Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

XU HƯỚNG BIẾN đổi cơ cấu xã hội GIAI cấp ở hải DƯƠNG dưới tác ĐỘNG của CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN đại HOÁ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



PHÙNG THỊ LÝ

XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI
- GIAI CẤP Ở HẢI DƯƠNG DƯỚI TÁC ĐỘNG
CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



PHÙNG THỊ LÝ

XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI
- GIAI CẤP Ở HẢI DƯƠNG DƯỚI TÁC ĐỘNG
CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN VĂN OÁNH

HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

Chương 1. XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI - GIAI CẤP VÀ TÍNH
TẤT YẾU CỦA XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI - GIAI
CẤP Ở HẢI DƯƠNG ........................................................................... 6

1.1.

Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ....................................... 6
1.1.1. Cơ cấu xã hội - giai cấp...................................................................... 6
1.1.2. Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ....................................... 8

1.2.

Tính tất yếu của xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp
ở Hải Dương ..................................................................................... 11
1.2.1. Tính tất yếu của xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp ở
Hải Dương dưới tác động của CNH, HĐH và Phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa........................................... 11
1.2.2. Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở Hải Dương gắn
liền với xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt
Nam .................................................................................................. 16


Chương 2. THỰC TRẠNG XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI - GIAI
CẤP Ở HẢI DƯƠNG DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CNH, HĐH VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ................................................................. 34

2.1.

Các yếu tố tác động đến xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai
cấp ở Hải Dương ............................................................................. 34
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Hải
Dương ............................................................................................... 34
2.1.2. Đường lối đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà
nước và của tỉnh ............................................................................... 39
2.1.3. Xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế ................................................... 40

2.2.

Thực trạng xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở Hải
Dương dưới tác động của CNH, HĐH hiện nay .............................. 42
2.2.1. Xu hướng biến đổi chung của cơ cấu xã hội - giai cấp ở Hải
Dương dưới tác động của CNH, HĐH hiện nay .............................. 42


2.2.2. Xu hướng biến đổi riêng của từng giai cấp, tầng lớp xã hội tỉnh
Hải Dương dưới tác động của CNH, HĐH hiện nay ....................... 46
2.3.

Những vấn đề đặt ra trong xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp ở Hải Dương dưới tác động của CNH, HĐH hiện nay ...... 59
2.3.1. Đánh giá chung về xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở
Hải Dương dưới tác động của CNH, HĐH hiện nay ....................... 59
2.3.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong xu hướng biến đổi cơ

cấu xã hội - giai cấp ở Hải Dương ................................................... 65

Chương 3. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU XÂY DỰNG CƠ CẤU XÃ HỘI - GIAI CẤP
HỢP LÝ Ở HẢI DƯƠNG DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CNH, HĐH HIỆN
NAY .................................................................................................. 70

3.1.

Nhóm giải pháp về kinh tế - xã hội, văn hoá, giáo dục ................... 72
3.1.1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - kỹ thuật - công
nghệ của tỉnh, thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn,
tạo môi trường thuận lợi cho sự thống nhất lợi ích kinh tế giữa
các giai cấp, tầng lớp xã hội trong tỉnh ............................................ 72
3.1.2. Giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm, đời sống, điều kiện làm
việc cho người lao động ở Hải Dương ............................................. 78
3.1.3. Phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ cho các giai cấp, tầng lớp xã hội trong tỉnh .................... 82

3.2.

Nhóm giải pháp về nâng cao vai trò của hệ thống chính trị và
hoàn thiện cơ chế, chính sách .......................................................... 83
3.2.1. Nâng cao vai trò của hệ thống chính trị địa phương, trực tiếp là
hệ thống chính trị cấp cơ sở ............................................................. 83
3.3.2. Giải pháp về xây dựng, hoàn thiện và thực thi cơ chế, chính
sách của Đảng và Nhà nước ............................................................. 88

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 94
PHỤ LỤC


.......................................................................................................................101


BẢNG QUY ƯỚC CHỮ VIẾT TẮT
BCHTWĐ :

Ban chấp hành Trung ương Đảng

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

:

CNH, HĐH :

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

KH - CN

:

Khoa học - công nghệ


TLSX

:

Tư liệu sản xuất

TNHH

:

Trách nhiệm hữu hạn

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

UBND

:

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình cách mạng XHCN là quá trình từng bước xoá bỏ cơ bản các
quan hệ đối kháng giai cấp, hình thành một cơ cấu xã hội – giai cấp mới, trong

đó liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí thức là nền tảng của
xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, thì cơ cấu xã hội giai cấp là loại hình cơ
bản và có vị trí quyết định nhất, chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác. Cơ
cấu xã hội – giai cấp là tổng thể các cộng đồng tương đối ổn định, bền vững và
những mối quan hệ giữa các cộng đồng đó. Cơ cấu xã hội – giai cấp vừa phản
ánh sự tồn tại xã hội, vừa tác động lại sự phát triển của xã hội. Lênin đã từng
nói: kết cấu xã hội và chính quyền có nhiều biến đổi, nếu không tìm hiểu những
biến đổi này thì không thể tiến được một bước trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động
nào”. Xuất phát từ cơ cấu xã hội – giai cấp mà người ta xây dựng các chính sách
phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá của mỗi xã hội trong từng giai đoạn cụ thể.
Sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, Lênin còn chỉ rõ : "Các giai
cấp vẫn tồn tại nhưng bộ mặt của mỗi giai cấp đều có sự thay đổi, quan hệ qua
lại giữa các giai cấp cũng có sự biến đổi". Cơ cấu xã hội- giai cấp cũng có sự
thay đổi. Do vậy, nghiên cứu cơ cấu xã hội – giai cấp, xu hướng biến đổi của cơ
cấu xã hội- giai cấp sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, đặc biệt là
trong thời kỳ CNH, HĐH là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
CNH, HĐH là khuynh hướng phát triển tất yếu của tất cả các nước, đặc
biệt là các nước đang phát triển. Đối với nước ta, dưới tác động của nhiều yếu
tố, nhất là quá trình CNH, HĐH đất nước, cơ cấu xã hội – giai cấp cũng có
những sự biến đổi phức tạp và đa dạng.
Hải Dương là một tỉnh nông nghiệp nằm ở châu thổ sông Hồng, thuộc
đồng bằng Bắc Bộ. Cùng với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, kinh tếxã hội tỉnh Hải Dương đã có sự phát triển rõ rệt, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo

1


hướng ngày càng hiện đại, có sự kết hợp giữa công nghiệp với nông nghiệp,
giữa thành thị với nông thôn. Lãnh đạo tỉnh Hải Dương đã xác định rõ lợi thế so
sánh, xu hướng phát triển kinh tế trong nước cũng như quốc tế và khẳng định
cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại, bền vững,

có sức cạnh tranh. Cùng với nó cơ cấu xã hội- giai cấp cũng có những biến đổi
lớn, đa dạng.
Xuất phát từ tình hình đó, tác giả lựa chọn "Xu hướng biến đổi cơ cấu
xã hội- giai cấp ở Hải Dương dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá" làm đề tài luận văn thạc sĩ. Từ lí luận và thực tiễn, tác giả mong muốn tìm
ra giải pháp có tính khả thi cao, góp phần từng bước hoàn thiện chính sách, biện
pháp để xây dựng cơ cấu xã hội - giai cấp ở Hải Dương theo hướng tích cực.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề giai cấp luôn là vấn đề trung tâm trong thời kỳ cách mạng, vì vậy,
nó cũng là vấn đề được tập trung nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Đặc
biệt, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, ở Việt Nam đã có nhiều công
trình khoa học, sách báo, tạp chí của nhiều tác giả đã công bố về sự biến đổi cơ
cấu xã hội - giai cấp. Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã nêu
nhiều vấn đề mang tính quy luật chung, tính đặc thù của quá trình đó, như:
* Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam:
- “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X (2008).
- “Về tăng cường sự lãnh đạo của đối với công tác thanh niên trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; “ xây dựng đội
ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế”; “Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn” Nghị
quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá X (2008).

2


* Một số công trình đã in thành sách:
- “Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước” của PGS.TS Dương Xuân Ngọc, H. 2004.

- “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân và
Công đoàn Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh
tế quốc tế” của Tổng Liên đoàn Lao đông Việt Nam, H. 2007.
* Các bài báo khoa học:
- “Đại hội X của Đảng với vấn đề liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”” của PGS, TS Phan Thanh Khôi.
Tạp chí Lao động và công đoàn, số 370 (2006).
- “Xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân, nhân tố quyết định
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của
Tiến sĩ Dương Văn Sao. Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 376 (2007).
* Các luận văn, luận án, đề tài khoa học:
- “Ý thức chính trị của công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài nước ta hiện nay”. Luận án Tiến sĩ Triết học của Dương Thị
Thanh Xuân, H. 2007.
- “Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá”. Luận văn thạc sĩ Triết học của Trần Thị Ngọc Bích, H. 2008.
- “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020”. Đề
tài khoa học cấp Nhà nước, 2010. TS. Đặng Ngọc Tùng: Chủ nhiệm đề tài.
Như vậy, tuy đã có nhiều đề tài và công trình nghiên cứu về cơ cấu xã
hội – giai cấp, nhưng do đây là một vấn đề có nội hàm rộng nên các công
trình trên mới chỉ đề cập tới một khía cạnh nào đó, hoặc mới chỉ đưa ra những
giải pháp chung chung, chưa đi sâu vào vấn đề xu hướng biến đổi của cả cơ
cấu xã hội – giai cấp ở một địa bàn cụ thể. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài:
"Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp ở Hải Dương dưới tác động
của công nghiệp hoá, hiện đại hoá" là cách tiếp cận cụ thể về xu hướng biến

3


đổi cơ cấu xã hội – giai cấp trong điều kiện mới, có tính đặc thù của Hải

Dương.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Phân tích thực trạng xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở tỉnh
Hải Dương dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ đó
đề ra những giải pháp thích hợp nhằm xây dựng cơ cấu xã hội- giai cấp ở Hải
Dương đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở khoa học của xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp
dưới ở Hải Dương tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Bước đầu phân tích thực trạng và xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp tỉnh Hải Dương dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc xây dựng cơ cấu xã hộigiai cấp tỉnh Hải Dương theo hướng tích cực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở Hải Dương
dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp trong phạm vi tỉnh Hải
Dương dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ năm
1997 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

4


Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào đối tượng của đề tài, trong quá trình nghiên cứu, tác giả
luận văn có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp lôgic và lịch sử, so sánh, phân tích,
tổng hợp, thống kê số liệu, kế thừa thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa
học...
6. Đóng góp của đề tài
- Góp phần làm rõ cơ sở khoa học của xu hướng biến đổi cơ cấu xã hộigiai cấp ở Hải Dương dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
- Bước đầu làm rõ thực trạng và một số xu hướng biến đổi cơ cấu xã
hội - giai cấp tỉnh Hải Dương dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc xây dựng cơ cấu xã hội giai cấp tỉnh Hải Dương theo hướng tích cực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm 3 chương 7 tiết.
Chương 1: Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp và tính tất yếu của
xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp ở Hải Dương
Chương 2: Thực trạng xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp ở Hải
Dương dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay và
những vấn đề đặt ra.
Chương 3: Giải pháp chủ yếu xây dựng cơ cấu xã hội - giai cấp hợp lý ở
Hải Dương trong dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.

5


Chương 1
XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI - GIAI CẤP

VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI
CƠ CẤU XÃ HỘI - GIAI CẤP Ở HẢI DƯƠNG

1.1. Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp.
1.1.1. Cơ cấu xã hội - giai cấp
Xã hội nào cũng có cơ cấu của nó. Theo từ điển bách khoa Việt Nam:
“Cơ cấu xã hội là tổng hoà những mối quan hệ tương đối ổn định giữa các yếu
tố cấu thành hệ thống xã hội” [22, tr.612]. Cơ cấu xã hội theo nghĩa rộng là
tổng hoà tất cả các cộng đồng người được hình thành một cách tự nhiên trong
lịch sử tộc người, các dân tộc, các giai cấp, các tầng lớp xã hội... cũng như các
cộng đồng người, nó được tạo lập một cách có ý thức do nhu cầu lịch sử nhất
định. Sự tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên các quan hệ xã hội.
Cơ cấu xã hội luôn gắn liền với các quan hệ xã hội, là biểu hiện trực tiếp của
các quan hệ xã hội đó. Cơ cấu xã hội là một tổ hợp đa dạng, phức tạp của các
phân hệ cơ cấu.
Trong xã hội thường có các loại cơ cấu xã hội chủ yếu sau:
- Cơ cấu xã hội - giai cấp.
- Cơ cấu xã hội - dân số.
- Cơ cấu xã hội - dân cư.
- Cơ cấu xã hội - lao động, nghề nghiệp.
- Cơ cấu xã hội - dân tộc.
- Cơ cấu xã hội - tôn giáo
Cơ cấu xã hội tồn tại khách quan, do cơ cấu kinh tế sinh ra. Cơ cấu kinh
tế và cơ cấu xã hội hợp thành cơ sở của lịch sử, tư tưởng, chính trị, văn hoá.
Trong hệ thống các yếu tố cấu thành nên cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội – giai cấp

6


là yếu tố cấu thành cơ bản nhất, luôn luôn ở vị trí trung tâm, quan trọng nhất.

Trong “lời tựa viết cho bằng tiếng Đức xuất bản năm 1883”, Ph.Ăngghen nêu
bật cơ sở hình thành cơ cấu xã hội và vị trí của cơ cấu giai cấp: “...Trong mọi
thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do
sản xuất kinh tế mà ra, cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch
sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất tan rã),
toàn bộ lịch sử là lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai
cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và những
giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ; nhưng cuộc
đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức
(tức là giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột
và áp bức mình (tức giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh
viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi cuộc đấu
tranh giai cấp” [32, tr.11].
Lênin nhấn mạnh lịch sử từ khi có giai cấp, đấu tranh giai cấp thì cơ cấu
xã hội – giai cấp là thể hiện bản chất của cơ cấu xã hội: “Chúng ta luôn luôn
cần phải thấy rõ rằng sự phân chia xã hội thành giai cấp như thế trong quá trình
lịch sử là sự kiện căn bản”. Vì vậy, muốn thấy rõ bản chất, đặc điểm, hình thái
cụ thể của mỗi xã hội còn tồn tại giai cấp trước kia cũng như hiện nay, trước
hết và căn bản phải nghiên cứu các giai cấp hiện tồn của xã hội đó cùng mối
quan hệ giữa các giai cấp. Đó chính là cơ cấu giai cấp của xã hội - cơ cấu căn
bản và cốt lõi của xã hội có giai cấp. Cơ cấu xã hội – giai cấp thể hiện một cách
rõ nét nhất đặc điểm của cơ cấu xã hội nói chung, thể hiện bản chất giai cấp của
mỗi chế độ xã hội, thông qua đó thể hiện vị trí xã hội – chính trị của mỗi giai
cấp và tính chất của cuộc đấu tranh giữa các tập đoàn xã hội đó [45, tr.23]. Cơ
cấu xã hội – giai cấp quy định tính chất và thực chất quan hệ xã hội, chính trị,
tôn giáo... Nó là yếu tố đặc trưng cho sự khác nhau về chất giữa xã hội này với
xã hội khác. Nó là cốt lõi của toàn bộ tổ chức xã hội. Sự biến đổi của cơ cấu xã

7



hội – giai cấp có khả năng tác động mạnh mẽ nhất đến sự biến đổi của toàn bộ
cơ cấu xã hội và tổ chức xã hội. Giai cấp là khái niệm lịch sử nên cơ cấu xã hội
– giai cấp cũng là một khái niệm lịch sử. Cơ cấu xã hội – giai cấp thay đổi thì
chế độ xã hội – chính trị cũng có sự thay đổi và ngược lại. Việc nhận thức đúng
đắn cơ cấu xã hội – giai cấp cả về lý luận khoa học lẫn thực tiễn là điều rất
quan trọng đối với việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế – xã hội.
1.1.2. Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp
Sự biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp là do sự biến đổi của cơ cấu
kinh tế quy định. Quá trình thay thế của một hình thái kinh tế – xã hội cũ bằng
một hình thái kinh tế – xã hội mới tất yếu dẫn đến việc thay đổi cơ cấu xã hội –
giai cấp. Bởi vì một số giai cấp bao giờ cũng được sinh ra, tồn tại gắn liền với
một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Do vậy khi hình thái kinh tế – xã hội
cũ mất đi, thay thế bằng một hình thái kinh tế – xã hội mới thì cơ cấu giai cấp
cũ cũng được thay thế bằng cơ cấu giai cấp mới.
Hệ thống của các giai cấp trong xã hội tư sản do tính chất của những
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa sản sinh ra. Những quan hệ đầy tính đối
kháng giữa những giai cấp cơ bản của xã hội đó – giai cấp tư sản, tức là giai
cấp các nhà tư bản và giai cấp vô sản, hoặc giai cấp công nhân – đã tạo ra “cái
trục” chính của hệ thống đó. Với sự phát triển của xã hội tư bản chủ nghĩa,
dưới sự tác động của các chuyển biến về kinh tế và của cuộc cách mạng khoa
học – kỹ thuật đã có một số thay đổi đáng kể về đặc điểm số lượng và chất
lượng của các giai cấp và các tầng lớp vốn có của xã hội đó. Song những sự
thay đổi đó hoàn toàn không có nghĩa là xã hội tư sản đã biến thành một chế
độ xã hội nào đó khác về chất, một xã hội chỉ bao gồm các tầng lớp trung gian
thôi, như một số nhà tư tưởng tư sản và bọn xét lại mưu toan khẳng định. Như
vậy, những thay đổi diễn ra trong cơ cấu xã hội của xã hội tư sản biểu hiện
ngày càng rõ nét tính chất đối kháng và đặc điểm phản nhân đạo của nó, làm

8



cho những mâu thuần không thể điều hoà vốn có của nó trở lên ngày càng sâu
sắc thêm, làm vững chắc thêm cơ sở của cuộc đấu tranh giai cấp và những
tiền đề để nâng cao vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân.
Cơ cấu xã hội – giai cấp của xã hội XHCN là tổng hoà các giai cấp hữu
ái; cái quyết định quan hệ giữa họ với nhau là chế độ công hữu về TLSX, sự
thống nhất về những lợi ích căn bản, sự cùng chung hệ tư tưởng Mác – Lênin.
Xã hội XHCN là một tổ chức phức tạp với những mối liên hệ và quan hệ
riêng có của nó. Những nét quan trọng trong cơ cấu xã hội của nó là: không
có giai cấp bóc lột, sự thống nhất của xã hội về chính trị - xã hội và tư tưởng,
sự củng cố khối liên minh của công nhân, nông dân và các tầng lớp xã hội
thuộc nhân dân lao động, sự xích lại gần nhau của các cộng đồng xã hội. Tiến
lên CNXH, các nước không thể “nhảy vọt” từ xã hội nọ sang xã hội kia ngay
được, mà phải trải qua “thời kỳ quá độ khá lâu dài để chuyển từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội” [30, tr.434]. Đây là một thời kỳ cực kỳ khó khăn và
phức tạp nhằm xoá bỏ triệt để mọi tàn tích của xã hội cũ và xây dựng cơ sở
vật chất cho một xã hội mới – xã hội XHCN. Thời kỳ quá độ như Lênin viết
“về lý luận không thể nghi ngờ gì được rằng: giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không
bao gồm những đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy. Thời kỳ ấy
không thể nào lại không phải là thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang
giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh. Hay nói một cách khác giữa
chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại chưa bị tiêu diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản
đang phát sinh nhưng còn rất non yếu”. Một trong những đặc trưng cơ bản
của thời kỳ quá độ đó là sự tồn tại một nền kinh tế quá độ với cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần. Nền kinh tế này không còn là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
nhưng cũng chưa hẳn là kinh tế XHCN hoàn toàn mà nó là sự đan xen của
nhiều thành phần kinh tế. Lênin viết: Danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận
dụng vào kinh tế có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành


9


phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội
không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có.
Chính bản thân cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đó, biểu hiện về mặt xã
hội là cơ cấu xã hội giai cấp đa dạng và phức tạp. Trong cơ cấu giai cấp đó có
giai cấp trước kia đã từng giữ vị trí thống trị trong xã hội tư bản, có những
giai cấp mới xuất hiện đại diện cho phương thức sản xuất XHCN.... Tóm lại,
cơ cấu xã hội giai cấp này bao gồm những tầng lớp, giai cấp của cả hai, thậm
chí của cả ba hình thái kinh tế xã hội đan xen vào nhau, quan hệ giữa các giai
cấp, tầng lớp đã có sự thay đổi căn bản.
Tính chất quá độ của nền kinh tế quy định tính chất quá độ của cơ cấu
xã hội – giai cấp. Sự phát triển của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, khuyến
khích phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài, đa dạng hoá các hình thức sở hữu tất yếu dẫn đến sự biến đổi
trong cơ cấu xã hội – giai cấp. Đó là một cơ cấu xã hội – giai cấp quá độ. Nó
không giống với bất cứ một cơ cấu xã hội – giai cấp nào trước đây, khác cả
với cơ cấu xã hội – giai cấp thời kỳ bao cấp với công thức “hai giai một tầng”.
Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại một cơ cấu xã hội – giai cấp rất đa dạng và
phức tạp trong đó đan xen những lực lượng xã hội vừa liên minh, hợp tác,
thống nhất với nhau, đồng thời vừa đấu tranh gay gắt với nhau, có nơi, có lúc
quyết liệt.
Ở nước ta hiện nay, cùng với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do đó, cơ cấu xã hội – giai
cấp nói chung và mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội nói riêng có bộ mặt mới, cấu
trúc mới. Gọi là cơ cấu xã hội – giai cấp quá độ vì nó còn những đặc điểm của
cơ cấu xã hội – giai cấp của xã hội cũ; đồng thời cũng đang hình thành những
đặc điểm của cơ cấu xã hội – giai cấp của xã hội mới. Cơ cấu xã hội – giai cấp

mới đó là: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ
doanh nhân, tiểu thương, tiểu chủ...trong đó, đáng chú ý là giai cấp công nhân

10


có mặt trong nhiều thành phần kinh tế: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp
tư nhân, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,....
Cơ cấu xã hội – giai cấp chỉ có trong các xã hội có giai cấp. Khi tiến
lên chủ nghĩa cộng sản, không còn giai cấp nữa thì cũng không còn cơ cấu xã
hội – giai cấp.
1.2. Tính tất yếu của xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở
Hải Dương
1.2.1. Tính tất yếu của xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp ở
Hải Dương dưới tác động của CNH,HĐH và phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Một là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mà trực tiếp là công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Đẩy mạnh CNH, HĐH trước hết là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn
tạo ra cơ sở cho sự biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá VII) của Đảng đưa ra nhận
thức mới về CNH, HĐH: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển
đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên
tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công
nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [10, tr.8].
Từ nhận thức như vậy, chúng ta đã xác định những nội dung cơ bản của
CNH, HĐH là:
- Thực hiện quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất

cả các ngành kinh tế quốc dân. Nói cách khác là quá trình chuyển nền sản
xuất xã hội từ trình độ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ cao cùng với sự
phân bố nguồn nhân lực phù hợp với cơ cấu ngành nghề.

11


- Thực hiện quá trình đô thị hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ
cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng kinh tế, giảm tỷ trọng lao động trong
ngành nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp) và tăng tỷ trọng kinh tế, tăng tỷ
trọng lao động trong các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ.
- CNH, HĐH là một quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực
hoạt động, hướng vào thúc đẩy, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, cho phép
khai thác tốt nhất các nguồn lực và lợi thế của đất nước.
- CNH, HĐH vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật vừa là quá trình kinh tế
- xã hội. Do vậy, nhìn theo chiều sâu của sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát
triển con người và nguồn lực con người là nội dung cốt lõi.
- CNH, HĐH cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc
dân, bao gồm mở rộng phân công lao động ở địa phương, vùng, toàn quốc và
phân công lao động quốc tế.
- CNH, HĐH đất nước phải được thực hiện hướng vào phát triển các
giá trị hiện đại, văn minh chung của nhân loại ngày nay, đảm bảo các điều
kiện phát triển bền vững, hài hoà cả về thiên nhiên và con người.
- CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, từ đó một bộ phận mơi
trong giai cấp công nhân được hình thành ngày càng đông đảo – bộ phận công
nhân trí thức.
Đại hội VIII tiếp tục chỉ rõ mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước
ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh

vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến
năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp [11, tr.80].
Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH, Đảng ta nhấn mạnh: Phải đặc
biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, ra sức phát triển nông,

12


lâm, ngư nghiệp, các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công
nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. “Đặc biệt coi trọng CNH,HĐH
nông nghiệp, nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với
công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản; phát triển công nghiệp sản xuấ
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu...Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ.
Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại. Hình thành dần một số ngành mũi
nhọn như chế biến nông, lâm thuỷ sản...” [11, tr. 86].
Hải Dương là một tỉnh nông nghiệp, có trên 80% dân cư đang sinh sống
ở nông thôn. Đây cũng là địa bàn tập trung đại bộ phận dân nghèo trong tỉnh.
Vì vậy CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vừa là nội dung, đồng thời cũng
là bước đi ban đầu, là biện pháp rất quan trọng trong thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện xoá đói, giảm nghèo, làm cho đời sống
nông dân và bộ mặt nông thôn Hải Dương ngày càng khá giả.
Sau hai lăm năm đổi mới, thực hiện CNH, HĐH, cơ cấu kinh tế Hải
Dương ngày càng có sự chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Từ sự chuyển dịch trong cơ
cấu kinh tế cũng dẫn đến sự chuyển dịch trong cơ cấu lao động: tăng lao động
trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng, dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động trong
nông nghiệp, cụ thể: năm 2005, cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế tỉnh
Hải Dương là 70,5% - 15,9% - 13,6% thì đến năm 2010 con số tương ứng là
54,5% - 27,3% - 18,2%. Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, với việc thực

hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Hải Dương đã có bước phát triển
đáng kể trên nhiều mặt như: cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng công nghệ
sinh học, công nghiệp bảo quản và chế biến nông sản, phát triển các làng nghề
tiểu, thủ công nghiệp, các khu, cụm công nghiệp ...làm cho đời sống người
dân được cải thiện rõ rệt. Sự đa dạng hoá ngành nghề và các ngành nghề phát
triển ngày càng mạnh đã dẫn đến sự biến đổi một cách đa diện của các giai
cấp, tầng lớp xã hội tỉnh Hải Dương.

13


Hai là, do tác động của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
Từ sau đại hội VI, các nghị quyết hội nghị trung ương, Bộ chính trị, các
văn bản pháp quy của Nhà nước đã cụ thể hoá từng bước và có những chính
sách điều chỉnh kịp thời nhằm mở ra nhiều khả năng phát triển trong nền kinh
tế nước ta. Đảng và Nhà nước thừa nhận sự tồn tại lâu dài, thừa nhận những
tác động tích cực của các thành phần kinh tế trong việc làm ra thật nhiều của
cải cho xã hội. Hội nghị lần thứ 6 BCHTWĐ khoá VI khẳng định: Chính sách
kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản
xuất nhỏ đi lên CNXH, các hình thức sở hữu về TLSX...có nhiều loại hình
hỗn hợp, đan kết với nhau. Hiện nay, chúng ta đang tập trung mọi nguồn lực,
tranh thủ thời cơ để tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Gắn với quá trình này, tất yếu sẽ dẫn đến quá trình biến đổi mạnh mẽ
của cơ cấu xã hội – giai cấp.
Đại hội VIII khẳng định “thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc giải phóng sức sản
xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho CNH, HĐH,
nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục
tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và

hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh” [11, tr. 91].
Đại hội IX tiếp tục khẳng định “tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị
trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước”
[12,tr.100]. Cụ thể là:
Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ; phát huy vai trò nòng cốt,
định hướng và điều tiết của kinh tế nhà nước trên thị trường.
Mở rộng thị trường lao động trong nước có sự kiểm tra, giám sát của
Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động; đẩy
mạnh xuất khẩu lao động có tổ chức và có hiệu quả.

14


Khẩn trương tổ chức thị trường khoa học và công nghệ, thực hiện tốt
bảo hộ sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ về thông tin,
chuyển giao công nghệ.
Phát triển nhanh và bền vững thị trường vốn, nhất là thị trường vốn
trung hạn và dài hạn. Tổ chức và vận hành thị trường chứng khoán, thị trường
bảo hiểm an toàn, hiệu quả. Hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ.
Hình thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật; từng bước mở rộng thị trường bất động
sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư.
Văn kiện Đại hội XI chỉ rõ nội dung của nền kinh tế thị trường ở nước
ta là: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý cả Nhà
nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy
luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và
bản chất của CNXH” [16, tr. 34–37]. Từ đó văn kiện nhấn mạnh nâng cao vai
trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN

Thực hiện đường lối kinh tế của Đảng, trong nhiều kỳ đại hội, Đảng bộ
tỉnh Hải Dương đã đưa ra chủ trương phát triển kinh tế thị trường, với sự tồn
tại của nhiều thành phần kinh tế. Trong những năm gần đây, các thành phần
kinh tế Hải Dương có sự phát triển khá nhanh. Theo số liệu thống kê năm
2010, khu vực kinh tế nhà nước có 32 doanh nghiệp; khu vực kinh tế ngoài
nhà nước có 2.897 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp tập thể có 585 doanh
nghiệp, doanh nghiệp tư nhân có 614 doanh nghiệp, công ty TNHH có 1.042
doanh nghiệp, công ty cổ phần có 656 doanh nghiệp; khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài có 131 doanh nghiệp, trong đó 112 doanh nghiệp có 100%
vốn nước ngoài, 19 doanh nghiệp liên doanh. Sự tồn tại và phát triển của
nhiều thành phần kinh tế của tỉnh đã dẫn đến sự biến đổi của cơ cấu xã hội –

15


giai cấp tỉnh Hải Dương, các giai cấp, tầng lớp ngày càng khẳng định rõ vị trí,
vai trò của mình trong xã hội và ngày càng có sự liên minh, hợp tác với nhau
trên nhiều phương diện.
1.2.2. Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở Hải Dương gắn
liền với xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam.
Mối quan hệ giữa biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp ở Hải Dương với sự
biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp ở Việt Nam là biểu hiện cụ thể của mối quan
hệ giữa cái riêng và cái chung. Do đó, tính tất yếu của xu hướng biến đổi cơ
cấu xã hội – giai cấp ở Hải Dương gắn liền với xu hướng biến đổi cơ cấu xã
hội- giai cấp của cả nước. Vậy xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp ở
Việt Nam là gì?
1.2.2.1. Xu hướng chung của sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở
nước ta.
Một là, xu hướng chuyển từ cơ cấu xã hội - giai cấp thuần tuý “hai giai
một tầng” sang cơ cấu xã hội - giai cấp với nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau.

Đây là sự biến đổi lớn nhất và bao trùm nhất của cơ cấu xã hội – giai cấp
nước ta trong thời thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự biến đổi này được
thể hiện ở sự có mặt của nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội trong xã hội ta hiện nay
(công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, tiểu thương, tiểu chủ...). Các giai
cấp, tầng lớp xã hội đan cài vào nhau bởi nhiều mối quan hệ. Sự đa dạng, phức
tạp của cơ cấu xã hội – giai cấp còn được thể hiện ở sự đa dạng, phức tạp, đan
xen giữa các bộ phận trong một giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định, thậm chí ở
sự phân hóa trong nội bộ mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội.
Thực trạng đó là một tất yếu và có tính quy luật, phù hợp với nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu xã hội – giai cấp thuần túy “hai
giai một tầng” (công, nông và trí thức) là sản phẩm chủ quan, duy ý chí mà gốc
của vấn đề là không thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn tồn
tại trong thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về

16


sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Từ Đại hội VI của Đảng, nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, và do
đó, cơ cấu xã hội nhiều giai cấp và tầng lớp khác nhau cũng dần xuất hiện. Đó
là: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, tầng lớp doanh nhân,
tầng lớp người sản xuất hàng hoá nhỏ, tiểu chủ, tiểu thương...
Hai là, xu hướng vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp trong cơ cấu
xã hội và trong phát triển đất nước ngày càng được khẳng định rõ hơn.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là: Thực hiện nhất quán, lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, lấy việc giải
phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực cho CNH, HĐH đất
nước, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân là
mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích, tạo điều kiện để phát triển các

thành phần kinh tế. Cùng với quá trình thực hiện chủ trương này, đương nhiên
sự biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp ở nước ta thông qua sự biến động của
từng giai cấp và từng tầng lớp xã hội sẽ diễn ra mạnh mẽ và có nhiều phức
tạp. Cơ chế thị trường sẽ tác động làm nảy sinh không ít những khuynh hướng
tự phát sẽ tồn tại đan xen, kết hợp với những khuynh hướng tự giác để tác
động, chi phối tới quá trình vận động, biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp ở
nước ta.
Cơ cấu xã hội – giai cấp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và tiếp theo
có những biến động mạnh mẽ và phức tạp. Trong đó, các giai cấp và tầng lớp
xã hội sẽ tiếp tục phát triển, khẳng định ngày càng rõ vị trí, vai trò kinh tế –
xã hội của mình trong thời kỳ quá độ lên CNXH như: giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức sẽ không ngừng hợp tác, liên minh chặt chẽ
với nhau, ngày càng trở thành cơ sở xã hội – chính trị vững chắc của chế độ
xã hội mới (chế độ xã hội XHCN) đang được xây dựng.

17


Như vậy, các giai cấp, tầng lớp với tư cách vừa là sản phẩm, vừa là chủ
thể của công cuộc đổi mới đều là những bộ phận của nhân dân Việt Nam,
trong đó công nhân, nông dân, trí thức luôn có vị trí quan trọng trong cơ cấu
xã hội – giai cấp nói riêng và cơ cấu xã hội nói chung.
Trước hết, giai cấp công nhân có vai trò quan trọng đặc biệt, là giai cấp
lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt nam,
giai cấp đại diện cho phương thức sản xuât tiên tiến; giai cấp tiên phong trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước...
Giai cấp nông dân cùng với nông nghiệp, nông thôn luôn ở vị trí chiến
lược quan trọng; là lực lượng và cơ sở để phát triển kinh tế – xã hội bền vững,
ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn

hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái; nông dân là chủ thể của quá trình
phát triển, xây dựng nông thôn mới theo quy hoạch và phát triển toàn diện,
hiện đại hoá nông nghiệp...
Đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt trong sáng tạo, truyền bá và ứng
dụng tri thức khoa học; có vai trò quan trọng trong phát triển khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo... là những lĩnh vực tạo thành động lực của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước... Cùng với sự khẳng định vai trò của
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức trong khối liên minh
giai cấp do Đảng lãnh đạo, văn kiện đại hội XI cũng chỉ rõ tầng lớp mới đang
hình thành trong thời kỳ đổi mới là tầng lớp doanh nhân. Họ có tiềm năng và
vai trò tích cực trong phát triển sản xuất kinh doanh, mở rộng đầu tư trong
nước và nước ngoài; giải quyết việc làm cho người lao động...
Vai trò trên của các giai, tầng được nêu rõ ở Văn kiện Hội nghị Trung
ương lần thứ sáu và lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X. Cũng
trong các văn kiện này, tinh thần cho thấy, bên cạnh nhiều thành tựu, còn
không ít những hạn chế trong thực hiện vai trò của các giai cấp và tầng lớp.

18


Bên cạnh những thuận lợi còn không ít những thách thức ảnh hưởng đến giữ
vững vị trí, phát huy vai trò của các giai cấp và tầng lớp. Phải có những giải
pháp sát thực, đồng bộ và tác động tích cực thì các giai tầng cơ bản mới có thể
khẳng định đầy đủ vị trí xứng đáng và vai trò to lớn của mình trong cơ cấu xã
hội và phát triển đất nước.
Ba là, mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp ngày càng phong phú và
phức tạp.
Mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội vừa có hợp tác, vừa có
đấu tranh, vừa có liên kết, vừa có cạnh tranh trên nhiều lĩnh vực của hoạt
động xã hội. Như đã nói, tinh thần chung mà Đảng ta xác định là, các quan hệ

này là quan hệ nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài vì sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là xu hướng cơ bản, lâu dài trong sự biến đổi cơ
cấu xã hội – giai cấp nước ta.
Tuy nhiên, do tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, sự chống phá
và tác động xấu của các lực lượng thù địch và thoái hoá đến các mối quan hệ
giai cấp, tầng lớp, cho nên, trong xã hội vẫn còn đấu tranh giai cấp và: “Nội
dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng
xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư
tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và
hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây
dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh
phúc” [12, tr.86].
Liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức vốn là nổi bật và có
tầm quan trọng trong quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp ở nước ta. Trong
khối liên minh này, giai cấp công nhân là nòng cốt, trở thành cơ sở chính trị

19


của cơ cấu xã hội và rộng hơn, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội IX
nêu rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là khối đại đoàn kết toàn
dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng
lãnh đạo,...” [12, tr.83-88]. Thế nhưng, liên minh công – nông – trí thức, mặc
dù đã được khơi dậy trong công cuộc đổi mới và bắt đầu có những mô hình,
nhưng chưa sâu rộng, vững.
Từ khi đổi mới, cùng với việc công nhận nền kinh tế nhiều thành phần,
cơ cấu xã hội Việt Nam có những thay đổi mạnh mẽ. Từ cơ cấu xã hội hai
giai, một tầng sang xã hội cùng tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp khác

nhau. Sự mâu thuẫn giai cấp đối kháng không còn nhưng đang diễn ra quá
trình phân hoá, phân tầng xã hội mạnh mẽ. Đó là sự phân hoá, dãn dần ra giữa
các nhóm, thành viên xã hội về mặt vị thế, vai trò, trình độ học vấn, nghề
nghiệp, thu nhập, mức sống, cơ hội thăng tiến cũng như năng lực vận dụng
các cơ hội... Đây là một quá trình tất yếu, cần được đánh giá toàn diện và
khách quan.
1.2.2.2. Xu hướng biến đổi riêng của các giai cấp, tầng lớp xã hội ở Việt
Nam
Một là, xu hướng biến đổi giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân nước ta đã và sẽ phát triển, trưởng thành cả về số
lượng và chất lượng, không ngừng vươn lên thực sự xứng đáng vai trò lãnh
đạo xã hội, đồng thời xứng đáng là giai cấp cơ bản, quyết định, chi phối sự
vận động, phát triển của cơ cấu xã hội – giai cấp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, biểu hiện ở các xu hướng biến đổi cơ bản, cụ thể sau:
Thứ nhất, xu hướng tăng nhanh về số lượng giai cấp công nhân.
Xuất phát từ vai trò to lớn của công nghiệp trong sự nghiệp xây dựng,
phát triển đất nước, đồng thời xuất phát từ những thành tựu to lớn, những tiền
đề quan trọng đã đạt được qua mười năm thực hiện công cuộc đổi mới đất

20


×