Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

đảng bộ tỉnh vĩnh phúc lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nam 1997 den nam 2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 125 trang )

Đại học quốc gia Hà Nội
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị

Đặng Kim Oanh

Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế
từ năm 1997 đến năm 2003

Luận văn thạc sỹ Lịch sử

Hà Nội - 2005


Đại học quốc gia Hà Nội
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị

Đặng Kim Oanh

Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế
từ năm 1997 đến năm 2003

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số:
5.03.16

Luận văn Thạc sỹ Lịch sử

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Triệu Quang Tiến


Hà Nội - 2005


Bảng Quy ước chữ viết tắt trong luận văn

BBT:

Ban Bí thư

BCH:

Ban Chấp hành

BCHTW:

Ban Chấp hành Trung ương

BCT:

Bộ Chính trị

CCKT:

Cơ cấu kinh tế

CNVC-LĐ:

Công nhân viên chức - lao động

CNXH:


Chủ nghĩa xã hội

ĐCS Việt Nam:

Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐHKHXH & nhân văn:

Đại học Khoa học xã hội và nhân văn

ĐHQGHN:

Đại học Quốc gia Hà Nội

GCCN:

Giai cấp công nhân

HTX:

Hợp tác xã

NQTW:

Nghị quyết Trung ương

NXB CTQG:

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia


UBND:

ủy ban nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn của PGS, TS Triệu Quang Tiến. Các số liệu, tài liệu
nêu ra trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa
học. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, tháng 8 năm 2005
Tác giả luận văn

Đặng Kim Oanh


Mục lục

Mở đầu

Trang
1


Chương 1. Cơ sở hình thành chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc

6

1.1. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.2. Thực trạng cơ cấu kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc trước khi tái lập

6
23

Chương 2. Chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1997-2003)

31

2. 1. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc vận dụng chủ trương của Đảng lãnh đạo
thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương (1997-2000)

31

2.2. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế (2001-2003)

48

Chương 3. Kết quả và một số kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phúc trong quá trình lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1997-


68

2003)
3.1. Thành tựu và hạn chế chính

68

3.2. Một số kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc

102

Kết luận

111

Danh mục tài liệu tham khảo

113

Phụ lục

118


Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Chuyển dịch CCKT là một chủ trương lớn của Đảng ta, một trong
những nội dung cốt lõi của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Từ năm
1986 đến nay, thực hiện đường lối đổi mới, Đảng, Nhà nước ta có nhiều chủ

trương, chính sách thể hiện sự đổi mới tư duy kinh tế. Nhờ đó kinh tế nước ta
đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển toàn diện, CCKT có bước chuyển
dịch tích cực theo hướng CNH, HĐH.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân các tỉnh
trong nhiều năm qua đã phát huy thế mạnh, khắc phục khó khăn, thách thức,
từng bước thực hiện quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH.
Nhiều tỉnh đã đạt được những thành tựu quan trọng trên lĩnh vực này, góp
phần làm thay đổi bộ mặt địa phương và cuộc sống của nhân dân, góp phần
củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín
của nước ta trên trường quốc tế.
Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc vùng châu thổ sông Hồng, cửa ngõ của Thủ đô
Hà Nội; nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Với điều kiện tự nhiên
thuận lợi, tỉnh Vĩnh Phúc có tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên,
những năm trước đổi mới, tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn. Từ khi Đảng khởi
xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới (1986), đặc biệt từ sau tái lập tỉnh
(1997), Đảng bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc từng bước khắc phục khó khăn,
phát huy lợi thế, khơi dậy mọi tiềm năng, phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện
chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH, đưa kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc phát
triển mạnh mẽ, góp phần thực hiện mục tiêu mà Đại hội IX đã đề ra là đến
năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.

1


Trong quá trình phát triển kinh tế từ năm 1997 đến 2003, bên cạnh
những thuận lợi, Vĩnh Phúc còn gặp phải những hạn chế và đối mặt với nhiều
thách thức mới nảy sinh. Thực hiện chuyển dịch CCKT như thế nào, phát
triển kinh tế tỉnh theo mô hình nào, ngành nào được chọn là mũi nhọn là
những vấn đề đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Phúc tìm câu trả lời.

Thành tựu và hạn chế, thuận lợi và khó khăn, kinh nghiệm thành công
và chưa thành công... Những vấn đề của tỉnh Vĩnh Phúc cũng là những vấn đề
của một số tỉnh khác có đặc điểm tương tự cần được nghiên cứu, tổng kết góp
phần phát huy kinh nghiệm thành công để thực hiện thắng lợi chủ trương của
Đảng và cũng là góp phần tổng kết thực tiễn 20 năm đổi mới mà Đảng ta đang
triển khai.
Vì thế tôi chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo chuyển dịch
cơ cấu kinh tế từ năm 1997 đến năm 2003" làm đề tài luận văn cao học,
chuyên ngành Lịch sử ĐCS Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về chuyển dịch CCKT ở
nước ta. Như của GS. Đỗ Đình Giao: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân, NXB CTQG, H, 1994; PGS. Đỗ Hoài
Nam: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển mũi nhọn, NXB
KHXH, H, 1996; TS. Đặng Văn Thắng, TS. Phạm Ngọc Dũng: Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng, thực trạng và
triển vọng, NXB CTQG, H, 2003; PGS. TS. Phan Thanh Phố: Những vấn đề
cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam, NXB Giáo dục, H, 1996;
PGS. TS. Nguyễn Văn Khanh: Biến đổi cơ cấu ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp ở vùng châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới, NXB CTQG, H,
2003; Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương và Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn: Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn
Việt Nam, CTQG, H, 2003; Davit Dapice: Việt Nam cải cách kinh tế theo
hướng rồng bay, NXB CTQG, H, 1994… Cũng đã có một số luận văn thạc sĩ

2


chuyên ngành kinh tế, chuyên ngành lịch sử ĐCS Việt Nam viết về lĩnh vực
này như: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta theo hướng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá” của Phạm Nguyên Nhu, ĐHQG Hà Nội, năm 1999;
“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh
Cần Thơ” của Đỗ Xuân Tài, ĐHQG Hà Nội, năm 1999; "Đảng bộ tỉnh Hưng
Yên lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa giai đoạn 1997-2003" của Đào Thị Vân, ĐHQG Hà Nội 2004…
Ngoài ra còn nhiều bài đăng trên các tạp chí, báo Trung ương và địa
phương. Đáng chú ý là bài “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc mục tiêu và giải pháp” của Chủ tịch tỉnh Vĩnh Phúc Trịnh Đình Dũng; bài:
“Công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc phát triển tốc độ cao” của Phạm Văn Tam,
Giám đốc Sở công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc đăng trên tập san Tỉnh Vĩnh Phúc
tiềm năng phát triển kinh tế và cơ hội hợp tác đầu tư của Sở kế hoạch và đầu
tư tỉnh Vĩnh Phúc xuất bản, tháng 12/2003.
Các công trình nghiên cứu này chủ yếu đề cập về chuyển dịch CCKT
nền kinh tế quốc dân, CCKT ở đồng bằng sông Hồng, hoặc CCKT nông
nghiệp nước ta... Một vài công trình có đề cập đến sự chuyển dịch CCKT theo
hướng CNH, HĐH ở một số tỉnh và ở Vĩnh Phúc. Nhưng chưa có một công
trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo chuyển dịch CCKT từ năm 1997 đến 2003.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích
- Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc vận dụng đúng đắn, sáng
tạo đường lối của Trung ương trong lãnh đạo thực hiện chuyển dịch CCKT ở
địa phương, từ năm 1997 đến 2003.
- Đánh giá bước đầu những thành tựu và hạn chế của quá trình chuyển
dịch CCKT ở tỉnh Vĩnh Phúc những năm từ 1997 - 2003.
- Nêu lên một số kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
trong lãnh đạo chuyển dịch CCKT những năm từ 1997 đến 2003.

3



b. Nhiệm vụ:
- Trình bày một cách hệ thống chủ trương Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc vận
dụng đường lối của Trung ương lãnh đạo thực hiện chuyển dịch CCKT tỉnh từ
năm 1997 đến 2003.
- Trình bày quá trình lãnh đạo thực hiện chuyển dịch CCKT ở tỉnh
Vĩnh Phúc; nêu rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của kết quả đó.
- Tổng kết kinh nghiệm trong lãnh đạo chuyển dịch CCKT của Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu chủ trương, sự chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phúc trong lãnh đạo, chỉ đạo chuyển dịch CCKT tỉnh từ năm 1997 đến 2003
theo đường lối của Đảng.
- Về chuyển dịch CCKT có một số nội dung chính: chuyển dịch CCKT
thành phần kinh tế; chuyển dịch CCKT ngành; chuyển dịch CCKT vùng.
Luận văn, chủ yếu nghiên cứu chuyển dịch CCKT ngành.
b. Phạm vi nghiên cứu: tỉnh Vĩnh Phúc. Thời gian nghiên cứu: từ
tháng 1/1997 (tỉnh Vĩnh Phúc tái lập) đến tháng 12/2003, khi Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc tổng kết giữa nhiệm kỳ.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu
a. Cơ sở lý luận
Luận văn được tiến hành trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối ĐCS Việt Nam về phát triển kinh
tế, CCKT.
b. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu chủ yếu là: phương pháp lịch sử và lôgíc, ngoài ra còn kết hợp các
phương pháp khác như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh,
khảo sát thực tiễn...

4



c. Nguồn tư liệu
- Các tác phẩm của Hồ Chí Minh về lãnh đạo kinh tế, chuyển dịch
CCKT.
- Các văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX và nghị quyết Trung
ương Đảng, BBT, BCT các khoá VI, VII, VIII, IX về phát triển kinh tế.
chuyển dịch CCKT.
- Các văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc, nghị quyết của Tỉnh
uỷ, một số huyện uỷ tiêu biểu về kinh tế, chuyển dịch CCKT; báo cáo hàng
năm của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, báo cáo hàng năm của Sở Kế hoạch - Đầu tư,
Sở Công nghiệp, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở Thương mại,
Niên giám thống kê tỉnh, báo Vĩnh Phúc; tài liệu khảo sát thực tế...
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá các chủ trương, giải pháp của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
trong lãnh đạo chuyển dịch CCKT ở địa phương từ năm 1997 đến 2003.
- Khẳng định những thành tựu và nêu ra một số hạn chế của quá trình
chuyển dịch CCKT góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Vĩnh Phúc, từ năm
1997 đến 2003.
- Rút ra một số kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong lãnh
đạo, chỉ đạo chuyển dịch CCKT thời gian 1997 - 2003.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo trong giảng dạy và
nghiên cứu lịch sử Đảng bộ địa phương thời kỳ đổi mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở hình thành chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 2: Chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc thực
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1997 - 2003).


5


Chương 3: Kết quả và một số kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1997 - 2003).

6


Chương 1
cơ sở hình thành chủ trương chuyển dịch
Cơ cấu kinh tế của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc

1.1. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chuyển dịch CCKT là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Xác định CCKT hợp lý góp phần xây
dựng cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, cơ cấu lao động phù hợp, tạo cơ sở để
tiến hành phân công lao động, xã hội hoá lực lượng sản xuất, phát triển kinh
tế hàng hoá, tạo động lực thúc đẩy thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Chuyển dịch CCKT còn đóng vai trò quan trọng để đưa sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn XHCN. Trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế, đặc biệt từ khi
thực hiện sự nghiệp đổi mới, ĐCS Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc về
CCKT và đã có sự điều chỉnh hợp lý về CCKT, từng bước chuyển dịch
CCKT theo hướng CNH, HĐH.
Khi phân tích quá trình phân công lao động xã hội, C. Mác viết rằng:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp
với quá trình phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất [20, tr.70].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, xuất bản năm 2003: "Cơ cấu kinh tế

là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối
ổn định hợp thành" [53, tr.610].
Có các loại cơ cấu khác nhau: cơ cấu nền kinh tế quốc dân, cơ cấu theo
ngành kinh tế, cơ cấu theo vùng, theo đơn vị hành chính - lãnh thổ, cơ cấu
thành phần kinh tế.
CCKT là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí tỷ
trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp
thành.

7


CCKT mang tính khách quan, được hình thành trên cơ sở trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, sự tăng trưởng của
các yếu tố cấu thành nền kinh tế. CCKT là một hệ thống động, các yếu tố
trong CCKT vận động trong mối quan hệ hữu cơ tác động ràng buộc lẫn nhau;
giai đoạn sau phát triển cao hơn giai đoạn trước.
Nội dung CCKT quốc dân có thể nghiên cứu dưới nhiều góc độ, nhiều
lĩnh vực, nhưng về cơ bản nội dung đó gồm: CCKT ngành kinh tế, cơ cấu
thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế theo đơn vị hành chính - lãnh thổ.
- Cơ cấu theo ngành kinh tế:
Cơ cấu ngành kinh tế là bộ phận cấu thành cơ bản của nền kinh tế quốc
dân, là nòng cốt của chiến lược phát triển kinh tế. Nền kinh tế là tổng thể của
ngành, lĩnh vực và các thành phần. Trong ngành và lĩnh vực, quan trọng nhất
là ngành nông nghiệp và công nghiệp. Hai ngành này muốn phát triển được
phải thông qua hệ thống dịch vụ. Do vậy, cơ cấu ngành kinh tế bao gồm ba
ngành cơ bản:
Nông nghiệp, bao gồm: nông - lâm - ngư nghiệp gắn liền với phát triển
toàn diện nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Nông nghiệp là lĩnh vực sản
xuất vật chất chủ yếu, tạo ra sản phẩm thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển

của xã hội loài người, là thị trường rộng lớn cung cấp nhân lực, nguyên liệu
và tiêu thụ sản phẩm cho công nghiệp, dịch vụ.
Công nghiệp, bao gồm công nghiệp chế tạo, công nghiệp khai khoáng
và luyện kim, công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu, công nghiệp nguyên liệu, công nghiệp điện tử, tin
học... Công nghiệp đóng vai trò quyết định sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư
liệu tiêu dùng. Do vậy công nghiệp được xếp vào vị trí hàng đầu của quá trình
CNH, HĐH.
Dịch vụ là cầu nối giữa sản xuất nông nghiệp với công nghiệp, giữa sản
xuất với tiêu dùng; thực hiện quá trình trao đổi giữa các vùng - miền, giữa

8


thành thị với nông thôn, giữa trong nước với nước ngoài. Trong quá trình sản
xuất, dịch vụ có vai trò đáp ứng đầy đủ các nhu cầu đầu vào và đầu ra của sản
phẩm. Dịch vụ thực hiện mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận hợp thành
CCKT. Trình độ phát triển kinh tế hàng hoá ngày càng cao, sự phân công lao
động xã hội ngày càng sâu rộng thì tỷ lệ dịch vụ trong CCKT ngày càng lớn.
- Cơ cấu vùng kinh tế:
Cơ cấu vùng kinh tế thể hiện sự phân công lao động trên lãnh thổ với
lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của mỗi vùng hình thành các
vùng chuyên môn hoá, đa dạng hoá, nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực và
tiềm năng kinh tế trong vùng mang lại giá trị kinh tế. Cơ cấu vùng kinh tế gắn
chặt chẽ với cơ cấu ngành kinh tế, hợp thành hai mặt của một quá trình phát
triển.
- Cơ cấu thành phần kinh tế:
Hiện nay nước ta đang tiếp tục thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh
tế nhiều thành phần, định hướng XHCN, do đó càng đòi hỏi phải tạo mối
quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa các thành phần kinh tế nhằm khai thác triệt để

tiềm năng nhân lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nước ta hiện có 6
thành phần cơ bản: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể (chủ yếu là kinh tế hợp
tác); kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tư bản tư nhân;
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. (Theo Dự thảo Báo cáo các văn kiện trình
Đại hội X của Đảng nước ta sẽ có 4 thành kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp).
Sáu thành phần kinh tế trên đều được bình đẳng trước pháp luật, phát
triển trong nền kinh tế quốc dân. Sự tồn tại lâu dài của nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần là tất yếu khách quan.
Để có CCKT hợp lý cần sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành một cách năng
động, sáng tạo của Trung ương và cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương

9


nhằm phát huy tiềm năng và thế mạnh của từng vùng, miền để phát triển kinh
tế - xã hội.
Có nhiều tiêu chí để đánh giá thế nào là một CCKT hợp lý, trong đó có
một số tiêu chí cơ bản sau: Thứ nhất, CCKT phải phù hợp với các quy luật
khách quan. Thứ hai, CCKT phản ánh được khả năng khai thác, sử dụng hợp
lý và phát huy được nguồn lực và tiềm năng của đất nước, từng vùng, từng địa
phương, vận dụng được tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Thứ
ba, CCKT phải tạo được sự phát triển cân đối, phát huy được lợi thế của các
vùng, các ngành kinh tế. Thứ tư, CCKT tạo được sự gắn kết giữa các loại thị
trường trong nước và ngoài nước, mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế quốc
tế và phù hợp với xu thế kinh tế chính trị của khu vực và thế giới. Thứ năm,
CCKT phải tạo được tích luỹ ngày càng tăng cho nền kinh tế quốc dân, cùng
với xã hội phát triển lành mạnh, giữ vững quốc phòng an ninh.
Lực lượng sản xuất nói chung luôn biến động, phát triển trong quá
trình tái sản xuất, vì thế CCKT cũng thường xuyên biến đổi, chuyển dịch.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, xuất bản năm 2003: "Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế là quá trình cải biến kinh tế xã hội từ tình trạng lạc hậu, mang
nặng tính chất tự cấp tự túc, từng bước chuyên môn hoá hợp lý, trang bị kỹ
thuật, công nghệ hiện đại, trên cơ sở đó tạo ra năng suất lao động cao, hiệu
quả kinh tế cao và nhịp độ tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế nói chung.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm việc cải biến cơ cấu kinh tế theo ngành,
theo vùng lãnh thổ và cơ cấu các thành phần kinh tế" [53, tr.535].
Nước ta là nước có kinh tế kém phát triển. Do vậy việc chuyển dịch
CCKT theo hướng CNH, HĐH vừa là đòi hỏi khách quan và vừa là con
đường tất yếu để đi lên từng bước dựa trên sự kết hợp hữu cơ các điều kiện
chủ quan, các lợi thế kinh tế - xã hội, tự nhiên trong nước, trong vùng, trong
đơn vị kinh tế với các khả năng đầu tư, hợp tác, liên kết, liên doanh về sản
xuất, dịch vụ.

10


Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và chịu nhiều đau thương mất
mát trong nhiều năm chiến tranh giữ nước, muốn vươn lên theo kịp nền kinh
tế thế giới hiện đại, không muốn bị tụt hậu, nghèo đói, thì tất yếu phải thực
hiện CNH, HĐH. Vì thế Đảng ta đã khẳng định quan điểm nhất quán: CNH,
HĐH là nhiệm vụ trọng tâm suốt thời kỳ quá độ.
Mục tiêu của CNH, HĐH là biến nước ta thành một nước công nghiệp
có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất
tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đảm bảo quốc phòng an ninh vững
chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đặc điểm của CNH, HĐH ở nước ta là vì mục tiêu xây dựng CNXH.
Và CNH, HĐH ở nước ta trước hết là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tạo
cho nông nghiệp, nông thôn những điều kiện cần thiết về vật chất - kỹ thuật,

về con người, khoa học và công nghệ.
Một trong những nội dung cơ bản của CNH, HĐH là xác lập cơ cấu
kinh tế mới, hợp lý tiến lên hiện đại. CCKT mới là CCKT công nghiệp - dịch
vụ - nông nghiệp.
Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là nhiệm vụ chiến lược,
phù hợp thực tiễn khách quan nhằm khai thác tối ưu lợi thế các ngành, các
lĩnh vực, các vùng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Quá trình chuyển dịch
CCKT trong thời kỳ quá độ là quá trình chuyển nền kinh tế có cơ cấu nông
nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông
nghiệp. Đặc trưng cơ bản của quá trình chuyển dịch là giá trị sản xuất của ba
ngành trên đều tăng qua các giai đoạn, nhưng tỷ trọng của ngành nông nghiệp
giảm dần, tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ lệ lao động trong nông
nghiệp ngày càng giảm, tỷ lệ lao động trong công nghiệp và dịch vụ ngày
càng tăng.

11


Quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH ở nước ta là một
quá trình phức tạp kéo dài trong suốt thời kỳ quá độ, đòi hỏi Đảng và Nhà
nước, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong cả nước phải quan tâm
lãnh đạo, phải tìm tòi để xây dựng được một CCKT hợp lý theo hướng CNH,
HĐH.
Để thúc đẩy chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH, cần dựa vào
một số quan điểm cơ bản sau:
- Chuyển dịch CCKT phải nhằm thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển,
phù hợp với mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Chuyển dịch CCKT phải khai thác được tối ưu khả năng và thế mạnh
của từng vùng kinh tế trong cả nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các
thành phần kinh tế. Tập trung đầu tư đúng mức cho một số vùng kinh tế trọng

điểm có khả năng thu hồi vốn nhanh, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
- Chuyển dịch CCKT phải đảm bảo được quy mô hợp lý và bước đi thích
hợp, chú trọng quy mô vừa và nhỏ, vốn đầu tư ít, tạo nhiều việc làm cho người
lao động, đặc biệt chú ý hình thành và phát triển các ngành kinh tế trọng điểm,
ngành kinh tế mũi nhọn có công nghệ kỹ thuật tiên tiến hiện đại.
- Chuyển dịch CCKT phải đảm bảo được một nền kinh tế hoạt động có
hiệu quả, có môi trường sinh thái bền vững, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh
tế gắn với tăng cường ổn định chính trị - xã hội và an ninh quốc phòng.
- Chuyển dịch CCKT phải phù hợp với xu hướng mở rộng quan hệ hợp
tác kinh tế quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi; tranh thủ khả năng
thu hút vốn và công nghệ nước ngoài nhằm phát triển kinh tế, thúc đẩy mạnh
quá trình chuyển dịch CCKT.
CNH, HĐH bao gồm hai vấn đề cơ bản là áp dụng rộng rãi tiến bộ khoa
học kỹ thuật và công nghệ sản xuất mới vào các ngành kinh tế; xác lập CCKT
phát triển hợp lý, có hiệu quả và ngày càng hiện đại. Do đó, chuyển dịch
CCKT và CNH, HĐH có mối quan hệ biện chứng, gắn bó với nhau và thúc

12


đẩy nhau cùng phát triển. Chuyển dịch CCKT theo hướng hiện đại sẽ tạo điều
kiện thuận lợi và là một trong những nội dung cốt lõi của CNH,HĐH. Quá
trình chuyển dịch CCKT vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của quá trình
CNH, HĐH và ngược lại CNH, HĐH nền kinh tế tạo tiền đề vật chất - kỹ
thuật và là con đường, phương hướng, mục tiêu thúc đẩy chuyển dịch CCKT
từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ mà chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp lên một nền kinh tế công nghiệp ngày càng hiện đại, có năng suất lao
động cao, thúc đẩy sự phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Quá trình
CNH, HĐH cũng thúc đẩy lực lượng sản xuất lao động, xã hội phát triển
chuyển dịch nhanh CCKT, đưa tới sự biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện

mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, kéo theo sự gia tăng nhân khẩu phi
nông nghiệp và gia tăng tốc độ đô thị hoá.
Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là một trong những nội
dung kinh tế cốt lõi trong toàn bộ sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng,
của nhân dân ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là nội dung, là điều kiện
cho sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân.
Trong lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh
đều chỉ rõ mối quan hệ gắn bó hữu cơ, tác động biện chứng thúc đẩy lẫn nhau
cùng phát triển giữa hai ngành kinh tế cơ bản: công nghiệp và nông nghiệp.
Trong xây dựng đất nước theo con đường XHCN, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
chú trọng phát triển kinh tế công nghiệp và nông nghiệp. Tháng 4/1962, trong
Bài nói chuyện tại Hội nghị lần thứ bảy BCHTW Đảng Lao động Việt Nam
(Khóa III), Người chỉ rõ: "Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền
kinh tế. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng
nhau phát triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và
nhanh chóng đi đến mục đích" [21, tr.544-545]. Là một nước nông nghiệp
truyền thống do đó phát triển nông nghiệp luôn được chú trọng hàng đầu

13


trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH, Người khẳng định:
"Phải lấy nông nghiệp làm chính, nhưng phải toàn diện, phải chú ý cả các mặt
công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thông, kiến trúc, văn
hoá, giáo dục, y tế v.v.. Các ngành này phải lấy phục vụ nông nghiệp làm
trung tâm" [22, tr.396]. Nông thôn phải tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm
thì mới giàu có. Nông thôn giàu có sẽ mua nhiều hàng hoá do công nghiệp sản
xuất ra. Đồng thời nông nghiệp cung cấp đủ nguyên liệu, lương thực cho công
nghiệp và thành thị. Như thế là nông thôn giàu có giúp cho công nghiệp phát

triển. Đánh giá vai trò của kinh tế nông nghiệp, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Vì nông
nghiệp là nguồn cung cấp lương thực và nguyên liệu, đồng thời là một nguồn
xuất khẩu quan trọng, nông thôn là thị trường tiêu thụ to nhất hiện nay, cho
nên cần phải cải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển
các ngành kinh tế khác. Phải cải tạo và phát triển nông nghiệp để tạo điều
kiện cho việc công nghiệp hoá nước nhà. Phải có một nền nông nghiệp phát
triển thì công nghiệp mới có thể phát triển mạnh" [21, tr.14-15]. Nông nghiệp
là cơ sở cho sự phát triển công nghiệp, đồng thời nông nghiệp cũng chỉ phát
triển được khi có sự tác động hỗ trợ của công nghiệp; do đó phải chú trọng
phát triển công nghiệp. Công nghiệp phát triển lại thúc đẩy nông nghiệp phát
triển mạnh hơn nữa. Công nghiệp, nông nghiệp phát triển thì dân giàu, nước
mạnh.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh muốn tiến lên CNXH thì phải phát triển
kinh tế công nghiệp và nông nghiệp, vì hai ngành đó quan hệ khăng khít với
nhau.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nền tảng, là cơ sở quan trọng để
xây dựng chủ trương đường lối về phát triển các ngành kinh tế, CCKT hợp lý
phù hợp với nhiệm vụ xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ.
Nhận thức và quán triệt những nguyên lý phổ biến có tính quy luật về con
đường CNH, đưa nền kinh tế sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện đại ở các nước

14


tiểu nông của chủ nghĩa Mác - Lênin, cùng với những tư tưởng chỉ đạo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đề ra đường lối, chủ trương phát triển kinh tế,
chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. Trong quá trình lãnh đạo công
cuộc đổi mới, quan điểm, chủ trương về chuyển dịch CCKT của Đảng là nhất
quán, xuyên suốt và ngày càng hoàn thiện qua các kỳ đại hội, các hội nghị Trung
ương, Bộ chính trị các Khoá VI, VII, VIII, IX.

Với tinh thần đổi mới toàn diện, bắt đầu từ đổi mới tư duy kinh tế, tại
Đại hội VI (12/1986), để đưa nền kinh tế phát triển, Đảng ta đã chỉ rõ: "Muốn
đưa nền kinh tế sớm thoát khỏi tình trạng rối ren, mất cân đối, phải dứt khoát
sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó các ngành, các
vùng, các thành phần kinh tế, các loại sản xuất có quy mô và trình độ kỹ thuật
khác nhau phải được bố trí cân đối, liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện
thực tế, đảm bảo nền kinh tế phát triển ổn định" [8, tr.47].
Trong bố trí lại CCKT, Đại hội chủ trương phải đưa nông nghiệp lên
mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp tiến một bước theo hướng sản xuất lớn;
ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Đây là sự cụ thể hóa nội dung chính của
công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên
CNXH, là bước đột phá trong tư duy và nhận thức đổi mới về chuyển dịch
CCKT trong thời kỳ mới của Đảng. Đại hội đề ra ba chương trình kinh tế lớn:
lương thực - thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Tiếp đó tại Hội nghị Trung ương 3 Khoá VI (8/1987), Đảng ta đã ra Nghị
quyết "Về chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý Nhà nước về kinh tế". Trên cơ sở
tổng kết thực tiễn, ngày 05/4/1988, Bộ chính trị đã ra Nghị quyết 10 "Về đổi
mới quản lý kinh tế nông nghiệp". Nghị quyết 10 là mốc quan trọng đánh dấu
bước chuyển biến về chất, góp phần quan trọng xoá bỏ cơ chế quản lý tập
trung quan liêu bao cấp, tạo tiền đề cần thiết cho sự hình thành nền nông
nghiệp hàng hoá. Nghị quyết 10 chủ trương sắp xếp và tổ chức lại sản xuất

15


nông nghiệp theo hướng chuyên môn hoá kết hợp với kinh doanh tổng hợp,
gắn trồng trọt với chăn nuôi, nông nghiệp và lâm nghiệp, ngư nghiệp; gắn
nông - lâm - ngư nghiệp với công nghiệp chế biến và các ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp ở nông thôn... Đây là những bước đột phá mở đầu cho chuyển dịch

CCKT theo hướng phát triển kinh tế hàng hoá.
Tháng 6/1991, tại Đại hội VII, Đảng ta đã tổng kết thành tựu 5 năm đổi
mới, khẳng định một trong những kết quả đạt được trên lĩnh vực kinh tế là:
"Những kết quả thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế gắn liền
với những chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và bố trí
lại cơ cấu kinh tế" [9, tr.19-20].
Cũng tại Đại hội này, Đảng ta đã đề ra những định hướng lớn trong
chính sách kinh tế, trong đó có quan điểm phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế
gắn liền với quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, chuyển dịch CCKT
theo hướng từng bước công nghiệp hoá, thoát khỏi tình trạng nông nghiệp lạc
hậu. Quan điểm về chuyển dịch CCKT được hiểu như sau: Phát triển nông lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là
nhiệm vụ hàng đầu nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội; tăng tốc độ và tỷ
trọng của công nghiệp, mở rộng kinh tế dịch vụ theo hướng huy động triệt để
các khả năng sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; đẩy mạnh thăm dò,
khai thác, chế biến dầu khí và một số loại khoáng sản; lựa chọn để phát triển
một số ngành công nghiệp ưu tiên, phát triển điện, giao thông thuỷ lợi và
thông tin liên lạc.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được thông qua tại Đại hội VII cũng chỉ rõ: "Khi kết thúc thời kỳ quá độ,
hình thành về cơ bản nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế công - nông
nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng" [9, tr.12]. Trong quá trình chuyển đổi CCKT, nền kinh tế quốc dân sẽ
gồm nhiều ngành, nghề, nhiều qui mô, nhiều trình độ công nghệ. Phát triển

16


nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn
mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đẩy mạnh công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng, hàng xuất khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế dịch

vụ, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng. Xây dựng nền công nghiệp nặng với
bước đi thích hợp, trước hết là các ngành trực tiếp phục vụ nông nghiệp. Thực
hiện chuyên môn hoá và liên kết kinh tế giữa các vùng, các địa phương. Xây
dựng các trung tâm kinh tế của từng vùng để tạo điều kiện liên kết công
nghiệp với nông nghiệp, thành thị với nông thôn phát triển giao lưu hàng hoá.
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được trong nông nghiệp, nông thôn,
để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn, Hội nghị
Trung ương 5 Khoá VII (6/1993) ra Nghị quyết về "Tiếp tục đổi mới và phát
triển kinh tế - xã hội nông thôn". Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng nông
nghiệp - nông thôn nước ta với những thành tựu, hạn chế, trong đó có những
điều bất hợp lý về cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, Nghị quyết đã
xác định một hệ thống quan điểm nhằm tiếp tục đổi mới nông nghiệp, nông
thôn trong giai đoạn mới, đồng thời đề ra phương hướng, giải pháp cụ thể
nhằm thực hiện mục tiêu đó. Về CCKT nông nghiệp, Nghị quyết xác định rõ:
phải đổi mới CCKT nông nghiệp - nông thôn, phá vỡ thế độc canh cây lúa,
phá vỡ cơ cấu thuần nông và xây dựng một nền kinh tế nông nghiệp phát triển
cân đối, hài hoà. Nghị quyết nhấn mạnh: "Trên cơ sở xúc tiến công nghiệp
hoá nói chung, công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn nói riêng mà thực
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển mạnh, vững
chắc, có hiệu quả công nghiệp - dịch vụ ở nông thôn, tăng nhanh tỷ trọng
những ngành này trong cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ" [12, tr.63].
Tháng 7/1994, Hội nghị Trung ương 7, Khoá VII Đảng ra Nghị quyết
"Phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn
mới". Nghị quyết cụ thể hoá một bước Nghị quyết Đại hội VII và Nghị quyết

17


Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng, đánh giá đúng

thực trạng công nghiệp và công nghệ nước ta; xác định mục tiêu chủ trương,
chính sách phát triển công nghiệp và công nghệ nước ta đến năm 2000 theo
hướng CNH, HĐH; xác định rõ CNH, HĐH đất nước là quá trình chuyển đổi
căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang lao động sử dụng
một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động cao. Nghị quyết chỉ rõ:
"Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến nước ta thành
một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất,
mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh" [13, tr.70].
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7, khoá VII đã đưa ra 3 chủ trương
lớn về phát triển kinh tế công nghiệp và chuyển dịch CCKT trong những năm
tới là: CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện,
lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến; phát triển mạnh công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; mở rộng thương nghiệp, du lịch,
dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại
khác.
Bước sang năm 1996, con đường đi lên CNXH ở nước ta đã ngày càng
được xác định rõ hơn. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát
triển nhanh với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình quốc tế hoá nền
kinh tế. Nước ta cũng như các nước khác đều có những cơ hội để phát triển.
Xuất phát từ kết quả đạt được sau 10 năm đổi mới, tại Đại hội VIII (6/1996),
Đảng ta quyết định chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
với những nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể. Đại hội khẳng định: "Mục tiêu của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công

18



nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn
đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp" [14, tr.68].
Tại Đại hội này, Đảng ta nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng CNH, HĐH
nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình
thành các vùng tập trung chuyên canh, xây dựng cơ cấu hợp lý về cây trồng,
vật nuôi, bảo đảm an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng yêu cầu của
công nghiệp chế biến của thị trường trong và ngoài nước, hàng hoá nhiều về
số lượng, tốt về chất lượng.
Thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ giới hoá, sinh học hoá. Phát
triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản với công nghệ ngày càng cao,
gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị. Phát triển các
ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu, thủ
công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công
nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi công nghiệp các loại
hình dịch vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
và xã hội, từng bước hình thành nông thôn mới văn minh hiện đại [14, tr.87].
Phát triển công nghiệp, ưu tiên các ngành chế biến lương thực - thực
phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và công
nghệ thông tin. Phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ hàng không, hàng hải,
bưu chính - viễn thông, thương mại, vận tải, tài chính, ngân hàng, kiểm toán,
bảo hiểm, công nghệ, các dịch vụ phục vụ cuộc sống nhân dân. "Từng bước
đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại, dịch vụ có tầm cỡ
trong khu vực" [14, tr.89].
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đẩy mạnh xuất khẩu
và coi xuất khẩu là hướng ưu tiên, là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, chủ
động tham gia cộng đồng thương mại thế giới... [14, tr.90- 91].


19


Đại hội VIII đề ra định hướng phát triển kinh tế, nhấn mạnh chuyển
dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ.
Chuyển dịch CCKT lãnh thổ trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế, tiềm
năng của nhiều vùng liên kết hỗ trợ nhau làm cho tất cả vùng đều phát triển.
Tiếp đó, tháng 12/1997, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá VIII về "Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát
huy nỗ lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm
2000" đã chỉ rõ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH,
hợp tác hoá, dân chủ hoá. Nghị quyết xác định những việc cần tập trung thực
hiện: đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT gắn với phân công lao động ở
nông thôn, giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản, phát triển mạnh các
hình thức kinh tế hợp tác, đổi mới hoạt động các cơ sở quốc doanh trong nông
nghiệp và nông thôn, phát triển các cơ sở quốc doanh ở vùng sâu, vùng xa.
Cụ thể hoá hơn nữa chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp - nông
thôn theo hướng CNH, HĐH, tháng 4/1998, Bộ chính trị ra Nghị quyết 10 về
"Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa". Nghị quyết nhấn mạnh việc chuyển dịch CCKT
nông nghiệp - nông thôn theo hướng CNH, HĐH là phải tạo ra những chuyển
biến mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hoá với cơ cấu đa dạng vừa để xuất
khẩu với sức cạnh tranh cao, vừa khai thác lợi thế tiềm năng của từng vùng
sinh thái, tăng nhanh năng suất, chất lượng và hiệu quả của nông nghiệp.
Chuyển dịch CCKT nông nghiệp - nông thôn theo hướng CNH, HĐH nghĩa là
từ chỗ nặng về trồng trọt, chủ yếu là cây lương thực sang sản xuất các cây
trồng, vật nuôi có giá trị hàng hoá cao; từ chỗ chủ yếu làm nông nghiệp sang
phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Trong đó

giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản giữa trồng trọt với chăn nuôi, giữa nông
nghiệp với lâm nghiệp, giữa nông - lâm nghiệp với công nghiệp và dịch vụ...

20


×