Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

skkn THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG môn GIÁO dục CÔNG dân ở TRƯỜNG THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.97 KB, 14 trang )

Trang 1

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG THCS

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I/ Lý do chọn đề tài
1- Về mặt lý luận
Một trong những tư tưởng đổi mới GD& ĐT hiện nay là tăng
cường giáo dục đạo đức cho học sinh, được thể hiện trong nghị quyết
của Đảng, Luật giáo dục và các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Luật giáo dục 2005 đã xác định: “ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là
giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt
Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân…
( Điều 23-Luật giáo dục).
Trong công cuộc đổi mới hiện nay yếu tố con người được đặt biệt
coi trọng do đó mọi tiềm năng trí tuệ cùng với sức mạnh tinh thần và
đạo đức của con người ngày càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ.
Con người của thới đại mới phải có cả đức lẫn tài, đức ở đây là đạo đức
cách mạng, là nhân phẩm con người, là cái gốc quyết định hình thành
nhân cách con người. Chính vì vậy trong công tác giáo dục cần chú ý
cả đức lẫn tài. Đặc biệt việc nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học
sinh là việc làm cấp thiết và phải thường xuyên.
2 - Về mặt thực tiễn
Hội nhập kinh tế ngoài mặt tích cực nó còn làm phát sinh những
vấn đề mà chúng ta cần quan tâm: Bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa,
hội nhập kinh tế quốc tế đưa vào nước ta những sản phẩm đồi trụy,
phản nhân văn, reo rắc lối sống tự do tư sản, làm xói mòn những giá trị
đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Hiện nay một số bộ phận
thanh thiếu niên có dấu hiệu sa sút nghiêm trọng về đạo đức, nhu cầu cá


nhân phát triển lệch lạc, kém ý thức trong quan hệ cộng đồng, thiếu


Trang 2

niềm tin trong cuộc sống, ý chí kém phát triển, không có tính tự chủ dễ
bị lôi cuốn vào những việc xấu.
Trong nhà trường phổ thông nói chung và trường THCS nói riêng,
số học sinh vi phạm đạo đức có chiều hướng gia tăng, tình trạng học
sinh kết thành băng nhóm bạo lực học đường đáng được báo động. Một
số giáo viên chưa thật sự là tấm gương sáng cho học sinh, chỉ lo chú
trọng đến việc dạy tri thức khoa học, xem nhẹ môn GDCD, thờ ơ
không chú ý đến việc giáo dục tình cảm đạo đức cho học sinh.
Trước sự phát triển của công nghệ thông tin, sự mở cửa giao lưu
văn hóa với các nước trên thế giới đã có tác động tiêu cực đến đạo đức
của thanh thiếu niên hiện nay.
3- Về cá nhân
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, để góp phần vào công tác
nâng ca chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện
nay, và qua thực tiễn công tác giảng dạy học sinh ở trường THCS, tôi
nhận thấy việc nắm rõ thực trạng và đề ra biện pháp nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh THCS là một nhiệm vụ hết sức
quan trọng của người gai1o viên trực tiếp giảng dạy bộ môn này. Đó là
lý do tại sao tôi chọn đề tài này.
II/ Mục đích nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Đánh giá được thực trạng chất lượng của công tác giáo dục đạo
đức học sinh ở trường THCS, thông qua đó đề ra giải pháp nâng cao
chất lượng môn GDCD. Từ đó giáo đạo đức học sinh một cách có hiệu
quả giúp cho các em trở thành những người tốt trong xã hội.
1-


Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về thực trạng đạo đức và chất lượng môn GDCD ở

trường THCS
2

- Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu một số vấn đề về sơ sở lý luận giáo dục đạo đức, tiến

hành điều tra thực trạng đạo dức học sinh và chất lượng môn GDCD,


Trang 3

phân tích nguyên nhân, tìm ra những yếu tố liên quan đến công tác
giáo dục đạo đức học sinh để từ đó đề ra biện pháp nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện nay.
3

- Phương pháp nghiên cứu
3.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
Trên cơ sở những kiến thức về tâm lý, giáo dục học và những quan

điểm đường lối của Đảng, các văn bản của Bộ giáo dục và Đào tạo về
đánh giá xếp loại, khen thưởng và kỷ luật học sinh.
3.2Phương pháp quan sát
Nhìn nhận lại thực trạng của công tác cũng như chất lượng giảng
dạy môn GDCD của trường trong năm học. Đưa ra một số giải pháp
nâng cao chất lượng giảng dạy môn GDCD cho học sinh của trường

trong giai đoạn hiện nay.
III/ Giới hạn của đề tài
Nghiên cứu về thực trạng đạo đức và giải pháp nâng cao chất
lượng bộ môn GDCD của trường THCS Mỹ Long trong năm học
2010-2011.
IV/ Lế hoạch thực hiện
Từ tháng 09 năm 2010 đến tháng 5 năm 2011.

B.PHẦN NỘI DUNG
I/ CƠ SỞ LÍ LUẬN:
GDCD là môn học có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
nhân cách của học sinh - của con người Việt Nam trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước. Do vậy, việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn
GDCD là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng và hiệu
quả đào tạo lớp công dân Việt Nam trong xã hội hiện đại . Thực hiện
chủ trương đổi mới phương pháp giảng dạy của ngành , trường THCS
Mỹ Long đang thực hiện chủ trương cải tiến phương pháp dạy học để
nâng cao chất lượng ở môn GDCD.
Tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ và hiểu biết của
mình về cách thức nâng cao chất lượng chuyên môn đối với môn
GDCD.


Trang 4

Trên thực tế từ đơn vị còn có học sinh sai lệch về đạo đức, chính
vì vậy việc lựa chọn hướng đi, các giải pháp phù hợp với đặc điểm của
đơn vị là suy nghĩ và trăn trở đầu tiên cuả tôi tại trường :
“Làm thế nào để nâng chất lượng chuyên môn ?”

II/ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1 – Thuận lợi
Đảng bộ, chính quyền, các cơ quan đoàn thể luôn tạo điều kiện
thuận lợicho công tác giáo dục của trường nói chung cũng như công tác
giáo dục đạo đức học sinh nói riêng.
Tất cả cán bộ giáo viên trong trường đều có nhiều năm trong nghề,
đều có tinh thần trách nhiệm cao và năng lực chuyên môn. Đội ngũ
giáo viên và học sinh luôn được Ban giám hiệu nhà trường nhiệt tình
quan tâm, giúp đỡ.
2 – Khó khăn:
Tỷ lệ học sinh vi phạm đạo đức năm học trước chưa có chiều
hướng giảm.
Một bộ phận học sinh thái độ học tập chưa cao, có lối sống thực
dụng, trông chờ, dựa dẫm, ỷ lại, chưa có chí cầu tiến.
III/ THỰC TRẠNG
Trường THCS Mỹ Long thuộc huyện Cao Lãnh, đa số học sinh
là con em nông dân, làm thuê, buôn bán nhỏ, tạm trú đông do địa bàn
có nhiều nhà trọ và nhiều khu dân cư mới.
Về phía đội ngũ giáo viên, một bộ phận giáo viên chưa nhận thức
đầy đủ về vai trò, vị trí của môn GDCD trong trường học.
Việc quan tâm chăm sóc con em của một bộ phận phụ huynh học
sinh chưa đáp ứng với nhu cầu giáo dục ngày càng cao hiện nay.
PHHS chưa nắm rõ quan điểm giáo dục hiện nay, thái độ hợp tác
giáo dục HS chưa rõ ràng, chưa thống nhất với nhà trường. Giáo dục
HS ở gia đình mang tính áp đặt, ít để HS thể hiện quan điểm của mình,
sử dụng mệnh lệnh, roi vọt, …và thiếu làm gương tốt cho HS noi theo.
Nhu cầu về kinh tế, mưu sinh được quan tâm nhiều hơn nhu cầu
học tập “ Lo cái ăn trước rồi đến cái học”. Bên cạnh tệ nạn xã hội,
những thói quen xấu vẫn tồn tại khá phổ biến và những bất cập khác.
Khu vực gần trường có nhiều tụ điểm vui chơi thiếu lành mạnh

tác động không ít đến việc giáo dục đạo đức hoc sinh, các em dễ bị lôi
kéo vào những việc làm sai lệch chuẩn mực đạo đức kể cả vi phạm
pháp luật.
Điều kiện về cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn, ĐDDH cho bộ
môn còn quá ít.


Trang 5

Tình hình học sinh vô lễ, gây gỗ, đánh nhau vẫn còn tồn tại.
Một số học sinh chưa tích cực, chủ động học tập, luôn nghĩ môn
giáo dục công dân là môn phụ, chưa nhận thức đúng tầm quan trọng
của bộ môn.
Từ những thực trạng nêu trên tôi đã mạnh dạn đưa ra một một số
giải pháp phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đơn vị theo hướng đi
của riêng mình nhằm giúp đơn vị giảm bớt yếu kém về chất lượng môn
GDCD.
IV/ Giải pháp giải quyết vấn đề :
1 – Tăng cường về điều kiện cơ sở vật chất phục vụ dạy và học :
Trường lớp, thư viện thiết bị dạy học trong nhà trường rất quan
trọng trong hoạt động dạy học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
ở nhiều mặt cho cả thầy và trò. Nhất là tủ sách pháp luật tại thư viện là
nguồn tư liệu quí báo cho cả giáo viên lẫn học sinh, HS có thể tìm hiểu
một số qui định cơ bản của pháp luật từ đó giúp các em nhận biết được
hành vi nào là vi phạm pháp luật hay sai lệch về đạo đức…
Do đó một trong những yếu tố đóng vai trò quyết định nâng cao
chất lượng dạy và học môn GDCD là trang thiết bị CSVC để phục vụ
công tác dạy học. Quá trình dạy học luôn gắn liền với việc sử dụng
thành thạo các phương tiện dạy học. Một thầy giáo giỏi phải biết tổ
chức cho học sinh một môi trường hoạt động để trong đó có sự tương

tác giữa các tri thức sẵn có và phương tiện học tập thì mới phát sinh tri
thức cho người học.
Phát huy nhiều nguồn lực tập trung phục vụ cho công tác dạy và
học. Sử dụng triệt để nguồn kinh phí trong ngân sách và ngoài ngân
sách. Ngoài ra phải kết hợp “nguồn lực “ từ phía PHHS và địa phương
để xây dựng CSVC, trang bị thêm tư liệu, ĐDDH…
2 – Bồi dưỡng về nhận thức và chuyên môn cho đội ngũ :
a) Bồi dưỡng về công tác nhận thức cho đội ngũ :
Chất lượng chuyên môn phụ thuộc rất lớn vào tập thể sư phạm, yếu
tố con người đóng vai trò quyết định mà các văn kiện của Đảng & Nhà
nước đã nêu rõ trong chỉ thị 40/CT/TW ngày 15/06/2004 của Ban Bí
thư TW Đảng về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lí giáo dục. Người thầy cần giỏi về chuyên môn đồng
thời lại phải tốt về nhân cách mới thực hiện hoàn hảo nhiệm vụ của
mình, thực sự là những “ Kĩ sư tâm hồn “.
Mặt khác, nhận thức của đội ngũ cũng ảnh hưởng đến chất lượng
giáo dục. Mọi suy nghĩ đều dẫn dắt hành động của chúng ta, do đó nếu
nhận thức đúng thì việc làm đúng là điều tất nhiên.
b) Bồi dưỡng về công tác chuyên môn :
Qua công tác tại trường , tôi nhận thấy việc xây dựng đơn vị đi lên
là trước hết cần tập trung nguồn lực vào công tác chuyên môn. Tìm ra
vấn đề để giải quyết yếu kém về chất lượng giảng dạy, để từ đó từng
bước lấy uy tín với Phụ huynh Học sinh và uy tín với địa phương, với
ngành .


Trang 6

Trước hết phải ổn định công tác nhân sự theo nguyên tắc quản lí như
sắp xếp lớp học, bố trí nhân sự trong các nhóm chuyên môn phải có trẻ

có già & có người có kinh nghiệm lẫn thiếu kinh nhiệm xen kẻ, phân
công đội ngũ phù hợp sở trường và năng lực của mỗi người.
Thường xuyên mở lớp bồi dưỡng chuyên môn đặc biệt là một số qui
định bổ sung của pháp luật.
Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm
lẫn nhau qua các buổi thao giảng, hội giảng, tìm hiểu thực tế ở đơn vị
khác kể cả ngoài tỉnh.
3 – Đôi mới phương pháp dạy học: (đây là cốt lõi để nâng cao chất
lượng bộ môn)
a) Đổi mới PPDH môn GDCD trường THCS phải phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của HS:
Đổi mới PPDH môn GDCD trường THCS nói riêng và các môn
học nói chung phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
HS, tạo điều kiện cá thể hóa để phát triển mọi năng lực của học sinh, tổ
chức hướng dẫn học sinh học tập bằng cách tự phát hiện khả năng của
mình tự tin và có niềm vui trong lao động học tập chủ động sáng tạo.
Có thể nói đây là một quan điểm cơ bản nhất của đổi mới PPDH,
tạo nên sự khác biệt với lối dạy học thụ động truyền thống. HS không
chỉ là đối tượng của dạy học mà còn là chủ thể của quá trình dạy học,
các em cần được tạo cơ hội để tham gia tích cực, chủ động, sáng tạo
vào quá trình khám phá và lĩnh hội nội dung bài học.
b) Dạy học GDCD thông qua các hoạt động của HS
Hoạt động và giao tiếp là đặc trưng cơ bản của con người. Tâm lí
học hiện đại đã chứng minh rằng: Nhân cách chỉ được hình thành và
phát triển thông qua hoạt động và giao tiếp. Chính vì vậy, để hình thành
và phát triển nhân cách người công dân cho thế hệ trẻ, để thực hiện
được mục tiêu môn GDCD không thể bằng sự thuyết lí, rao giảng của
GV mà phải thông qua các hoạt động và tương tác của chính các em.
Nói cách khác, quá trình dạy học môn GDCD cho HS THCS phải là
quá trình tổ chức cho các em hoạt động và tương tác với thầy, với bạn,

để thông qua đó các em có thể phát hiện và chiếm lĩnh nội dung bài
học. Các hoạt động này phải do GV thiết kế, dựa trên mục tiêu, nội
dung của bài học; dựa trên trình độ của HS và sở trường của GV; dựa
trên điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của lớp học, nhà trường, địa
phương. HS sẽ hứng thú, thông hiểu, ghi nhớ và thực hiện những gì các
em đã lĩnh hội được thông qua hoạt động chủ động, nỗ lực của chính
mình.
Các hoạt động dạy học môn GDCD ở THCS rất phong phú, đa
dạng, bao gồm những hình thức hoạt động chủ yếu như:
- Thảo luận lớp, thảo luận nhóm.
- Đóng vai, diễn tiểu phẩm.
- Quan sát, phân tích các tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm.
- Xử lí tình huống.


Trang 7

- Nhận xét, phân tích, đánh giá các ý kiến, quan điểm, các hành vi, việc
làm, các trường hợp điển hình, các thông tin, sự kiện, các hiện tượng
trong đời sống thực tiễn có liên quan đến các chuẩn mực đạo đức và
pháp luật đã học.
- Sưu tầm, tìm hiểu các tranh ảnh, bài báo, các tư liệu có liên quan đến
nội dung bài học và trình bày, giới thiệu sản phẩm sưu tầm được.
- Xây dựng kế hoạch hành động của HS.
- Điều tra thực tiễn.
- Xây dựng và thực hiện các dự án thực tiễn.
- Chơi các trò chơi học tập....
Các hoạt động dạy học phải được GV thiết kế đan xen nhau một cách
hợp lí trong tiết học, để vừa bảo đảm thực hiện được mục tiêu bài học,
vừa gây được hứng thú học tập cho HS.

c) Đổi mới PPDH GDCD theo quan điểm hợp tác
Trong dạy học môn GDCD, GV cần tạo cơ hội cho HS được hợp
tác với GV và với nhau trong lớp, trong nhóm nhỏ. Cụ thể là GV cần
tạo cơ hội cho HS được bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân về vấn đề
đang học; được nêu những băn khoăn, vướng mắc, đặt câu hỏi cho
thầy, cho bạn; được trao đổi, tranh luận, chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm;
được phản hồi và thu nhận thông tin phản hồi từ GV và bạn bè; được
cùng nhau xây dựng kế hoạch, chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết quả
thực hiện nhiệm vụ học tập đã được giao.
Việc học tập hợp tác sẽ làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải
giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện nhu cầu phối hợp thực
sự giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động
hợp tác theo nhóm nhỏ, tính cách, năng lực của mỗi thành viên được
bộc lộ, uốn nắn; tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ được phát
triển. Sự hợp tác trong học tập sẽ giúp HS quen dần với sự phân công
hợp tác trong lao động xã hội, giúp HS hình thành năng lực hợp tác rất
cần thiết đối với người công dân sống trong một thế giới phát triển với
những sự hợp tác song phương, đa phương giữa các quốc gia và xu
hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá.
Để dạy học hợp tác có kết quả, GV cần xây dựng môi trường học
tập thân thiện; xây dựng mối quan hệ gần gũi, cởi mở, tin cậy và tôn
trọng lẫn nhau giữa GV với HS và giữa các HS trong lớp học.
d) Dạy học GDCD phải gắn với thực tiễn cuộc sống của học sinh
Về bản chất, GDCD là môn học giáo dục HS cách sống và ứng xử
phù hợp với các giá trị xã hội, với quyền và nghiã vụ của người công
dân. Chính vì vậy, để dạy học môn GDCD có hiệu quả cần gắn nội
dung bài học với thực tiễn cuộc sống của HS. Cụ thể là GV cần tăng
cường sử dụng các tình huống, các trường hợp điển hình, các hiện
tượng thực tế, các vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội để phân tích,
đối chiếu, minh hoạ cho bài giảng. Đồng thời cũng cần khuyến khích

HS liên hệ, tự liên hệ; tiến hành điều tra, tìm hiểu, phân tích, đánh giá
các sự kiện trong đời sống thực tiễn của lớp học, nhà trường, địa


Trang 8

phương, đất nước trong quá trình học tập. Đặc biệt, cần tạo cơ hội và
hướng dẫn HS xây dựng và thực hiện các dự án nhỏ để góp phần vào
việc cải thiện môi trường tự nhiên và xã hội của lớp học, trường học và
địa phương.
e) Dạy học GDCD phải kết hợp giữa PPDH và phương pháp giáo
dục đạo đức, giữa các PPDH hiện đại và PPDH truyền thống
Phương pháp và hình thức dạy học môn GDCD rất phong phú, đa
dạng, bao gồm cả PPDH và phương pháp giáo dục đạo đức (như: nêu
gương, thuyết phục, khen thưởng- trách phạt, luyện tập, tổ chức chế độ
sinh hoạt, giáo dục bằng truyền thống, giáo dục bằng viễn cảnh,...); bao
gồm cả các phương pháp hiện đại (thảo luận nhóm, đóng vai, giải quyết
vấn đề, nghiên cứu trường hợp điển hình, trò chơi, dự án, động não,…)
và các phương pháp truyền thống (thuyết trình, đàm thoại, kể chuyện,
…); bao gồm cả hình thức dạy học theo lớp, theo nhóm nhỏ và cá nhân;
hình thức dạy học ở trong lớp, ngoài lớp và ngoài trường. Mỗi phương
pháp dạy học đều có mặt tích cực và hạn chế riêng, phù hợp với từng
loại bài và đòi hỏi những điều kiện thực hiện riêng. Vì vậy, GV không
nên phủ định hoặc quá lạm dụng một PPDH nào. Điều quan trọng là
cần căn cứ vào nội dung, tính chất từng bài, căn cứ vào trình độ nhận
thức của HS và năng lực, sở trường của GV, căn cứ vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của lớp, của trường mà lựa chọn và sử dụng phối hợp các
PPDH một cách hợp lí.
f) Dạy học GDCD phải chú trọng sử dụng có hiệu quả các thiết bị
dạy học

Việc đổi mới PPDH môn GDCD cần phải gắn liền với đổi mới
phương tiện dạy học. Trong quá trình dạy học môn GDCD, GV cần lựa
chọn và sử dụng hợp lí, có hiệu quả các thiết bị dạy học đã được cung
cấp theo danh mục cũng như các thiết bị, đồ dùng dạy học do GV, HS
tự làm; đặc biệt khuyến khích GV sử dụng công nghệ thông tin trong
dạy học.
g/ Ứng dụng CNTT trong dạy học
Cho đến nay, phải nói rằng không một ai nghi ngờ về vai trò to lớn
và những tác dụng kỳ diệu của CNTT trong các lĩnh vực của đời sống.
Trong giáo dục, việc ứng dụng CNTT trên thực tế cũng đã đem lại kết
quả đáng kể và những chuyển biến lớn trong dạy học, nhất là về PPDH.
Những năm qua việc đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa
được thực hiện khá đồng bộ. Việc đổi mới nội dung, chương trình yêu
cầu phải đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học
đòi hỏi phải sử dụng phương tiện dạy học phù hợp và CNTT là một
trong những phương tiện quan trọng góp phần đổi mới PPDH bằng việc
cung cấp cho giáo viên những phương tiện làm việc hiện đại. Từ những
phương tiện này giáo viên có thể khai thác, sử dụng, cập nhật và trao
đổi thông tin. Việc khai thác mạng giúp giáo viên tránh được tình
trạng“dạy chay” một cách thiết thực đồng thời giúp giáo viên có thể
cập nhật thông tin nhanh chóng và hiệu quả. Đây là một trong những


Trang 9

yêu cầu đặc biệt cần thiết đối với giáo viên giảng dạy bộ môn GDCD,
bởi GDCD là một môn học rất nhạy bén đối với những vấn đề xã hội,
việc cung cấp thông tin, liên hệ thực tế là một trong những yêu cầu
quan trọng xuất phát từ đặc trưng của bộ môn.
Ứng dụng CNTT còn giúp giáo viên soạn thảo và ứng dụng các phần

mềm dạy học có hiệu quả.
Tuy nhiên trong quá trình ứng dụng CNTT đổi mới PPDH điều cần
lưu ý là việc ứng dụng CNTT vào dạy học cần kết hợp một cách hài
hòa giữa ý tưởng thiết kế nội dung bài giảng và kĩ thuật vi tính. Một
mặt phải bảo đảm đặc trưng bộ môn, chuyển tải được các đơn vị kiến
thức cơ bản cần thiết, mặt khác phải bảo đảm tính thẩm mỹ, khoa học
và thuận tiện trong việc sử dụng.
h/ Dạy học GDCD cần phải phối, kết hợp các lực lượng giáo
dục trong và ngoài nhà trường, nhằm xây dựng môi trường dạy học,
giáo dục lành mạnh, khép kín
Khác với các môn học khác, hiệu quả dạy học môn GDCD đòi hỏi
phải có môi trường dạy học, môi trường giáo dục lành mạnh, khép kín.
Chính vì vậy, trong quá trình dạy học, cần phải phối, kết hợp các lực
lượng giáo dục trong nhà trường (Ban Giám hiệu, GV bộ môn, GV chủ
nhiệm, Tổng phụ trách, Cán bộ Đoàn, Đội,...) và ngoài nhà trường (phụ
huynh, chính quyền địa phương,...) nhằm tạo ra những tác động giáo
dục cùng chiều, những tấm gương sống và ứng xử phù hợp với các
chuẩn mực đạo đức và pháp luật để HS noi theo; những sự động viên,
giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho HS thực hành những điều đã học
trong cuộc sống;...
4 – Phối hợp Ban đại diện Cha mẹ học sinh để giáo dục học sinh:
- Ban đại diện cha mẹ học sinh là tổ chức quần chúng của các gia
đình học sinh. Đây là tổ chức có quan hệ mật thiết với nhà trường, có
tiềm năng lớn trong việc giáo dục HS vì 2/3 thời gian HS ở với gia
đình. Là cầu nối các gia đình học sinh lại với nhau để thống nhất mục
tiêu giáo dục.
- Việc Ban đại diện CMHS hoạt động tích cực trong nhà trường
cũng góp phần nâng chất lượng giáo dục trong nhà trường. Nhà trường
luôn xây dựng mối quan hệ gần gũi với mỗi gia đình học sinh , do đó
công tác tuyên truyền thông tin và thu thập thông tin khá hiệu quả, giúp

nhà trường liên kết với mỗi gia đình học sinh tốt hơn.
- Tập thể CB-GV-CNV phải luôn tâm niệm : “ Làm sao cho mỗi phụ
huynh luôn có tinh thần hợp tác giáo dục học sinh hơn là chỉ trích, phản
bác chúng ta”.
Chính vì vậy sau mỗi lần họp PHHS số lượng dự họp ngày càng
đông hơn và chiếm tỉ lệ 95% và phụ huynh từng bước có quan tâm đến
việc học của con em nhiều hơn.
5 – Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá:
Đổi mới kiểm tra, đánh giá phải gắn liền với cuộc vận động “
Nói không với tiêu cực và bệnh thành tích trong thi cử”, phải xem việc


Trang 10

phân tích kết quả kiểm tra giúp học sinh phát huy điểm mạnh, khắc
phục điểm yếu.
Trong kiểm tra, đánh giá phải phù hợp với đối tương hs, cần
đảm bảo sự cân đối các yêu cầu kiểm tra về kiến thức ( nhận biết, thông
hiểu, vận dụng), rèn luyện kỹ năng và yêu cầu về thái độ đối với học
sinh.. Tăng cường vận dụng kiến thức để học sinh phân tích, liên hệ bản
thân, bình luận từ đó dịnh hướng hành vi cho mình.
Trong quá trình giảng dạy giáo viên có thể bổ sung điểm cho học
sinh thông qua những hành vi, việ làm cụ thể của học sinh như: tinh
thần tập thể khi tham gia các phong trào, hành vi thể hiện dức tính lễ
độ, tiết kiệm, bảo vệ môi trường, trung thực, tôn trọng người khác, …
Đổi mới các hình thức đề kiểm tra, đánh giá sao cho phù hợp với
đối tượng học sinh, cần kết hợp giữa hình thức trắc nghiệm khách quan
với hình thức tự luận, chú trọng đến việc vận dụng kiến thức thông qua
phân tích các tình huống, hành vi từ đó học sinh tử định hướng cho
hành vi của bản thân, tránh kiểm tra lý thuyềt suông.

6 - Yêu cầu cụ thể đối với giáo viên
- Thiết kế, tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động
học tập với các hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp
với đặc trưng bài học, với đặc điểm và trình độ học sinh, với điều kiện
cụ thể của lớp, trường và địa phương.
- Động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh
được tham gia một cách tích cực, chủ động, sáng tạo vào quá trình
khám phá và lĩnh hội nội dung bài học; chú ý khai thác vốn kiến thức,
kinh nghiệm, kĩ năng đã có của học sinh; bồi dưỡng hứng thú, nhu cầu
hành động và thái độ tự tin trong học tập cho học sinh; giúp các em
phát triển tối đa tiềm năng của bản thân.
- Thiết kế và hướng dẫn học sinh thực hiện các dạng bài tập phát
triển tư duy và rèn luyện kĩ năng; hướng dẫn sử dụng các thiết bị, đồ
dùng học tập; hướng dẫn học sinh có kĩ năng vận dụng kiến thức đã học
vào giải quyết các vấn đề thực tiễn;..
- Không ngừng trao dồi về tri thức, kỹ năng giảng dạy, tích cực
đổi mới các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lí,
hiệu quả, linh hoạt, phù hợp với đặc trưng của cấp học, môn học; nội
dung, tính chất của bài học; đặc điểm và trình độ HS ; thời lượng dạy
học và các điều kiện dạy học cụ thể của trường, địa phương.
- Vận dụng kiến thức của các môn học khác để giúp bài giảng
sinh động, sâu sắc hơn đăc biệt là môn Ngữ văn, Lịch sử.
- Nên thường xuyên tổ chức các buổi ngoại khóa gắn liền với nội
dung bài học, các em được “ học mà chơi, chơi mà học” như: thực hiện
trật tự an toàn giao thông, tôn sư trọng đạo, biết ơn, tiết kiệm, bảo vệ
môi trường và tài nguyên thiên nhiên...những kiến thức bài học sẽ
không còn khô khan đối với các em. Các em sẽ được trải nghiệm những
tình huống mà mình có thể gặp trong cuộc sống, giúp các em khắc sâu
kiến thức đã học, mở rộng và nâng cao hiểu biết về các lĩnh vực của đời



Trang 11

sống xã hội, làm phong phú thêm vốn tri thức, kinh nghiệm hoạt động
tập thể, tạo không khí vui tươi thoải mái, giữa thầy và trò gần gũi nhau
hơn là điều kiện tốt để giáo dục đạo đức các em tốt hơn nhất là học sinh
chưa ngoan.
7 - Yêu cầu cụ thể đối với học sinh
- Tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động học tập để
tự khám phá và lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ
và hành vi đúng đắn.
- Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân; tích cực
thảo luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho thày, cho bạn; biết
tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm, các sản phẩm hoạt động
học tập của bản thân và bạn bè.
- Tích cực sử dụng thiết bị, đồ dùng học tập; thực hành vận dụng
kiến thức đã học để phân tích, đánh giá, giải quyết các tình huống và
các vấn đề đặt ra từ thực tiễn; xây dựng và thực hiện các kế hoạch học
tập phù hợp với khả năng và điều kiện thực tế.
8 – Tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức đoàn thể , ngành và địa
phương chăm lo cho sự nghiệp giáo dục :
Tận dụng nguồn ngân sách nhà nước, trường được phòng giáo dục
ưu tiên cấp kinh phí sữa chữa , mua sắm bằng ngân sách nhà nước.
Vấn đề chăm lo cho học sinh nghèo , học khá giỏi đã được các tổ
chức đoàn thể quan tâm tạo thêm niềm tin vào cuộc sống và là động lực
giúp các em say mê học tập, từ đó chất lượng bộ môn cũng được nâng
lên.
9 – Xây dựng bầu không khí tập thể tích cực :
Bầu không khí tập thể là khái niệm để chỉ trạng thái tinh thần của
một tập thể. Nếu bầu không khí tốt thì mọi người sẽ làm việc tốt, tiếp

xúc với nhau vui vẻ, có sự hiểu biết lẫn nhau và tất cả mọi người đều có
ý thức tự giác làm việc cao. Ngược lại, nếu bầu không khí tập thể tiêu
cực có thể dẫn đến xung đột sẽ làm suy giảm sức lao động của tập thể,
thái độ làm việc của mọi người sẽ dè dặt cầm chừng, đặc biệt giáo viên
xin chuyển đi nơi khác nhiều và thiếu tinh thần sáng tạo, năng động để
hoàn thành công việc.
V / KẾT QUẢ :
Với những giải pháp mà tôi vận dụng trong bô môn của mình, đa
số học sinh hiểu được bài. Các em thấy được vai trò, tầm quan trọng
của bộ môn thực sự bổ ích, giúp các em hình thành tư tưởng đạo đức
đúng đắn, sống có lý tưởng, có mục đích, có ý chí vươn lên trong cuộc
sống, trong học tập. Đồng thời, các em biết vận dụng điều đã học vào
thực tiễn cuộc sống giúp phát triển kỹ năng sống cho bản thân.
+ Chất lượng đạo đức học sinh :
Khối
Học kỳ I
Cuối năm
6
Tốt Khá TB Yếu
Tốt Khá Tb Yếu
136
50
150
36


Trang 12

7


Tốt
95

Khá
44

TB
6

Yếu
4

Tốt
104

Khá
39

TB
4

Yếu
1

8

Tốt
165

Khá

38

TB
5

Yếu

Tốt
174

Khá
33

TB
1

Yếu

9

Tốt
145

Khá
37

TB
5

Yếu


Tốt
151

Khá
34

TB
2

Yếu

Yếu
23

+ Chất lượng bộ môn giảng dạy:
Khối
6

8

Giỏi
51

Đấu năm
Khá TB
57
48

Yếu

30

Giỏi
81

Cuối năm
Khá TB
47
35

Giỏi
44

Khá
103

Yếu
28

Giỏi

Khá

TB

Yếu

77

94


35

2

TB
43

C. KẾT LUẬN
I/ Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
Trước thực trạng đạo đức hiện nay của học sinh trường THCS có
chiều hướng giảm sút nghiêm trọng, việc nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức cho học sinh là đòi hỏi cấp bách của xã hội để xây dựng hoàn
thiện những giá trị cơ bản của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế tri thức.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài về nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức cho học sinh đã giúp cho đội ngũ giáo viên xác định đúng
tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức học sinh ở nhà trường để
có kế hoạch hoàn chỉnh, có sự quan tâm đúng mực trong việc giáo dục
học sinh, từ đó giúp cho tập thể sư phạm của trường thấy được nhiệm
vụ quan trọng này để ngoài việc dạy chữ cho tốt còn phải lưu tâm, hết
lòng giáo dục các em phát triển toàn diện cả tài lẫn đức.
Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu ngắn, phạm vi nghiên cứu chỉ
là một trường THCS còn nhiều khó khăn nên có nhiều vấn đề chưa


Trang 13

được phân tích một cách đầy đủ, các giải pháp đưa ra chưa có tính khả
thi cao, nhưng ít nhiều nó cũng giúp cho chúng ta thấy được thực trạng

của đạo đức học sinh hiện nay, giúp cho chúng ta định hướng lại một số
việc cần phải làm trong thời gian sắp tới để góp phần thành công vào
công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
II/ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG:
Đề tài chỉ nghiên cứu tại trường THCS Mỹ Long nên chỉ áp dụng cho
những đơn vị có điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, giáo viên, đặc
điểm học sinh giống như đơn vị.
III / NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
- Hình ảnh người giáo viên dạy bộ môn GDCD phải thực sự là “ tấm
gương sáng về tự học, sáng tạo” cho học sinh noi theo, người giáo viên
phải chuẩn mực trong tư thế, tác phong, trong cách ứng xử - giao tiếp
với đồng nghiệp, với học sinh…
- Phải luôn có thái độ, tinh thần vui vẻ cởi mở khi đến trường đến
lớp, vui với nghề có như vậy trong mỗi tiết dạy mới sinh động, thầy trò
dễ gần nhau hơn, dễ giáo dục đạo đức học sinh.
- Phải thường xuyên trao dồi về kiến thức chuyên môn, rèn luyện
các kỹ năng sư phạm, nâng cao trình độ tin học để theo kịp thời đại và
ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong dạy học.
- Thường xuyên quan tâm đến biểu hiện học sinh, những thay đổi
bất thường, từ đó an ủi, động viên, tìm cách giải quyết vấn đề cho các
em, không để các em hụt hẩng, mất niềm tin sẽ ảnh hưởng đến kết quả
học tập.
- Vận dụng hài hòa các phương pháp thì kết quả học tập của học
sinh sẽ nâng cao. Giáo viên tự làm đồ dùng dạy học, sưu tầm tài liệu
phục vụ bộ môn. Tự động viên khuyến khích, đặt ra yêu cầu mới và
sáng tạo không ngừng…
IV/ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:
- Tăng cường các lớp tập huấn, hội thảo về chuyên môn, kiểm
tra, đánh giá.
- Trang bị tủ sách pháp luật tại thư viện.

- Nên tổ chức cho học sinh đi tham quan thực tế.
Trên đây là những suy nghĩ và việc làm của cá nhân tôi, tôi mạnh
dạn nêu lên để quý đồng nghiệp tham khảo, đóng góp ý kiến với mục
đích góp phần nhỏ kinh nghiệm của mình vào việc nâng cao chất lượng
giảng dạy bộ môn GDCD. Chân thành cảm ơn!
Mỹ Long, ngày 5 tháng 3 năm 2012
Người viết


Trang 14

Ngô Nhựt Đoàn

TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định số 40/2006/QĐ- BGDĐT về việc ban hành quy
chế đánh giá xếp loại học sinh THCS và học sinh THPT.
2. Luật giáo dục năm 2005.
3. Kỷ yếu hội thảo nâng cao chất lượng bộ môn GDCD của Sở
GD&DT Đồng Tháp năm 2011.
4. Tạp chí Thế giới trong ta – số 74+75 năm 2008-Hội khoa học tâm
lý giáo dục Việt Nam.



×