Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

đảng cộng sản việt nam lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ 1975 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 157 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------

TRƯƠNG THỊ HOA

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
(TỪ 1975 ĐẾN 2000)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------TRƯƠNG THỊ HOA

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
(TỪ 1975 ĐẾN 2000)
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG HỒNG

HÀ NỘI - 2007



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 3
3. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................ 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 5
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................. 6
6. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 7
CHƢƠNG 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
(TỪ 1975 ĐẾN 1986) ........................................................................... 8
1.1. Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hóa của một nƣớc ....................................... 8
1.2. Những hoạt động giáo dục phổ thông bƣớc đầu của nƣớc Việt Nam
thống nhất ........................................................................................................... 10
1.3. Tiến hành cải cách giáo dục lần thứ ba .............................................................. 14
1.3.1. Sơ lƣợc hai cuộc cải cách giáo dục sau cách mạng tháng Tám
năm 1945 ................................................................................................ 14
1.3.2. Tiến hành cải cách giáo dục lần thứ ba ..................................................... 18
1.3.3. Quá trình thực hiện cải cách giáo dục phổ thông ...................................... 26
CHƢƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
(TỪ 1986 ĐẾN 2000) ........................................................................ 42
2.1. Giai đoạn 1986 - 1996 ....................................................................................... 42
2.1.1. Đƣờng lối đổi mới giáo dục phổ thông của Đảng ..................................... 42
2.1.1.1. Đổi mới tƣ duy giáo dục phổ thông .................................................... 42
2.1.1.2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tƣ Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đảng (khóa VII) về việc tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo
(1/1993) .............................................................................................................. 48
2.1.2. Quá trình thực hiện đƣờng lối đổi mới giáo dục phổ thông trong



những năm 1986 - 1996.............…………………………………………53
2.1.2.1. Ngành giáo dục phổ thông triển khai thực hiện đƣờng lối
đổi mới của Đảng .............…………………………………………53
2.1.2.2. Một số kết quả của giáo dục phổ thông giai đoạn
1986 - 1996 .................................................................................... .61
2.2. Giai đoạn 1996 - 2000 ........................................................................................ 69
2.2.1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đảng (khóa VIII) về định hƣớng chiến lƣợc phát triển giáo dục - đào tạo
trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa (12/1996) ........................................... 69
2.2.2. Giáo dục phổ thông Việt Nam trong những năm 1996 - 2000.................. 77
CHƢƠNG 3: MỘT VÀI NHẬN XÉT, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÃ ĐẶT RA ...................................................... 93
3.1. Một vài nhận xét................................................................................................. 93
3.1.1. Về thành tựu ............................................................................................. .93
3.1.2. Hạn chế .................................................................................................... 101
3.2. Bài học kinh nghiệm ....................................................................................... .108
3.3. Những vấn đề đã đặt ra .................................................................................... 118
KẾT LUẬN ........................................................................................................ ….125
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 128
PHỤ LỤC………….……………………………………………………………...134


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Ý nghĩa

- PGS


Phó Giáo sƣ

- TS

Tiến sỹ

- Nxb

Nhà xuất bản

- cb

Chủ biên

- CT/TW

Chỉ thị Trung ƣơng

- NQ/TW

Nghị quyết Trung ƣơng

- QĐ

Quyết định

- CP

Chính phủ


- HĐBT

Hội đồng Bộ trƣởng

- TTLB

Thông tƣ Liên bộ

- CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hơn 60 năm qua (1945 - 2007), nền giáo dục nước ta đã trải qua biết bao thử
thách, thăng trầm, nhưng vẫn luôn giữ vững bản chất là nền giáo dục “của dân, do dân
và vì dân”, vẫn phát triển, ngay trong những điều kiện hết sức khó khăn của chiến tranh
và của trình độ kinh tế non kém. Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp giáo dục
kịp thời, sáng suốt đào tạo và bồi dưỡng con người, thích hợp với hoàn cảnh đất nước,
góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và công cuộc kiến thiết đất nước, xây dựng
chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới đang tiến hành. Đảng và Nhà nước ta hết sức
coi trọng vị trí, vai trò của giáo dục trong sự nghiệp cách mạng. Ngày nay, giáo dục
được coi là quốc sách hàng đầu.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam, giáo dục phổ thông là nền
tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc, nó đặt những cơ sở
ban đầu rất quan trọng cho sự phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ
và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học

lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính vì
thế mà giáo dục phổ thông là bộ phận rất quan trọng trong hệ thống giáo dục nước ta,
luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, đã mở ra giai
đoạn mới của dân tộc, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ đây, nhiệm vụ chính trị của nền giáo dục nước ta là phục vụ xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ nền độc lập của đất nước. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2000, lịch sử
phát triển giáo dục của Việt Nam nói chung và lịch sử phát triển giáo dục phổ thông
nói riêng nằm trong bối cảnh của rất nhiều biến động kinh tế - xã hội, của một đất nước
vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh lâu dài và ác liệt, của sự thăng trầm về kinh tế

1


vv…Chính vì vậy, đây cũng là thời kỳ mà Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành cuộc cải
cách giáo dục lần thứ ba (1979) và công cuộc đổi mới giáo dục kéo dài (bắt đầu từ năm
1987) cùng với nhiều chủ trương chính sách cụ thể đối với giáo dục phổ thông trong
từng giai đoạn. Những chính sách đó đã đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của giáo
dục, đưa giáo dục nước nhà đạt được những thành tựu to lớn, góp phần không nhỏ vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, lịch sử phát triển
của giáo dục nói chung và đặc biệt là giáo dục phổ thông nước ta nói riêng giai đoạn
này không phải đi lên theo một đường thẳng đứng mà có những bước thăng trầm, lên
xuống trong từng giai đoạn, rất nhiều vấn đề đã đặt ra.
Thực tế cho thấy, nền giáo dục của ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
trở thành nền giáo dục của toàn dân, nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại những yếu kém và
bất cập cần được giải quyết. Việc tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục theo hướng hiệu quả, hiện đại, phù hợp với trình độ phát triển của thế giới trên cơ
sở phát huy truyền thống dân tộc và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đang là vấn
đề cấp bách đặt ra cho giáo dục Việt Nam hiện nay.
Muốn vậy, ngoài việc tham khảo mô hình giáo dục của một số nước tiên tiến, thì

một điều rất cần thiết là phải nhìn nhận, tiếp thu những kinh nghiệm giáo dục trong lịch
sử giáo dục của đất nước. Với mục đích tìm hiểu đường lối của Đảng ta đối với giáo
dục phổ thông giai đoạn này cũng như quá trình thực hiện trong thực tiễn, phân tích rõ
những thành tựu cũng như những hạn chế của nó, từ đó nhìn nhận, đánh giá, có thể rút
ra một số bài học kinh nghiệm để xây dựng phương hướng phát triển đúng đắn của
giáo dục phổ thông Việt Nam giai đoạn sau này.
Chính vì lý do đó mà tôi chọn đề tài cho luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử
Đảng cộng sản Việt Nam của mình là: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự
nghiệp giáo dục phổ thông (từ 1975 đến 2000)”

2


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử giáo dục Việt Nam
nói chung và giai đoạn từ 1975 nói riêng. Các sách đó có một số cuốn có điểm qua về
lịch sử giáo dục phổ thông cũng như những chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
giáo dục phổ thông từ năm 1975, tuy nhiên cũng rất sơ sài vì đó chỉ là một phần nhỏ
trong cuốn sách, thời gian cũng chỉ hạn chế đến thời điểm viết cuốn sách, hoặc chỉ
quan tâm đến một vấn đề nào đó của giáo dục phổ thông. Theo thứ tự thời gian xuất
bản, có thể kể đến như:
Cuốn “35 năm phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông”, của Võ Thuần Nho
(cb) do Nxb Giáo dục xuất bản năm 1980, đề cập đến lịch sử giáo dục phổ thông nước
ta từ năm 1945 đến 1980, trong đó dành một phần rất khiêm tốn để nói về tình hình
giáo dục phổ thông nước ta từ sau ngày giải phóng đến năm 1980 với những số liệu
thống kê. Cuốn sách giúp cho chúng ta nắm được lịch sử cơ bản của 35 năm phát triển
sự nghiệp giáo dục phổ thông Việt Nam.
Cuốn “Tổng kết giáo dục 10 năm (1975 - 1985) ” của Bộ Giáo dục do Nxb Giáo
dục ban hành năm 1986, đã tiến hành tổng kết, nêu ra những chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với giáo dục, sự triển khai của Bộ Giáo dục cũng như tình hình

tổng quát, những phân tích nhận xét của giáo dục Việt Nam trong giai đoạn này, trong
đó có đề cập đến tình hình ngành giáo dục phổ thông. Mặc dù không đi sâu vào ngành
giáo dục phổ thông nhưng cuốn sách đã cung cấp những tài liệu quan trọng và bổ ích,
nhất là những số liệu thống kê về tình hình giáo dục phổ thông nước ta.
Cuốn “Sơ thảo giáo dục Việt Nam (1945 - 1990)” do Phạm Minh Hạc (cb), được
Nxb Giáo dục phát hành năm 1992. Trong đó, trình bày sơ lược về các cuộc cải cách
giáo dục, hệ thống giáo dục phổ thông, một số hoạt động của công cuộc xóa mù chữ và
phổ cập giáo dục giai đoạn 1975 - 1990.
Cuốn “50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945 - 1995)” của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, do Nxb Giáo dục phát hành năm 1995. Cuốn sách là một công

3


trình đồ sộ của nhiều tác giả, cuốn sách là bức tranh toàn cảnh nói về sự phát triển của
giáo dục Việt Nam từ 1945 đến 1995, trong đó có ngành giáo dục phổ thông giai đoạn
1975 - 1995. Cuốn sách cũng đã cung cấp những tài liệu cơ bản về các mặt của giáo
dục phổ thông giai đoạn này từ đường lối chính sách đến tình hình phát triển của giáo
dục phổ thông và những đánh giá, nhận xét chung về giáo dục Việt Nam.
Cuốn “Từ bộ Quốc gia đến bộ giáo dục và đào tạo (1945 - 1995)” do Vũ Xuân
Ba, Phạm Duy Bình, Nguyễn Minh Đường (cb) được Nxb Giáo dục phát hành năm
1995. Đây là một đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của tập thể các nhà khoa học về
lịch sử cơ quan Bộ Giáo dục và Đào tạo từ 1945 đến 1995. Cuốn sách dành một phần
nói về sự chỉ đạo của Bộ đối với ngành giáo dục phổ thông, trong đó có đề cập sơ qua
giai đoạn 1975 - 1995. Mặc dù chỉ mang tính chất sơ thảo nhưng cuốn sách cũng cho ta
thấy Bộ Giáo dục đã quan tâm chỉ đạo, triển khai các đường lối chính sách về giáo dục
phổ thông của Đảng đối với ngành giáo dục phổ thông giai đoạn này như thế nào.
Cuốn “Nhà trường phổ thông Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử” của Viện Khoa
học giáo dục được Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội phát hành năm 2001, trong đó có
trình bày tình hình, những đánh giá tổng hợp về giáo dục phổ thông giai đoạn 1975 1995. Tuy nhiên đó mới chỉ là sự khái quát sơ lược về giáo dục và nhà trường phổ

thông Việt Nam giai đoạn này, giới hạn đến năm 1995, bản thân cuốn sách cũng là sự
kế thừa những cuốn sách trước đã viết về giáo dục phổ thông của nước ta.
Cuốn “Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam” của tác giả Lê
Văn Giạng do Nxb Chính trị quốc gia phát hành năm 2003, trong đó có dành một phần
nhỏ mô tả hoạt động nền giáo dục của nước Việt Nam thống nhất và chủ nghĩa xã hội
(từ năm 1975 đến năm 2000). Như tên gọi của cuốn sách, tác giả đã trình bày một cách
khái lược tiến trình giáo dục Việt Nam, giáo dục phổ thông được đề cập đến một cách
sơ lược.
Cuốn “Lịch sử giáo dục Việt Nam” do Bùi Minh Hiền biên soạn được Nxb Đại
học sư phạm phát hành năm 2004. Đây là giáo trình dùng cho sinh viên các trường Đại

4


học và Cao đẳng sư phạm, trong đó có dành hai chương viết về giáo dục Việt Nam hai
giai đoạn 1975 - 1986 và 1986 đến nay (năm 2004). Cuốn sách không dành viết riêng
về giáo dục phổ thông, nhưng qua việc trình bày những chính sách, những tổng kết tình
hình giáo dục Việt Nam nói chung, ta có thể chọn lọc ra những phần liên quan đến giáo
dục phổ thông giai đoạn 1975 - 2000.
Kế thừa thành tựu của các tác giả đi trước, luận văn sẽ cố gắng tập hợp những
chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về giáo dục phổ thông giai đoạn 1975 2000 và các hoạt động cơ bản của ngành giáo dục để triển khai thực hiện, trên cơ sở đó
mạnh dạn phân tích và đưa ra những nhận xét về giáo dục phổ thông giai đoạn này.
Vấn đề sẽ được trình bày trong một hệ thống chặt chẽ, lôgíc và có tính lịch sử. Chúng
tôi coi đó là đóng góp mới của đề tài.

3. Mục tiêu nghiên cứu.
Mục tiêu của luận văn là tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục phổ
thông những năm 1975 - 2000. Trên cơ sở tìm hiểu những đường lối, chính sách, chủ
trương của Đảng đối với giáo dục phổ thông giai đoạn này cũng như quá trình triển
khai thực hiện những chính sách đó như thế nào, đồng thời căn cứ vào hoàn cảnh lịch

sử cụ thể từ đó phân tích, đánh giá để để xem xét kết quả: những thành tựu, vai trò của
Đảng cũng như những vấn đề tồn tại, hạn chế, những nguyên nhân lý giải cho sự phát
triển thăng trầm của giáo dục phổ thông giai đoạn này và một số bài học kinh nghiệm
rút ra cho sự lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển của giáo dục phổ thông.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là toàn bộ chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục phổ thông trong những năm 1975 - 2000 cùng
những hoạt động của hệ thống giáo dục này dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Phạm vi nghiên cứu đề tài được giới hạn trong 25 năm (1975 - 2000), trong một
thời kỳ hết sức quan trọng của đất nước vừa bước ra khỏi chiến tranh, thống nhất, vươn
lên thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và bước đầu phát triển.

5


Giáo dục là một khái niệm rộng lớn được cấu thành bởi nhiều yếu tố, đề tài này
chỉ khảo cứu về giáo dục phổ thông - một trong những yếu tố quan trọng nhất trong hệ
thống giáo dục Việt Nam.

5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu.
5.1. Nguồn tƣ liệu.
Nguồn tư liệu phục vụ cho luận văn là các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về giáo
dục và giáo dục phổ thông được khai thác chủ yếu từ các Văn kiện Đảng; các tài liệu
của Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục; các cuốn sách tập hợp các văn kiện,
các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, của Bộ Giáo dục và Đào
tạo về giáo dục và giáo dục phổ thông; đặc biệt là đề tài kế thừa và sử dụng các kết quả
nghiên cứu từ các cuốn sách, các công trình nghiên cứu của các tác giả, các nhà khoa
học đi trước về giáo dục phổ thông; bên cạnh đó là việc khai thác những số liệu thống
kê từ những tổng kết của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của Tổng cụ Thống kê. Nguồn tư

liệu có độ tin cậy cao và có khả năng đáp ứng tốt cho nghiên cứu của đề tài.

5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để có được những phân tích, đánh giá thật sự khoa học, khách quan trong khi
nghiên cứu, đề tài dựa trên quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục và đào tạo.
Để khai thác tốt nguồn tư liệu hiện có và để trình bày vấn đề “Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông (từ 1975 đến 2000)” theo một hệ
thống hợp lý, đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp sử liệu học chữ viết nhằm xử lý nguồn sử liệu chữ viết rất phong
phú và khai thác được những thông tin lịch sử tin cậy.
Phương pháp thống kê mô tả để thấy được những thay đổi về cơ cấu và kết quả
hoạt động giáo dục thông qua các con số.
Phương pháp lịch sử được ứng dụng để trình bày nội dung của đề tài theo tiến
trình lịch sử.

6


Phương pháp lôgíc được sử dụng trong các phần khái quát, tổng kết, đánh giá của
luận văn.

6. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, Luận văn được kết
cấu làm 3 chương:
Chương 1: Đảng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông (từ 1975 đến 1986).
Chương 2: Đảng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông (từ 1986 đến 2000).
Chương 3: Một vài nhận xét, bài học kinh nghiệm và những vấn đề đã đặt ra.

7



CHƢƠNG 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
(TỪ 1975 ĐẾN 1986)
1.1. GIÁO DỤC PHỔ THÔNG LÀ NỀN TẢNG VĂN HÓA CỦA MỘT
NƢỚC.
Theo nghĩa rộng, giáo dục phổ thông là một loại hình hoạt động xã hội nhằm cung
cấp cho mọi người dân những hiểu biết cơ bản về tự nhiên, về xã hội và về con người
để làm cơ sở cho sự hình thành thế giới quan, cho việc tiếp thụ những kỹ năng cần cho
cuộc sống và cho việc đào tạo nghề nghiệp. Theo nghĩa hẹp, nó là một thể chế xã hội
(tức nhà trường phổ thông) có nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ từ tuổi có khả năng học tập
đến tuổi có khả năng lao động thành những nhân cách của một chế độ xã hội nhất định,
từ đó mà trở thành người lao động, người công dân theo lý tưởng của xã hội đó.
Nhiệm vụ của giáo dục phổ thông trong chế độ xã hội chủ nghĩa là đào tạo người
lao động làm chủ và phát triển toàn diện, đồng thời chuẩn bị lao động dự trữ cho sự
phân công lao động xã hội. Con người phát triển toàn diện, theo ý nghĩa đầy đủ của nó,
là con người được phát triển mọi khả năng của mình, được đào tạo để tinh thông những
hoạt động chủ yếu của xã hội, trước hết của lao động sản xuất, trở thành những nhân
cách sáng tạo, góp phần xây dựng đất nước.
Giáo dục phổ thông còn là nền tảng văn hóa vì nó đóng vai trò quyết định trong
sự hình thành con người mới. Trường phổ thông đã phụ trách đào tạo con người từ bé
cho đến lúc trưởng thành, tức là vào quãng thời gian mà con người có thể tiếp thụ sự
giáo dục một cách bền vững nhất, tiếp thụ hoàn chỉnh từ trí tuệ đến tình cảm, từ tri thức
đến thực hành. Đó là một phương tiện tác động đến con người mạnh mẽ và có hiệu lực
hơn bất cứ hoạt động văn hóa nào khác. Và cả những hoạt động văn hóa khác muốn đi
vào con người thì cũng phải qua sự môi giới của giáo dục. Hơn nữa, không có phương

8



tiện văn hóa nào đặt nền móng cho thế giới quan khoa học bằng hệ thống kiến thức về
tự nhiên, xã hội và con người.
Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hóa của một nước, và cũng vì thế mà là sức
mạnh tương lai của một dân tộc, vì ba lẽ:
Một là, văn hóa phổ thông là cái cửa đầu tiên mở cho nhân dân đi chiếm lĩnh toàn
bộ giá trị văn hóa, là bệ phóng đầu tiên của mọi phát minh khoa học và kỹ thuật.
Hai là, giáo dục phổ thông là phương tiện quan trọng nhất để hình thành con
người mới, là bộ phận quan trọng nhất của cách mạng tư tưởng và văn hóa.
Ba là, giáo dục phổ thông có tác dụng thúc đẩy tất cả các hoạt động văn hóa khác
và trên cơ sở phối hợp với các hoạt động văn hóa khác ấy để bồi dưỡng nên chính cái
sản phẩm của giáo dục phổ thông.
“Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân
tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng”. [62, tr.8]. Đồng thời, nguyên lý của nền giáo dục Việt Nam là: học đi đôi với
hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục
nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Trong Luật Giáo dục (Luật số 11/1998/QH10 ngày 2/12/1998) của Việt Nam đã
khẳng định: “Giáo dục phổ thông là ngành giáo dục mang tính phổ cập trong giáo dục
quốc dân có mục tiêu giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ,
thể chất và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học
lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…. Nội dung
giáo dục phổ thông phải đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và
có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học
sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi bậc học, cấp học… Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng

9



kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh”. [2, tr.94 - 96].
Vốn văn hóa phổ thông là nền tảng cho phép mọi người có thể nhảy cao trong mọi
lĩnh vực hoạt động, và ngược lại, bất cứ một thiếu sót nào trong việc học phổ thông đều
để lại hậu quả tai hại trong con người trên bước đường tương lai của nó.

1.2. NHỮNG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG BƢỚC ĐẦU
CỦA NƢỚC VIỆT NAM THỐNG NHẤT.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, đã mở ra giai
đoạn mới của dân tộc, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
Tháng 9 năm 1975, Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành Trung ương khóa III đã
đề ra nhiệm vụ chiến lược mới:
Miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn
thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã
hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về giáo dục, miền Bắc có nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Hai
tốt”, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tích cực giúp đỡ giáo dục miền Nam.
Miền Nam cần mau chóng xóa bỏ tàn dư của nền giáo dục cũ, xây dựng hệ thống giáo
dục mới, nâng cao giác ngộ chính trị cho giáo viên và học sinh, xây dựng tổ chức quản
lý của ngành.
Năm học 1975 - 1976, cả nước đã tiến hành khai giảng trong bầu không khí tưng
bừng, phấn khởi trước thắng lợi vĩ đại của dân tộc và trong niềm vui kỷ niệm 30 năm
ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, các hoạt động chủ yếu của nhà trường phổ thông
vẫn là làm tốt việc dạy và học các bộ môn văn hóa, lao động sản xuất và hoạt động xã
hội. Ngành cũng quan tâm hết sức đến việc nâng cao phẩm chất chính trị đạo đức và
năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo viên. Đối với học sinh, đặc biệt ở cấp I và cấp


10


II, chú ý giáo dục thật tốt 5 điều Bác dạy, thường xuyên sinh hoạt theo chủ đề: “Vâng
lời Bác dạy, thi đua làm nghìn việc tốt, mừng Tổ quốc nở hoa, mừng Đội 35 tuổi”.
Ngày 17/6/1975, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị số 221- CT/TW hướng
dẫn công tác giáo dục ở miền Nam.
Căn cứ vào chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng, công tác giáo dục phổ thông
ở miền Nam có những nhiệm vụ sau: mau chóng đưa giáo dục trở lại hoạt động bình
thường; kết hợp việc cải tạo nền giáo dục cũ và xây dựng nền giáo dục mới, lấy công
tác giáo dục chính trị và xây dựng tổ chức làm nhiệm vụ trung tâm, làm cho giáo dục
trở thành một lực lượng cách mạng góp phần xây dựng xã hội mới; đẩy mạnh việc xóa
nạn mù chữ cho nhân dân lao động, bổ túc văn hóa cho cán bộ và thanh niên, coi đó là
nhiệm vụ số một; phát triển giáo dục phổ thông và mẫu giáo nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho con em nhân dân lao động được đi học; xây dựng hệ thống các trường sư phạm
để đào tạo cán bộ, giáo viên mới; tổ chức lại việc quản lý giáo dục, chuẩn bị cho kế
hoạch phát triển lâu dài của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa thống nhất trong cả nước.
Thực hiện chỉ thị số 221, các tỉnh miền Nam lần lượt khai trường, lập ban điều
hành lâm thời do quần chúng đề cử để quản lý nhà trường. Học sinh được tổ chức học
bù để chuẩn bị thi lên lớp 6 và thi tú tài, việc chuẩn bị kỳ thi tốt nghiệp lớp 12 (tú tài)
tiến hành đồng thời với việc chuẩn bị khai trường vào năm học mới.
Cuối tháng 9/1975, gần 62.000 thí sinh của 29 tỉnh, thành phía Nam đã dự thi tốt
nghiệp phổ thông dưới chế độ mới. [63, tr. 234].
Ngày 19/10/1975, các trường phổ thông khắp các tỉnh miền Nam đã tưng bừng
khai giảng năm học giải phóng mới với 4 triệu học sinh phổ thông, mẫu giáo và gần 10
vạn giáo viên. Mở đầu năm học là việc tổ chức học tập thư Bác Hồ gửi học sinh nhân
ngày khai trường 9/1945 để xác định thái độ, động cơ học tập mới, rèn luyện đạo đức
người học sinh dưới chế độ mới.
Ngay năm học đầu, các trường phổ thông ở miền Nam đã chuyển sang hệ thống

giáo dục mới. Trường phổ thông mới gồm 12 năm chia làm 3 cấp: cấp I (5 năm) gắn

11


với trường cấp II (4 năm), cấp III tức trường phổ thông trung học có phân khoa (3
năm). Nội dung giáo dục đổi mới, tiến bộ cả về tư tưởng chính trị lẫn mặt khoa học. Bộ
Giáo dục đã kịp thời ban hành chương trình mới, biên soạn và in 20 triệu bản sách giáo
khoa cấp I, cấp II, cấp III gửi vào miền Nam thay cho sách cũ. Hầu hết các giáo viên cũ
được tuyển dụng lại.
Miền Bắc đã kịp thời cử cán bộ, giáo viên vào Nam bổ sung những nơi thiếu hụt,
đặc biệt là đội ngũ quản lý, chỉ đạo giáo dục. Mặt khác, chính quyền mới đã đào tạo
cấp tốc một số giáo viên mới.
Mùa hè năm 1975, các giáo viên miền Nam đã được tham dự một lớp học chính
trị, nghiệp vụ. Mọi người thảo luận dân chủ về tình hình, nhiệm vụ cách mạng, ý nghĩa
chiến thắng đế quốc Mĩ và tay sai, nghiên cứu về chương trình, tính chất của nền giáo
dục mới. Nhờ vậy, các giáo viên đã nhận thức rõ ràng hơn, phấn khởi bắt tay vào khôi
phục nhanh chóng các sinh hoạt của nhà trường.
Cơ cấu thành phần xã hội của học sinh được cải tiến một bước. Trường học được
phân bổ đều hơn, bố trí ở các vùng đông dân lao động, ở nông thôn, ở vùng dân tộc ít
người, các khu kinh tế mới. Trường học vùng giải phóng cũ được củng cố và mở rộng
thêm. Con em nhân dân lao động, các gia đình cách mạng, liệt sĩ được ưu tiên nhận vào
học. Trong chế độ cũ có tới 2.500 trường tư thục, một nửa là tôn giáo, nay là “công lập
hóa” một số lớp trường, tách nhà trường khỏi ảnh hưởng của tôn giáo và chủ trương
đưa dần toàn bộ trường tư vào sự quản lý của Nhà nước. Các giáo viên trường tư sẽ
được Nhà nước xem xét và tuyển dụng. Học sinh các trường phổ thông đều được miễn
học phí.
Ngày 19/1/1976, Thủ tướng ra quyết định số 41/TTg về việc ngân sách Nhà nước
đảm nhiệm in sách giáo khoa phát không cho toàn thể học sinh ở các cấp học, từ mẫu
giáo đến cấp III. Đó là một sự cố gắng lớn của Đảng và Chính phủ. Nhiều nơi đã có

sáng kiến lập tủ sách dùng chung cho nhà trường, tổ chức cho học sinh mượn và bảo
quản tốt.

12


Tháng 4/1976 Tổng tuyển cử thống nhất nước nhà tiến hành thắng lợi, bầu ra
Quốc hội khóa VI của nước Việt Nam. Đến tháng 12/1976, Đại hội Đảng lần thứ IV đã
vạch ra con đường cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn nước ta đã độc lập
và thống nhất.
Vấn đề xây dựng con người mới, Đại hội chỉ rõ những đặc trưng cần phải bồi
dưỡng là “làm chủ tập thể, lao động, yêu nước xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô
sản”. Để xây dựng con người mới, giáo dục phổ thông phải là “nền tảng văn hóa của
một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc, nó đặt những cơ sở ban đầu rất trọng
yếu cho sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Vì vậy,
nhiệm vụ của giáo dục trong giai đoạn cách mạng mới là phải “đào tạo có chất lượng
tốt những người lao động mới” và thực hiện tốt nguyên lý, phương châm giáo dục của
Đảng.
Những năm đã qua, giáo dục tuy đã thu hút được những thành tựu to lớn, song
cũng còn nhiều mặt yếu kém, thiếu sót. Thực trạng của giáo dục trong thời kỳ mới
không đủ đáp ứng những yêu cầu của cách mạng. Bởi vậy, Đại hội IV đã quyết định
phải “tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước, làm cho hệ thống giáo dục quốc dân
gắn chặt hơn nữa với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Tháng 4/1977, hội nghị tổng kết 5 năm thi đua “Hai tốt” theo gương các điển hình
tiên tiến được tổ chức (1971 - 1976). Sau 5 năm phấn đấu, nhiều đơn vị tiên tiến xuất
hiện. Số trường vừa học vừa làm lên tới 47 trường phân bố trên khắp các địa bàn đất
nước. Nhiều hình thức học tập và lao động phong phú, thích hợp với từng vùng kinh tế
khác nhau.
Qua những bài học kinh nghiệm phong phú của các đơn vị mới và cũ, hội nghị
một lần nữa khẳng định, đánh giá cao những đóng góp của phong trào, đặc biệt là bài

học về tinh thần cách mạng tiến công, tự mình khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, sáng
tạo và kiên trì thực hiện mục tiêu, nguyên lý của Đảng về giáo dục. Hội nghị đã nhất trí
cao là cần thiết tiếp tục phát động phong trào thi đua “Hai tốt” theo gương các trường

13


học tiên tiến. Phát huy kết quả hội nghị, năm học 1977 - 1978 đã diễn ra một khí thế
“đồng khởi thi đua” sôi nổi.
Năm 1976 toàn miền Nam có hơn 3 triệu người mù chữ trong đó có 1,5 triệu
trong độ tuổi 12 đến 50. Nhưng đến ngày 28/2/1978, toàn miền Nam đã cơ bản hoàn
thành xóa nạn mù chữ, với “1.323.670 người đã thoát nạn mù chữ, tỉ lệ người biết chữ
trong độ tuổi 12 đến 50 là 94,15%. [44; tr.49]. Trong năm học 1978 - 1979, ở nhiều địa
phương như Tiền Giang, Nghĩa Bình, Nghệ Tĩnh, Hải Hưng… phong trào phổ cập cấp
I đã diễn ra sôi nổi. Việc phổ cập cấp II cũng có nhiều tiến bộ mới.
Ngày 21/3/1978, quyết định số 63/CP của Hội đồng Chính phủ đã thể chế hóa loại
trường phổ thông vừa học vừa làm, quy định một số biện pháp để đảm bảo cho loại
trường này có điều kiện phát triển.
Ở miền Nam trong 3 năm cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà trường phổ
thông đều có những tiến bộ mọi mặt. Bên cạnh việc dạy và học văn hóa, các trường
thành phố đều tham gia phong trào quét sạch tàn dư văn hóa phản động, cải tạo tư sản
thương nghiệp. Các trường nông thôn tham gia phong trào bổ túc văn hóa, phong trào
làm thủy lợi.
Ngày 16/6/1978, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị số 47-CT/TW
hướng dẫn công tác giáo dục miền Nam trong 3 năm 1978 - 1980, đề ra kế hoạch phát
triển giáo dục tích cực và vững chắc về bổ túc văn hóa, mầm non và phổ thông.
Về kiến thức văn hóa, điều đáng lưu ý là có nhiều học sinh giỏi xuất hiện. Trong
kỳ thi toán quốc tế năm 1979, đoàn học sinh Việt Nam có 4 em thì cả 4 em đều đoạt
giải: 1 giải nhất và 3 giải nhì.
Tuy vậy, nhìn chung cả nước, chất lượng giáo dục toàn diện còn thấp, chưa đáp

ứng yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội của một nước Việt Nam thống nhất.

1.3. TIẾN HÀNH CẢI CÁCH GIÁO DỤC LẦN THỨ BA.
1.3.1. SƠ LƢỢC HAI CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC SAU CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM NĂM 1945.

14


Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời, mở ra một kỷ nguyên mới của đất nước. Ngày 3/9/1945 trong thư gửi học
sinh nhân ngày khai trường, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định vai trò của giáo dục
phục vụ sự phục hưng của một nước mới giành được độc lập: “Non sông Việt Nam có
trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các cường
quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các
cháu”. Cùng ngày đó, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch nói: “Một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở chiến dịch chống nạn mù chữ”, coi
nạn thất học là một thứ giặc nguy hiểm như giặc ngoại xâm và nạn đói, và đề ra nhiệm
vụ nâng cao dân trí là một nhiệm vụ cấp bách lúc bấy giờ.
Vừa tiến hành chiến dịch chống nạn mù chữ, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa tiếp tục phát triển đại học và trung học, chủ trương cải cách nền giáo dục
thành nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục sẽ đào tạo thế hệ trẻ thành
những người công dân hữu ích cho đất nước, một nền giáo dục làm phát triển hoàn
toàn những năng lực vốn có của học sinh.
Chính phủ chủ trương xây dựng một nền giáo dục nhân dân, dân chủ, phụng sự sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một nền giáo dục tôn trọng nhân phẩm, rèn luyện
chí khí, phát triển tài năng. Từ sau cách mạng tháng Tám đến năm 1975, trên đất nước
ta đã trải qua 2 cuộc cải cách giáo dục:
- Cải cách giáo dục năm 1950.
- Cải cách giáo dục năm 1956.

Cuộc cải cách giáo dục năm 1950:
Ngay từ tháng 10/1945 Chính phủ đã thành lập Hội đồng cố vấn học chính để
nghiên cứu một chương trình cải cách giáo dục. Nhưng vì từ tháng 9/1945 ở miền Nam
và từ tháng 12/1946 ở cả miền Bắc, nhân dân ta phải tiến hành cuộc chiến tranh chống
thực dân xâm lược Pháp (cuộc chiến tranh này kết thúc bằng thắng lợi của Việt Nam
tại chiến dịch Điện Biên Phủ tháng 5/1954), nên đến tháng 7/1950 Hội đồng Chính phủ

15


mới thông qua đề án cải cách giáo dục và quyết định bắt đầu thực hiện cuộc cải cách
này.
Theo đề án cải cách này nền giáo dục nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được
chính thức tuyên bố là nền giáo dục của dân, do dân, vì dân; được xây dựng theo
nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng. Mục tiêu đào tạo: giáo dục thế hệ trẻ thành
những người công dân trung thành với Tổ quốc, có năng lực và phẩm chất phục vụ đất
nước. Phương châm giáo dục: học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn. Về nội
dung giáo dục phổ thông tập trung vào một số môn như tiếng Việt, Văn, Toán, Lí, Hóa,
Sinh; có các môn học mới: thời sự - chính sách, giáo dục công dân, tăng gia sản xuất;
không học các môn: ngoại ngữ, nhạc, vẽ, nữ công gia chánh. Theo tinh thần của cuộc
cải cách lần này, nước ta đã thực hiện dạy tiếng Việt ở bậc đại học, hoàn tất việc đưa
tiếng Việt vào vào dạy ở nhà trường vốn đã được triển khai sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945.
Cơ cấu trường phổ thông:
Sau cách mạng tháng Tám, hệ thống giáo dục phổ thông được sửa đổi thành hệ
11 năm (4 + 4 +3) với bậc tiểu học 4 năm và bậc trung học 7 năm, trong đó trung học
bậc cao (trung học chuyên khoa) (3 năm) có 3 ban là ban Toán Lí Hóa, ban Lí Hóa
Sinh và ban Văn Sử Địa.
Với cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất này, hệ thống giáo dục phổ thông được cơ
cấu lại thành hệ 9 năm (4 + 3 + 2) cho phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến, bao gồm 3

cấp học: cấp I, cấp II, cấp III. Cấp I: 4 năm (không kể vỡ lòng) (lớp 1 - 4), thay cho cấp
tiểu học; cấp II: 3 năm (lớp 5 - 7), thay cho bậc trung học đệ nhất cấp gồm 4 năm và
cấp III: 2 năm (lớp 8 - 9), thay cho bậc trung học chuyên khoa (hay trung học đệ nhị
cấp) gồm 3 năm.
Bên cạnh hệ thống giáo dục phổ thông còn có hệ thống giáo dục bình dân, giáo
dục chuyên nghiệp và giáo dục cao đẳng, đại học.

16


Tháng 2/1951, Đại hội Đảng lần thứ II đã họp, quyết định Đảng ra công khai hoạt
động, đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt Nam. Nghị
quyết của Đại hội đã soi sáng cho ngành giáo dục thực hiện thắng lợi những mục tiêu
của cải cách giáo dục.
Cuộc cải cách giáo dục năm 1956:
Cuộc cải cách giáo dục năm 1950 được tiến hành ở các vùng giải phóng, trong
vùng thuộc quyền kiểm soát của bọn thực dân Pháp các trường vẫn dạy theo số năm
học phổ thông từ tiểu học đến hết trung học đệ nhị cấp là 12 năm, với nội dung,
chương trình cơ bản giống trước năm 1945.
Như vậy là, cho đến lúc giải phóng và hòa bình lập lại (1954) ở miền Bắc từ vĩ
tuyến 17 trở lên có hai hệ thống giáo dục phổ thông: hệ thống giáo dục phổ thông 9
năm và hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm. Việc gấp rút thống nhất hai hệ thống giáo
dục là một đòi hỏi khách quan cấp thiết. Hội nghị lần thứ VII của Trung ương Đảng
khóa II (3/1955) đã nêu nhiệm vụ phải mau chóng “chấn chỉnh và củng cố giáo dục
phổ thông, thống nhất hai hệ thống giáo dục của vùng tự do cũ và các vùng mới giải
phóng”. [12, tr. 20].
Tháng 3/1956 Chính phủ thông qua đề án cải cách giáo dục lần thứ hai và giao
cho Bộ Giáo dục bắt đầu triển khai đề án đó. Tháng 8/1956 Chính phủ ban hành “chính
sách giáo dục phổ thông của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
Mục tiêu của cuộc cải cách giáo dục lần này là: “đào tạo, bồi dưỡng thế hệ thanh

niên và thiếu nhi trở thành những người phát triển về mọi mặt, những công dân tốt,
trung thành với Tổ quốc, những người lao động tốt, cán bộ tốt của Nhà nước, có tài có
đức để phát triển chế độ dân chủ nhân dân tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta, đồng thời để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ”. [44, tr.
27].
Phương châm giáo dục là liên lệ lí luận với thực tiễn, gắn nhà trường với đời sống
xã hội. Nội dung giáo dục có tính chất toàn diện, gồm bốn mặt: đức dục, trí dục, thể

17


dục, mĩ dục, trong đó lấy “trí dục là cơ sở” đồng thời tăng cường giáo dục tư tưởng và
giáo dục đạo đức cũng trên cơ sở coi trọng giảng dạy tri thức có hệ thống. Trong
phương pháp, tăng cường thực hành, tăng cường giờ lao động sản xuất, chú ý nhiều
hơn đến ứng dụng tri thức vào đời sống.
Hệ thống giáo dục phổ thông từ 9 năm nâng lên 10 năm, bao gồm:
- Cấp I: 4 năm, từ lớp 1 đến lớp 4;
- Cấp II: 3 năm, từ lớp 5 đến lớp 7;
- Cấp III: 3 năm, từ lớp 8 đến lớp 10.
Số tiết học trong tuần ở cấp I vẫn giữ như trước đây (17 - 19 tiết), ở cấp II và cấp
III tăng lên từ 20 giờ (cấp II), 21 giờ (cấp III) lên 29 - 30 giờ.
1.3.2. TIẾN HÀNH CẢI CÁCH GIÁO DỤC LẦN THỨ BA.
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ IV, ngày 11/1/1979, Bộ Chính trị
Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 14-NQ/TW về cải cách giáo dục.
Lý do và yêu cầu của cuộc cải cách:
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Lao động Việt Nam đã đổi tên
Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam và vạch ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên toàn quốc, mà nội dung chủ yếu là từng bước xây dựng nền sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chế độ làm chủ tập thể, xây dựng con người mới và nền văn
hóa mới xã hội chủ nghĩa, bằng cách “tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách

mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn
hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt”. [28, tr. 5 - 6].
Để đáp ứng những yêu cầu đó, nước ta có một cơ sở thuận lợi: “đó là những thành
tựu đáng tự hào của sự nghiệp giáo dục trong hơn 20 năm qua” [28, tr. 9]. Tuy nhiên,
đối chiếu với yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới, sự phát triển của giáo dục
Việt Nam (đến năm 1979) cả về số lượng và chất lượng đều không đáp ứng được, còn
nhiều nhược điểm và thiếu sót.

18


“Sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa của ta phát triển nhanh về số lượng, nhưng
còn yếu về chất lượng toàn diện. Nội dung và phương pháp giáo dục chưa thấu suốt
nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn
liền với xã hội”. [28, tr. 12].
Hệ thống giáo dục chưa bồi dưỡng đúng mức cho thế hệ trẻ những phẩm chất và
năng lực của con người mới, chưa chuẩn bị đầy đủ cho học sinh đi vào sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa. Hệ thống giáo dục cũng chưa bảo đảm việc hình thành đội ngũ lao động
mới có ý chí cách mạng kiên cường, có trình độ kiến thức, tác phong công tác và lối
sống phù hợp. Chưa đảm bảo yêu cầu học tập thường xuyên và rộng rãi của đông đảo
nhân dân lao động.
Về hạn chế trong giáo dục phổ thông, Nghị quyết nêu: “Học sinh tốt nghiệp các
trường phổ thông chưa được chuẩn bị kiến thức cần thiết, về ý thức, năng lực và sức
khỏe để trở thành những người lao động kiểu mới. Nội dung giáo dục của trường phổ
thông chưa toàn diện, chủ yếu chỉ mới dạy kiến thức văn hóa chung, còn coi nhẹ kiến
thức kỹ thuật và quản lý; phương pháp giáo dục của trường phổ thông còn có phần đơn
giản và cũ kỹ, coi nhẹ thực hành và lao động sản xuất, do đó chưa phát huy trí thông
minh, óc sáng tạo của học sinh…Mức độ phổ cập giáo dục phổ thông trong cả nước
còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế và văn hóa trong giai đoạn mới”. [28, tr. 13].
Vì vậy, yêu cầu cải cách nền giáo dục đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng Việt

Nam là tất yếu. Từ năm 1975, trên đất nước đã bắt đầu xây dựng một nền giáo dục
thống nhất cho cả nước, đó là một điều thuận lợi để thực hiện cải cách giáo dục, cải
cách giáo dục sẽ có tác dụng làm cho nền giáo dục thống nhất một cách đầy đủ hơn.
Mục tiêu cải cách giáo dục phổ thông:
Nghị quyết số 14-NQ/TW về cải cách giáo dục đã đề ra những mục tiêu sau:
- “Làm tốt việc chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ ngay từ tuổi thơ ấu cho đến lúc
trưởng thành nhằm tạo ra cơ sở ban đầu rất quan trọng của con người Việt Nam mới,
người lao động làm chủ tập thể và phát triển toàn diện

19


... Cần phấn đấu cho thế hệ trẻ từ 6 tuổi đến trưởng thành được học đầy đủ đến
bậc phổ thông trung học và được chuẩn bị tốt để đi vào nghề nghiệp. Giáo dục thế hệ
trẻ lòng yêu Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, ý thức
làm chủ tập thể, tinh thần đoàn kết, thân ái, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học,
ý thức tổ chức và kỷ luật, quý trọng và bảo vệ của công, đức tính thật thà, dũng cảm,
khiêm tốn, v.v… Bồi dưỡng cho thế hệ trẻ có kiến thức cơ bản về văn hóa, phát triển tư
duy khoa học và phát huy năng khiếu, có óc thẩm mỹ, có thói quen giữ gìn vệ sinh vè
rèn luyện thân thể… Phấn đấu thực hiện chế độ cả xã hội chăm sóc, nuôi dạy trẻ em,
làm cho mọi trẻ em đều được học tập một cách bình đẳng, không tùy thuộc vào hoàn
cảnh riêng về gia đình, dân tộc và địa phương”. [28, tr. 16 - 17].
- Thực hiện phổ cập giáo dục trong toàn dân, coi trọng việc phát triển giáo dục
trong các vùng dân tộc ít người.
Nguyên lý cải cách giáo dục phổ thông:
Giáo dục phổ thông được tiến hành theo nguyên lý “học đi đôi với hành, giáo dục
kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”. Nguyên lý này quyết
định hệ thống giáo dục về nội dung, phương pháp, cơ cấu, làm cho công tác giáo dục
gắn chặt với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nguyên lí giáo dục nói
trên xuất phát từ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và của Đảng ta

về con người mới.
“Trong nhà trường phổ thông, lao động sản xuất phải có tính chất kỹ thuật tổng
hợp, nghĩa là gắn khoa học và kỹ thuật với sản xuất, dạy cho học sinh những kiến thức
phổ thông về sản xuất hiện đại, nắm được những kỹ năng lao động phổ thông và làm
quen với công cụ và máy móc, có ý thức trách nhiệm và thói quen đối với lao động,
chuẩn bị tốt cho học sinh đi vào đào tạo nghề nghiệp”. [28, tr. 21].
Nội dung chủ yếu của cải cách giáo dục phổ thông:
Để thực hiện được mục tiêu, nguyên lý giáo dục, phải tiến hành cải cách toàn bộ
hệ thống, nội dung và phương pháp giáo dục.

20


×