Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm xây dựng thành công ý thức tự giác trong học tập cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.13 MB, 30 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

Phụ Lục
Tên mục

Trang

a. phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài.

2

2. Mục đích nghiên cứu.

3

3. Đối tợng nghiên cứu.

3

4. Phạm vi nghiên cứu.

3
3

5. Phng pháp nghiên cứu.

4

B. Phần nội dung


5

1. Cơ sở lí luận.

8

2. Thực trạng và nguyên nhân.

16

3. Giải pháp nghiên cứu.

19

4. Kết quả.

21

C. Phần kết luận.

22

D. Tài liệu tham khảo.
E. MT S HèNH NH MINH HA.

Mai Cẩm Chi

1

Trờng THCS Nhật Tân



S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đó chính là chiến lược phát
triển của đất nước ta và cũng là của toàn ngành giáo dục trong thời kỳ
đổi mới vì một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục
là “đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước. Để có được
những người thợ lành nghề, những kĩ sư, chuyên gia tài giỏi sau này
thì việc giáo dục ý thức tự giác trong học tập cho học sinh khi còn
ngồi trên ghế nhà trường là hết sức cần thiêt. Ý thức tự giác dường
như là một cụm từ khá quen thuộc trong giáo dục phổ thông nhưng để
để nó trở thành một thói quen trong học tập đối với mỗi học sinh thì
không phải dễ. “Gieo một hành động, gặt một thói quen – Gieo một
thói quen, gặt một tính cách – Gieo một tính cách, gặt một số phận”.
Trong việc giáo dục học sinh, đôi khi chúng ta không gieo mà chỉ
thích gặt hay có khi lại muốn nhờ người khác gieo hộ cho mình hoặc
chỉ biết há miệng chờ sung! Trong khi đó sự phát triển nhận thức để
hình thành nhân cách của trẻ thì lại không biết chờ, mà lại còn sẵn
sàng tiếp nhận những mầm mống không tốt đầy rẫy xung quanh trẻ để
gieo vào tâm hồn trẻ những thói quen xấu. Vì thế, việc tập cho con trẻ
có ý thức tự giác trong học tập càng sớm càng tốt, bắt đầu từ những
việc đơn giản nhất, chính là biện pháp tốt nhất để gieo vào tâm hồn
các em ý thức tự chủ trong mọi hành vi sau này.
Xây dựng thành công ý thức tự giác trong học tập cho học sinh
vừa góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, vừa giúp giảm
tải quá trình truyền đạt kiến thức cho người giáo viên. Một tập thể lớp
vững mạnh là một tập thể có ý thức tự giác cao. Người giáo viên
chính là người sẽ hướng, xây dựng ý thức tự giác cho học sinh của

mình ngay từ khi các em mới bước vào năm học. Đây là một vấn đề
không đơn giản, cần được đưa ra để trao đổi, rút kinh nghiệm. Đó
chính là lý do tôi chọn đề tài này.

Mai CÈm Chi

2

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

II. Mục đích nghiên cứu.
- Tổng kết những kinh nghiệm, tìm ra giải pháp thích hợp để giáo dục
học sinh đạt hiệu quả cao nhất.
- Nâng cao chất lương dạy và học trong các nhà trường.
- Giúp học sinh hình thành nhân cách. Chủ động, sáng tạo trong việc
học tập và tiếp thu kiến thức.
III. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh trường THCS Nhật Tân.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp khảo sát thực tiễn.
- Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.
- Phương pháp đọc tài liệu
V. Phạm vi nghiên cứu.
- Từ các giờ học tiếng Anh trong chương trình THCS.
- Tâm lý học sinh cấp THCS trong quá trình học tập.
- Thời gian nghiên cứu: Năm học 2010-1011; 2011-2012.


Mai CÈm Chi

3

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. Cơ sở lý luận.
Theo từ điển bách khoa thì ý thức tự giác trong học tập là sự
nhận thức của cá nhân về trách nhiệm của mình đối với việc học tập
và bản thân mình biết rõ là phải làm gì và làm như thế nào?
Có lẽ ai trong chúng ta cũng đều nhận thấy rằng, một số không
nhỏ các trẻ em , thậm chí là thiếu niên, thanh niên và cả người lớn,
đều không có khả năng tự chủ trong cuộc sống, thường chỉ có thể làm
tốt nếu được “cầm tay chỉ việc”, thậm chí là chỉ rồi mà vẫn làm sai vì
không có sự tự tin – và phải có sự kiểm soát liên tục mới có thể hoàn
thành công việc của mình. Điều này thường do thiếu một chữ “Tự”
trong quá trình thành nhân. Ngay từ bé, nếu các em không được tập
cho tính tự giác, thì thiếu khả năng tự giác sẽ đưa đến sự thiếu tự tin.
Khi đã không tin vào mình thì không thể có khả năng tự chủ trong
công việc, từ chuyện học cho đến chuyện làm. Và khi đã không có sự
tự chủ thì chắc chắn khó mà có thể có tinh thần tự lập cho cuộc đời
của mình.
Trẻ em càng lớn lên, hoạt động học tập càng có vị trí quan
trọng trong cuộc sống và vai trò của nó trong sự phát triển của trẻ
ngày càng to lớn. Việc học tập ở trường THCS là một bước ngoặt
quan trọng trong đời sống của các em. Ở các lớp dưới, các em học tập

hệ thống các sự kiện và hiện tượng, hiểu những mối quan hệ cụ thể và
đơn giản giữa các sự kiện và hiện tượng đó. Ở trường THCS, việc học
tập của các em phức tạp hơn một cách đáng kể. Các em chuyển sang
nghiên cứu một cách có hệ thống những cơ sở của các khoa học. Các
em học tập có phân môn …. Mỗi môn học gồm những khái niệm,
những qui luật được sắp xếp thành một hệ thống tương đối sâu sắc.
Điều đó đòi hỏi các em phải tự giác và độc lập cao.
Quan hệ giữa giáo viên và học sinh cũng khác trước. Các em
được học với nhiều giáo viên. Các giáo viên có cách dạy và yêu cầu
khác nhau đối với học sinh, có trình độ nghề nghiệp và phẩm chất, uy
tín khác nhau. Quan hệ giữa giáo viên và học sinh “xa cách” hơn so
với bậc tiểu học. Sự thay đổi này tạo ra những khó khăn nhất định cho
các em. Chính vì vậy, việc xây dựng ý thức tự giác cho học sinh là
một việc làm rất quan trọng trong các nhà trường.
Bên cạnh đó, ở cấp THCS, tiếp nhận học sinh từ cấp tiểu học
lên, do vậy, đây là sự chuyển đổi có tính chất giai đoạn. Lứa tuổi này
Mai CÈm Chi

4

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
có một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng trong thời kỳ phát triển của trẻ
em, vì nó là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành và
được phản ánh bằng các tên gọi khác nhau như “thời kỳ quá độ”, “tuổi
khó bảo”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi bất trị”.... Đây là lứa tuổi có bước
nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang tách dần khỏi thời thơ
ấu để tiến sang giai đoạn phát triển cao hơn (người trưởng thành) tạo

nên nội dung cơ bản và sự khác biệt trong mọi mặt phát triển như thể
chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức... Ở lứa tuổi này, các em có nhiều thay
đổi về tâm lý, sinh lý. Một mặt các em muốn tự khẳng định mình
nhưng mặt khác lại có sự xáo trộn rất lớn trong quá trình nhận thức.
Như chúng ta đều biết, trong quá trình nhận thức, ý thức và hành động
luôn gắn liền với nhau. Nếu như người giáo viên chú trọng xây dựng ý
thức tự giác cho học sinh thì các em sẽ có hành động đúng đắn và thái
độ nghiêm túc trong học tập và rèn luyện. Ý thức tự giác sẽ giúp các
em đạt kết quả cao hơn trong học tập, tự tin và vững vàng hơn trong
cuộc sống.
Trong quá trình dạy học, ý thức tự giác sẽ giúp học sinh chủ
động tiếp thu kiến thức mà thầy truyền đạt và chủ động áp dụng vào
thực tiễn. Ý thức tự giác sẽ tạo tiền đề cho nhân cách tốt đẹp của các
em trong cuộc sống. Rồi mai đây các em sẽ là những thanh niên, tự
nhận thức được bổn phận và trách nhiệm của mình đối với xã hội. Ý
thức tự giác sẽ là một hành trang quí giá để các em tự điều chỉnh mọi
hành vi của mình trong cuộc sống.
II. Thực trạng và nguyên nhân
1. Ưu điểm
Lên cấp trung học cơ sở, học sinh được tiếp xúc với môi trường
mới, với nhiều thầy cô, bạn bè và những môn học mới. Mỗi thầy giáo,
cô giáo phụ trách một môn học riêng. Không phải ngày nào các thầy
cô cũng có tiết dạy ở lớp để quản lý và nhắc nhở các em như ở cấp
tiểu học. Chính vì vậy, chúng ta cần phải giúp các em tự giác trong
học tập. Các em như những cây non nớt, nếu chúng ta biết uốn nắn thì
mai sau nó sẽ rất có ích cho đời. Thực tế cho thấy ngay từ khi học sinh
vào lớp sáu mà không được đưa ngay vào nề nếp học tập thì lên các
lớp tiếp theo sẽ càng khó uốn nắn.
Ý thức tự giác không thể thiếu trong quá trình dạy học. Học
sinh có chủ động tiếp thu bài giảng thì việc đổi mới phương pháp dạy

học mới thực sự có hiệu quả. Ở nhà các em có tự giác học bài và làm
Mai CÈm Chi

5

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
bài đầy đủ thì trên lớp các em mới tự tin, sôi nổi tiếp thu kiến thức
mới.
Bên cạnh đó, ngày nay, trong nền kinh tế thị trường thời mở
cửa, các em có điều kiện tiếp xúc với những thông tin văn hóa khác
nhau, cập nhật các phương tiện truyền thông hiện đại, những trò giải
trí, tiêu khiển mang tính thách thức. Đó cũng chính là những cám dỗ,
khiến các em bất cứ lúc nào cũng có thể sao nhãng việc học hành.
Không lấy gì làm lạ khi chúng ta được nghe những giai thoại về tình
yêu bắt chước phim ảnh kiểu con nít của các cô, cậu học trò bậc
THCS. Cũng không phải là hiếm khi bắt gặp những em học sinh trong
giờ học không tập trung nghe giảng hoặc ghi chép mà lại vào máy
chơi “game” trên điện thoại hoặc nhắn tin với các bạn khác. Cũng có
không ít những trường hợp ở nhà, các em ngồi vào bàn học để cho bố
mẹ yên tâm nhưng thực tế lại đang nghe nhạc hoặc “chat” trên
internet. Thời gian sử dụng máy tính để chơi game, xem phim, nghe
nhạc, hoặc dùng điện thoại di động một cách vô bổ đôi khi nhiều hơn
thời gian dành cho học tập. Ngoài ra, những tệ nạn xã hội như cờ bạc,
ma túy …đang len lỏi vào học đường. Thực tế ở nhiều trường học, cứ
vào dịp sau Tết, khi có tiền mừng tuổi là các em lại tụ tập chơi bài vào
các giờ nghỉ năm phút hoặc giờ ra chơi. Lúc đầu là chơi vui, rồi thành
chơi ăn tiền. Lúc đầu là một nhóm rồi lan ra gần như cả lớp và nhiều

lớp khác. Chơi dần rồi ham, ngay cả giờ truy bài cũng được sử dụng
để chơi bài bạc. Lại có những em ít quan tâm đến việc học tập mà mà
chỉ quan tâm đến những vấn đề làm thế nào cho phù hợp với mốt, coi
trọng việc giao tiếp với người lớn, với bạn lớn tuổi để bàn bạc, trao
đổi với họ về các vấn đề trong cuộc sống, để tỏ ra mình cũng như
người lớn. Đây là những vấn đề cực kỳ nhức nhối, làm đau đầu nhiều
bậc phụ huynh. Bố mẹ, thầy cô không phải lúc nào cũng ở bên cạnh
các em để nhắc nhở, bảo ban việc học tập. Vì vậy phải giúp các em
phân biệt điều phải, trái, đúng, sai. Nhờ có ý thức tự giác, các em sẽ
xác định được nhiêm vụ của người học sinh và tránh xa được các tệ
nạn xã hội để cha mẹ, thầy cô vui lòng. Sau này những em các em sẽ
trở thành những người công dân tốt, có ích cho đất nước.
2. Nhược điểm
Xây dưng ý thức tự giác trong học tập góp phần không nhỏ
trong việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đồng thời góp phần hình
thành nhân cách tích cực trong học sinh. Tuy nhiên trong quá trình bồi
Mai CÈm Chi

6

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
dưỡng và xây dựng, người giáo viên còn gặp không ít những khó khăn
và hạn chế. Thứ nhất, việc uốn nắn ý thức cho các em nhiều khi được
coi là công việc của riêng người giáo viên chủ nhiệm chứ không phải
là của cả tập thể các thầy, cô giáo. Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm là
người làm việc độc lập, từ việc lên kế hoạch cho đến thực hiện kế
hoach, thiếu sự chia sẻ và góp ý của đồng nghiệp. Nếu như chúng ta

không khéo léo sẽ bị nhìn nhận như là một giáo viên “không bình
thường” hoặc đang “chơi trội”. Ngay cả phụ huynh học sinh đôi khi
cũng có tư tưởng coi nhẹ những giáo viên không phải là chủ nhiệm
lớp. Do đó các giáo viên bộ môn rất ngại đầu tư cho công tác giáo dục
này, tất cả đổ dồn lên trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm.
Thứ hai, việc xây dựng ý thức tự giác trong học tập cho học
sinh là một công việc đòi hỏi thời gian và sự nhiệt tình của người
đứng lớp. Đây không phải là việc làm một sớm, một chiều hay một
tuần, một tháng mà có khi còn phải mất cả một học kỳ thậm chí cả
một năm học bởi vì có những em rất nhạy bén, tiếp thu nhanh, “Thông
minh vốn sẵn tính trời” nhưng cũng có những em chậm chạp, rề rà
hay vô tư, dạy trước quên sau. Vì thế, việc giáo dục cũng phải tùy
theo khả năng của từng em. Song dù sao thì công việc này cũng phải
mang tính thường xuyên, từng bước một. Người giáo viên cần phải
đầu tư nhiều thời gian và tâm huyết thì mới mang lại hiệu quả lâu dài.
Thứ ba, một số nhà quản lý giáo dục, cụ thể là ban giám hiệu
đôi khi vẫn còn có tư tưởng coi trọng môn chính, xem nhẹ môn phụ,
cho nên khi phân công chủ nhiệm, các giáo viên dạy văn, toán thường
theo lớp lên đến cuối cấp. Còn giáo viên dạy các môn khác, nếu có
chủ nhiệm thì chỉ phụ trách ở những lớp dưới (thường là lớp 6, 7).
Chính vì thế việc hình thành ý thức tự giác học tập cho học sinh nhiều
khi đang được tiến hành dở chừng thì lại bị gián đoạn. Do vậy kết quả
đạt được đôi khi không cao. Thậm chí còn gây tư tưởng chán nản hoặc
tâm lý không ổn định đối với giáo viên.
Để khắc phục những thực trạng trên, trong quá trình giảng dạy
tôi đã rút ra cho mình một số giải pháp dưới đây.

Mai CÈm Chi

7


Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

III. Giải pháp.
1. Người giáo viên luôn là người thầy, người bạn của học sinh.
Biện pháp này không chỉ quan trọng đối với việc phát huy ý
thức tự giác của học sinh mà còn tạo thuận lợi cho giáo viên tiến hành
các hoạt động giáo dục.
Người giáo viên là người thầy, là tấm gương sáng cho học sinh
noi theo và đồng thời cũng là người bạn tin cậy của các em. Tuổi thơ
của các em rất nhạy cảm, khi không gây được sự tin cậy và kính phục
đối với các em thì rất khó khăn trong hoạt động giáo dục. Muốn giáo
dục học sinh một vấn đề nào đó thì bản thân người thầy phải gương
mẫu và chuẩn mực cho các em. Chúng ta muốn các em tự giác học tập
thì trước hết chúng ta phải nghiêm túc trong giảng dạy. Bản thân
chúng ta phải ra, vào lớp đúng giờ, bài vở chuẩn bị cẩn thận, lời nói
luôn đi đôi với việc làm.Chúng ta không thể làm việc tùy tiện, thiếu
khoa học. Chúng ta không thể nhắc học sinh tuần sau các con làm bài
kiểm tra một tiết rồi đến lúc đó lại “cô xin lỗi” vì cô bận quá hoặc cô
quên chưa ra đề…
Ngoài chức năng là người thầy mẫu mực, chúng ta còn phải là
người bạn tin cậy của các em. Do có sự thay đổi về tâm sinh lý, ở lứa
tuổi này, các em bắt đầu có những biểu hiện độc lập trong suy nghĩ,
không gần gũi cha mẹ như trước, nhưng thực tế vốn sống thì lại quá ít
ỏi. Vì vậy, thầy, cô cần gần gũi để các em có thể bộc bạch những suy
nghĩ của mình. Ví dụ: một học sinh học rất kém, thường xuyên không
học bài và làm bài, trong lớp luôn quậy phá, không những không nghe

giảng mà còn làm ảnh hưởng đến các bạn khác. Trước những biểu
hiện đó, ta không nên ghét bỏ hoặc trừng phạt thô bạo mà phải tìm
hiểu nguyên nhân trước. Khi xác định rõ nguyên nhân thì ta sẽ đưa ra
những biện pháp phù hợp. Như vậy, kết quả sẽ cao hơn. Có thể học
sinh đó bị ức chế về tâm lý do chưa xác định được tầm quan trọng của
việc học tập hoặc do nguyên nhân nào đó. Nếu chúng ta gần gũi các
em thì sẽ nghe được những điều tâm sự. Nhưng để có thể nghe được
những tâm sự đó thì trước tiên, người giáo viên phải gây được niềm
tin tưởng, phải là chỗ dựa tinh thần thực sự cho các em.
Ví dụ lớp 6C của tôi, có trường hợp em Nguyễn Tuấn Phong.
Phong vốn là một học sinh nhanh nhẹn, thông minh, tiếp thu bài tốt
song từ khi tôi vào nhận lớp (năm học 2010-2011), tôi thấy em có
biểu hiện bất cần. Em không bao giờ có ý định học bài và làm bài ở
Mai CÈm Chi

8

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
nhà. Chữ viết thì nguệch ngoặc. Một quyển vở em dùng để ghi chung
cho ba, bốn môn học. Trong lớp hay nói chuyện riêng, nhiều lần bị cô
giáo và các bạn nhắc nhở trong giờ sinh hoạt. Qua những lần trò
chuyện với em, tôi được biết rằng sau khi bố mẹ em ly hôn, bố em lấy
vợ khác, không còn quan tâm đến em như trước. Em về ở với mẹ.
Nhưng mẹ Phong là công nhân của công ty môi trường đô thị, thường
xuyên phải đi làm ca đêm nên ít khi có thời gian gần gũi, bảo ban em
học tập. Tối tối, em phải ở nhà một mình. Điều này khiến em rất buồn,
bị hụt hẫng và không muốn học hành. Trước tình huống đó, một mặt

tôi đã gặp gỡ mẹ em, tế nhị trao đổi những tâm sự của em để gia đình
tự điều chỉnh và kết hợp cùng tôi giúp đỡ em. Mặt khác, tôi gặp riêng
em phân tích để em hiểu rằng điều quan trọng nhất đối với em bây giờ
là học. Gia đình có khó khăn hoặc éo le thì em càng phải tự mình cố
gắng vươn lên trong học tập để trở thành con ngoan, trò giỏi. Khi học
tập có tiến bộ, em sẽ không còn cảm thấy tự ti nữa mà vững tin vào
bản thân mình. Lúc đó có thể bố em sẽ vì sự cố gắng của em mà càng
yêu thương em và nhìn nhận lại vấn đề.
Kết quả là em Tuấn Phong đã vui vẻ học tập và tiến bộ nhiều so
với thời gian trước. Tổng kết năm học 2010-2011, em đã đạt danh
hiệu học sinh tiên tiến. Đặc biệt môn tiếng Anh của tôi, em đã đạt trên
tám phảy. Kết quả này vẫn được em duy trì trong năm học 2011-2012.
Thực tế cho thấy: “Người giáo viên chủ nhiệm luôn là
linh hồn của lớp”. Một tập thể lớp có ý thức học tập thì người thầy,
đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm phải nghiêm túc và có những biện
pháp giáo dục phù hợp. Các biện pháp đó được lĩnh hội và phát huy
một cách tự giác đối với các em thì đòi hỏi người giáo viên phải vừa
là người thầy, đồng thời là người bạn của học sinh.
2. Giúp học sinh tự nhận thức được tầm quan trọng của ý thức tự
giác trong học tập.
Tính tự giác rất cần thiết trong cuộc sống. Vì vậy phải hình
thành và phát huy cho học sinh ngay từ nhỏ. Chúng ta không thể áp
đặt được bất cứ tính cách nào cho học sinh mà phải để cho các em tự
nhận thức được tầm quan trọng của nó.
Vậy làm thể nào để học sinh tự nhận thức được tầm quan trọng
của tính tự giác? Điều này phải được giáo dục qua lý thuyết và thực
tế. Trước tiên phải làm cho học sinh hiểu rõ tự giác là gì? Tự giác có
tác dụng gì? Và vì sao các em lại cần phải có ý thức tự giác trong học
tập? Khi đã thỏa mãn được các câu hỏi đó thì các em sẽ tự giác thực
Mai CÈm Chi


9

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
hiện. Các em hiểu rõ nếu bản thân mỗi cá nhân có ý thức tự giác thì nề
nếp học tập của lớp sẽ tốt. Điều này phải được chứng minh thực tế.
Tiết học hoặc ngày học nào mà tính tự giác được phát huy cao thì hiệu
quả sẽ tăng rõ rệt. Bản thân các em sẽ thấy hiểu bài hơn, tự tin hơn và
lớp học sôi nổi hơn. Nhiều tiết học và ngày học như vậy các em sẽ có
tuần học tốt, tháng học tốt, đáp ứng được mong mỏi của thầy cô và
cha mẹ. Biện pháp này chúng ta nên cho các em kiểm nghiệm ngay
trong thực tế. Giáo viên có thể lấy ngay ví dụ ở các lớp tiêu biểu trong
trường hoặc chính lớp mình đang giảng dạy. Học sinh kiểm nghiệm
thực tế để rút ra bài học cho mình.
Giáo viên phải giúp học sinh hiểu rõ trong cuộc đời của mỗi
con người, ít nhất chúng ta phải mất hơn hai mươi năm là đi học. Đó
là chưa kể đến sau này, nhiều người còn tiếp tục học hoặc nghiên cứu
cao hơn để phục vụ cho công việc hoặc các mục đích khác. Thầy cô
và cha mẹ không phải lúc nào cũng ở bên các em. Chính bản thân các
em phải tự giác ở mọi lúc, mọi nơi. Những người sa ngã, lầm lạc là
những người không biết tự giác, để cho thói xấu lôi kéo. Con người ta,
không phải ai sinh ra cũng đều là thiên tài hoặc thần đồng. Những bạn
học sinh yếu kém là những bạn lười học, ý thức học tập chưa tốt, có
thể bị lưu ban và nếu tập thể lớp có nhiều bạn như vậy thì nề nếp của
lớp đó rất kém, rất đáng xấu hổ khi cô tổng phụ trách đọc điểm thi đua
toàn trường vào giờ chào cờ đầu tuần.
Nếu như học sinh biết xấu hổ khi lớp bị chê trách thì tức là các

em có ý thức tập thể. Các em tự hiểu rằng vì tập thể lớp các em sẽ
không tùy ý trốn học, nói chuyện riêng, không học và làm bài về
nhà…để làm trừ điểm thi đua của lớp. Từ việc nhận thức được tầm
quan trọng của tính tự giác trong học tập, các em sẽ tiếp nhận các biện
pháp giáo dục của chúng ta một cách có hiệu quả.
3. Người giáo viên phải là người có sức lôi cuốn học sinh thông
qua các bài giảng của mình.
Để làm được việc này, giáo viên chúng ta cần phải tuân thủ triệt
để việc đổi mới phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm.
Chúng ta cần phải tự làm mới mình trước. Từ khâu soạn giáo án đến
các bước lên lớp sao cho linh hoạt, không gò bó và nhàm chán. Đổi
mới từ cách kiểm tra bài cũ, khởi động, thiết lập tình huống đến cách
giao bài tập về nhà. Chúng ta cũng phải lường trước được các tình
huống có thể xảy ra trong quá trình giảng dạy để đưa ra được những
đáp án có tính thuyết phục. Làm thế nào để bài giảng của chúng ta
Mai CÈm Chi

10

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
như một bộ phim. Bộ phim có hay thì mới thu hút được sự chú ý của
người xem và dư âm của nó còn đọng mãi trong lòng khán giả. Bài
giảng có hấp dẫn thì học sinh mới sôi nổi, hợp tác với giáo viên và
kiến thức của nó sẽ được các em nhớ lâu.
Để việc đổi mới đạt hiệu quả tối ưu thì người giáo viên cũng
cần tận dụng triệt để các phương tiên dạy học hiện đại. Nó chính là
công cụ đắc lực giúp cho chúng ta không những tiết kiệm được thời

gian, mà còn truyền tải được rất nhiều kiến thức. Ví dụ như môn tiếng
Anh của tôi, một tiết dạy nghe sẽ kém thuyết phục nếu thiếu phòng
lab, một tiết viết sẽ kém hiệu quả nếu không có máy chiếu phi vật thể
(projector) để trình chiếu bài làm của học sinh, một tiết đọc sẽ thiếu
hấp dẫn vì các em không được học trong phòng máy, sử dụng các
phần mềm (như phần mềm E-book) để có thể tương tác và chấm điểm
trực tiếp. Một tiết luyện nói sẽ không sôi nổi nếu không có các tình
huống được trình chiếu trên các “slide”. Thông qua các phương tiện
hiện đại, những câu hỏi, những dẫn dắt của người thầy, trò có thể tự
cập nhật những kiến thức mới, làm chủ nó và vận dụng nó trong mọi
tình huống thực tế.
Ngoài việc áp dụng những biện pháp trên thì một tiết dạy sẽ
thực sự hiệu quả, cuốn hút được học sinh khi giáo viên cung cấp thêm
các thông tin bổ ích bên ngoài, liên quan đến nội dung bài học. Học
sinh sẽ khắc sâu kiến thức hơn nếu giáo viên có sự “nhấn nhá ở
những phần trọng tâm và chốt bài ở cuối tiết dạy.
4. Xây dựng đội ngũ cán sự bộ môn có năng lực, có uy tín.
Ngay từ những tuần đầu năm học, người giáo viên cần tiến
hành lựa chọn đội ngũ cán sự bộ môn theo những tiêu chuẩn cụ thể.
Cán sự bộ môn là những em học giỏi, nhiệt tình với công việc của lớp,
có trách nhiệm và phải được các bạn tin yêu, bình chọn. Đội ngũ cán
sự lớp có năng lực, có ý thức tự giác sẽ giúp giáo viên rất nhiều trong
việc đưa lớp vào nề nếp học tập. Giáo viên là người hướng dẫn các em
ngay từ lúc mới nhận nhiệm vụ. Từ lời nói, thái độ với các bạn đến
cách giải quyết các công việc cụ thể. Giáo viên chỉ đóng vai trò là
người hướng dẫn , còn cán sự lớp tự chủ động phân công công việc,
đưa ra các biện pháp cụ thể để thúc đẩy phong trào học tập của lớp.
Làm như vậy các em sẽ tự tin hơn, mạnh dạn hơn, tự lập hơn với mọi
công việc được giao. Nhất là những tiết giáo viên vắng mặt.
Lựa chọn đội ngũ cán sự lớp là một biện pháp mang lại hiệu

quả cao trong việc xây dựng nếp học tập của lớp vì chính các em là
Mai CÈm Chi

11

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
những người trực tiếp tham gia kiểm tra việc học bài và làm bài của
các bạn hàng ngày. Khi nhận giảng dạy môn tiếng Anh và chủ nhiệm
lớp 6C năm học 2011-2012, tôi đã cho các em bầu ngay đội ngũ cán
sự lớp. Chỉ sau hai tuần học, năm em cán sự môn tiếng Anh của tôi
đã chủ động trong công việc. Trước mỗi tiết học, các em đã tự phân
công nhau kiểm tra bài làm và bài soạn của các bạn trong lớp. Các em
còn chia nhóm để cùng nhau ôn lại từ mới và các cấu trúc ngữ pháp
vừa học. Giờ ra chơi, các em lại cùng nhau tổ chức các trò chơi và nói
chuyện với nhau bằng tiếng Anh. Tuy chỉ là những câu giao tiếp đơn
giản mà các em vừa được học, đôi khi là những câu nói chưa đúng
ngữ pháp nhưng tôi nhận thấy đằng sau đó là cả một niềm say mê và
yêu thích môn học. Đặc biệt, có những tiết tôi bận đi họp hoặc có việc
đột xuất, không lên lớp được, chỉ cần giao việc là đội ngũ cán sự lớp
sẽ hướng dẫn và quản lý các bạn làm bài rất nghiêm túc, không làm
ảnh hưởng đến lớp bên cạnh. Còn đối với những bạn học kém, các em
lại phân công nhau giúp đỡ hoặc thành lập các đôi bạn cùng tiến, thúc
đẩy phong trào học tập của lớp.
Có thể nói đội ngũ cán sự lớp giúp người giáo viên rất đắc lực
trong mọi công việc liên quan đến môn học. Vì vậy chúng ta nên quan
tâm và tạo mọi điều kiện để các em phát huy vai trò của mình.
5. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường.

Ý thức tự giác của học sinh không chỉ được phát huy khi ở
trường mà còn phải nỗ lực rèn luyện trong gia đình. Thời gian các em
ở nhà nhiều hơn so với thời gian các em ở trên lớp. Do đó giáo viên
nên kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để thống nhất các
biện pháp giáo dục.
Trong buổi họp phụ huynh đầu năm học, tôi đã có những yêu
cầu cụ thể với cha mẹ các em. Bởi trường tôi không phải là trường
chuyên, lại nằm trên địa bàn một trong những quận mới sát nhập của
nội thành Hà Nội, học sinh đại đa số là con em nông dân, nên sự quan
tâm đến việc học hành của họ đối với con em mình chưa được sát sao,
còn hạn chế nhiều do công việc đồng áng, trồng trọt. Do đó tôi đã
thống nhất các biện pháp giáo dục với cha mẹ học sinh. Yêu cầu
thường xuyên phối hợp, kiểm tra, đôn đốc các em chứ không thể để
tình trạng phó mặc cho nhà trường theo kiểu “trăm sự nhờ cô” diễn ra.
Sau mỗi bài học , tức là sau từ 5 đến sáu tiết học, tôi yêu cầu phụ
huynh xem lại việc ghi chép bài của con ở trên lớp bằng cách kiểm tra
và ký vào vở. Lúc đầu một số phụ huynh còn quên và cho rằng giáo
Mai CÈm Chi

12

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
viên chỉ “vẽ việc”, nhưng sau vài lần kiểm tra, thấy được sự phản hồi
của giáo viên và sự tiến bộ của con mình, họ đều nhận ra là cần thiết,
nhất là đối với những học sinh hiếu động, ý thức tự giác trong học tập
chưa cao. Ngoài ra, sau mỗi bài kiểm tra định kỳ, tôi đều nhắn tin vào
điện thoại của phụ huynh cho biết số điểm của từng em đạt được. Từ

đó cùng phụ huynh kịp thời uốn nắn và điều chỉnh việc học tập của
các em. Yêu cầu phụ huynh phải dành thời gian cho con học ở nhà
theo thời gian biểu sao cho phù hợp với điều kiện sinh hoạt của gia
đình.
Cha mẹ học sinh là người hiểu rõ nhất tính cách của con em
mình. Đó là điều kiện thuận lợi cho giáo viên chúng ta có những
phương pháp cụ thể, linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng. Khi tiếp
xúc với phụ huynh, ta có thể hiểu được gia đình và nguyên nhân do
đâu học sinh học kém. Đối với những học sinh có hoàn cảnh bình
thường thì thống nhất với gia đình xây dựng nề nếp tự giác trong học
tập cho các em bằng những việc làm cụ thể như tự sắp xếp thời gian
học tập hay phải làm đủ bài tập về nhà và học bài trước khi đến lớp.
Bên cạnh việc kết hợp với gia đình, giáo viên chủ nhiệm cần
thường xuyên liên hệ chặt chẽ với các thầy cô giáo bộ môn để nắm bắt
được các thông tin cần thiết. Ngoài việc gặp gỡ, trao đổi trực tiếp thì
việc ghi chép lại thông qua hệ thống sổ sách cũng là rất quan trọng.
Cuốn sổ ghi đầu bài là nơi thể hiện tình hình học tập trong từng tiết
học của học sinh. Song đối với một lớp học ba, bốn chục cháu, với
một dòng nhỏ dành cho việc nhận xét, các giáo viên bộ môn không
thể thông báo được hết tình hình học tập của lớp với giáo viên chủ
nhiệm. Chính vì vậy, tôi đã làm thêm một cuốn sổ ghi nội dung chi
tiết cho từng tiết học. Những học sinh có thái độ và ý thức học tập
chưa tốt hoặc những đề xuất của giáo viên bộ môn sẽ được phản ánh
cụ thể trong quyển sổ này. Sau mỗi tuần học, giáo viên phụ trách lớp
sẽ có cái nhìn bao quát về toàn bộ tình hình học tập của lớp thông qua
việc ghi chép của các thầy, cô giáo bộ môn, từ đó kịp thời có biện
pháp giải quyết.
Giáo viên bộ môn cũng phải luôn theo sát lớp, quản lý và nắm
bắt tình hình chung của lớp và nhất là những em cá biệt để hỗ trợ với
giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh cùng giáo dục các em.

Một trong những trường hợp điển hình mà tôi muốn đề cập đến ở đây
là em Vũ Ngọc Uyên, lớp 7D. Uyên là lớp trưởng lớp tôi dạy môn
tiếng Anh, chứ không phải là lớp tôi chủ nhiệm. Ở em hội tụ đầy đủ
các yếu tố của một người con ngoan, trò giỏi, học sinh gương mẫu.
Đầu học kỳ hai năm học 2011-2012, bỗng nhiên tôi thấy em có vẻ
Mai CÈm Chi

13

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
trầm tính, ít nói chuyện với bạn bè. Điểm số của em vẫn ổn định
nhưng trong lớp đôi khi em không tập trung. Tôi quyết định chưa trao
đổi với giáo viên phụ trách lớp vội mà hẹn gặp riêng em để tìm hiểu.
Khi được hỏi “Con biết cô gọi con lên đây về việc gì không?” thì em
bật khóc và nói: “Con biết rồi ạ.” Thế rồi em chủ động tâm sự với tôi
rằng “Em đã yêu anh Trịnh Xuân Hoàng, lớp 9C”. Nghe đến đây, tôi
liền kể một câu chuyện của mình từ hồi còn đi học để em cảm nhận
được sự cảm thông và tin tưởng ở tôi. Và không cần phải hỏi tiếp,
Uyên đã cho tôi biết hết sự thật về “mối tình học trò” của em. Tôi hiểu
là em đang rất hoang mang, cần có sự chỉ bảo của người lớn. Và bây
giờ chính là lúc người thầy cần phải khoan dung, giang rộng cánh tay
để nâng đỡ, giúp các em khỏi vấp ngã. Tôi đã phân tích cho em hiểu
rằng đó chỉ là sự cảm mến của tình bạn chứ không phải là tình yêu.
Rằng môi trường THCS chỉ được ví như một cái ao, ít nữa, khi đã tốt
nghiệp đại học, ra ngoài xã hội, đó mới chính là đại dương rộng lớn,
sẽ có nhiều cơ hội, tha hồ cho chúng ta lựa chọn. Hai tuần sau cuộc
gặp gỡ này, em Uyên đã có cái nhìn khác hẳn về mối quan hệ với các

bạn khác giới và xác định lại được mục đích học tập của mình. Tổng
kết năm học 2011-2012, Uyên vẫn giữ được danh hiệu học sinh xuất
sắc của lớp.
Trong quá trình giảng dạy, người giáo viên, ngoài việc truyền
thụ kiến thức, còn cần phải có cái “tâm”. Chúng ta nên coi học sinh
như con mình và cùng gánh vác trách nhiệm, chia sẻ công việc với
giáo viên chủ nhiệm. Chỉ cần để ý một chút, chúng ta sẽ nhận ra được
sự thay đổi của các em và giúp các em điều chỉnh lại những xáo trộn
để trở về vị trí cân bằng. Chỉ cần có tinh thần hợp tác với đồng
nghiệp, thì giáo viên chủ nhiệm sẽ đỡ vất vả hơn rất nhiều và việc
giáo dục học sinh sẽ đem lại hiệu quả đáng kể.
6. Trách phạt và tuyên dương khen thưởng kịp thời.
Ở tuổi học trò, học sinh rất hiếu động và luôn có những biểu
hiện khác nhau về các vấn đề trong lớp học. Các em rất thích được
khen, được tuyên dương trước lớp. Nếu chúng ta biết khen thưởng kịp
thời thì sẽ động viên được tinh thần của các em. Ngược lại, với những
biểu hiện sai lệch thì giáo viên đặc biệt là chủ nhiệm phải có biện
pháp trách phạt phù hợp.
Mỗi tháng, giáo viên nên tổng kết thi đua một lần, chọn ra
những học sinh tiêu biểu để tuyên dương hoặc khen thưởng. Việc làm
đó sẽ khuyến khích sự phấn đấu của các em trong từng ngày, từng
Mai CÈm Chi

14

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
tuần học. Cuối tháng, dù các em nhận được lời tuyên dương trước lớp

hay những phần thưởng nhỏ bé, đều khiến các em rất thích thú và
phấn khởi.
Đầu năm học, khi nhận lớp chủ nhiệm, với những giờ giảng bài
đầu tiên, tôi cảm thấy thất vọng vì các em học rất trầm, không dám
giơ tay phát biểu ý kiến xây dựng bài. Tìm hiểu nguyên nhân thì tôi
được biết là các em sợ sai, sợ các bạn cười… . Tôi đã khích lệ, động
viên các em bằng cách cho điểm, khuyến khích những em nào có tinh
thần xây dựng bài. Còn nếu những ai không trả lời được thì thôi và
suy nghĩ tiếp. Từ đó các em thay đổi hẳn thái độ học tập, tự tin, hăng
hái xây dựng bài. Lúc đầu chỉ có một vài em giơ tay phát biểu, sau
một thời ngắn, số lượng đó tăng lên rất nhiều và đặc biệt, những em
tiếp thu bài chậm cũng đã phát huy tinh thần hăng hái, xây dựng bài
một cách đầy tự tin.
Bên cạnh đó, ta chọn ra những học sinh ý thức học tập chưa tốt
để trách phạt và giúp đỡ các em cùng tiến bộ. Có thể tăng mức độ
hình phạt nếu các em vi phạm nhiều lần. Ở các lớp khác cũng như lớp
chủ nhiệm, tôi đã áp dụng một số hình phạt sau:
- Vi phạm lần thứ nhất: Nhắc nhở, động viên bằng những câu nói
có tính khuyến khích như: “Cô biết là lần sau em sẽ làm được
mà” hay “Hãy cố gắng lên, cô nghĩ em không hề thua kém các
bạn”….
- Vi phạm lần thứ hai: Phê bình trước lớp.
- Vi phạm lần thứ ba: Cảnh cáo, viết bản kiểm điểm.
- Vi phạm lần thứ tư: Chép phạt chính bài vừa học. Tùy theo mức
độ vi phạm, có thể cho chép lại bài từ 1-10 lần, có ý kiến của
phụ huynh bên dưới. Hình thức này nhằm buộc những học sinh
lười học phải xem lại bài bằng phương pháp ghi chép. Người ta
vẫn ví “mưa dầm thấm lâu”. Đây chính là một trong những việc
làm tương tự như vậy.


Mai CÈm Chi

15

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
IV. Kết quả thực hiện.
Qua những năm chủ nhiệm lớp cũng như giảng dạy bộ môn, áp
dụng các biện pháp trên, tôi nhận thấy kết quả rất tốt.
1. Đội ngũ cán sự lớp tự tin, chủ động trong mọi phong trào học
tập.
Qua sự lựa chọn và hướng dẫn của giáo viên, đội ngũ cán sự
lớp đã thực sự làm nòng cốt của lớp. Các em luôn chủ động trong
công việc, nắm bắt kịp thời các thông tin và tình hình học tập của các
bạn. Đây chính là cánh tay đắc lực, giúp người giáo viên rất nhiều
trong quá trình đưa lớp vào nề nếp học tập.
2. Học sinh tự nhận thức được tầm quan trọng của ý thức tự giác
trong học tập và nghiêm túc thực hiện.
100% học sinh đều chủ động học và làm bài đầy đủ trước khi
đến lớp. Trong giờ học, ngoài những lúc phát biểu ý kiến và ghi bài,
các em đều chăm chú nghe giảng hoặc thực hành theo sự hướng dẫn
của giáo viên bởi các em đã tự hiểu rằng sự nghiêm túc của mỗi cá
nhân sẽ góp phần phát huy nề nếp tốt của lớp.
3. Ý thức tự giác đã giúp phương thức học tập của lớp sôi nổi.
Nhờ có tinh thần tự giác, học sinh xác định được nhiệm vụ học
tập của mình. Từ đó các em thấy hứng thú trong học tập, hăng hái
tham gia phát biểu ý kiến xây dưng bài. Tuy trình độ của các em còn
rất chênh lệch nhưng các em luôn cố gắng vươn lên học tốt.

4. Học sinh đã phát huy ý thức tự giác trong và ngoài lớp.
Trong lớp, các em chủ động tiếp thu bài giảng, 96% các tiết học
được xếp loại tốt, 4% xếp loại khá. Các buổi truy bài đầu giờ, giáo
viên chủ nhiệm không phải trực tiếp giám sát liên tục như hồi đầu
năm mà các em tự giác cùng nhau ôn lại bài.
Chính các em là những người phát động các phong trào thi đua
học tập, tự tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về kiến thức như hái hoa dân
chủ, rung chuông vàng…
5. Giáo viên truyền tải được nhiều kiến thức, học sinh phát huy
được tính sáng tạo.
Mai CÈm Chi

16

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Chính các em là trung tâm của tiết học, độc lập trong suy nghĩ
nhưng hiêu quả học tập rất cao khi làm việc theo cặp hoặc tham gia
thảo luận nhóm. Vì thế, tiết học trở nên nhẹ nhàng hơn, ngoài kiến
thức cơ bản, học sinh đươc thực hành nhiều hơn. Giáo viên có thêm
thời gian để mở rộng vấn đề cho các em.
6. Kết quả chung.
* Đối với lớp chủ nhiệm:
- Luôn là một trong những lớp đứng đầu toàn trường về nề nếp học
tập. Hơn 70% học sinh xếp loai học lực khá và giỏi.
- 100% học sinh được cấp giấy chứng nhận đạt danh hiệu “Cháu
ngoan Bác Hồ - Chủ nhân Thăng Long” của hội đồng Đội thành phố

Hà Nội.
- Tập thể lớp đạt tiên tiến xuất sắc, chi đội vững mạnh.
*Với bộ môn tiến Anh mà tôi trực tiếp giảng dạy:
Kết quả học tập giữa các lớp (năm học 2011 – 2012) như sau:
Lớ
p

Sĩ số

Loại giỏi

Loại khá

Loại TB

6C

33

30%

54%

16%

0%

7D

29


58%

39%

3%

0%

9C

37

38%

62%

0%

0%

Mai CÈm Chi

17

Loại
kém

yểu-


Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
- Đội tuyển học sinh giỏi môn tiếng Anh của trường , tham gia thi cấp
Quận gồm 5 em thì có 4 em là học sinh do tôi giảng dạy.
- Đội tuyển học sinh thi OLYMPIC tiếng Anh cấp thành phố gồm 4
em, đều là học sinh lớp 9C của tôi.
- Học sinh các lớp đều hào hứng tham gia cuộc thi tiếng Anh “IOE”
qua mạng. Toàn trường có 4 giải cấp quận, cũng đều là những học
sinh ở các lớp do tôi giảng dạy. Đó là các em:
Nguyễn Thu Trang – lớp 7D – giải nhì.
Đỗ Minh Phúc – lớp 7D – giải ba
Lê Thùy Dung – lớp 9C – giải ba
Nguyễn Đức Tiến – lớp 9C – giải nhì
Trong đó em Lê Thùy Dung là học sinh duy nhất của quận Tây Hồ
tham gia vòng thi tiếng Anh qua mạng cấp thành phố.
- Đội tuyển học sinh giỏi lớp 9C tham gia cuộc thi hùng biện tiếng
Anh tại trường quốc tế Academy đạt giải khuyến khích.

Mai CÈm Chi

18

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận
Qua thực tế giảng dạy cũng như kết quả đạt được cho thấy xây
dựng ý thức tự giác trong học tập cho học sinh là một việc làm không
thể thiếu trong quá trình giáo dục. Nó đạt hiệu quả cả đối với người
dạy và người học. Nhờ ý thức tự giác, học sinh sẽ chủ động hợp tác
với giáo viên cả trên lớp cũng như ngoài tiết học. Do đó, người giáo
viên có thể phát huy hết mọi tài năng của mình. Các phương pháp và
các thủ pháp dạy học đa dạng được thực hiện. Qua đó tiềm năng của
học sinh cũng được phát huy, góp phần nâng cao chất lượng dạy và
học.
Việc xây dưng ý thức tự giác trong học tập cũng góp phần hình
thành nhân cách của học sinh. Trong những giai đọan phát triển của
con người, lứa tuổi THCS có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây là
thời kỳ phát triển phức tạp nhất, nhiều biến động nhất nhưng cũng là
thời kỳ chuẩn bị quan trọng nhất. Các em sẽ phát huy tác dụng của nó
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống cho những bước trưởng thành sau
này..
Biện pháp giáo dục này sẽ thực sự thành công khi có sự kết hợp
của cả tập thể giáo viên trong nhà trường và trên hết là sự tâm huyết
với nghề, lòng nhiệt tình, mến trẻ và có trách nhiệm với những học
sinh thân yêu của mình.
2. Các đề xuất và khuyến nghị
Trước thực trạng học tập hiện nay của học sinh đang có chiều
hướng giảm sút nghiêm trọng, việc giáo dục ý thức tự giác trong học
tập cho các em là một đòi hỏi cấp bách của xã hội để xây dựng và
hoàn thiện những giá trị cơ bản của con người Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để công tác giáo dục này có hiệu quả,
chúng tôi, những giáo viên trực tiếp giảng dạy rất mong được sự ủng
hộ của các nhà quản lý giáo dục, đặc biệt là ban giám hiệu các nhà
trường. Chúng ta nên có cái nhìn tổng quát hơn trong việc giáo dục

học sinh một cách toàn diện. Nên để cho một giáo viên theo học sinh
Mai CÈm Chi

19

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
của mình từ đầu đến cuối cấp học để có thể chịu trách nhiệm đến cùng
những sản phẩm giáo dục của mình.
Đối với sở giáo dục, ngoài khóa học khởi đầu, các đồng chí nên
tổ chức các lớp học tiếp theo về phương pháp dạy học mới của thế kỷ
21 để giáo viên chúng tôi có thể cập nhật được những biện pháp giáo
dục tiên tiến nhất trên thế giới, áp dụng vào thực tế giảng dạy ở trường
mình – góp phần vào việc nâng cao nhận thức của học sinh.
Ngoài ra, trong chương trình học ở các trường THCS, nên xen
kẽ thêm các tiết học ngoại khóa về kỹ năng sống, về sức khỏe sinh sản
vị thành niên… để các em thấy được mối liên hệ giữa học tập và thực
tế. Từ đó gây được hứng thú cho các em trong học tập.
Cuối cùng, tôi kính mong được sự nhận xét, góp ý của các đồng
nghiệp và các cấp lãnh đạo để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi được
hoàn thiện hơn.
Tôi xin cam đoan rằng trên đây chính sáng kiến kinh nghiệm
của tôi, do tôi tự nghiên cứu và đúc kết trong quá trình giảng dạy,
không sao chép dưới bất cứ một hình thức nào.

Hà Nội, ngày 25/4/2012
Người viết


Mai Cẩm Chi

Mai CÈm Chi

20

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hướng dẫn nhiệm vụ năm học
- Bộ giáo dục và đào tạo
2. Từ điển thuật ngữ văn học.
- Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội.

Mai CÈm Chi

21

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Ban cán sự lớp 7D chủ động tổ chức và điều khiển một số
cuộc thi về kiến thức

Mai CÈm Chi


22

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Tập thể lớp hào hứng tham gia các trò chơi giải đáp môn
tiếng Anh ngoài giờ học.
Mai CÈm Chi

23

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Học sinh lớp 9C trong một tiết tự quản
Mai CÈm Chi

24

Trêng THCS NhËt T©n


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Mai CÈm Chi


25

Trêng THCS NhËt T©n


×