi rõ "Những
thành tựu đã đạt được, những tiềm năng đã khai thác, những kinh nghiệm có
giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt
nhân là tổ chức Đảng".
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo nhằm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thực hiện
mục tiêu: “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thành tựu của hai mươi lăm năm đổi mới đã đưa đất nước ta sang một trang
sử mới. Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội phát triển, an ninh – quốc phòng
được giữ vững, vị thế của Việt Nam trên trường Quốc tế được nâng cao.
Bên cạnh những thuận lợi là vậy, song vẫn còn đứng trước nhiều khó
khăn, thách thức. Đảng ta nhận định, thách thức chủ yếu vẫn là nguy cơ bên
trong. Nổi lên là: “ Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối


1


sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn
chặn và đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng sự phân hóa giàu
nghèo và sự lãnh đạo, quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành còn yếu
kém, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và Nhà nước,
đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, đòi hỏi Đảng ta, các tổ chức cơ
sở Đảng phải đổi mới chính mình, củng cố xây dựng đội ngũ để nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu giải quyết những vấn đề nảy sinh từ cơ sở.
Do đó Đảng ta phải thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố và nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.Với ý nghĩa quan
trọng của tổ chức cơ sở Đảng, để đóng góp vào việc xây dựng tổ chức cơ sở
Đảng, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, trên cơ sở vận dụng những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng vào
thực tiễn.
Với vị trí, vai trò và tầm quan trọng của tổ chức cơ sở đảng như vậy nên
em lựa chọn chuyên đề : “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng bộ xã Mường Khoa, huyện Bác Yên, tỉnh Sơn La” làm chuyên
đề tốt nghiệp hệ trung cấp lý luận chính trị - hành chính của em tại Học viện
Thanh thiếu niên Việt Nam.Trong khuôn khổ của đề tài này em sẽ làm rõ cơ
sở lý luận, cơ sở thực tiễn, thực trạng về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bộ xã Mường Khoa, huyện Bắc Yên , tỉnh Sơn La, đồng
thời đưa ra những ưu điểm, mặt mạnh, những yếu kém tồn tại và một số giải
pháp cụ thể để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ xã
Mường Khoa– huyện Bắc yên – tỉnh Sơn La trong giai đoạn mới.
2. Mục tiêu của đề tài:
- Làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về cơ sở lý luận và thực tiễn theo

về xây dựng tổ chức cơ sở Đảng.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng, năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu Đảng bộ xã Mường Khoa trong những năm qua. Từ đó xác định rõ
nguyên nhân yếu kém và rút ra kinh nghiệm, đề xuất, kiến nghị , giải pháp

2


nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ xã Mường
Khoa trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ của đề tài.
- Làm rõ cơ sở lý luận của nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở Đảng- Khảo sát, đánh giá thực trạng, nguyên nhân và những
vấn đề đặt ra trong nâng - cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở Đảng ở Đảng xã Mương Khoa, huyện Bắc Yên tỉnh Sơn La
- Luận giải những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng
ở Đảng bộ xã
4. Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ xã Mường Khoa,
huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La.
5. khách thể nghiên cứu.
- Cán bộ, đảng viên.
- Đảng bộ, chi bộ trực thuộc.
6: Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề.
- Thời gian: từ năm 2008 đến nay.
- Không gian: trên địa bàn xã Mường Khoa , huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La.
7: Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp quan sát, phỏng vấn.

8: Kết cấu của tiểu luận.
Tiểu luận được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiến về năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
Chương 2. Thực trạng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ
xã Mường Khoa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La trong những năm qua.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ xã Mường Khoa trong thời gian tới.

3


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC
LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1.Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
- Tổ chức cơ sở Đảng
Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định rõ về tổ chức cơ sở Đảng là:
"Ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp,
đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ sở khác có từ 30 Đảng
viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở Đảng " ... "Tổ chức cơ sở Đảng dưới 3
Đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ Đảng trực thuộc. Tổ chức cơ sở có từ 30
Đảng viên trở lên lập Đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc Đảng uỷ"
Điều 10 điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam ghi rõ "Tổ chức cơ sở Đảng
được lập tại đơn vị hành chính, sự nghiệp, kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự
lãnh đạo của cấp uỷ huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc". Điều lệ Đảng
cũng có quy định riêng cho tổ chức Đảng trong quân đội nhân dân Việt Nam
và công an nhân dân Việt Nam.
Như vậy, tổ chức cơ sở Đảng của Đảng cộng sản Việt Nam gồm chi bộ

cơ sở, Đảng bộ cơ sở. Đảng bộ cơ sở có 2 loại: Đảng bộ cơ sở có các chi bộ
trực thuộc; Đảng bộ cơ sở có Đảng bộ bộ phận và chi bộ trực thuộc. Các tổ
chức cơ sở Đảng đều có cấp uỷ cấp trên trực tiếp. Ví dụ: huyện uỷ là cấp trên
trực tiếp của tổ chức cơ sở Đảng ở xã, thị trấn thuộc huyện đó; quận uỷ và cấp
trên trực tiếp của tổ chức cơ sở Đảng ở phường thuộc quận ...
Ngoài ra, nếu được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý, trong một số tổ
chức cơ sở Đảng còn có Đảng bộ bộ phận trực thuộc Đảng uỷ cơ sở. Trong
các Đảng bộ bộ phận có các chi bộ trực thuộc.
- Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng.
Để lãnh đạo cách mạng thắng lợi, đảng phải có năng lực, năng lực lãnh
đạo, năng lực hiểu biết, năng lực tổ chức thực hiện. Năng lực lãnh đạo của
Đảng là do các tổ chức cơ sở đảng và từng đảng viên tạo nên.
4


Năng lực lãnh đạo là khả năng tri thức tổng hợp các thuộc tính cơ bản
của tổ chức lãnh đạo, nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động lý luận và thực tiễn,
bảo đảm cho hoạt động của tổ chức phù hợp với nhu cầu khách quan của tình
hình chung và tình hình cụ thể của từng địa phương,
để hoàn thành các nhiệm vụ chính trị đề ra.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng nói chung và tổ chức cơ sở
Đảng nói riêng là:
+ Nâng cao năng lực, hoạch định đường lối, chính sách ở tổ chức cơ sở
Đảng là nâng cao năng lực xác định nhiệm vụ chính trị cho đúng, phù hợp
với đường lối, chính sách của Đảng và thực tiễn tình hình ở địa phương.
+ Nâng cao năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị .
+ Năng lực, tổng kết, rút kinh nghiệm, tạo sự thống nhất giữa nhận thức
và lý luận, sự thống nhất giữa nhận thức và hành động.
+ Nâng cao năng lực lãnh đạo mặt trận và các đoàn thể quần chúng,
tăng cường mối quan hệ gắn bó với dân.

- Khái niệm về sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
Theo quan điểm của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng là thành tố đầu tiên có
ý nghĩa hết sức quan trọng để xây dựng Đảng, làm cho đảng ta ngày càng
giàu trí tuệ, trong sạch, vững mạnh để lãnh đạo đất nước tiếp tục đi lên. Trong
giai đoạn hiện nay, các tổ chức cơ sở đảng cần tập trung vào những nội dung
chủ yếu sau để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
- Nâng cao sức chiến đấu là:
+ Từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức đảng, cấp uỷ Đảng và toàn Đảng
phải có ý chí phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
+ Thường xuyên rèn luyện phẩm chất, đạo đức, không nể nang, né
tránh "dĩ hoà vi quý".
+ Kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, say
thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, ổ trong tổ chức Đảng và trong xã

5


hội, dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm, hành động sai trái,
thù địch.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
cần phải thực hiện đồng bộ các giải pha
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng.
Điều lệ Đảng đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm
quyền quan trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự
nghiệp cách mạng”. Là Đảng cầm quyền Đảng ta có trách nhiệm lãnh đạo tất
cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong tình hình mới cần có phương thức
thích hợp để nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, phát huy

mạnh mẽ vai trò hiệu lực của Nhà nước, toàn thể nhân dân, xây dựng một hệ
thống chính trị hoạt động năng động, hoạt động có hiệu quả.
Nhiệm vụ đặt ra phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị.
Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa còn có tổ chức tham mưu chuyên trách có chất lượng đồng thời vai trò
tổ chức Đảng và đội ngũ Đảng viên, nhất là cấp ủy viên và cán bộ chủ chốt
hoạt động trong các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể. Tổ chức Đảng trong
các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể vừa là hạt nhân lãnh đạo chính quyền,
vừa tham mưu cho Đảng về chủ trương, chính sách đối với những cán bộ.
Lãnh đạo xây dựng bộ máy pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì nhân dân, do nhân
dân thật sự là trụ cột bền vững của hệ thống chính trị nước ta.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện để sớm đưa các đường
lối chủ trương của Đảng vào cuộc sống.
Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng, cấp ủy Đảng và Đảng viên.
Với vị trí là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, tổ chức cơ sở
Đảng có vai trò rất quan trọng. Phải dồn sức xây dựng và nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, làm cho tổ chức này thực
sự vững mạnh, trong sạch.
6


Mở rộng và phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, thực hiện quyền giám
sát của Đảng viên, Đảng bộ đối với cấp ủy; mở rộng các hình thức nhân dân
tham gia vào các quyết định của chi bộ, Đảng bộ, Đảng ủy cơ sở về những
vấn đề có liên quan và giám sát cán bộ, Đảng viên.
Việc kết nạp Đảng viên cần được coi trọng hơn nữa về chất lượng, tiêu chuẩn
giác ngộ lý tưởng của Đảng, đạo đức lối sống, năng lực hoàn thành nhiệm vụ.
Coi trọng đối tượng là thế hệ trẻ, công nhân, nông dân, trí thức, quân nhân,
cán bộ, con em các gia đình có công với cách mạng.
Thực hiện tốt việc tự phê bình và phê bình đấu tranh, phê phán các biểu

hiện sai trái. Thường xuyên sàng lọc Đảng viên, kiên quyết đưa những người
không đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng bằng các hình thức thích hợp. Vận động ra
Đảng hoặc xóa tên khỏi danh sách Đảng viên đối với những Đảng viên phai
nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí phấn đấu, không làm tròn nhiệm vụ của Đảng
viên, đã được tổ chức Đảng giúp đỡ mà không tiến bộ.
* Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ gắn với đẩy mạnh công cuộc
đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp có vai trò quan trọng trực tiếp đến sự
phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Cụ thể hóa, thể chế hóa nguyên tắc
Đảng, thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Xây
dựng và thực hiện tốt cơ chế, chính sách, phát hiện, tuyển chọn, bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại, cơ chế từ chức, cách chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm, có cơ chế quản
lý, giám sát cán bộ sau bầu cử, bổ nhiệm; phân cấp mạnh hơn nữa về quản lý
cán bộ. Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các quy chế, quy định cụ thể nhằm
mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai công tác cán bộ đổi mới và
hoàn thiện chế độ bầu cử, bảo đảm cho người đi bầu thật sự có quyền lựa
chọn (bầu cử) có số dư, mở rộng quyền tiến cử và tự ứng cử, giới thiệu nhiều
phương án nhân sự và phải được kiểm nghiệm trong hoạt động thực tiễn, thật
sự trọng dụng người có đức có tài. Phát huy vai trò trách nhiệm của cấp ủy,
tập thể lãnh đạo, cơ quan có thẩm quyền và người đứng đầu tổ chức trong
việc xem xét quyết định đề bạt, bổ nhiệm cán bộ và chịu trách nhiệm về quyết
7


định đó. Khắc phục tình trạng nể nang, né tránh trách nhiệm trong công tác
cán bộ.
Tiếp tục phát triển đồng bộ, mạnh mẽ các khâu trong công tác cán bộ:
đánh giá quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực
hiện chính sách cán bộ. Đánh giá cán bộ phải công khai minh bạch, lấy hiệu
quả hoàn thành nhiệm vụ cho giá trị làm thước đo phẩm chất và năng lực cán

bộ. Chống mọi biểu hiện lệch lạc trong đánh giá cán bộ như thiếu công tâm,
khách quan, định kiến, hẹp hòi, cục bộ địa phương. Đánh giá cán bộ lãnh đạo
phải căn cứ vào năng lực quy tụ, đoàn kết, phát huy sức mạnh tập thể, thể
hiện ở hiệu quả công tác được giao; bản thân không quan liêu, tham nhũng,
lãng phí và kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng và lãng phí. Kiên quyết
xử lý nghiêm những cán bộ có sai phạm theo kỷ luật Đảng và pháp luật của
Nhà nước, bất cứ người ở cương vị nào, cấp bậc nào; có cơ chế kịp thời thay
thế cán bộ lãnh đạo trì trệ, tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ. Mặt
khác, cơ quan tham mưu và cấp ủy có thẩm quyền phải có trách nhiệm bảo vệ
những cán bộ tốt, những người bị kẻ xấu dựng chuyện tố cáo, bôi đen.
Xây dựng cơ chế hữu hiệu để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
nhân sự không phân biệt trong Đảng hay ngoài Đảng. Người đứng đầu tổ
chức các cấp ảnh hưởng mạnh đến toàn bộ hoạt động của tổ chức, của công
tác cán bộ. Trong thời đại ngày nay, vai trò của đội ngũ tri thức và tầng lớp
doanh nhân ngày càng nổi bật, cần có chính sách phát huy, sử dụng tốt tiềm
năng trí tuệ của đội ngũ này. Không phát hiện được nhân tài là một yếu kém,
phát hiện được nhân tài mà không biết sử dụng thì đó là một sai lầm; mặt
khác nếu sử dụng không đúng chỗ làm mai một tài năng, thì còn sai lầm hơn.
Mặc dù thời gian qua, chúng ta đã có nhiều cố gắng đổi mới nội dung, cách
thức trong công tác cán bộ, nhưng hiệu quả vẫn thấp, nhiều trường hợp vẫn
không nắm được, không đánh giá đúng cán bộ, cho nên có những trường hợp
sử dụng cán bộ chưa đạt tiêu chuẩn phẩm chất và năng lực; chậm phát hiện và
thiếu cương quyết, kịp thời trong việc xử lý cán bộ thoái hóa, biến chất, đã
gây tác hại lớn.
8


Đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng
tâm trong công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả
hệ thống chính trị của toàn xã hội. Các cấp ủy và tổ chức Đảng phải nhận thức

sâu sắc tính cấp thiết, lâu dài phức tạp và khó khăn của cuộc đấu tranh, phòng
chống tham nhũng, lãng phí; có quyết tâm chính trị cao, đấu tranh kiên quyết,
kiên trì, liên tục, có hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở, trong Đảng, Nhà nước và
toàn xã hội; có hệ thống giải pháp đồng bộ, cụ thể và hiệu lực về tuyên truyền,
giáo dục và hành chính, về kinh tế, tài chính và pháp luật, về thanh tra, kiểm tra
giám sát, về chế độ chính sách và kỷ luật Đảng; sử dụng sức mạnh tổng hợp của
tổ chức Đảng, bộ máy Nhà nước, mặt trận, các đoàn thể, các phương tiện thông
tin đại chúng, đặc biệt là sự đồng tình ủng hộ của nhân dân.
1.1.2.Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng.
- Quan điểm của Mác - Lê nin về tổ chức cơ sở đảng.
Mác - Ăng ghen là những người đầu tiên nêu lên những quan điểm, tư
tưởng về tổ chức cơ sở Đảng. Hai ông sáng lập ra "Liên đoàn những người
cộng sản" và các chi bộ của liên đoàn, quốc tế I và các Đảng cộng sản của
quốc tế II. Trong quá trình hoạt động cách mạng, hai ông đã chỉ ra rằng: “Các
chi bộ bị buông lỏng về mặt tổ chức sẽ dẫn đến cắt đứt liên lạc với BCH
trung ương, làm cho Đảng mất chỗ dựa vững chắc và duy nhất”. Hai ông đã
đặc biệt nhắc nhở các Đảng cơ sở khâu đặc biệt quan trọng là củng cố các chi
bộ, “ Biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của hiệp hội công nhân, là
mắt xích quan trọng, là chỗ dựa vững chắc của Đảng”
Kế thừa và phát triển những quan điểm đó, Lênin trong xây dựng và
lãnh đạo Đảng Bôn sê vích Nga, Đảng chủ nghĩa dân chủ - xã hội Nga, một
Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân đã chỉ rõ "Việc thành lập các tổ chức
cách mạng trong các xí nghiệp, nhà máy là nhiệm vụ đầu tiên, cấp bách của
Đảng chủ nghĩa dân chủ - Xã hội Nga, mỗi nhà máy phải là một thành trì".
Khi trở thành Đảng cầm quyền, các tổ chức cơ sở Đảng tăng lên cả về
số lượng và phong phú về nội dung, chức năng, nhiệm vụ và phương thức
hoạt động. Lênin yêu cầu: những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với tư
9



tưởng Đảng phải trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau, phải làm công tác cổ động
tuyên truyền, nhưng công tác tổ chức phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, với tất cả mọi tầng lớp quần chúng lao động, những chi bộ ấy
phải thông qua công tác muôn hình muôn vẻ và rèn luyện mình, rèn luyện
Đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống.
Người yêu cầu Đảng cộng sản phải bằng nhiều biện pháp nâng cao vai
trò tổ chức cơ sở Đảng, phát huy tình chủ động, sáng tạo của cơ sở thì những
mục tiêu của chính sách kinh tế của nhà nước Xô Viết mới thành hiện thực.
- Hồ Chí Minh: về tổ chức cơ sở đảng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến việc xây
dựng Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân. Người căn dặn: Đảng phải luôn nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu, phải luôn tự chỉnh đốn để hoàn thành nhiệm vụ vẻ
vang.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng của Đảng, là
hạt nhân chính trị ở cơ sở, Người đã kế thừa và phát triển sáng tạo quan điểm
này phù hợp với điều kiện ở nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng các chi bộ Đảng bộ cơ sở là "tổ chức
cơ bản của Đảng", là "nền tảng, nền móng" của Đảng, là hạt nhân chính trị ở
cơ sở, là dây chuyền" để Đảng liên hệ với quần chúng nhân dân. Chất lượng
của chi bộ, Đảng bộ cơ sở là một trong những yếu tố quyết định năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng ở cơ sở để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính
trị ở cơ sở. Chủ tịch Hồ CHí Minh viết "Để lãnh đạo cách mạng thì Đảng
phải mạnh, là do chi bộ tốt” 1; “Muốn làm nhà cho tốt thì phải xây dựng nền
móng cho vững, muốn thực hiện kế hoạch tốt phải chăm lo củng cố chi bộ" 2.
- Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục,
rèn luyện. Trong suốt quá trình lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, luôn luôn
quan tâm lãnh đạo, xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng.


10


- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đảng ta khẳng
định "Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng để khai thác, những
kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở
cơ sở mà hạt nhân là tổ chức cơ sở đảng, những mặt khác sự yếu kém của
nhiều tổ chức cơ sở đảng đã hạn chế những thành tựu của cách mạng".
- Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với
nhân dân, có vị trí rất quan trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng.Toàn Đảng
phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở, nhất là những địa bàn, lĩnh vực trọng
yếu, có nhiều khó khăn.Lấy hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở
làm thước đo kết quả tổng hợp của công tác xây dựng Đảng.
- Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào
dân để xây dựng Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
trong việc thăm gia xây dựng Đảng. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải chịu sự giám sát của nhân dân.
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải kết
hợp chặt chẽ với thực hiện cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”, với xây dựng chính quyền, các tổ chức chính trị - xã
hội ở cơ sở vững mạnh, với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên,
trước hết là bí thư đảng bộ, chi bộ, người đứng đầu các cấp ủy viên.
1.2.3. Chưc năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng.
- Chức năng.
Tổ chức cơ sở Đảng của đảng ta rất đa dạng, gồm nhiều loại như: Tổ
chức cơ sở đảng ở nông thôn, ở phường, trong doanh nghiệp Nhà nước, đơn
vị hành chính sự nghiệp, ở cơ quan…Từng loại tổ chức cơ sở đảng ngoài

những điểm chung còn có các đặc điểm riêng , do đặc điểm, nhiệm vụ của
đơn vị cơ sở (nơi tổ chức cơ sở đảng được thành lập) qui định. Tuy nhiên các
tổ chức cơ sở đảng đều có hai chức năng chung, chủ yếu sau:
11


- Là hạt nhân lãnh đạo của Đảng, chính trị ở cơ sở:
Đó là việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, Nghị quyết, chủ trương của cấp trên tại đơn vị cơ sở, lãnh đạo đơn
vị cơ sở trong sạch vững mạnh, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
- Là nơi tiến hành các hoạt động xây dựng Đảng: Đó là giáo dục rèn
luyện đảng viên, phân công công việc cho đảng viên, kết nạp đảng viên, xét
kỷ luật đảng viên, đưa người không đủ tư cách ra khỏi đảng. Là nơi đào tạo
rèn luyện cán bộ cho Đảng, chi bộ, Đảng bộ cơ sở, là nơi trực tiếp nắm bắt
tâm tư nguyện vọng của nhân dân, phản ánh với Đảng, để Đảng đề ra đường
lối đúng đắn hợp lòng dân, định hướng hoạt động và uốn nắn những lệch lạc
của các tổ chức, các đoàn thể cơ sở.
- Nhiệm vụ:
Một là: Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo
thực hiện có hiệu quả.
Hai Là: Xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao
chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật
và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn
luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng,
tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển
đảng viên.
Ba là: Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế hành chính,

sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị – xã hội trong sạch,
vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
Bốn là: Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây
dựng và thực hiện đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
12


Năm là: Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các Nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra tổ
chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Đảng uỷ cơ sở nếu được cấp trên trực tiếp uỷ quyền thì được quyết
định kết nạp và khai trừ đảng viên.
Ngoài chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng. Ban Bí thư Trung
ương đã có quy định cụ thể đối với Đảng bộ, chi bộ cơ sở vùng nông thôn.
1.2.Cơ sở thực tiễn.
1.2.1. Một số thành tựu và hạn chế cơ bản trong viêc nâng cao năng
lực lãnh đảo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng trong thời gian vừa
qua.
* Thành tựu
Dưới ánh sáng Nghị quyết lần thứ VI của Đảng khóa X tổ chức cơ sở
Đảng ở Đảng bộ xã đạt được những thành tựu:
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở
Đảng bộ luôn trong sạch vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ cấp trên giao phó.
- Quán triệt Nghị quyết của Đảng và Nhà nước tới từng Đảng viên, chi
bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.
- Xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức đúng nguyên tắc dân chủ. Đã rèn luyện và quản lý Đảng
viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến

thức, năng lực công tác, làm tốt công tác phát triển Đảng viên.
- Quan tâm, chăm lo tới đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích
của nhân dân
* Hạn chế
- Do điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý không thuận lợi, nằm ở vùng cao,
đường xá không thuận lợi nên các chi bộ trực thuộc cách xa trung tâm xã.
Nên việc tập trung triệu tập gặp nhiều khó khăn đối với Đảng bộ.
- Do trình độ một số Đảng viên trong chi bộ còn thấp nên việc tiếp thu
và triển khai Nghị quyết chưa đạt hiệu quả cao.
13


- Chi bộ và Đảng bộ chưa thực sự là người lãnh đạo một cách mạnh
mẽ, sáng tạo, chậm đổi mới tác phong làm việc, ít tiếp cận công nghệ thông
tin để nâng cao năng lực lãnh đạo.1.2.2. Bài học kinh nghiệm ở địa phương.
Từ thực tiễn hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng trong những năm qua,
chúng ta khẳng định tiếp tục vận dụng các bài học, kinh nghiệm rút ra từ các
Đại hội, các hoạt động Nghị quyết của Trung ương 6 khóa X về “Nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội
ngũ cán bộ, Đảng viên ở cơ sở”. Bài học về xây dựng Đảng, năng lực lãnh
đạo sức chiến đấu cho các tổ chức chính trị. Chăm lo lợi ích chính đáng cho
nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vai trò nòng cốt là chi bộ và Đảng
bộ, nhất là đội ngũ cán bộ Đảng viên chủ chốt của xã. Từ thực tiễn hoạt
động, bổ sung, đúc kết những kinh nghiệm sau:
Một là: Đổi mới công tác lãnh đạo, tổ chức quán triệt, triển khai các
Nghị quyết của Đảng và Nhà nước tới từng Đảng viên trong chi bộ, Đảng bộ.
Tăng cường năng lực lãnh đạo của Đảng bộ
Hai là: Tiếp tục làm chuyển biến mạnh mẽ về nhiệm vụ xây dựng
Đảng là then chốt. Coi công tác xây dựng Đảng là hoạt động đầu tư các mặt
trận lãnh đạo của Đảng.

Ba là: Đẩy mạnh các hoạt động tôn vinh, biểu dương các chi bộ cơ sở,
Đảng bộ cơ sở. coi đó là biện pháp nhân rộng, cổ vũ những cán bộ Đảng viên
có năng lực lãnh đạo tổ chức cơ sở Đảng ở địa phương hay đất nước.

14


Chương 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN
ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ XÃ MƯỜNG KHOA, HUYỆN BẮC YÊN,
TỈNH SƠN LA
2.1. Khái quát đặc điểm địa phương.
2.1.1.Đặc điệm tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội xã Mường khoa
huyện Bắc Yên,tỉnh Sơn La.
*Đặc điệm tự nhiên.
Mường Khoa xã vùng III của huyện Bắc Yên, cách trung tâm huyện
32km về phía Tây. Phía Đông của xã giáp xã Hua Nhàn, phía Bắc giáp với
xã Tà Hộc- huyện Mai Sơn, phía Tây giáp Chim Vàn, phía Nam giáp với xã
Tạ Khoa, có tổng diện tích tự nhiên là: 6.096,5 ha, trong đó đất sản xuất
nông nghiệp là: 1.600 ha, đất lâm nghiệp:1.800ha, còn lại là đất chưa sử
dụng và đất khác.
*Tình hình kinh tế - xã hội.
Kinh tế của xã cơ cấu chủ yếu là nông nghiệp,đánh bắn thủy
sản,chăn nuôi, bên canh đó phát triển thêm tiểu thu công nghiệp và dịch vụ.
Thứ nhất về mặt trồng trọt: Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
chính quyền phối hợp với các ban ngành đoàn thể, tuyên truyền vận động
nhân dân tích cực tăng gia sản xuất trên số diện tích bán ngập hiện có. Tổng
diện tích gieo cây vụ mùa: 18 ha, đảm bảo thời vụ cơ cấu giống có chất
lượng, nhân dân chủ động đảm bảo nước tưới tiêu, chăm sóc bảo vệ. Vụ mùa
năm nay do thời tiết thuận lợi, lúa phát triển tốt. Nhưng sắp đến ngày thu
hoạch do nước lòng hồ dâng cao, lúa chưa kịp chín đã bị ngập gây thiệt hại

14/ha, số diện tích còn lại phải gặt non nên không đảm bảo năng xuất.
- Diện tích lúa nương: 18/ 15 ha = 120% so với nghị quyết. Năng xuất
bình quân đạt: 15 tạ/ha, sản lượng đạt: 27/22,5 tấm = 120% so với nghị quyết.
- Diện tích ngô xuân hè: 85,6/120 ha = 71,3% so với nghị quyết. Năng
xuất đạt: 18 tạ/ha, sản lượng đạt: 154,08/216 tấn = 71,3% so với nghị quyết.

15


- Diện tích sắn: 19/30 ha = 63,3% so với nghị quyết. Sản lượng đạt:
34,2/54 tấn = 63,3% Nghị quyết.
- Rau củ quả các loại đạt: 230 tấn.
Thứ hai về mặt Chăn nuôi: Điều kiện nơi ở mới còn gặp nhiều khó
khăn,nhân dân đã khắc phục, duy trì và phát triển đàn gia súc, gia cầm, tăng
cường công tác phòng chống dịch bệnh. Nhìn chung đàn gia súc, gia cầm phát
triển tốt, song vì nước lòng hộ dâng cao nhân dân đang gặp khó khăn về bãi
chăn thả. Số gia súc, gia cầm toàn phường hiện có:
- Đàn trâu: 711/1.100con = 64,6 % so với nghị quyết.
- Đàn bò: 135/216 con = 62,5% so với nghị quyết.
- Đàn lợn: 911/ 2.200 còn = 41,4% so với nghị quyết.
- Gia cầm: 16.379/ 28.000 con = 58,5% so với nghị quyết.
Thứ ba về mặt Lâm nghiệp: Nhân dân duy trì đảm bảo quy ước quản lý bảo
vệ rừng đã được ký cam kết từ đầu năm, trong năm 2011 không sảy ra vụ
cháy rừng nào, trong quý IV trện địa bàn phường có 5 hộ tự ý phát rừng làm
nương khi chưa được cơ quan cấp có thẩm quyền cho phép.
- Độ che phủ rừng được nâng lên 59,5%.
Thứ tư về mặt Tiểu thủ công nghiệp – dịch vụ: Tuy địa bàn không ổn định
quy mô sản xuất không lớn nhưng các hoạt động tiểu thủ công nghiệp – dich
vụ vẫn được duy trì và phát triển như sửa chữa, gò hàn, xay sát, xưởng pha
chế gỗ vật liệu xây dựng góp phần giải quyết việc làm tăng thu nhập gia đình.

Thư năm về mặt Thu – chi ngân sách: Đảng bộ luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo việc thu, chi ngân sách đảm bảo đúng pháp luật, đáp ứng yêu cầu phục vụ
nhiệm vụ chính trị địa phương, nhất là thu trên địa bàn.
- Tổng thu ngân sách: 1.246.595.425đ/ 1.570.000.000đ = 79,4% nghị
quyết.
- Thu trên địa bàn: 57.386.123đ/ 55.000.000đ = 104,3% nghị quyết.
- Tổng chi ngân sách: 2.374.000đ/ 1.570.000.000đ = 151,2% nghị quyết
Thứ nhất về mặt trồng trọt: Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chính
quyền phối hợp với các ban ngành đoàn thể, tuyên truyền vận động nhân dân
16


tích cực tăng gia sản xuất trên số diện tích bán ngập hiện có. Tổng diện tích
gieo cây vụ mùa: 25 ha, đảm bảo thời vụ cơ cấu giống có chất lượng, nhân
dân chủ động đảm bảo nước tưới tiêu, chăm sóc bảo vệ. Vụ mùa năm nay do
thời tiết thuận lợi, lúa phát triển tốt. Nhưng sắp đến ngày thu hoạch do nước
lòng hồ dâng cao, lúa chưa kịp chín đã bị ngập gây thiệt hại 14/ha, số diện
tích còn lại phải gặt non nên không đảm bảo năng xuất.
- Diện tích lúa nương: 25/ 15 ha = 115% so với nghị quyết. Năng xuất
bình quân đạt: 16 tạ/ha, sản lượng đạt: 27/22,5 tấm = 120% so với nghị quyết.
- Diện tích ngô xuân hè: 85,6/120 ha = 71,3% so với nghị quyết. Năng
xuất đạt: 18 tạ/ha, sản lượng đạt: 154,08/216 tấn = 71,3% so với nghị quyết.
- Diện tích sắn: 19/30 ha = 63,3% so với nghị quyết. Sản lượng đạt:
34,2/54 tấn = 63,3% Nghị quyết
- Rau củ quả các loại đạt: 127 tấn.
Thứ hai về mặt Chăn nuôi: Điều kiện nơi ở mới còn gặp nhiều khó
khăn,nhân dân đã khắc phục, duy trì và phát triển đàn gia súc, gia cầm, tăng
cường công tác phòng chống dịch bệnh. Nhìn chung đàn gia súc, gia cầm phát
triển tốt, song vì nước lòng hộ dâng cao nhân dân đang gặp khó khăn về bãi
chăn thả. Số gia súc, gia cầm toàn phường hiện có:

- Đàn trâu: 711/1.100con = 64,6 % so với nghị quyết.
- Đàn bò: 135/216 con = 62,5% so với nghị quyết.
- Đàn lợn: 911/ 2.200 còn = 41,4% so với nghị quyết.
- Gia cầm: 16.379/ 28.000 con = 58,5% so với nghị quyết.
Thứ ba về mặt Lâm nghiệp: Nhân dân duy trì đảm bảo quy ước quản lý bảo
vệ rừng đã được ký cam kết từ đầu năm, trong năm 2011 không sảy ra vụ
cháy rừng nào, trong quý IV trện địa bàn phường có 5 hộ tự ý phát rừng làm
nương khi chưa được cơ quan cấp có thẩm quyền cho phép.
- Độ che phủ rừng được nâng lên 59,5%.
Thứ tư về mặt Tiểu thủ công nghiệp – dịch vụ: Tuy địa bàn không ổn định
quy mô sản xuất không lớn nhưng các hoạt động tiểu thủ công nghiệp – dich

17


vụ vẫn được duy trì và phát triển như sửa chữa, gò hàn, xay sát, xưởng pha
chế gỗ vật liệu xây dựng góp phần giải quyết việc làm tăng thu nhập gia đình.
Thư năm về mặt Thu – chi ngân sách: Đảng bộ luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo việc thu, chi ngân sách đảm bảo đúng pháp luật, đáp ứng yêu cầu phục vụ
nhiệm vụ chính trị địa phương, nhất là thu trên địa bàn.
- Tổng thu ngân sách: 1.246.595.425đ/ 1.570.000.000đ = 79,4% nghị
quyết.
- Thu trên địa bàn: 57.386.123đ/ 55.000.000đ = 104,3% nghị quyết.
- Tổng chi ngân sách: 2.374.000đ/ 1.570.000.000đ = 151,2% nghị
quyết
Thứ nhất về mặt trồng trọt: Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chính
quyền phối hợp với các ban ngành đoàn thể, tuyên truyền vận động nhân dân
tích cực tăng gia sản xuất trên số diện tích bán ngập hiện có. Tổng diện tích
gieo cây vụ mùa: 18 ha, đảm bảo thời vụ cơ cấu giống có chất lượng, nhân
dân chủ động đảm bảo nước tưới tiêu, chăm sóc bảo vệ. Vụ mùa năm nay do

thời tiết thuận lợi, lúa phát triển tốt. Nhưng sắp đến ngày thu hoạch do nước
lòng hồ dâng cao, lúa chưa kịp chín đã bị ngập gây thiệt hại 14/ha, số diện
tích còn lại phải gặt non nên không đảm bảo năng xuất.
- Diện tích lúa nương: 18/ 15 ha = 120% so với nghị quyết. Năng xuất
bình quân đạt: 15 tạ/ha, sản lượng đạt: 27/22,5 tấm = 120% so với nghị quyết.
- Diện tích ngô xuân hè: 85,6/120 ha = 71,3% so với nghị quyết. Năng
xuất đạt: 18 tạ/ha, sản lượng đạt: 154,08/216 tấn = 71,3% so với nghị quyết.
- Diện tích sắn: 19/30 ha = 63,3% so với nghị quyết. Sản lượng đạt:
34,2/54 tấn = 63,3% Nghị quyết.
- Rau củ quả các loại đạt: 230 tấn.
Thứ hai về mặt Chăn nuôi: Điều kiện nơi ở mới còn gặp nhiều khó
khăn,nhân dân đã khắc phục, duy trì và phát triển đàn gia súc, gia cầm, tăng
cường công tác phòng chống dịch bệnh. Nhìn chung đàn gia súc, gia cầm phát
triển tốt, song vì nước lòng hộ dâng cao nhân dân đang gặp khó khăn về bãi
chăn thả. Số gia súc, gia cầm toàn phường hiện có:
18


- Đàn trâu: 711/1.100con = 64,6 % so với nghị quyết.
- Đàn bò: 135/216 con = 62,5% so với nghị quyết.
- Đàn lợn: 911/ 2.200 còn = 41,4% so với nghị quyết.
- Gia cầm: 16.379/ 28.000 con = 58,5% so với nghị quyết.
Thứ ba về mặt Lâm nghiệp: Nhân dân duy trì đảm bảo quy ước quản lý bảo
vệ rừng đã được ký cam kết từ đầu năm, trong năm 2011 không sảy ra vụ
cháy rừng nào, trong quý IV trện địa bàn phường có 5 hộ tự ý phát rừng làm
nương khi chưa được cơ quan cấp có thẩm quyền cho phép.
- Độ che phủ rừng được nâng lên 59,5%.
Thứ tư về mặt Tiểu thủ công nghiệp – dịch vụ: Tuy địa bàn không ổn định
quy mô sản xuất không lớn nhưng các hoạt động tiểu thủ công nghiệp – dich
vụ vẫn được duy trì và phát triển như sửa chữa, gò hàn, xay sát, xưởng pha

chế gỗ vật liệu xây dựng góp phần giải quyết việc làm tăng thu nhập gia đình.
Thư năm về mặt Thu – chi ngân sách: Đảng bộ luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo việc thu, chi ngân sách đảm bảo đúng pháp luật, đáp ứng yêu cầu phục vụ
nhiệm vụ chính trị địa phương, nhất là thu trên địa bàn.
- Tổng thu ngân sách: 1.246.595.425đ/ 1.570.000.000đ = 79,4% nghị
quyết.
- Thu trên địa bàn: 57.386.123đ/ 55.000.000đ = 104,3% nghị quyết.
- Tổng chi ngân sách: 2.374.000đ/ 1.570.000.000đ = 151,2% nghị quyết
*Tình hình văn hóa, giáo dục,y tế.
Trong các nhiệm kì vừa qua xã Mường khoa cũng rất chú trọng nhiều đến
văn hoá, giáo dục y tế cụ thể là:
Thứ nhất về mặt Giáo dục – Đào tạo: Các trường đã chuẩn bị tốt các điều
kiện cho khai giảng năm học mới. Tổng số học sinh toàn phường có: 1016
cháu, ngay từ đầu năm học các trường đã duy trì tốt phong trào dạy và học,
củng cố các phong trào, phát động phong trào thi đua và các chương trình
hoạt động ngoại khóa của trường.
Khối trung học cơ sở: 256 cháu 50 Giáo viên.
- Học sinh chuyển lớp đạt: 67%
19


- Học sinh tốt nghiệp THCS: 99,5%
- Học sinh giỏi cấp thị:18 cháu.
- Học sinh khá, giỏi: 89 cháu.
* Khối tiểu học: 512 cháu, 75 giáo viên.
- Học sinh chuyển lớp đạt: 90 – 95 %
- Học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt: 100%
- Học sinh giỏi cấp thị: 118 cháu.
- Học sinh khá, giỏi: 189 cháu.
* Khối mầm non: 340 cháu, 44 giáo viên.

Thứ hai về mặt Công tác y tế - dân số KHHGĐ và trẻ em:
- Y tế: Trạm y tế phường luôn đảm bảo trực, khám chữa bệnh cho nhân
dân, triển khai và thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia và hướng dẫn
nhân dân phòng chống suy dinh dưỡng, công tác phòng chống dịch bệnh luôn
được quan tâm kịp thời. Trong năm 2011 đã khám chữa bệnh cho: 1125 lượt
người; chuyển viện: 75 trường hợp.
- Công tác dân số - KHHGĐ và trẻ em:
+ Phối hợp thực hiện tốt công tác truyền thông DS – KHHGĐ và dịch
vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, bà mẹ mang thai, các cháu trong độ tuổi được
tiêm phòng đủ 7 loại Văcxin.
+ Tổng số phụ nữ dùng biện pháp tránh thai: 671 chị em.
+ Phát thẻ bảo hiểm cho trẻ dưới 6 tuổi: 45 thẻ.
Thứ ba về mặt Công tác văn nghệ, thể dục thể thao:
- Tổng hợp số liệu phòng chống bạo lực gia đình và nộp báo cáo lên
phòng Văn hóa.
- Đang tổng hợp số liệu về gia đình văn hóa năm 2011. Để trình thường
trực và đưa ra tập thể bình xét.
- Tổng hợp ý kiến của các bản tham gia vào xây dựng quy ước, thực
hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội trên địa bàn xã
mường khoa.

20


Thứ tư về mặt công tác xã hội:
- Chính sách xã hội.
+ Xét duyệt, đề nghị hưởng trợ cấp xã hội cho người từ 80 tuổi trở lên
là: 25 người.
+ Người đơn thân nuôi con nhỏ thuộc hộ nghèo: 1.
+ Người tàn tật: 1.

- Thu thập và bổ sung số điều tra cung cầu lao động năm 2011.
+ Tổng số địa bàn điều ,10 bản.
+ Tổng số khẩu hộ điều tra: 1099 hộ.
+ Tổng số khẩu điều tra: 4394khẩu
2.1.2. Tình hình tổ chức và hoạt động của Đảng bộ xã Mường Khoa,
huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La trong những năm qua.
*Về cơ cấutổ chức.
Xã có một Đảng bộ trực thuộc huyện ủy, có 15 chi bộ trực thuộc với
234 đảng viên, có 5 chi bộ cơ quan, 13 chi bộ nông thôn. Trong đó đảng viên
nam là: 158 đồng chí, đảng viên nữ là: 76 đồng chí, có 15 đảng viên dự bị,
đảng viên miễn sinh hoạt là 5 đồng chí.
* Thành phần đảng viên các dân tộc:
Đảng viên dân tộc Thái: 148 đ/c.
Đảng viên dân tộc Hmông: 18 đ/c.
Đảng viên dân tộc Kinh: 22 đ/c.
Đảng viên dân tộc Mường: 29 đ/c.
Đảng viên dân tộc Khơ Mũ:17 đ/c.
* Trình độ của đảng viên trong toàn xã:
Cấp I : 76 đ/c.
Cấp II: 98đ/c.
Cấp III:60 đ/c.
Sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học: 21 đ/c.
* Về độ tuổi đời của đảng viên : thấp nhất 19tuổi, cao nhất là 70 tuổi.

21


*Thuận lợi: Trong quá trình thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ, đảng
ủy xã luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Ban Thường
vụ Huyện ủy, các ban ngành đoàn thể chính trị, xã hội của huyện. Các chỉ thị,

Nghị quyết của Đảng các cấp. Sự đồng thuận của cán bộ, đảng viên và nhân
dân các dân tộc trong toàn xã đã nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
*Khó khăn:Địa bàn rộng, dân cư phân bố không tập trung, địa hình
phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, mặc dù những năm qua xã cũng đã được
Nhà nước quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng song cơ sở vật chất vẫn
còn nghèo. Đặc biệt thời tiết những năm qua không thuận lợi ảnh hưởng rất
lớn vào quá trình sản xuất và chăn nuôi của nhân dân trong xã. Tình hình giá
cả thị trường không ổn định, đường giao thông nông thôn liên bản,điện lưới
Quốc gia chưa được triển khai phục vụ đến hết các bản trong toàn xã, ảnh
hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân.
Trình độ dân trí không đồng đều nên việc tổ chức tuyên truyền, triển
khai thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước đến quần chúng nhân dân gặp không ít khó khăn.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức trình độ còn hạn chế, phần lớn
chưa được đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ, khả năng vận dụng quan
diểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào thực tiển chưa đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn đổi mới hiện nay.
2.2. Thực trạng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ xã
Mường Khoa từ măm 2008 đền năm 2013.
2.2.1.Những kết quả đạt được và nguyên nhân.
2.2.1.1.Những kết quả đạt được.
Một là: Lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội.
Trong những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội của nước ta có nhiều
thay đổi nhanh chóng, thời cơ thách thức đan xen. Nhưng Đảng bộ và nhân
dân đã đoàn kết khắc phục mọi khó khăn, tập trung trí tuệ thực hiện thắng lợi

22



nghị quyết đại hội đảng bộ xã Mường Khoa khóa XX và đạt kết quả trên các
lĩnh vực.
* Cơ cấu kinh tế:
- Nông nghiệp = 70%
- Tiểu thủ công nghiệp = 17%
- Dịch vụ =13%
* Thu nhập bình quân đầu người đạt 8 triệu đồng/người/năm.
Đời sống vật chất - tinh thần tăng lên rõ rệt, số hộ đói không còn, hộ
nghèo giảm mỗi năm 5%.
Kinh tế phát triển mạnh theo hướng sản xuất hàng hoá, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch đúng hướng, phát triển dân số hàng năm dưới 1%. Việc xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn được thực hiện tích cực. Xã có một tuyến
quốc lộ chạy qua xã nên rất thuận tiện cho giao thông đi lại và trao đổi hàng
hóa, 10% đường cấp phối; các trường học được kiên cố hoá cao tầng 60%;
Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự ATXH được giữ vững. Các đoàn thể
chính trị - xã hội, chính quyền, Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh. Chính sự
ổn định và phát triển đã tạo đà cho địa phương phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là: Xây dựng củng cố tổ chức Đảng và Đảng viên
Đảng bộ xã Mường Khoa có 234 đ/c đảng viên; năm 2008 đến năm
2010, phân xếp loai đảng viên như sau: đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ là: 27đ/c, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ: 98 đ/c, đảng viên hoàn thành
nhiệm vụ là:118 đ/c. Chi bộ đạt trong sạch vững mạnh:4 chi bộ, chi bộ hoàn
thành nhiệm vụ:6 chi bộ.Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ,đội ngũ đảng
viên luôn có lập trường chính trị, tư tưởng vững vàng, luôn tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng, nội bộ đoàn kết thống nhất phát huy dân chủ và
phát huy được vai trò tiên phong gương mẫu trong mọi hoạt động của địa
phương. Đa số đảng viên đều hoàn thành nhiệm vụ được giao, gắn bó mật
thiết với nhân dân, có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh.


23


BCH Đảng bộ xây dựng chương trình hành động cụ thể nhằm triển khai
nghị quyết của TW và của cấp trên.
Ba là:. Quan tâm bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ kế cận.
Trong những năm vừa qua Đảng uỷ đã quan tâm bồi dưỡng cho đội
ngũ cán bộ kế cận, cử 6 đồng chí đi học lớp trung cấp lý luận chính trị do trường
chính trị tỉnh phối hợp với huyện uỷ tổ chức, đã cử 4 đồng chí đi học cao đẳng
và đại học nhằm nâng cao về trình độ lý luận chuyên môn và nghiệp vụ.
Bốn là: Duy trì chế độ sinh hoạt, chế độ báo cáo, giữ nghiêm ý thức tổ
chức kỷ luật trong Đảng.
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Do
đó chất lượng đảng viên được nâng lên, phát huy tốt được vai trò lãnh đạo,
giữ gìn phẩm chất chính trị có đạo đức, lối sống lành mạnh, trong sáng, được
quần chúng nhân dân tin tưởng noi theo. Củng cố lãnh đạo, xây dựng chính
quyền và các tổ chức đoàn thể, các tổ chức kinh tế vững mạnh nhiều năm liền
được tỉnh, huyện khen là đơn vị trong sạch, vững mạnh.
Năm là: Làm tốt công tác quản lý đảng viên.
Phân công nhiệm vụ cho từng đảng viên, tạo cho đảng viên yên tâm
công tác và phát triển kinh tế gia đình.
Thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền và
các đoàn thể, bí thư, trưởng khu được tập huấn các lớp ở trung tâm chính trị
huyện phối hợp tổ chức.
Sáu là: Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ
đảng viên.
Triển khai học tập tốt các nghị quyết của TW, xây dựng chương trình
hành động của Đảng bộ, nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo,
phát huy tính tiền phong gương mẫu trong việc thực hiện tốt cuộc vận động
chỉnh đốn Đảng.

Bẩy là: Công tác phát triển Đảng viên.
24


Đảng bộ coi đây là chiến lược cho sự phát triển của Đảng bộ, có kế
hoạch bồi dưỡng, có số lượng, chỉ tiêu rõ ràng và được phân bổ về các chi bộ.
Trong nhiệm kỳ 2006-2010, toàn đảng bộ đã kết nạp được .... đồng chí. Nhìn
chung đảng viên mới được kết nạp đều có trình độ văn hoá từ Trung học phổ
thông trở lên, có đủ phẩm chất chính trị, các bước tiến hành phải đảm bảo
nguyên tắc, sau khi kết nạp số đảng viên mới đều tu dưỡng rèn luyện học tập
để nâng cao trình độ chính trị về chuyên môn nghiệp vụ.
Tám là: Công tác kiểm tra Đảng
Đã có những bước rõ nét, kể cả tư tưởng nhận thức và tổ chức. Đảng uỷ
đã cùng với uỷ ban kiểm tra xây dựng chương trình làm việc, thực hiện đúng
Chỉ thị, Nghị quyết và Điều lệ Đảng quy định.
Trong nhiệm kỳ qua, uỷ ban kiểm tra đã tập trung xem xét kiểm tra vào
những đảng viên vi phạm và có dấu hiệu vi phạm, đã kỷ luật xoá tên ... đồng
chí, cảnh cáo toàn Đảng bộ ... đ/c và ... đồng chí làm đơn rút khỏi danh sách
đảng viên. Nhìn chung thời gian vừa qua số lượng đảng viên vi phạm, có dấu
hiệu vi phạm đã giảm so với trước đây. Nguyên nhân cơ bản là đảng bộ đã
thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật Đảng,
UBKT Đảng làm việc đúng nguyên tắc, có trách nhiệm, khách quan, do vậy
giúp cấp uỷ làm tốt công xây dựng chỉnh đốn Đảng.
Chín là: Công tác lãnh đạo các tổ chức đoàn thể.
Để tăng cường sự lãnh của Đảng đối với các tổ chức đoàn thể, thường
xuyên hàng quý, 6 tháng Đảng uỷ triển khai các Nghị quyết của Đảng với các
đoàn thể, nhằm giúp cho các đoàn thể nắm và quán triệt cho các hội viên thực
hiện tốt Nghị quyết của Đảng uỷ, thường xuyên trú trọng xây dựng qui chế
dân chủ ở cơ sở, là cầu lối giữ nhân dân với Đảng.
Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân luôn được quan tâm lãnh đạo,

làm tốt công tác tham mưu giúp cấp uỷ tuyên truyền vận động các tần lớp nhân
dân chấp hành tốt mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
25


×