Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.23 KB, 21 trang )

PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ VINH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC

HỌ VÀ TÊN: LÊ THỊ HỒNG LAM
Chức vụ: Phó hiệu trưởng.
Đơn vị: Trường Tiểu học Cửa Nam 1 - TP Vinh.
Năm học: 2011 - 2012

A. MỞ ĐẦU
1


Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là
điều kiện phát huy nguồn lực con người. Trong những năm qua, nền giáo dục nước
ta có bước phát triển mới. Nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ
cập giáo dục tiểu học, trình độ dân trí và nguồn nhân lực được nâng lên; quy mô
đào tạo tiếp tục tăng ở hầu hết các cấp, bậc học, ngành học, đáp ứng nhu cầu học
tập ngày càng lớn của nhân dân. Cơ sở vật chất giáo dục được tăng cường. Đội ngũ
nhà giáo đã lớn mạnh thêm, vượt qua nhiều khó khăn, góp phần quyết định tạo ra
chuyển biến bước đầu rất quan trọng của nền giáo dục nước ta. Những thành tựu
đạt được đã góp phần tích cực chuẩn bị tiền đề cho bước phát triển mới của sự
nghiệp giáo dục trong thế kỷ 21. Tuy nhiên, giáo dục – đào tạo nước ta còn đang
đứng trước nhiều khó khăn và yếu kém, đó là: chất lượng giáo dục còn thấp; nội
dung, phương pháp dạy và học còn lạc hậu; các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục
còn nhiều; cơ cấu giáo dục và đào tạo còn mất cân đối.v.v...
Xuất phát từ vai trò, vị trí của hoạt động và chất lượng dạy học trong nhà


trường tiểu học. Từ yêu cầu đổi mới của chương trình phổ thông nói chung, yêu
cầu tự chủ linh hoạt trong nhà trường tiểu học nói riêng. Từ nhiệm vụ cơ bản của
người cán bộ quản lý nhà trường. Bản thân tôi trăn trở với việc vận dụng luận văn
thạc sỹ quản lý vào đơn vị, mạnh dạn viết một số kinh nghiệm để góp phần nhỏ bé
vào việc xây dựng hệ thống các giải pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học
trong nhà trường tiểu học.
B. THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
CỦA TRƯỜNG TIỂU HỌC CỬA NAM 1.
Trường đóng trên địa bàn phường Cửa Nam – là địa phương có vị trí địa lý
gần chợ lớn, gần nhà thờ, ... Nhân dân trong địa phương có đời sống kinh tế còn
nhiều hạn chế, phần lớn họ làm nghề buôn bán, kinh doanh nhỏ, bận rộn về thời
gian. Do đó hạn chế việc quan tâm sát sao quá trình học tập của con em, mà đây là
yếu tố quan trọng trong việc phối hợp để nâng cao chất lượng dạy và học của nhà
trường. Toàn trường có 100/800 em học sinh là người công giáo, thời gian đi lễ của
các em cũng có phần ảnh hưởng đến hoạt động học.
Trường có đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, 100%
giáo viên trong trường đạt chuẩn và trên chuẩn. Đội ngũ giáo viên vững vàng về
chuyên môn, tâm huyết với nghề, song chỉ mới đảm bảo tốt chất lượng đại trà, lại
chưa đều tay, còn lúng túng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học
sinh yểu.
Trường được sự quan tâm của địa phương, các cấp ngành về mọi mặt nên đã
và đang có cơ sở vật chất tương đối đảm bảo cho quá trình dạy học. Song để đảm
bảo cho quá trình nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thì trường còn gặp khó
khăn trong quá trình triển khai dạy học các môn năng khiếu, các môn tự chọn như:
chưa có phòng học tiếng, chưa có phòng dành cho môn nghệ thuật, ...
2


Đội ngũ cán bộ quản lý làm việc khoa học, phối hợp nhịp nhàng song vẫn
còn một số chỗ giải quyết công việc thiếu triệt để do e dè, nể nả. Các tổ trưởng

chuyên môn là những giáo viên đã đạt giáo viên giỏi các cấp, có uy tín, được hiệu
trưởng ra quyết định, có chế độ phụ cấp song trong quá trình điều hành, triển khai
hoạt động dạy và học phần nào vẫn còn hạn chế về hiệu quả, nhất là chất lượng
mũi nhọn. Mọi hoạt động của quá trình dạy học đều được quản lý bằng kế hoạch
và đánh giá bằng hiệu quả.
Trường tiểu học Cửa Nam 1 là trường có chất lượng giáo dục đã và đang
được khẳng định trên nhiều phương diện, song số giáo viên giỏi và học sinh giỏi
còn khiêm tốn so với một số trường trên địa bàn thành phố, đặc biệt để xứng tầm là
chuẩn mức độ 2, chúng tôi nghĩ còn phải bàn nhiều giải pháp thiết thực hơn trong
giai đoạn hiện nay để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học của nhà trường.
Trên cơ sở những định hướng phát triển giáo dục, xuất phát từ thực tiễn đơn vị
công tác và kết quả chất lượng giáo dục của nhà trường trong một số năm gần đây,
chúng tôi mạnh dạn đề xuất “Một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất
lượng dạy học ở trường Tiểu học”.
C. MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC.
Chất lượng dạy học phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: chương trình và sách
giáo khoa, thi cử và tuyển sinh, đội ngũ thầy giáo, cô giáo và cán bộ quản lý, cơ sở
vật chất và thiết bị dạy học, mục đích, nội dung, phương pháp , phương tiện, sự
quan tâm của các cấp uỷ Đảng và Chính quyền, đoàn thể, các lực lượng xã hội hoá
giáo dục. . . Trong các yếu tố đó thì đội ngũ thầy giáo, cô giáo, cán bộ quản lý
chính là yếu tố quyết định. Xác định rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có chỉ thị số
40 - CT/TW ngày 15/6/2004, Thủ tướng Chính phủ có quyết định số 09/2005/QĐ TTG ngày 01/01/2005 về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành và triển khai thực hiện
chuẩn nghề nghiệp giáo viên Tiểu học, chuẩn hiệu trưởng, nhằm nâng cao chất
lượng dạy học ở các trường Tiểu học.
1. Giải pháp: Đổi mới công tác quản lý trường Tiểu học.
1.1) Đổi mới nhận thức về vai trò, trách nhiệm của cán bộ quản lý trường
Tiểu học.

Trong giáo dục nói chung và giáo dục Tiểu học nói riêng, yếu tố quyết định
làm nên chất lượng dạy học chính là đội ngũ nhà giáo, tuy nhiên có một yếu tố
đóng vai trò dẫn dắt hoạt động dạy - học đó là những cán bộ quản lý giáo dục trong
hệ thống ngành học và ở các cơ sở giáo dục.
Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cũng đã nhấn mạnh: "Sự nghiệp đổi
mới giáo dục thành công hay không một phần quan trọng phụ thuộc ở năng lực
quản lý, điều hành của người Hiệu trưởng". Khi đã được phân cấp, trách nhiệm của
3


Hiệu trưởng càng nặng nề hơn. Bên cạnh năng lực chuyên môn tốt, Hiệu trưởng
còn phải có khả năng quản lý kinh tế, có trình độ tin học và ngoại ngữ nhất định.
Nếu không trong thời kỳ hội nhập, khó mà nói đến chuyện ứng dụng có hiệu quả
công nghệ thông tin và tận dụng cơ hội để hiện đại hoá giáo dục thông qua sự hợp
tác quốc tế.
Chúng tôi đã nghiêm túc thực hiện quá trình tự học, tự bồi dưỡng để đảm
bảo các yếu tố cần của người hiệu trưởng trong quá trình nâng cao chất lượng dạy
học: có phẩm chất chính trị tốt, có hiểu biết về pháp luật, vững vàng về chuyên
môn nghiệp vụ, có năng lực quản lý, có tác phong làm việc khoa học. có khả năng
tập hợp được quần chúng, xây dựng được tập thể sư phạm đoàn kết, biết xây dựng
và nhân được điển hình tiên tiến, nhân tố mới, người tốt, việc tốt, nét đẹp đời
thường, nét đẹp trong cuộc sống hàng ngày của giáo viên và học sinh và lấy quy
chế dân chủ làm chỗ dựa cho công tác quản lý.
Nhận thức được đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của người cán bộ quản lý
trong nhà trường, thực tiễn trong công tác quản lý, trường chúng tôi có Hiệu
trưởng có khả năng thích ứng môi trường thay đổi nhanh và chịu đựng với thực
trạng áp lực công việc cao hàng ngày. Hiệu trưởng đã làm việc toàn tâm và có khả
năng phối hợp tốt, đầu tiên là Ban giám hiệu đoàn kết, quy chế dân chủ được thực
hiện nghiêm túc. Tại trường chúng tôi, hiệu trưởng là người vừa có "tâm" vừa có
"tầm" , phải là người mà được đại đa số cán bộ, giáo viên nể phục. Nể vì đức độ, vì

sự gương mẫu, vì lối sống và cách đối nhân xử thế, vì cái "tâm" của Hiệu trưởng,
phục vì năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, cách điều hành, xử lý thông tin.
Đồng thời Hiệu trưởng đã nắm được thẩm quyền và trách nhiệm, có kiến thức về
pháp luật tổ chức bộ máy, quản lý nhân sự, tài chính. Làm tốt công tác dự báo và
xây dựng chiến lược phát triển giáo dục của nhà trường cũng như địa phương.
Thực trạng cho thấy, để công tác quản lý có hiệu quả, người cán bộ quản lý
giáo dục nói chung và Hiệu trưởng các trường Tiểu học nói riêng phải thường
xuyên tu dưỡng đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm, khẳng định vị trí, vai trò,
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Tổ chức tốt nề nếp, kỉ cương. Không
ngừng tự học, tự bồi dưỡng, cập nhật kiến thức nâng cao trình độ, coi tự học, tự bồi
dưỡng là nhiệm vụ xuyên suốt quá trình quản lý và đời sống hàng ngày của mỗi
người, thường xuyên đổi mới tư duy và hành động trong công tác quản lý.
1.2) Đổi mới một số hoạt động trong công tác quản lý trường Tiểu học.
Nhiệm vụ hiện nay của nhà trường Tiểu học là tập trung chỉ đạo nâng cao
chất lượng dạy học theo hướng bền vững (kể cả chất lượng môi trường xung
quanh). Phấn đấu giữ vững các tiêu chuẩn đã đạt của trường chuẩn quốc gia mức
độ 2 .Trên cơ sở thực trạng về công tác quản lý ở trường Tiểu học cần đổi mới một
số hoạt động như sau:
a) Tích cực cải tiến công tác xây dựng kế hoạch: Công tác quản lý nhất thiết
phải xây dựng kế hoạch, cần xây dựng kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.
4


Tại đơn vị chúng tôi, mọi kế hoạch đều được xây dựng một cách khá khoa học, sát
thực tiễn. Mỗi tổ chuyên môn là một mắt xích quan trọng trong quá trình thực hiện
kế hoạch nhà trường. Mỗi tổ chuyên môn lại có những đặc trưng riêng, mục tiêu
riêng nên lại phải có kế hoạch chi tiết khác nhau song tất cả đều lấy kế hoạch
chung của nhà trường làm kim chỉ nam.
Trước đây, kế hoạch của nhà trường chỉ được “lên” sau mỗi lần họp hiệu
trưởng do phòng giáo dục tổ chức hàng tháng; cán bộ, giáo viên, học sinh các

thành viên trong nhà trường thực hiện công việc một cách thụ động, hạn chế về
hiệu quả. Ban giám hiệu nhà trường đã ghi nhật ký, rút kinh nghiệm sau mỗi năm
học, nhiều năm gần đây, chúng tôi đã đổi mới trong khâu xây dựng kế hoạch.Đầu
mỗi năm học, sau khi tiếp thu nhiệm vụ năm học, nhận được các văn bản chỉ đạo
thực hiện nhiệm vụ năm học, chúng tôi đã tiến hành công tác xây dựng kế hoạch
như sau:
- Hội ý ban giám hiệu, họp ban lãnh đạo mở rộng, lập “ Dự kiến kế hoạch
năm học”.
- Sau đó triển khai dự kiến kế hoạch này đến các tổ chuyên môn, các bộ phận
trong nhà trường. Tổ chức đại hội tổ, tiến hành đăng ký thi đua của cá nhân,
của tập thể , đang ký các chỉ tiêu về chất lượng dạy học. Các bản đăng ký thi
đua có mẫu của hội đồng thi đua nhà trường ban hành, trong đó thể hiện đầy
đủ nội dung các đợt thi đua, các cuộc vận động, chi tiết các chỉ tiêu dạy học
phải đạt được.
- Song song với việc lập kế hoạch, các tổ tiến hành bàn bạc, tìm các giải pháp
thực hiện kế hoạch của tổ mình, thống nhất lập thành “ Kế hoạch của tổ”,
trình hiệu trưởng nhà trường duyệt trước ngày tổ chức đại hội công nhân
viên chức của mỗi năm học.
- Hiệu trưởng nhà trường nghiên cứu và duyệt kế hoạch của mỗi tổ (trong đó
có đăng ký thi đua của mỗi thành viên tổ).Ban giám hiệu nhà trường hệ
thống, xem xét kế hoạch các tổ, điều chỉnh dự kiến kế hoạch, lập thành kế
hoạch của nhà trường, trình phòng GD & ĐT duyệt trớc ngày tổ chức đại hội
công nhân viên chức.
- Sau khi được phòng GD & ĐT duyệt kế hoạch, nhà trường tiến hành đại hội
công nhân viên chức. Thông qua đại hội, trở thành kế hoạch chính thức của
nhà trường trong năm học. Mọi thành viên trong nhà trường phải có biểu
quyết quyết tâm thực hiện tốt kế hoạch.
- Sau khi kế hoạch đã trở thành nghị quyết của đại hội CNVC, chúng tôi cụ
thể hóa kế hoạch cho từng kỳ, từng tháng, tuần, ... của năm học. Kế hoạch
này được in, potocopy gửi đến tận các tổ chuyên môn để chủ động trong quá

trình thực hiện.
Quy trình xây dựng kế hoạch của chúng tôi hết sức linh hoạt, giao quyền tự chủ
đến tận từng cán bộ, giáo viên nhà trường, mọi người đều được trực tiếp tham gia
5


xây dựng kế hoạch và đăng ký chỉ tiêu phấn đấu. Từ đó các cán bộ, giáo viên trong
toàn trường đều làm việc vì tự trọng, không cảm thấy áp lực.
Trường chúng tôi đã xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể đến từng nhóm đối
tượng học sinh, từng giáo viên. Yêu cầu giáo viên cũng phải lập kế hoạch giảng
dạy phù hợp cho học sinh của mình. Kế hoạch hoá với các chỉ tiêu mang tính thực
tiễn cao, thể hiện tinh thần trách nhiệm càng cao của nhà trường và giáo viên trong
công tác giáo dục. Thực tiễn, trường chúng tôi đã căn cứ thế mạnh cũng như hạn
chế của mình, mỗi năm học tự đề ra một khẩu hiệu hành động phản ánh mục tiêu
phấn đấu và tập trung nguồn lực đầu tư. Ví dụ như: “Nâng cao năng lực tự học của
học sinh”. Hoặc: “Đưa tin học vào nhà trường”. v. v.
Chỉ đạo giáo viên lập kế hoạch giảng dạy trên lớp mỗi ngày, mỗi tiết phù
hợp với tốc độ kiến thức cũng như đặc điểm tâm lý của các em học sinh. Giáo viên
có thể dự kiến câu hỏi cho học sinh giỏi để các em này điều chỉnh tính chủ quan,
tạo điều kiện để đối tượng học sinh giỏi hướng tới các mảng kiến thức cao hơn,
rộng hơn (rõ ràng giáo viên phải có chuẩn bị chu đáo mới đáp ứng cho các em).
Ngược lại, với học sinh yếu luôn tự ti, giáo viên chuẩn bị câu hỏi vừa sức để động
viên các em tự tin vào khả năng của mình. Ngoài ra, chúng tôi còn yêu cầu giáo
viên lập kế hoạch cho từng nhóm học sinh giỏi, khá, trung bình và yếu trong từng
giờ học.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch của nhà trường, của giáo viên chúng tôi
quan tâm làm sao để vừa thực hiện được kế hoạch, vừa mang tính phấn đấu và nỗ
lực cao nhất vì lương tâm và trách nhiệm của mình đối với học sinh. Nếu một giờ
dạy được giáo viên kế hoạch hoá với những hoạt động cần thiết của cả thầy và trò
dù chỉ trên một trang giấy thì cũng phục vụ thiết thực cho quá trình đổi mới

phương pháp rất nhiều, giáo viên không cần chép trong giáo án nhiều những điều
khi dạy không dùng đến và không đáp ứng những gì học sinh đang chờ đợi, sự tự
chủ trong một giờ dạy của giáo viên chỉ có được khi đi kèm với công tác kế hoạch
hoá việc dạy học.
b) Giao quyền tự chủ cho giáo viên: Chúng tôi tạo điều kiện cho giáo viên
có thể tự tin trong quá trình cụ thể hoá "phân phối chương trình" giảng dạy, để giáo
viên chủ động trong việc giảng dạy dựa trên chương trình, chuẩn kiến thức, kĩ năng
được Bộ Giáo dục - Đào tạo quy định. Nói cách khác là trước đây giáo viên bị thụ
động chưa được giao quyền tự chủ kế hoạch, chưa có hướng dẫn cụ thể nên giáo
viên chưa dám áp dụng các biện pháp dạy riêng cho từng nhóm học sinh mà chỉ
quan tâm đến trình độ chung của cả lớp. Vì vậy. số học sinh yếu, học sinh chậm
phát triển trong lớp thường ít được giáo viên quan tâm. Để đảm bảo chạy được
giáo án mẫu của mình, giáo viên đành phải “làm ngơ” trước số học sinh không
theo kịp các bạn trong lớp. Khi có người dự giờ thì học sinh kém càng không được
giáo viên chú ý đến. Việc giao quyền tự chủ cho giáo viên theo tinh thần công văn
số 869 của Bộ Giáo dục - Đào tạo là để giúp chúng tôi và giáo viên tháo gỡ vấn đề
trên.
6


Thực tiễn, trong quá trình quản lý ở những năm gần đây, chúng tôi rất tôn
trọng quyền tự chủ của giáo viên, chúng tôi quan tâm nhiều đến hiệu quả công
việc, chất lượng học sinh mà không nặng nề một cách máy móc về hồ sơ, về quá
trình “trình giảng” trong các giờ dạy thực tập, dạy thao giảng hay dự giờ đột xuất.
c) Tăng cường chỉ đạo quản lý sử dụng thiết bị dạy học: Quản lý và chỉ đạo
sử dụng có hiệu quả các thiết bị dạy học là một nhiệm vụ rất cần thiết. Thông qua
các tổ, nhóm chuyên môn, chúng tôi nắm vững kế hoạch sử dụng các thiết bị dạy
học của giáo viên và đánh giá được hiệu quả của việc sử dụng các thiết bị dạy học
nhằm đổi mới phương pháp dạy học. Việc quản lý sử dụng các thiết bị dạy học
không chỉ mang lại hiệu quả thiết thực trong giảng dạy đối với giáo viên mà còn

giúp nhà quản lý đánh giá rút kinh nghiệm để có những bài học chỉ đạo nâng cao
chất lượng dạy học.
Chúng tôi hướng dẫn cho cán bộ thiết bị thư viện có sổ theo dõi việc mượn,
trả, làm đồ dùng dạy học, nhằm giúp hiệu trưởng nắm tình hình sử dụng đồ dùng
dạy học. Các đồng chí phó hiệu trưởng trực tiếp chỉ đạo phong trào sưu tầm hoặc
tự làm thiết bị dạy học đơn giản nhằm phục vụ cho yêu cầu đổi mới phương pháp
dạy học. Khuyến khích giáo viên căn cứ vào đặc trưtng bộ môn giảng dạy để sưu
tầm, thiết kế các đồ dùng dạy học góp phần tích cực hoá hoạt động học của học
sinh Tiểu học.
d) Đổi mới trong đánh giá xếp loại giáo viên và học sinh:
Thực trạng từ trước đến nay, chúng tôi đã đánh giá xếp loại giáo viên thông
qua các giờ thao giảng truyền thống, giáo viên trình diễn các bước lên lớp theo quy
trình từ giáo án mẫu được sắp xếp sẵn mà chưa đánh giá hiệu quả giờ dạy dựa trên
hiệu quả học tập của học sinh.
Những năm gần đây, chúng tôi đã tổ chức đánh giá xếp loại giáo viên thông qua
hiệu quả dạy học. Trong một giờ dạy, giáo viên đã truyền tải cho các đối tượng học
sinh khá giỏi, học sinh trung bình, học sinh yếu kém nắm được những kiến thức kĩ
năng gì? Giáo viên đã sử dụng những hình thức dạy học nào phù hợp với các đối
tượng học sinh, kiểm soát được hoạt động nhận thức của các đối tượng học sinh
trong lớp. Từ đó chúng tôi xét đến phương pháp dạy học của giáo viên đã phù hợp
chưa? và xây dựng được kế hoạch dạy cho lần sau sát với thực tế hơn. Giáo viên có
bao quát được lớp học hay không? Lúc đó, học sinh từ trung bình trở lên mới học
đúng với chương trình và bổ trợ thêm kiến thức nâng cao cho học sinh khá giỏi,
học sinh yếu kém phải được giáo viên uốn nắn giúp đỡ, bồi dưỡng thêm kiến thức
mà các em còn thiếu so với các bạn. Quá trình đánh giá xếp loại giáo viên chúng
tôi phải căn cứ vào hiệu quả tiết học và kết quả học tập của học sinh trong tiết học
đó, xa hơn là kết quả trong năm học.
Trong quá trình kiểm tra hồ sơ giáo viên ( có thể định kỳ hoặc đột xuất), chúng tôi
quan tâm đến tính khả thi của kế hoạch dạy học, quan tâm đến kế hoạch dành cho


7


các đối tượng học sinh , ... ( có khi chỉ là các gạch đầu hàng nhưng có giá trị thực
tiễn cao) mà không nặng nề việc “trình bày đẹp” các bước lên lớp hay.
Đối với cách quản lý điểm học lực của học sinh: Mặc dù, quy định việc lên
lớp của học sinh chỉ dựa vào kết quả kiểm tra định kỳ lần thứ IV là để giảm nhẹ
các áp lực cho cả người dạy và người học. Nhưng chúng tôi đã quán triệt trong
giáo viên: Điểm số hàng ngày (hoặc nhận xét) của thầy cô giáo nên là sự động
viên, khích lệ lớn đối với học sinh, là căn cứ theo dõi học sinh. Đánh giá của giáo
viên là thông tin giá trị lớn nhất nên mỗi kỳ KTĐK diễn ra, nếu kết quả của học
sinh nào đó có dấu hiệu bất thường thì giáo viên lớp đó có thể đề nghị xem xét
(trường hợp bất thường) cho học sinh đó được phép kiểm tra lại ( theo thông tư 32
của Bộ). Vì thế, giáo viên tuyệt đối không phê bình hoặc nói cái xấu của học sinh
trước lớp vào bất cứ lúc nào, chỉ nên nói riêng với cha me học sinh.
e) Tích cực phát động các phong trào thi đua: "Thi đua dạy tốt và học tốt" là
phong trào do Bác Hồ phát động. Chúng tôi quan tâm tổ chức thi đua để mọi người
có thể mang hết tâm huyết và trí tuệ của mình cống hiến cho sự nghiệp trồng
người. Điều quan trọng bậc nhất trong công tác quản lý là khen đúng người, phê
phán đúng cái sai. Người tốt phải được tôn trọng, bảo vệ cũng như được tạo điều
kiện phát triển, dù chỉ là ở góc độ tinh thần thôi cũng đủ làm cho họ quyết tâm
phân đấu. Người chưa tốt phải được bồi dưỡng, người sai phải kiểm điểm, khiển
trách. Khen thưởng cho những giáo viên, học sinh có thành tích xuất sắc. Chúng
tôi chủ động thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách, quyền lợi mà giáo viên được
hưởng cũng như nghĩa vụ giáo viên phải thực hiện.
Quy chế nội bộ, quy chế chuyên môn của nhà trường được xây dựng từ đầu năm
học, theo đó chế độ thưởng - phạt cũng được quy định rõ ràng. Mỗi giáo viên đạt
CSTĐ các cấp đều được thưởng 300.000đ/1đ.c ( ngoài chế độ nhà nước). Mỗi học
sinh giỏi các cấp đều được thưởng quà có ý nghĩa, giáo viên có học sinh giỏi các
cấp được thưởng theo đơn vị học sinh 50.000đ/1em, .... Tuy giá trị vật chất còn hạn

chế song lễ phát thưởng cho giáo viên và học sinh của mỗi năm học được tổ chức
trang trọng, đặc biệt hơn nữa là giáo viên có thành tích xuất sắc sẽ được quan tâm
hơn trong quá trình phân công nhiệm vụ cho năm học sau. Hoạt động này của
chúng tôi đã góp phần động viên không nhỏ đến quá trình phấn đấu của giáo viên
và học sinh toàn trường. Không những thế mà chúng tôi còn làm cho các lực lượng
xã hội cũng tích cực tham gia động viên phong trào dạy học của nhà trường, như:
hội phụ huynh, các đoàn thể trên địa bàn, các doanh nghiệp cũng như các nhà hảo
tâm, ... thường cũng có quà tặng, thưởng cho giáo viên và học sinh.
g) Tích cực chỉ đạo tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp: Nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, chúng tôi xác định: Học sinh đến trường không
chỉ học tập các môn học văn hóa mà còn phải được tham gia vào các hoạt động
ngoài giờ lên lớp là hai mặt quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau, thúc đẩy lẫn nhau.
Tổ chức hiệu quả nhiệm vụ học tập - dạy học và kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên
lớp là điều kiện cần và đủ để nhà trường hoàn thành tốt mục tiêu dạy học của mình
8


trong giai đoạn hiện nay. Kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp được xây dựng,
phối hợp giữa các tổ trưởng chuyên môn, các giáo viên chủ nhiệm và đồng chí
tổng phụ trách Đội, được ban giám hiệu nhà trường xét duyệt rồi mới triển khai.
Kế hoạch được lập theo kỳ, tháng và tuần, có kèm theo quy định khen thưởng cho
mỗi hoạt động.
- Hoạt động văn hoá nghệ thuật: là một loại hình quan trọng, không thể thiếu
được trong hoạt động tập thể của trẻ ở trường Tiểu học. Đó là nhu cầu, là món ăn
tinh thần của bất kỳ đứa trẻ nào. Hoạt động văn hoá nghệ thuật có sức mạnh thu
hút trẻ em, làm cho cuộc sống của trẻ em luôn luôn vui tươi, phấn khởi. Chúng tôi
chỉ đạo cho Đội TNTP Hồ Chí Minh phối hợp với Đoàn TN CS Hồ Chí Minh
thường xuyên tổ chức tốt các hoạt động này. Đến nay, 100% các chi đội đều có đội
văn nghệ. Tất cả các sao nhi đồng đều sẵn sàng biểu diễn văn nghệ khi được giới
thiệu. Liên đội có đội văn nghệ khá “chuyên nghiệp”, thường xuyên tham gia trong

các lễ lớn không chỉ của nhà trường mà còn phục vụ cho Thành phố khi cần.
- Hoạt động văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao: Chúng tôi xác định là một
nhu cầu cần thiết của trẻ, đồng thời là một quyền lợi của các em. Điều 31 trong
nhóm "Quyền được phát triển của trẻ em" trong Công ước về Quyền của trẻ em đã
chỉ rõ "Các quốc gia thành viên công nhận quyền trẻ em được nghỉ ngơi và tiêu
khiển, được tham gia vào những hoạt động giải trí phù hợp với lứa tuổi, được tự do
tham gia sinh hoạt văn hoá nghệ thuật". Chúng tôi có quyết định thành lập ban chỉ
đạo công tác giáo dục thể chất ( trong đó có chỉ đạo công tác bồi dưỡng phong trào
thể dục thể thao). Giao nhiệm vụ cho đồng chí Tổng phụ trách Đội và đồng chí
giáo viên dạy các môn nghệ thuật phát hiện và bồi dưỡng các học sinh có năng
khiếu, duy trì phòng trào văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao thường xuyên, thông
qua các giờ chơi, các buổi sinh hoạt tập thể, các cuộc thi: “ trò chơi dân gian”, “
Rung chuông vàng”, hội khoẻ phù đổng các cấp, … Đến nay, chúng tôi đã phát
hiện và giới thiệu cho ngành, cho Sở TDTT tỉnh nhà nhiều học sinh có năng khiếu
bóng đá, cờ vua, bóng bàn, .. Trong năm học này, chúng tôi có 01 em học sinh lớp
3 đạt giải nhì bóng bàn HKPĐ TP, 02 em sẽ tham gia HKPĐ toàn quốc bộ môn
bóng đá.
- Chúng tôi thường xuyên tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí: góp phần
không nhỏ vào việc rèn luyện tính tổ chức, kỷ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm,
lòng nhân ái, tình thương yêu bạn bè, khả năng tự quản.
- Hoạt động xã hội: Chúng tôi đã đưa trẻ tham gia vào các hoạt động xã hội
là tạo điều kiện cho các em nâng cao hiểu biết từ xã hội giúp các em thực hành
trong cuộc sống. Thông qua các hoạt động xã hội, giáo dục cho các em tình yêu
quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc và giáo dục các em có tinh thần trách
nhiệm, có nghĩa vụ đối với cộng đồng. Học sinh trường chúng tôi tham gia “ Chăm
sóc và bảo vệ” di tích lịch sử “Thành cổ”, tham gia chương trình văn nghệ chào
mừng đại lễ Phật đản tại Chùa Cần Linh, … đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp.
9



- Hoạt động lao động công ích: được chúng tôi xác định là một loại hình đặc
trưng của hoạt động ngoài giờ lên lớp. Thông qua lao động công ích, trẻ em sẽ gắn
bó với đời sống xã hội, với công cuộc xây dựng đất nước. Đồng thời góp phần làm
cho trẻ hiểu thêm về giá trị của lao động. Từ đó giúp trẻ có ý thức lao động lành
mạnh. Các phong trào “Lợn nhựa tiết kiệm”, “Áo lụa tặng bà”, “ Mua tăm ủng hộ
người mù”, … được học sinh trường chúng tôi thực hiện tốt.
- Hoạt động thực hành khoa học - kỹ thuật: đối với học sinh Tiểu học hoạt
động thực hành khoa học sẽ giúp các em tiếp cận được với những thành tựu khoa
học - công nghệ tiên tiến của nhân loại, của đất nước, của địa phương. Điều đó sẽ
tạo cho các em có niềm tin, kích thích học tập và mong muốn đạt được kết quả học
tập tốt hơn. Có nhiều hình thức hoạt động tập thể như: thi hỏi đáp về hiện tượng
của tự nhiên và xã hội, sưu tầm các loại cây thuốc quý, tìm hiểu các danh nhân, các
nhà bác học, những tấm gương say mê phát minh, sáng chế, nghe nói chuyện về
các thành tựu khoa học - kỹ thuật, tham gia sinh hoạt câu lạc bộ . . .
- Sau mỗi hoạt động, chúng tôi có đánh giá, khen chê kịp thời nhằm duy trì
tốt hoạt động.
h) Tăng cường tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày: Chúng tôi đã xác định được:
dạy học 2 buổi/ ngày là một chủ trương đúng đắn nhằm đảm bảo mục tiêu chất
lượng toàn diện của giáo dục Tiểu học. Dạy học 2 buổi/ ngày là yếu tố quan trọng
nhất trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng dạy học, đây cũng được coi là tâm
điểm của sự nghiệp đổi mới giáo dục Tiểu học vì tổ chức dạy 2 buổi/ ngày sẽ tác
động lớn đến các thành tố của dạy học. Dạy học 2 buổi/ ngày sẽ có điều kiện mang
đến cho trẻ em những giờ học nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả, phù hợp với đăc điểm
tâm sinh lí trẻ em, góp phần hình thành ở các em những cơ sở ban đầu cho sự hình
thành nhân cách của con người, phù hợp với đặc điểm của xã hội hiện đại: tự tin,
năng động, giàu lòng nhân ái, có khả năng hợp tác và hội nhập. Tính đến nay,
trường chúng tôi có 100% số lớp thực hiện dạy 2 buổi/ ngày có hiệu quả đáng ghi
nhận. Quá trình triển khai thực hiện, chúng tôi quan tâm:
- Về cơ chế chính sách: theo thông tư 35/2006/TTLB - BGDĐT - BNV quy
định biên chế giáo viên dạy các lớp 2 buổi/ ngày.

- Vấn đề cơ sở vật chất phục vụ dạy học: dựa trên tình hình cơ sở vật chất
sẵn có đồng thời các chương trình, dự án tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất nhà
trường, cung cấp trang thết bị dạy học cho giáo viên và học sinh, tham mưu với địa
phương đầu tư đúng mức cho hoạt động dạy - học của nhà trường.
- Chúng tôi thường xuyên quan tâm đội ngũ giáo viên đủ về số lượng,
thường xuyên được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ.
2. Giải pháp : Bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Tiểu
học.
2.1) Bồi dưỡng nhận thức về vai trò, trách nhiệm của giáo viên Tiểu học.
10


Giáo viên trường chúng tôi đã và đang xác định được: Đội ngũ giáo viên
Tiểu học là lực lượng chủ yếu, trực tiếp tổ chức thực thi quá trình dạy học ở trường
Tiểu học. Họ là người góp phần quyết định trong việc thực hiện hoạt động dạy và
học có chất lượng, thực hiện phổ cập giáo dục Tiểu học. Trường Tiểu học gắn liền
với cộng đồng, hoạt động của giáo viên Tiểu học ở trong và ngoài nhà trường có
ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt văn hoá và đời sống nhân dân địa phương. Học
sinh Tiểu học chịu ảnh hưởng rất nhiều ở thầy, cô giáo. Thầy giáo có uy tín, có tài
năng sư phạm sẽ tạo nên hứng thú học tập cho học sinh, từ đó sẽ định hướng, tác
động các em trong việc xây dựng ý thức, thái độ học tập, hình thành nhân cách.
Thầy giáo giúp học sinh đánh giá đúng khả năng, năng lực học tập của mình.
Người thầy cũng là điểm tựa vững chắc để từ đó giúp các em vượt qua mọi khó
khăn, vươn lên trong học tập nhằm đạt kết quả cao. Ông cha ta thường nói: "Không
thầy đố mày làm nên", thực tế cho thấy phải có thầy giỏi mới có trò giỏi. Thầy say
sưa với chuyên môn, tâm huyết với nghề nghiệp thì trò mới say mê học tập và học
tập có kết quả. Như vậy có thể nói, ở bậc Tiểu học, ngoài việc truyền thụ kiến thức
người thầy có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách, lòng say mê học
tập, thiên hướng nghề nghiệp để định hướng cho tương lai của học sinh. Vì vậy để
việc giảng dạy ở bậc học của mình, ở lớp mình phụ trách sao cho có hiệu quả, giáo

viên phải coi trọng việc tự học tự bồi dưỡng để có chất lượng giảng dạy đích thực.
Chúng tôi nắm chắc và quán triệt trong tập thể giáo viên: Chỉ thị 40 của Ban
bí thư Trung ương Đảng "Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu,
đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất lối sống, lương tâm, tay
nghề của nhà giáo". Như vậy, điều cốt lõi để xây dựng, nâng cao chất lượng đội
ngũ nhà giáo, trong đó có đội ngũ giáo viên Tiểu học là: "Chú trọng nâng cao bản
lĩnh chính trị, phẩm chất lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo". Chuẩn nghề
nghiệp giáo viên Tiểu học đối với các yêu cầu về phẩm chất đạo đức, tư tưởng
chính trị, kiến thức kĩ năng sư phạm. Chính vì thế chúng tôi động viên giáo viên
bồi dưỡng theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên Tiểu học và coi việc bồi dưỡng theo
chuẩn là một giải pháp tích cực trong việc xây dựng đội ngũ giáo viên Tiểu học.
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Tiểu học cần phải gắn với công
tác bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên các Tiểu
học. Cũng như bất kỳ ngành nghề nào khác, trình độ đào tạo ban đầu của người
giáo viên chỉ là điểm xuất phát, là vốn kiến thức, kĩ năng khởi nghiệp. Trong suốt
quá trình dạy học phải luôn nâng cao năng lực nghề nghiệp của mình qua con
đường tự học, qua các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, dài hạn, qua các hội thảo trao đổi
kinh nghiệm. Vì vậy, chúng tôi xác định: công tác bồi dưỡng giáo viên phải được
duy trì thường xuyên, liên tục, là nhiệm vụ cực kì quan trọng quyết định chất lượng
đội ngũ giáo viên, chất lượng của giáo dục của các nhà trường Tiểu học nói riêng
và chất lượng giáo dục nói chung.

11


Hiệu trưởng quán triệt với giáo viên: Năng lực nghề của giáo viên Tiểu học
gắn liền với con đường tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên. Chuẩn nghề nghiệp
giáo viên Tiểu học sẽ là những chuẩn mực để giáo viên thấy mình sẽ đạt được
những nội dung nào của chuẩn hoặc thấy mình còn thiếu gì so với chuẩn để xác

định nhu cầu và có kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng dưới sự hướng dẫn của nhà
trường, của ngành.
2.2) Bồi dưỡng về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống.
Hiệu trưởng nhà trường vừa là bí thư chi bộ. Bồi dưỡng về phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống cho giáo viên đó là việc làm thường xuyên và rất quan trọng.
Thông qua việc học tập, nghiên cứu các Nghị quyết của Đảng, tìm hiểu về pháp
luật của Nhà nước cũng như tiếp thu các quy định của ngành, của địa phương,
thông qua các lớp bồi dưỡng về chính trị, về chuyên môn và thực tiễn công tác
giảng dạy. Chúng tôi đã yêu cầu giáo viên phải nhận thức tư tưởng chính trị với
trách nhiệm của một công dân, một nhà giáo đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ Quốc. Đó là tham gia các hoạt động xã hội, xây dựng và bảo vệ quê hương đất
nước góp phần phát triển đời sống văn hoá cộng đồng, giúp đỡ đồng bào gặp hoạn
nạn trong cuộc sống. Yêu nghề, tận tuỵ với nghề, sẵn sàng khắc phục khó khăn
hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục học sinh. Qua hoạt động dạy học, giáo dục học
sinh biết yêu thương và kính trọng ông bà, cha mẹ, người cao tuổi, giữ gìn truyền
thống tốt đẹp của người Việt Nam, nâng cao ý thức bảo vệ độc lập tự do, lòng tự
hào dân tộc, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Tham gia học tập nghiên cứu các
Nghị quyết của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước.
Cán bộ, giáo viên trường chúng tôi luôn chấp hành đầy đủ các quy định của
pháp luật, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Thực hiện nghiêm túc các
quy định các quy định của địa phương, liên hệ thực tế để giáo dục học sinh ý thức
chấp hành pháp luật và giũ gìn trật tự an ninh xã hội nơi công cộng. Vận động gia
đình chấp hành các chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định
của địa phương. Hằng năm chúng tôi quan tâm đến việc đánh giá nhận xét của địa
bàn có GV của chúng tôi cư trú, quan tâm xem gia đình các nhà giáo có đạt gia
đình văn hoá hay không? Đây được coi là một tiêu chí thi đua.
Chúng tôi yêu cầu: Giáo viên phải có đạo đức, nhân cách và lối sống lành
mạnh, trong sáng, có tinh thần đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, ý thức phấn
đấu vươn lên trong nghề nghiệp, sự tín nhiệm của đồng nghiệp, học sinh và cộng
đồng. Không làm các việc vi phạm phẩm chất, uy tín của nhà giáo, không xúc

phạm danh dự, nhân phẩm đồng nghiệp, nhân dân và học sinh. Sống trung thực,
lành mạnh, giản dị, gương mẫu, được đồng nghiệp, nhân dân và học sinh tín
nhiệm. Không có những biểu hiện tiêu cực trong cuộc sống, trong giảng dạy giáo
dục. Có tinh thần tự học, phấn đấu nâng cao phẩm chất, đạo đức, trình độ chính trị
chuyên môn, nghiệp vụ, thường xuyên rèn luyện sức khoẻ. Các yêu cầu này được
quan tâm đúng mực thông qua việc thực hiện quy trình đánh giá xếp loại giáo viên
cuối mỗi năm học, tổ chức nghiêm túc, chặt chẽ.
12


2.3) Bồi dưỡng về kiến thức.
Bồi dưỡng thông qua tự học và thông qua các lớp ngắn hạn, dài hạn, thông
qua chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng thay sách và thực tiễn công
tác người giáo viên phải nắm vững mục tiêu, nội dung cơ bản của chương trình,
sách giáo khoa của các môn học được phân công giảng dạy. Kiến thức cơ bản
trong các tiết dạy đảm bảo đúng, đủ, chính xác, có hệ thống. Có khả năng hướng
dẫn đồng nghiệp một số kiến thức chuyên sâu về một môn học hoặc có khả năng
bồi dưỡng học sinh giỏi, giúp đỡ học sinh yếu hay học sinh còn nhiều hạn chế trở
nên tiến bộ.
Chúng tôi bồi dưỡng kiến thức về tâm lý học sư phạm và tâm lý học lứa
tuổi, giáo dục Tiểu học. Bao gồm hiểu biết về đặc điểm tâm lý, sinh lý của học
sinh Tiểu học kể cả học sinh khuyết tật, học sinh có hoàn cảnh khó khăn, vận dụng
được các hiểu biết đó vào hoạt động dạy học và giảng dạy phù hợp với đối tượng
học sinh. Nắm được kiến thức về tâm lý học lứa tuổi, sử dụng các kiến thức đó để
lựa chọn phương pháp giảng dạy, cách ứng xử sư phạm trong giáo dục phù hợp với
học sinh. Có kiến thức về giáo dục học, vận dụng có hiệu quả các phương pháp
giáo dục đạo đức, tri thức thẩm mỹ, thể chất và hình thức tổ chức dạy học trên lớp.
Thực hiện phương pháp giáo dục học sinh cá biệt có kết quả.
Chúng tôi yêu cầu giáo viên, cán bộ trong toàn trường phải hiểu biết kiến
thức địa phương về nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội của địa phương nơi

giáo viên công tác. Tham gia đầy đủ các lớp bồi dưỡng về tình hình chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội và các Nghị quyết của địa phương. Nghiên cứu tìm hiểu tình
hình và nhu cầu phát triển giáo dục Tiểu học ở phường Cửa Nam. Xác định được
những ảnh hưởng của gia đình và cộng đồng tới việc học tập và rèn luyện đạo đức
của học sinh để có biện pháp thiết thực, hiệu quả trong giảng dạy và giáo dục học
sinh. Có hiểu biết về phong tục tập quán, các hoạt động thể thao, văn hoá, lễ hội
truyền thống của địa phương.
2.4) Bồi dưỡng về kỹ năng sư phạm
Bồi dưỡng thông qua các chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng
chuẩn hoá . . . Đặc biệt là thông qua tổ chức dự giờ thăm lớp, thi giáo viên dạy
giỏi, tổ chức đúc rút kinh nghiệm và ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm, tổ chức các
hội thảo, sinh hoạt chuyên môn nhằm giúp cho tất cả các giáo viên lập được kế
hoạch dạy học, biết cách soạn giáo án theo hướng đổi mới, tự chủ, xây dựng được
kế hoạch dạy học giảng dạy cả năm học thể hiện các hoạt động dạy học nhằm cụ
thể hoá chương trình của Bộ phù hợp với đặc điểm của nhà trường và lớp được
phân công dạy.
Lập được kế hoạch tháng dựa trên kế hoạch năm học bao gồm hoạt động
chính khoá và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Có kế hoạch dạy học từng
tuần thể hiện lịch dạy các tiết học và các hoạt động giáo dục học sinh. Soạn giáo án
theo hướng đổi mới, linh hoạt và tự chủ thể hiện các hoạt động dạy học tích cực
13


của thầy trò. Các tổ chuyên môn có báo cáo cụ thể sau mỗi hội thảo quy mô nhỏ về
việc thống nhất các nội dung tự chủ, giảm tải, … phù hợp thực tiễn, sau đó chuyên
môn nhà trường báo cáo hiệu trưởng bằng văn bản để theo dõi thực hiện.
Hiệu trưởng chỉ đạo công tác chủ nhiệm lớp, chỉ đạo tổ chức các hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp. Duyệt kế hoạch công tác chủ nhiệm gắn với kế hoạch
dạy học, có các biện pháp giáo dục, quản lý học sinh một cách cụ thể, phù hợp với
đặc điểm học sinh của lớp. Tổ chức dạy học theo nhóm đối tượng đúng thực chất,

không mang tính hình thức. Phối hợp với Tổng phụ trách tạo điều kiện để Đội
thiếu niên, Sao nhi đồng thực hiện các hoạt động tự quản.
2.5) Bồi dưỡng về đổi mới cách dạy và học.
Việc đổi mới cách dạy và học được quy định trong công văn số
869/BGD&ĐT - GDTH ngày 13/06/2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thật ra
giáo viên đều hiểu rằng đây là việc làm cần làm và phải làm thường xuyên. Chúng
tôi đã chú trọng các nội dung mà giáo viên phải quan tâm như sau:
- Cải tiến cách soạn giáo án.
- Thực hiện quyền tự chủ của giáo viên trong quá trình dạy học: Nghề dạy
học có đặc thù riêng, đối tượng lao động của giáo viên là học sinh. Vì vậy trên bục
giảng giáo viên phải biết khơi nguồn cho học sinh cảm thụ kiến thức, hành vi, cách
ứng xử giáo viên dẫn dắt học sinh đạt tới trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Tất
nhiên, để có được cách làm này giáo viên phải chịu vất vả và chịu trách nhiệm về
nội dung lẫn chất lượng giảng dạy đối với từng học sinh trong lớp.
2.6) Bồi dưỡng về cách dạy cho học sinh phương pháp học
Một trong những biểu hiện trình độ nghiệp vụ cao thể hiện ở chỗ vừa đi sâu
vào được nội dung các môn học, vừa đi sâu vào việc học, nhằm hình thành cho bản
thân một quan điểm về học của học sinh. Lâu nay đào tạo trong các trường sư
phạm, cũng như các chương trình bồi dưỡng giáo viên được triển khai thường tập
trung vào nội dung hoạt động dạy. Dĩ nhiên việc thiết kế hoạt động dạy có tính đến
những quy luật hoạt động học, trên quan điểm dạy - học là hai mặt thống nhất của
một quá trình dạy học. Trong đó, hoạt động dạy chỉ đạo hoạt động học. Thực hiện
nội dung chương trình giáo dục mới đòi hỏi phải dạy cách học tích cực, chủ động
sáng tạo theo yêu cầu của thời đại và quan điểm học tập suốt đời, giáo viên gặp
phải nhiều khó khăn do thiếu những hiểu biết sâu sắc về hoạt động học.
Chúng tôi giúp giáo viên xác định đổi mới đòi hỏi giáo viên thực hiện chức
năng dạy học cơ bản là “dạy cách học”. Khi đó, "dạy phương pháp học trở thành
một mục tiêu dạy học chứ không phải chỉ là một phương tiện, một biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy học” .
Để bồi dưỡng cách dạy phương pháp học cho giáo viên tiểu học, chúng tôi bổ

sung cập nhập cho giáo viên trường chúng tôi nội dung, trí tuệ và sự phát triển trí
tuệ của học sinh tiểu học; các thuyết phát triển tâm lý người; các lý thuyết về quá
14


trình học, tự học và học tập hợp tác (học tự học, vai trò vị trí tự học, điều kiện tự
học, các kiểu tự học, kỹ năng tự học, học tập hợp tác theo nhóm nhỏ); lý thuyết
hoạt động và sự vận dụng vào dạy học ở tiểu học; chức năng dạy phương pháp học
tập của người giáo viên; phương pháp, kỹ năng tổ chức chỉ đạo giám sát đánh giá
hoạt động học của học sinh.v.v. Những nội dung trên cần được xây dựng thành
chuyên đề bồi dưỡng và được thực hiện trong các kỳ bồi dưỡng giữa kỳ của mỗi
năm học.
Trong trường chúng tôi còn thành lập các câu lạc bộ chuyên môn, tìm kiếm
thông tin bổ ích trên mạng Internet và người sàng lọc thông tin (Khi có vấn đề) là
Hiệu trưởng. Giáo viên chúng tôi hầu hết đều là thành viên của trang Violet,
thường xuyên trao đổi và viết bài, rất giá trị cho quá trình tự học, tự bồi dưỡng.
Toàn trường có 80% giáo viên sử dụng tốt hộp thư điện tử, trao đổi kiến thức
chuyên môn qua hộp thư.
3. Giải pháp: Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực của học sinh
3.1) Nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học.
Đổi mới cách thực hiện phương pháp dạy học là vấn đề then chốt của chính
sách đổi mới giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đổi mới cách thực hiện
phương pháp dạy học sẽ làm thay đổi tận gốc nếp nghĩ nếp làm của các thế hệ học
trò-chủ nhân tương lai của đất nước. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học sẽ tác
động vào mọi thành tố của quá trình dạy học, tạo ra sự hiện đại hóa của quá trình
này.
Chúng tôi xác định cho giáo viên: mục đích cuối cùng của đổi mới phương
pháp dạy học là làm thế nào để học sinh phải thực sự tích cực, chủ động tự giác,
luôn luôn trăn trở tìm tòi, suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và

lĩnh hội cả cách thức để có được tri thức ấy, nhằm phát triển và hoàn thiện nhân
cách của mình. Đổi mới phương pháp dạy học không phải là sự thay thế các
phương pháp quen thuộc hiện có bằng những phương pháp mới lạ. Thực chất
chúng ta phải hiểu lại cho đúng cách làm, cách tiến hành các phương pháp dạy học
và cách linh hoạt sáng tạo trong sử dụng nó ở những hoàn cảnh và tình huống khác
nhau để những phương pháp dạy học có tác động tích cực đến người học. Ngoài ra,
cùng với sự phát triển của phương tiện dạy học và của chính khoa học về phương
pháp dạy học, một số phương pháp dạy học hiện đại cũng cần được bổ sung trong
quá trình dạy học của giáo viên.
3.2) Những định hướng chính trong đổi mới cách thực hiện phương pháp
dạy học.
a) Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy cao độ tính tích cực
chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình lĩnh hội tri thức.
b) Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng kết hợp một cách nhuần nhuyễn
và sáng tạo các phương pháp dạy học khác nhau (truyền thống và hiện đại sao cho
15


vừa đạt được mục tiêu dạy học vừa phù hợp với đối tượng và điều kiến thực tiễn
của cơ sở.
c) Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển khả năng tự học của
học sinh
d) Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng kết hợp hoạt động cá nhân với
hoạt động nhóm và phát huy khả năng của cá nhân.
e) Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tăng cường năng thực hành.
g) Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng sử dụng phương tiện kĩ thuật
hiện đại vào dạy học.
h) Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng đổi mới cả phương pháp kiểm
tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh.
i) Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng đổi mới cách thiết kế bài dạy,

lập kế hoạch bài học và xây dựng mục tiêu bài học:
4. Giải pháp: Tăng cường quản lý cơ sở vật chất trường Tiểu học
Công tác quản lý cơ sở vật chất nhà trường được xác định: là điều kiện không
thể thiếu được trong quá trình sư phạm, nó góp phần quan trọng .trong sự thành bại
của quá trình sư phạm. Chất lượng dạy học cao hay thấp phụ thuộc một phần vào
cơ sở vật chất sư phạm của nhà trường. Cơ sở vật chất sư phạm là tất cả các
phương tiện vật chất cần thiết được giáo viên và học sinh sử dụng vào hoạt động
dạy học nhằm đạt được mục tiêu dạy học đã đặt ra. Khái niệm cơ sở vật chất sư
phạm ngày càng có nội hàm mở rộng trên cơ sở yêu cầu giáo dục toàn diện, nâng
cao chất lượng dạy học và những đổi mới về nội dung chương trình, phương pháp
hình thức tổ chức dạy học.
Cơ sở vật chất là một bộ phận cấu thành quá trình sư phạm. Mối quan hệ của
các thành tố tạo nên quá trình sư phạm.
Trong nhiều năm qua, chúng tôi đã, đang làm tốt công tác xã hội hoá nhằm
xây dựng tốt cơ sở vật chất nhà trường, đảm bảo phục vụ tốt cho quá trình dạy,
học..
5. Giải pháp: Xã hội hóa và huy động cộng động tham gia phát triển giáo dục
góp phần nâng cao chất lượng dạy học
5.1) Nhận thức về công tác xã hội hóa và huy động cộng đồng tham gia
phát triển giáo dục
Bậc Tiểu học là một bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, nó gắn
liền với chính sách dân trí và thực hiện luật phổ cập giáo dục, vì vậy nhà nước có
chính sách đầu tư và quan tâm rất lớn để xây dựng và phát triển giáo dục Tiểu học,
nhà trường Tiểu học. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế xã hội còn có nhiều khó
khăn; do yêu câu phát triển bậc học ngày càng cao, nhà nước không thể "bao cấp"
kịp. Mặt khác, giáo dục Tiểu học liên quan đến từng gia đình và nó gắn chặt với
16


cộng đồng địa phương. Vì vậy, nhiều bài toán quản lý giáo dục Tiểu học, nhà

trường Tiểu học không thể giải theo kiểu "tập trung hóa" và phải giải theo tư tưởng
"xã hội hóa và huy động cộng đồng". Song một kinh nghiệm cần khẳng định: Dù
được sự đồng thuận cao của các lực lượng xã hội, đặc biệt phụ huynh học sinh thì
nhà trường cũng không được đốt cháy giai đoạn mà phải đảm bảo đúng quy trình
của “ công tác xã hội hoá” mà UBND T.P cũng như ngành GD T.P đã quy định.
Do vậy, vai trò của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương không thể thiếu
được trong cuộc vận động xã hội hóa công tác giáo dục và công tác huy động cộng
đồng. Xã hội hóa công tác giáo dục là một cuộc huy động toàn xã hội phát huy sức
mạnh tổng hợp của mọi nhân tố, mọi lực lượng xã hội. Vì vậy nhà trường phải giữ
vai trò chủ động, nòng cốt trong cuộc vận động xã hội hóa công tác giáo dục và
triển khai quá trình huy động cộng đồng tham gia xây dựng và phát triển giáo dục
Tiểu học nói chung, nhà trường tiểu học nói riêng.
5.2) Các biện pháp huy động cộng đồng tham gia phát triển giáo dục
Nhiều năm qua, mỗi năm học mới đến chúng tôi đã tiến hành làm công tác xã
hội hoá rất tốt, đã và đang được UBND địa phương và lãnh đạo ngành GD thành
phố Vinh ghi nhận. Mỗi năm, chúng tôi đều có kế hoạch cụ thể cho mỗi hoạt động
đóng góp của phụ huynh học sinh hay các lực lượng xã hội. Chúng tôi rút ra một
vài kinh nghiệm nhỏ cần thực hiện đúng như sau:
a) Triển khai tổ chức tuyên truyền công tác huy động cộng đồng. Khi triển
khai cần quan tâm đến công tác kế hoạch hóa. Việc làm cho cộng đồng hiểu, đồng
cảm với giáo dục, với nhà trường không thể không có kế hoạch vì nó liên quan đến
việc xác định mục đích tuyên truyền, thời điểm triển khai, đối tượng tác động và
đặc biệt là qui trình tác động. Phải biết gắn việc tuyên truyền với những hoạt động
cụ thể của nhà trường như nhân ngày khai giảng, nhân các lễ hội, các ngày truyền
thống của giáo dục, của nhà trường.v.v, đồng thời phải có mục tiêu cụ thể, qui trình
hợp lí và có thể theo dõi được kết quả đạt được. Những nội dung tuyên truyền đó
là: Vị trí tác dụng của giáo dục, những chủ trương đường lối giáo dục như Xã hội
hóa giáo dục, Dân chủ hóa trường học, các quyết định của Hội đồng giáo dục địa
phương. . .và việc triển khai chúng trên địa bàn, khơi dậy truyền thống hiếu học,
truyền thống tôn sư trọng đạo của địa phương.

b) Triển khai các phương thức huy động cộng đồng
Khi triển khai cần lưu ý việc tổ chức các hình thức tiếp xúc liên hệ giữa lãnh
đạo nhà trường và lãnh đạo địa phương. Ở đây có hai hình thức liên hệ quan trọng
là liên hệ chính thức và liên hệ không chính thức. Với hình thức liên hệ chính thức,
để tham mưu, để đề đạt như gặp lãnh đạo địa phương chuẩn bị khai giảng năm học,
chuẩn bị họp hội đồng nhân dân địa phương, chuẩn bị mở đại hội giáo dục địa
phương, báo cáo chủ trương mới của ngành.v.v. Ở những cuộc gặp chính thức này
phải chuẩn bị rất kỹ các nội dung hướng vào mục đích kích thích sự quan tâm của
lãnh đạo địa phương đối với giáo dục đối với nhà trường. Ví dụ nội dung các buổi
tiếp xúc này phải có sự thông báo cho nhau về sự chỉ đạo chuyên môn của ngành
17


dọc, ý định tham mưu vào các vấn đề vai trò quản lí hành chính, chăm lo cơ sở vật
chất, môi trường sư phạm . . . của chính quyền địa phương với nhà trường và đặc
biệt tham khảo cho được ý kiến chỉ đạo, sự quan tâm cụ thể đối với các hoạt động
được triển khai trong thời gian tới của nhà trường.v.v. Với hình thức liên hệ không
chính thức thường biểu hiện qua việc gây cảm tình, sự thân thiết trong quan hệ cá
nhân giữa lãnh đạo nhà trường và lãnh đạo địa phương thông qua các cuộc thăm
viếng xã giao ở những dịp lễ tết hiếu, hỷ . . . .Trong thực tế vai trò của mối quan hệ
thân tình rất quan trọng trong việc triển khai các mối quan hệ chính thức. Việc có
lời mời hay hơn thế nữa vận động lãnh đạo địa phương tham gia vào một số hoạt
động giao lưu nhân ngày Khai giảng, Ngày nhà giáo Việt Nam, các Hội thi, các
hoạt động văn hóa văn nghệ sẽ góp phần tăng cường mối quan hệ giữa nhà trường
và lãnh đạo địa phương, tạo điều kiện tốt cho việc huy động cộng đồng.
c) Biện pháp tạo lập uy tín, niềm tin với phụ huynh, với lãnh đạo địa phương
với cộng đồng thông qua việc khẳng định uy tín chất lượng của nhà trường.
Khi triển khai chúng ta cần lưu ý là để có thể huy động cộng đồng trước hết
phải làm cho cộng đồng tin yêu nhà trường. Sự tin yêu của cộng đồng phụ thuộc
rất nhiều vào uy tín, chất lượng của nhà trường. Muốn có uy tín chất lượng để cộng

đồng tin yêu, để rồi cộng đồng hết lòng hết sức tham gia xây dựng và phát triển
nhà trường cần phải chú ý đến các vấn đề sau:
- Trước hết hiệu trưởng nhà trường phải là người có năng lực, có uy tín, giám
chịu trách nhiệm về sự phát triển của nhà trường. Tiếp đến phải xây dựng cho được
đội ngũ sư phạm lấy lợi ích của người học làm tiêu chí phấn đấu đồng thời thực
hiện tốt cuộc vận động "Dân chủ, kỉ cương, tình thương, trách nhiệm" trong mọi
hoạt động sư phạm.
- Có kế hoạch sử dụng các nguồn lực huy động được một cách hợp lý, công
khai đúng mục đích, có hiệu quả, bảo đảm được nguyên tắc lợi ích hai chiều trong
việc triển khai hoạt động huy động cộng đồng.
Thực hiện dân chủ công khai trong việc thu chi cũng như tôn trọng những góp
ý của các lực lượng xã hội trong quá trình huy động cộng đồng, thực tế cho thấy uy
tín, chất lượng của một nhà trường là cơ sở vững chắc cho quá trình huy động cộng
đồng tham gia xây dựng và phát triển nhà trường.
d) Biện pháp tăng cường sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm các lớp với
phụ huynh.
- Xây dựng nhận thức về "cầu nối" quan trọng của giáo viên chủ nhiệm với
phụ huynh học sinh cho tất cả giáo viên chủ nhiệm. Phải nhận thức rằng phụ huynh
học sinh nhìn nhận về nhà trường, có tin yêu nhà trường hay không phần lớn thông
qua các hoạt động của giáo viên chủ nhiệm.
Quy chế hóa các phương thức tăng cường mối quan hệ giữa giáo viên chủ
nhiệm với Hội cha mẹ học sinh, với gia đình học sinh thông qua các hình thức đã
nêu ở trên. Trong các hình thức đó đáng lưu ý là hình thức tiếp xúc trực tiếp với
18


gia đình học sinh hay tổ chức tốt các buổi họp phụ huynh học sinh ở đây cần nhấn
mạnh sự chuẩn bị chu đáo, cụ thể các nội dung cho việc tiếp xúc đặc biệt lưu ý
những nội dung cả nhà trường lẫn phụ huynh đều có mối quan tâm và có lợi ích
cùng chia sẻ. Ví dụ như các thông tin về chất lượng học tập của con em họ, điều

kiện học tập hay những vấn đề đang tồn tại ảnh hưởng đến việc học tập... mà phụ
huynh có thể tham gia giải quyết. Cần coi trọng cuộc họp phụ huynh đầu năm học.
Phải có nội dung cho phụ huynh được bàn, được làm và phải có cơ chế cho họ thấy
là họ được " kiểm tra, giám sát".
- Để giáo viên chủ nhiệm có thể triển khai tốt kế hoạch của lãnh đạo nhà
trường, các cuộc họp phụ huynh Hiệu trưởng đã "huấn luyện" cho đội ngũ gaío
viên những điều cần thiết về kỹ năng huy động cộng đồng, đồng thời chỉ đạo, giám
sát tốt các hoạt động huy động cộng đồng sao cho phát huy sự chủ động sáng tạo
của từng giáo viên chủ nhiệm trên cơ sở những quy định chung của nhà trường của
ngành.
e) Biện pháp tận dụng những kinh nghiệm và tri thức của cha mẹ học sinh hỗ
trợ các hoạt động sư phạm của nhà trường và vận động họ tham gia quy trình huy
động cộng đồng cùng với nhà trường: Trong phụ huynh học sinh có thể có những
người cán bộ công chức ở những cương vị nhất định, có các nhà hoạt động văn hóa
nghệ thuật, các nhà doanh nghiệp. . . Tuy nhiên, việc khảo sát thành phần cha mẹ
học sinh và sử dụng việc đó cho công tác huy động cộng đồng là một điều cần
được lưu ý.
Nói chung để triển khai biện pháp này cần lưu ý một số hoạt động sau:
- Khảo sát tiềm năng của cha mẹ học sinh và có chủ ý tận dụng các tiềm năng
này.
- Gợi ý thành phần hội cha mẹ học sinh và xây dựng Hội cha mẹ học sinh
vững mạnh, có cơ cấu hợp lý, chọn được ông chủ tịch Hội cha mẹ học sinh năng
động.
Phát huy vai trò của cha mẹ học sinh và Hội cha mẹ học sinh vào quá trình
huy động cộng đồng tạo điều kiện cho họ không chỉ đóng vai trò "đối tác của huy
động cộng đồng” mà trong một số trường hợp đóng vai trò "chủ thể huy động cộng
đồng".
g) Biện pháp làm tốt công tác tham mưu cho lãnh đạo địa phương và lãnh đạo
cấp trên thuộc ngành dọc của mình có sự hỗ trợ tích cực hơn đối với trường của
mình.

Cái khó của việc tham mưu là làm sao biến được những nhu cầu hợp lý của
nhà trường thành nghị quyết, quyết định của lãnh đạo đặc biệt trong công tác huy
động cộng đồng. Để tham mưu có hiệu quả cần lưu ý xây dựng kế hoạch và nội
dung tham mưu.

19


D. KẾT LUẬN
Qua thực tiễn đã và đang vận dụng các giải pháp nêu trên, trường tiểu học
Cửa Nam 1 chúng tôi đã thu được những kết quả đáng ghi nhận trong quá trình dạy
học.
Chất lượng HS

Năm học

Chất lượng GV

Giỏi

Khá

TB

Yếu

CSTĐ
Tỉnh

CSTĐ

CS

GVG
trường

2009- 2010

51%

34%

13%

2%

2

9

17

2010 - 2011

52.6%

32%

13.4%

2%


1

9

18

2011 - 2012

53,6%

32%

12.5%

1,9

1

10

20

Để nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường, cần thực hiện phối hợp
các giải pháp đã được đề xuất:
1. Giải pháp: Đổi mới công tác quản lý trường Tiểu học.
1) Đổi mới nhận thức về vai trò, trách nhiệm của cán bộ quản lý trường Tiểu học.
2) Đổi mới một số hoạt động trong công tác quản lý trường Tiểu học.
2. Giải pháp : Bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Tiểu học.
1) Bồi dưỡng nhận thức về vai trò, trách nhiệm của giáo viên Tiểu học.

2) Bồi dưỡng về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống.
3) Bồi dưỡng về kiến thức.
4) Bồi dưỡng về kỹ năng sư phạm
5) Bồi dưỡng về đổi mới cách dạy và học.
6) Bồi dưỡng về cách dạy phương pháp học
3. Giải pháp: Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực của học sinh
1) Nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học.
2) Những định hướng chính trong đổi mới cách thực hiện phương pháp dạy học.
4. Giải pháp: Tăng cường quản lý cơ sở vật chất trường Tiểu học
5. Giải pháp: Xã hội hóa và huy động cộng động tham gia phát triển giáo dục
góp phần nâng cao chất lượng dạy học
1) Nhận thức về công tác xã hội hóa và huy động cộng đồng tham gia phát triển
giáo dục
2) Các biện pháp huy động cộng đồng tham gia phát triển giáo dục
20


Trên đây là những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở trường Tiểu
học chúng tôi đã vận dụng thực hiện, một cách nghiêm túc, khá công phu, đó cũng
là nguyên nhân chủ yếu mà trong nhiều năm qua trường chúng tôi đã đạt nhiều
thành tích to lớn: Ba năm liền trường đạt trường tiên tiến xuất sắc cấp Tỉnh ( năm
nay tiếp tục làm hồ sơ đề nghị công nhận vì vẫn đảm bảo các tiêu chí), trường đạt
đơn vị văn hoá cấp Tổng liên đoàn. Tuy nhiên, các giải pháp đưa chúng tôi đưa ra
không thể không có sai sót, rất mong nhận được sự góp ý của Hội đồng khoa học
các cấp để đề tài có tính khả thi cao.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 4 năm 2012.

21




×