Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế ở Việt nam trong điều kiện hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.64 KB, 15 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

T

rong quá trình phát triển kinh tế xã hội, nhân tố con người được coi là nhân tố

quan trọng, có vai trò quyết định đối với sự thành công của các chính sách,
các mục tiêu phát triển và sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Quốc gia.
Sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đaị hóa đặt ra những yêu cầu, thách thức lớn đối với chiến lược con người
trong đó có nhiệm vụ quan trọng là việc xác định mục tiêu, chiến lược đào tạo và sử
dụng cán bộ, đặc biệt là đối với cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô - Chính họ là những
“Người cầm lái cho con thuyền kinh tế ” của đất nước.
Trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực phát triển theo xu hướng
hội nhập mạnh mẽ, trong bối cảnh nền kinh tế đất nước mới chuyển sang nền kinh tế
thị trường, cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô của chúng ta đã bộc lộ những bất cập về
trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn.
Để đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp phát triển trong bối cảnh đó, chính
sách cán bộ cần phải trở nên linh hoạt, quan hệ hữu cơ với chính sách kinh tế - Xã
hội, phải gắn liền với những mục tiêu của sự nghiệp phát triển đặc biệt là chính sách
đào tạo và sử dụng cán bộ - Đào tạo nhằm mục tiêu tạo ra những “sản phẩm” phù
hợp với yêu cầu và mục đích sử dụng.
Chính từ nhận thức về tầm quan trọng của cán bộ công chức quản lý kinh tế
của nước ta nên khi thực hiện đề án chuyên ngành, được sự giúp đỡ của các cô, các
thầy hướng dẫn em xin thực hiện đề tài "Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản
lý kinh tế ở Việt nam trong điều kiện hiện nay". Trong quá trình thực hiện do còn
nhiều vấn đề chưa còn được nhận thức đầy đủ nên bài viêt còn nhiều hạn chế, bản
thân em rất mong nhận được sự thông cảm và giúp đỡ của các cô, các thầy để ngày
càng được tiến bộ hơn.


1


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI nền kinh tế nước ta từng bước chuyển sang vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Sự chuyển đổi sang mô hình kinh tế mới đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ quản lý kinh
tế tương ứng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý nòng cốt - (cán bộ quản lý cấp cao
và các chính khách kinh tế hay cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô).
Vậy cán bộ quản lý kinh tế là gì? cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô là gì?
Khái niệm về cán bộ quản lý kinh tế:
1. CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ :

Cán bộ quản lý kinh tế là tất cả các cá nhân thực hiện những chức năng quản lý
nhất định trong bộ máy quản lý kinh tế.
Là người làm lao động quản lý kinh tế và là một trong những yếu tố chủ yếu
của hệ thống quản lý, người làm công tác quản lý kinh tế có 3 loại cán bộ kỹ thuật,
nhân viên giúp việc và nhà quản lý.
Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô là một bộ phận của đội ngũ công chức nhà nước,
làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế, tham gia hoạch định các
chính sách kinh tế và thực hiện quản lý Nhà nước các hoạt động kinh tế trên phạm
vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân hoặc trong từng địa phương, từng vùng lãnh thổ.

2


II. VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ ĐỐI VỚI CNH-HĐH Ở NƯỚC TA:

1. VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:


Quản lý kinh tế vĩ mô thực chất là nói đến vai trò, chức năng quản lý của Nhà
nước đối với các hoạt động kinh tế. Mô hình kinh tế phổ biến trên thế giới hiện là
kinh tế hỗn hợp trong đó Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết, quản
lý các hoạt động của nền kinh tế quốc dân thông qua hệ thống các chính sách và
công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
- Nhà nước thiết lập khung khuôn khổ luật pháp thống nhất để tạo môi trường
chung cho các thị trường hoạt động.
- Khắc phục các khuyết tật của thị trường để tạo cho cơ chế thị trường hoạt
động có hiệu quả thông qua chính sách kinh tế vĩ mô, xây dựng các chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Đảm bảo công bằng xã hội thông qua việc phân bổ các nguồn lực, phân phối
thu nhập giữa các tầng lớp, các nhóm dân cư trong xã hội.
- Ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn chặn và kiềm chế lạm phát, thất nghiệp, thực
hiện các biện pháp kiểm soát, giám sát, sử dụng các công cụ thuế để điều tiết các
hoạt động kinh tế.
Trong điều kiện ở nước ta, để đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra, quản lý
kinh tế vĩ mô càng có vị trí quan trọng hơn bao giờ hết và vai trò quản lý vĩ mô nền kinh
tế của Nhà nước ta trong cơ chế mới thể hiện ở những điểm sau:
- Nhà nước xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp với điều
kiện KT-XH nước ta theo các mục tiêu đề ra và mong đạt được.
+ Nhà nước chủ động điều tiết các doanh nghiệp nhằm tạo ra sự thống nhất
giữa các lợi ích của quốc gia.
+ Nhà nước hoạch định các chương trình phát triển KT-XH, thông qua đó thực
hiện chiến lược phát triển KT-XH, dẫn dắt các doanh nghiệp và các thành phần kinh
tế đi đúng hướng đã chọn, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế để nhanh chóng hội
nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.
- Tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh
+ Xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi, có chính sách để thu hút vốn đầu tư
trong và ngoài nước.
+ Quyết định và bảo đảm các quyền tạo điều kiện cho các hoạt động sản xuất

kinh doanh như các quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, xây dựng hệ thống pháp luật
đồng bộ và ổn định...
- Thực hiện các chính sách phân phối thu nhập công bằng, hiệu quả, tạo động
lực cho sản xuất phát triển.
- Phân phối hợp lý các nguồn lực và quản lý sử dụ ng có hiệu quả tài sản quốc gia.
3


2. VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA:

Trong một hệ thống kinh tế hoạt động thành công hay thất bại phụ thuộc rất
nhiều vào người cán bộ quản lý kinh tế. Nói cách khác trong hệ thống thì người cán
bộ quản lý giữ vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động kinh tế.
Cán bộ quản lý ở tầm vĩ mô chính là người vận hành, điều khiển và thực thi
trong bộ máy đó. Nói cách khác, tính hiệu quả của hệ thống các chính sách và công
cụ quản lý kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào 2 điều kiện cơ bản
1. Cơ chế vận hành của nền kinh tế
2. Khả năng và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý
Hai yếu tố này có mối quan hệ tương tác và có liên quan tới hàng loạt các nhân
tố KT-XH trong đó khả năng và trình độ đội ngũ cán bộ quản lý đóng vai trò quyết
định nhất.
Để thực hiện được mục tiêu mà đại hội đảng VIII đã xác định, đội ngũ cán bộ
nói chung và cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô nói riêng có vai trò quyết định và nó
được thể hiện tập trung trên các mặt chủ yếu sau:
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc xây dựng đúng
đắn đường lối, chiến lược, chủ trương, định hướng kế hoạch phát triển kinh tế, chính
sách, cơ chế quản lý kinh tế và hệ thống pháp luật kinh tế trong toàn bộ đất nước,
trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương.
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc tổ chức bộ máy
và lựa chọn cán bộ để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quản lý trong thời kỳ tiếp tục

đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH.
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc chỉ huy và điều
hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ các hoạt động trong quá trình phát triển kinh
tế và quản lý kinh tế ở phạm vi cả nước, từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa
phương.
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc thường xuyên
phối kết hợp các quá trình quản lý kinh tế để điều chỉnh kịp thời những mặt cân đối,
những mâu thuẫn phát sinh.
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc kiểm tra và
kiểm soát quá trình phát triển kinh tế và quản lý kinh tế. Trong đổi mới kinh tế và cơ
chế quản lý kinh tế, công tác kiểm tra, kiểm soát đặc biệt là kiểm tra, kiểm soát
trong lĩnh vực kinh tế tài chính có vị trí rất quan trọng, không có kiểm tra, kiểm soát
thì không có quản lý kinh tế vĩ mô.
Trong đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô thì những người đứng đầu các cấp
và những chuyên gia đầu ngành luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng.

4


III. YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ
TRONG GIAI ĐOẠN MỚI:
1. PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ:

- Phải có quan điểm, lập trường chính trị vững vàng, có bản lĩnh và kiên định
trong công việc được giao.
- Có ý chí và có khả năng làm giàu cho tập thể, cho xã hội và cho bản thân.
- Có khả năng tự hoàn thiện, tự quản lý, tự đánh giá kết quả công việc của bản
thân, đánh giá con người mà mình quản lý theo tiêu chuẩn chính trị.
- Biết biến nhận thức chính trị của mình thành nhận thức của mọi người, tạo được
lòng tin và lôi cuốn mọi người tham gia.

- Hoạt động trong quá trình đổi mới, vừa phải có bản lĩnh chính trị vững vàng,
vừa phải rất năng động sáng tạo.
2. YÊU CẦU VỀ NĂNG LỰC CHUYÊN MÔN - TỔ CHỨC:
2.1 YÊU CẦU NĂNG LỰC CHUYÊN MÔN:

- Trước hết, cán bộ quản lý kinh tế phải có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực
được giao trách nhiệm quản lý, biết sử dụng và tập hợp các chuyên gia giỏi, các cán
bộ chuyên môn dưới quyền, giao đúng việc và tạo điều kiện cho họ phát huy khả
năng chuyên môn cho nhiệm vụ chung.
- Phải có kiến thức về kinh tế thị trường; nắm vững bản chất, cơ chế vận
động để ứng xử, lựa chọn trong kinh doanh để sử dụng công cụ điều tiết kinh tế thị
trường trong quản lý nhà nước.
- Phải có kiến thức về khoa học quản lý hiện đại, hình thành đội ngũ cán bộ
quản lý chuyên nghiệp ở mọi cấp quản lý, hoạt động theo nguyên tắc của thị trường
như mọi nghề khác.
- Trong hoạt động quản lý phải xuất phát từ thực tế - kinh doanh, thực tế địa
phương, thực tế đời sống kinh tế - xã hội để tìm lời giải, có biện pháp cụ thể, tránh
giao điều sách vở.
2.2 YÊU CẦU NĂNG LỰC TỔ CHỨC QUẢN LÝ:

Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế là những người trực tiếp tổ chức điều hành bộ
máy quản lý để phối hợp hoạt động của từng đơn vị kinh tế cụ thể. Do đó, đặt ra cho
từng cán bộ quản lý những yêu cầu mang tính cụ thể, thiết thực, bao gồm: năng lực
thực tế và phân tích các tình huống; năng lực quyết sách và giải quyết các vấn đề;
năng lực tổ chức và chỉ huy; năng lực liên kết phối hợp hành động.
- Phải là người có bản lĩnh, có khả năng nhạy cảm, linh hoạt, có khả năng
quan sát, nắm được các nhiệm vụ từ tổng thể tới chi tiết để tổ chức cho hệ thống
hoạt động đồng bộ, có hịêu quả.

5



- Là người bình tĩnh, tự chủ nhưng quyết đoán dứt khoát trong công việc, kcó
kế hoạch làm việc rõ ràng và tiến hành công việc nhất quán theo kế hoạch.
- Là người năng động, sáng kiến, tháo vát, phản ứng nhanh nhạy, dám nghĩ,
dám làm, dám mạo hiểm, dám chịu trách nhiệm, luôn biết lường trước mọi tình
huống có thể xảy ra, biết dồn đúng tiềm lực vào các khâu yếu, biết tận dụng thời cơ
có lợi cho hệ thống.
- Là người có tác phong đúng mức, thông cảm và hiểu cấp dưới, có thái độ
chân thành, đồng thời hướng cho cấp dưới có tác phong cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau.
- Biết sử dụng đúng tài năng từng người, đánh giá đúng con người, biết xử lý
tốt các mối quan hệ trong và ngoài hệ thống, quan hệ với người dưới quyền; quan hệ
với cấp trên,....
3. YÊU CẦU VỀ PHÂM CHẤT ĐẠO ĐỨC:

- Trước hết, cán bộ quản lý nói chung, cán bộ quản lý kinh tế nói riêng, với tư
cách là một công dân, phải sống và làm việc theo tiêu chuẩn đạo đức một công dân.
Hiện nay, phải lấy việc gương mẫu sống và làm việc theo pháp luật là tiêu chuẩn
đạo đức cơ bản.
- Yêu cầu đặc thù của chức nghiệp làm nghề quản lý là phải chăm lo việc
công của đơn vị, của Nhà nước, phải quản lý một tập thể nhiều người, do đó đòi hỏi
mỗi cán bộ quản lý phải biết chăm lo đến mọi người; tập thể, cộng đồng; biểu hiện
qua việc làm phải công bằng, công tâm, khách quan, có văn hoá, tôn trọng con
người,....
- Là tấm gương cho người dưới quyền và người lao động trực tiếp noi theo, do
đó đòi hỏi mỗi cán bộ quản lý phải là người liêm khiết, khiêm tốn, trung thực, thẳng
thắn, không vụ lợi, thực hiện bình đẳng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi
và trách nhiệm.
Trong các yêu cầu nói trên thì mức độ quan trọng của từng yêu cầu đối với
từng loại cán bộ quản lý kinh tế là có khác nhau. Đối với cán bộ quản lý kinh tế vĩ

mô thì những phẩm chất được đào tạo và năng lực là các yêu cầu quan trọng hơn vì
nó vừa là tiêu chuẩn, vừa là giá trị bên trong của con người, nó là thước đo năng lực
thực tế và phẩm chất tư tưởng của cán bộ quản lý. Tuy nhiên trong công tác quy
hoạch cán bộ, việc lựa chọn, sử dụng, đào tạo,bồi dưỡng cán bộ cần phải căn cứ vào
một tiêu chuẩn nữa đó là triển vọng, tức là khả năng cống hiến tiếp theo của cán bộ.
Trong công tác quy hoạch cán bộ cần chú ý việc sắp xếp, bố trí cán bộ không chỉ là
vấn đề tuổi tác,sức khoẻ và khả năng thích ứng của mỗi con người. Chính điều đó là
cơ sở để xem xét, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho phù hợp với điều kiện thực tiễn.

6


CHƯƠNG II:
I. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY:

Trong những năm đổi mới, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô đã được rèn
luyện và trưởng thành. Trong điều kiện biến động mạnh và phức tạp của tình hình
dân tộc, quốc tế, những thử thách gay go của đất nước trong những năm cuối thập
kỷ 90, nhìn chung đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng và kiên
định con đường XHCN mà Đảng đã vạch ra.
Đã có chuyển biến mọi mặt về trình độ, năng lực, thông qua việc học tập,bồi
dưỡng và hoạt động thực tiễn, làm quen và thích ứng với cơ chế quản lý mới. Đặc
biệt ở các thành phố lớn, lực lượng cán bộ có trình độ cao về chuyên môn, lý luận
chính trị tăng đáng kể, ở các tỉnh miền núi lãnh đạo chủ chốt và phần đông cán bộ
đã có ý thức được tầm quan trọng của việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của
địa phương.
Những năm qua đội ngũ cán bộ có sự ổn định tương đối về biên chế. Hầu hết
các địa phương, với sự giúp đỡ của trung ương đã tiến hành thực hiện công việc đào
tạo lại và bồi dưỡng cán bộ có quy mô đáng kể.

Bên cạnh những mặt mạnh và ưu điểm cơ bản nêu trên, đội ngũ cán bộ quản lí
kinh tế vĩ mô ở nước ta còn đang bộc lộ một số hạn chế sau:
Thứ nhất: Tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu” đang diễn ra khá phổ biến nhất là cán
bộ quản lý nhà nước ở các bộ, ban, ngành trung ương và địa phương. Thừa cán bộ chưa
được đào tạo về quản lý kinh tế thích ứng với kinh tế thị trường và thiếu cán bộ có đủ
phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu quản lý kinh tế của nền kinh tế đang
chuyển đổi. Theo kết quả điều tra năm 1997 của Viện Nghiên cứu kinh tế và phát triển
- Đại học KTQD trong số 200 cán bộ quản lý kinh tế thuộc10 bộ và cơ quan ngang bộ
được hỏi có 60% ý kiến cho rằng cán bộ quản lý kinh tế của ta hiện đang trong tình
trạng thiếu, 20% ý kiến cho rằng đội ngũ này đang trong tình trạng thừa và 20% cho
rằng vừa thiếu vừa thừa.
Thứ hai: Một số lượng khá lớn cán bộ đang làm nhiệm vụ quản lý kinh tế chưa
được đào tạo một cách cơ bản và có hệ thống về quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị
trường. Kết quả điều tra chi tiết về đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở 10 bộ, cơ
quan ngang bộ và 10 tỉnh thành trong cả nước cho thấy có 65% số cán bộ quản lý
kinh tế ở cấp bộ được đào tạo trước năm 1989 trong đó có khoảng 30% chưa được
đào tạo lại, khoảng 60% số cán bộ quản lý kinh tế ở cấp bộ có trình độ lý luận sơ
cấp và chỉ có gần 5% có trình độ lý luận cao cấp. 89% cán bộ quản lý kinh tế >45
tuổi không biết sử dụng máy vi tính và chỉ có 9,5% biết tiếng Anh có trình độ trên
C. Ở các sở, ban, ngành cấp tỉnh có 52,8% số cán bộ quản lý kinh tế được đào tạo từ
trước năm 1989 và có một bộ phận khá lớn chưa qua đaò tạo, bồi dưỡng kiến thức
kinh tế thị trường, chỉ có 54% số cán bộ quản lý kinh tế các sở, ban, ngành thuộc 10
tỉnh, thành phố đã được đào tạo từ các trường kinh tế. Số cán bộ được đào tạo ở các
7


lĩnh vực khác (khoa học kỹ thuật, khoa học cơ bản...) chiếm 46% và đang cần tiếp
tục bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế.
Thứ ba: Cơ cấu cán bộ quản lý kinh tế đang có sự mất cân đối lớn xét cả về độ
tuổi và giới tính, lẫn sự phân bổ theo ngành nghề, theo vùng, giữa cấp chiến lược

hoạch định chính sách và cấp trực tiếp quản lý kinh doanh ở các doanh nghiệp. Số
liệu điều tra 10 bộ cho thấy có gần 50% cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có độ tuổi >
45 tuổi, chỉ 1/5 số cán bộ dưới 35 tuổi, tuổi bình quân là 46 tuổi, cán bộ trẻ nhất
(<35 tuổi) thuộc 2 ngành ngân hàng và tài chính: ngân hàng nhà nước có 43% và Bộ
Tài chính có 44% cán bộ quản lý vĩ mô thuộc nhóm tuổi dưới 35. Ngược lại số cán
bộ ở độ tuổi dưới 35 tuổi chỉ chiếm 5% ở Bộ Thương mại và 4% ở Bộ Công nghiệp.
Bộ Công nghiệp và Bộ Nông nghiệp -PTNT có tỷ lệ cán bộ >45 tuổi cao nhất. Tỷ lệ
này ở Bộ Công nghiệp là 76% và Bộ Nông nghiệp-PTNT là 69%. Đến năm 2005 có
khoảng 80% số cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô hiện nay đến tuổi nghỉ hưu. Sự già hoá
của đội đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế sẽ gây nên tình trạng hẫng hụt cán bộ quản lý
kinh tế kế cận
Ở nhiều tỉnh miền núi, cán bộ quản lý kinh tế là người dân tộc thiểu số chiếm
tỷ lệ rất thấp và phần lớn chưa được qua đào tạo về quản lý kinh tế. ở Đắc lắc chỉ có
1 trong 475 cán bộ quản lý ở cấp tỉnh và huyện là người dân tộc thiểu số có trình độ
từ cao đẳng trở lên. ở Lào cai có tới 49% cán bộ là người dân tộc chưa qua đào tạo
về chuyên môn, nghiệp vụ.
Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô hiện nay chủ yếu là nam, nữ chiếm bộ phận thiểu
số. Tuy nhiên tuỳ theo chức năng nhiệm vụ cụ thể thì tỷ lệ nam nữ cũng cao thấp
khác nhau: tỷ lệ nam bình quân chiếm trên 65%, nữ chỉ có khoảng 34%. Tỷ lệ nam
cao nhất là ở Bộ Thương mại (81%) và tỷ lệ nữ cao đông nhất là ở Ngân hàng Nhà
nước (48%).
Thứ tư: Công tác đào tạo cán bộ nói chung và cán bộ quản lý kinh tế nói riêng
chưa gắn với quy hoạch cán bộ. Hơn nữa, việc bố trí sử dụng cán bộ chưa thật hợp
lý và trong nhiều trường hợp còn nặng về cơ cấu, thiếu mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ,
chưa có giải pháp cụ thể để thực sự khuyến khích những cán bộ có năng lực và chưa
mạnh dạn bố trí, sắp xếp lại hoặc đưa ra khỏi biên chế những cán bộ không còn đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới.

8



CHƯƠNG III
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐÀO TẠO VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ
QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM:

Nghị quyết hội nghị Trung Ương lần thứ 3 (Khoá VIII) đã chỉ rõ: “Phải xuất phát
từ nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ tổ chức, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý hiện
có, dự kiến nhu cầu và khả năng phát triển của đội ngũ cán bộ, công chức để chủ động
có phương hướng đào tạo, bồi dưỡng đặc biệt chú trọng đào tạo được nguồn cán bộ dồi
dào, đủ tiêu chuẩn để kịp thời đáp ứng yêu cầu...”
I - CĂN CỨ ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐÀO TẠO VÀ NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ:

Để có được căn cứ phát triển đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý kinh tế vĩ mô trước tiên ta phải xem xét đến mục tiêu chiến lược trong việc
đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô và những quan điểm cơ bản trong việc
đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.
1 - MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC TRONG VIỆC ĐÀO TẠO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH
TẾ VĨ MÔ:

- Mục tiêu chung là tạo ra một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô đủ về số
lượng và có chất lượng cao, có khả năng tiếp thu những kiến thức quản lý kinh tế
mới nhất của thế giới ứng dụng vào Việt Nam cũng như giải quyết được một cách
hiệu quả những vấn đề lý luận và thực tiễn do sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam đặt ra.
- Tích cực đào tạo, bồi dưỡng trong hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ
quản lý kinh tế nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt hiện có. Những người đứng đầu của
hệ thống chính trị các cấp, nhằm bảo đảm sự chuyển biến liên tục và kế tục vững
vàng sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước giữa các thế hệ trong những năm đầu
của thế kỷ XXI.

- Xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế của hệ thống chính trị các cấp
đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý kinh tế và vận động quần chúng nhân
dân thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế. Có cơ cấu đồng bộ, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có kiến thức và năng lực lãnh đạo, quản lý kinh tế và vận động quần
chúng thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững
bước đi lên CNXH.
- Xây dựng và thực hiện đồng bộ các chính sách và biện pháp để khuyến khích
các cán bộ quản lý kinh tế làm việc năng xuất, chất lượng, hiệu quả, ngăn chặn đẩy
lùi và hạn chế tiêu cực trong đội ngũ cán bộ hệ thống chính trị các cấp. Trước hết là
cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng ở các cấp, giữ
vững kỷ cương kỷ luật không để lọt những phần tử cơ hội thiếu trung thực.
9


- Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và bộ máy quản lý cán bộ, quản lý kinh tế
vĩ mô ở các cấp từ Trung ương Tỉnh, Thành phố, đảm bảo cho bộ máy vững mạnh,
hoạt động có hiệu lực và có hiệu quả. Đảm bảo xây dựng được đội ngũ lãnh đạo và
quản lý kinh tế vĩ mô ở cấp Trung ương và địa phương đạt tiêu chuẩn đội ngũ cán
bộ làm việc có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.
- Căn cứ vào quy hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế cần xây dựng
quy hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ để thực hiện quy hoạch với các nội dung
yêu cầu chất lượng đào tạo toàn diện, xác định đồng bộ cơ cấu ngành nghề theo cấp
quản lý, xác định đồng bộ cơ cấu trình độ đào tạo, xác định hợp lý cơ cấu kiến thức
và mạng lưới các trường đào tạo...
2 - NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN TRONG VIỆC ĐÀO TẠO CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ
MÔ:

Để xây dựng được đội ngũ cán bộ đồng bộ và công tác cán bộ đáp ứng được
sự nghiệp tiếp tục đổi mới, đẩy mạnhCNH-HĐH và mục tiêu dân giàu nước mạnh
xã hội công bằng văn minh, cần quán triệt đầy đủ những quan điểm sau đây trong

việc đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.
- Thực hiện đầy đủ quan điểm giai cấp công nhân trong xây dựng quy hoạch và
đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.
- Thực hiện đầy đủ quan điểm đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ trong
xây dựng quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.
- Thực hiện đầy đủ quan điểm trọng dụng nhân tài về quản lý kinh tế của đất
nước trong xây dựng, quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.
Để thực hiện được quan điểm này, chúng ta phải có chính sách đúng đắn để phát
hiện, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài về kinh tế và quản lý kinh tế cho đất nước.
- Thực hiện đúng đắn quan điểm đồng bộ trong xây dựng, quy hoạch và đào
tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.
- Thực hiện đầy đủ quan điểm bảo đảm tính kế thừa và liên tục trong xây dựng
quy hoạch và đội ngũ đào tạo cán bộ và công tác cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô trong
hệ thống chính trị.
- Thực hiện đầy đủ quan điểm toàn diện và có trọng điểm trong xây dựng quy
hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.
- Việc xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ và công tác quản lý cán bộ trong hệ
thống chính trị phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thống nhất của các tổ chức
Đảng.

10


3- CĂN CỨ CỤ THỂ VÀ CÁC YÊU CẦU ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN ĐÀO TẠO VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ:

3.1 Căn cứ cụ thể:
- Căn cứ vào hệ thống tổ chức của các cơ quan cấp Bộ, tổng cục ở Trung ương,
của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng như chức năng nhiệm vụ của
các cơ quan trong hệ thống tổ chức đó.

- Căn cứ vào thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở nước ta hiện
nay.
- Nếu so với yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ mới, trình độ và năng lực của cán
bộ quản lý kinh tế vĩ mô nói chung vẫn còn nhiều mặt hạn chế, còn hẫng hụt trong
kiến thức về kinh tế thị trường, về quản lý kinh tế vĩ mô và pháp luật. Trong điều
kiện nền kinh tế thị trường đang từng bước hội nhập vào khu vực và thế giới thì các
kiến thức về kinh tế quốc tế, luật pháp quốc tế, các kỹ năng về ngoại ngữ, tin học
cũng chưa đáp ứng được yêu cầu.
Chính vì vậy, theo đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô đều có chung
tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Thừa những người có trình độ năng lực yếu, khả năng
tự vươn lên hoặc đào tạo lại, tiếp thu các kiến thức của kinh tế thị trường có nhiều
hạn chế. Thiếu cán bộ có đủ trình độ ở trường tầm vĩ mô, đặc biệt là năng lực hoạch
định chiến lược và chính sách đó, năng lực soạn thảo và tổ chức thực thi các văn bản
pháp quy về quản lý.
3.2 Yêu cầu đối với đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô:
- Việc đào tạo phải nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô đáp ứng
được yêu cầu của nền kinh tế đang trong quá trình chuyển sang mô hình kinh tế
mới.
Trước các yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế, số đông trong đội ngũ cán
bộ quản lý kinh tế vĩ mô vẫn bộc lộ sự yếu kém về tư duy, phong cách làm việc,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Do vậy trong tiến trình đổi mới kinh tế, cơ chế thị
trường đã và đang từng bước hình thành nhưng chưa đồng bộ, toàn diện, nên nhiều
chính sách, chế độ, luật pháp...ban hành chậm, các công cụ quản lý vĩ mô khác chưa
chuyển kịp thời với những thay đổi của nền kinh tế do tác động của cơ chế mới.
Công cụ kế hoạchhoá chưa làm tốt chức năng định hướng nền kinh tế, chính sách tài
chính, tiền tệ chưa phát huy được vai trò tích cực trong điều tiết kinh tế vĩ mô.
Trong bối cảnh ấy, người cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô, bộ phận cấu thành của hệ
thống tổ chức và quản lý Nhà nước cần được tiến hành quy hoạch lại. Việc đào tạo
đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô phải quán triệt yêu cầu của tiến trình chuyển
đổi nền kinh tế.

- Đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô phải đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
CNH-HĐH nền kinh tế.
- Đáp ứng yêu cầu mở cửa và hội nhập vào đời sống kinh tế quốc tế.
11


Trong những năm thực hiện đổi mới kinh tế, việc thực hiện mở cửa nền kinh tế
dã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy vậy, khi ta tiến hành hợp tác kinh tế với
nước ngoài do mới tiếp cận chưa hiểu biết “luật chơi” của kinh tế thị trường, cùng
những thông lệ quốc tế trong hợp tác kinh tế với nước ngoài nên đã dẫn đến những
hạn chế và không ít va vấp, thua thiệt.
Từ những vấn đề trình bày trên cho thấy, trước tình hình và nhiệm vụ mới của
đất nước công tác đào tạo đội ngũ cán bộ ở cấp quản lý kinh tế vĩ mô đang là vấn đề
cấp bách đặt ra.

12


KẾT LUẬN:
Trong những năm gần đây, công tác đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô đã có
những chuyển biến mạnh mẽ cả về chất và lượng, phù hợp với mục tiêu, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trước bối cảnh và thách thức của sự nghiệp phát
triển, đối với công tác đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô, chúng ta cần bám sát
các định hướng lớn, triển khai đồng bộ các giải pháp, gắn kết giữa đào tạo và sử
dụng, giữa đào tạo sử dụng và nghiên cứu khoa học, giữa lý luận và thực tiễn.
Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý - Đặc biệt là đối với cán bộ quản lý kinh tế vĩ
mô - Nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, là yếu tố có ý nghĩa quyết định
đối với sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Thực
hiện nhiệm vụ này không chỉ dựa vào các trường kinh tế, các cơ sở nghiên cứu khoa
học kinh tế của hệ thống giáo dục đào tạo mà đòi hỏi phải có sự quan tâm, sự hưởng

ứng của cả hệ thống giáo dục quốc dân, của toàn xã hội. Không chỉ các cơ sở đào
tạo trong nước mà cần có sự phối kết hợp, hợp tác quốc tế với nước ngoài và tổ
chức quốc tế nhằm tiếp thu, nắm bắt kịp thời những kinh nghiệm, những thành tựu
của khoa học quản lý kinh tế, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam.
Với những mục tiêu lớn đã được Đảng xác định với những chính sách lớn của
Nhà nước trong công tác đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô, với sự nỗ lực vượt
qua khó khăn, phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo và
nghiên cứu kinh tế, với những đánh giá xác đáng về điều kiện thực tiễn, với những
giải pháp khả thi được triển khai đồng bộ, với sự quan tâm của toàn xã hội, với sự
mở rộng và hợp tác quốc tế có hiệu quả, chắc chắn công tác đào tạo cán bộ quản lý
kinh tế vĩ mô của chúng ta sẽ thu được các thành tựu quan trọng, đáp ứng được yêu
cầu của quản lý kinh tế trong thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.

13


LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện có kết quả đề án chuyên ngành có tiêu đề "Xây dựng đội ngũ
cán bộ công chức quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt nam trong điều kiện hiện nay",
em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình chu đáo của các thầy, các cô, đặc biệt là cô TS.
Đoàn Thu Hà, Phó trưởng Khoa Đại học Kinh tế quốc dân. Xin chân thành cảm ơn
sự giúp đỡ của các thầy, các cô trong Khoa, trong nhà trường đã dạy bảo, truyền đạt
nhiều kiến thức cập nhật, đổi mới đáp ứng được mong muốn của sinh viên và toàn
xã hội.

14


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

LÝ LUẬN, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

1
2

CHƯƠNG I:
SỰ CẦN THIẾT ĐỐI VỚI CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ ĐÀO TẠONÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ Ở NƯỚC TA
2

I. cơ sở lý luận:

2

1. Cán bộ quản lý kinh tế
2. Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có thể cụ thể hoá thành 2 loại là các chính khách kinh tế
và các nhà điều hành quản lý cấp cao

2

II. Vai trò của cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô đối với CNH-HĐH ở nước ta

4

1. Vai trò của quản lý kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường
2. Vai trò của cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở nước ta

III. yêu cầu đối với cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô trong giai đoạn mới
1. Phẩm chất chính trị
2. yêu cầu về Năng lực chuyên môn - tổ chức

3. yêu cầu về phâm chất Đạo đức

3
4
5

6
6
6
7

IV. Sự cần thiết phải đào tạo và nâng cao chất lượng
cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô

7

1. Đặc điểm đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở nước ta hiện nay
7
2. Một số quan điểm cơ bản về xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế trong những năm đổi mới 9
3. Yêu cầu cấp thiết đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ m
9

CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ VÀ ĐÀO TẠO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

11

I. Thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ môở nước ta hiện nay
II. Thực trạng đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt Nam hiện nay


11
12

1- Chúng ta đã xây dựng được 1 hệ thống các cơ sở đào tạo đại học và trên đại học về kinh tế
trên phạm vi cả nước với số lượng ngày càng tăng
2 - Cơ sở vật chất kỹ thuật của các trường đại học kinh tế
3 - Thực trạng đội ngũ giáo viên của các trường ĐHKT hiện nay
4 - Nội dung chương trình đào tạo
5 - Các hình thức đào tạo
6 - Trình độ đào tạo

13
14
14
16
17
18

CHƯƠNG III
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐÀO TẠO VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ QUẢN LÝ
KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM

20

I - Căn cứ để phát triển đào tạo và nângcao chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý kinh tế vĩ mô

20


1 - Mục tiêu chiến lược trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô
2 - Những quan điểm cơ bản trong việc đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô
3- Căn cứ cụ thể và các yêu cầu đối với phát triển đào tạo và nâng cao chất lượng cán bộ
quản lý kinh tế vĩ mô

20
21
22

II - Định hướng phát triển đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt Nam:
III -Một số giải pháp chủ yếu để phát triển đào tạo và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô:

23

KẾT LUẬN:

26

15

24



×