Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

đảng bộ thành phố việt trì lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông tu nam 1997 den nam 2010 luan van ths lich su 60 22 56 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1008.41 KB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

VŨ THỊ BÍCH HỒNG

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ LÃNH ĐẠO SỰ
NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1997
ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Thị Thu Hương

Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

VŨ THỊ BÍCH HỒNG

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ LÃNH ĐẠO
SỰ NGHIỆP
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1997 ĐẾN
NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ




Hà Nội - 2012


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
nhận thức sâu sắc về vị trí vai trò của giáo dục - đào tạo trong sự nghiệp cách
mạng. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh thì “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì
vậy, ngay trong buổi đầu giành được chính quyền Người đã kêu gọi “một trong
những việc phải thực hiện cấp tốc lúc này là nâng cao dân trí”, phong trào “bình
dân học vụ”, “diệt giặc dốt” đã diễn ra sôi động. Thấm nhuần tư tưởng của Người,
Đảng cộng sản Việt Nam đã luôn coi giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông
nói riêng có tầm đặc biệt quan trọng. Với vị trí, vai trò to lớn đó Nghị quyết của
Bộ chính trị Trung ương Đảng về cải cách giáo dục lần thứ 3 (năm 1979) đã chỉ rõ
giáo dục phổ thông là nền tảng văn hoá của một nước là sức mạnh tương lai của
một dân tộc. Nó đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển toàn diện con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1986 đến năm 2010, trong quá trình đổi mới mọi
mặt về kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo luôn đóng vai trò quan trọng để phát
triển đất nước.Tại Đại lần thứ VII (1991) Đảng đã xác định khoa học và giáo dục
đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc [26, tr.285]. Đến Đại hội lần thứ VIII (1996), Đảng tiếp tục khẳng
định: Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển [26,
tr.49]. Quán triệt sâu sắc đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và chỉ đạo, trong
những năm qua giáo dục Việt Nam có bước phát triển mới, đạt được nhiều kết quả
to lớn, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì
vậy, từ lâu Đảng và Nhà nước luôn coi trọng vị trí của giáo dục, quan tâm và chú
ý ưu tiên cho phát triển sự nghiệp giáo dục.

Thành phố Việt Trì là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học công
nghệ của tỉnh Phú Thọ. Việt Trì đang từng bước khẳng định vai trò, vị thế trung tâm
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đặc biệt là trong lĩnh vực văn
hóa, giáo dục. Vì vậy, công tác giáo dục luôn được Tỉnh uỷ, Thành uỷ đặc biệt quan
tâm trong chiến lược phát triển thành phố nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn
1


nhân lực, bồi dưỡng nhân tài góp phần tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước xây dựng thành phố Việt Trì ngày càng giàu mạnh. Sau khi
tách từ tỉnh năm 1997, thành phố đã có nhiều thành tựu trong mọi lĩnh vực, giáo dục
cũng đạt được nhiều tiến bộ đặc biệt là trong thiên niên kỷ đầu của thế kỷ XXI.
Giáo dục thành phố đã có nhiều khởi sắc hệ thống các trường học được củng cố, đặc
biệt là hệ thống giáo dục phổ thông được chú trọng từ giáo dục tiểu học, giáo dục
trung học cơ sở, giáo dục trung học phổ thông. Hiện nay, thành phố đang hướng tới
việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của giáo dục phổ thông. Đạt được những kết quả
đó ngành giáo dục Phú Thọ cũng như của thành phố đã có những hướng đi đúng
trong việc xây dựng, phát triển và quản lý dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả đã dạt được, sự nghiệp lãnh đạo công tác giáo dục phổ
thông của thành phố Việt Trì còn nhiều hạn chế, bất cập như chất lượng giáo dục
giữa các cấp, các ngành học còn chưa đồng đều, cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn,
cơ cấu đào tạo, nhất là chất lượng giáo dục chưa thực sự đáp ứng được những đòi
hỏi về cung cấp nguồn nhân lực xã hội chất lượng cao cho công cuộc đổi mới, xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, của tỉnh cũng như toàn quốc. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là
những hạn chế và bất cập trong quản lý nhà nước về giáo dục phổ thông, bao gồm
cả cơ chế, chính sách, biện pháp tổ chức thực hiện.
Với mong muốn tìm hiểu về vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, quá
trình vận dụng quan điểm, đường lối của Trung ương Đảng, Đảng bộ tỉnh phát triển
sự nghiệp giáo dục phổ thông của Đảng bộ thành phố Việt Trì từ năm 1997 đến năm

2010, tôi chọn đề tài “Đảng bộ thành phố Việt Trì lãnh đạo sự nghiệp giáo dục
phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề giáo dục, hệ thống giáo dục, vai trò, chức năng của giáo dục đã được
nhiều tổ chức, cơ quan và các nhà khoa học đầu tư nghiên cứu, ở nhiều góc độ khác
nhau. Một cách khái quát các công trình nghiên cứu có liên quan có thể chia thành
ba nhóm như sau:

2


- Nhóm thứ nhất là các công trình nghiên cứu đề cập đến giáo dục - đào tạo
nói chung: Giáo dục 10 năm đổi mới và chặng đường trước mắt của tác giả Trần
Hồng Quân, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội năm 1996; Giáo dục Việt Nam trước
ngưỡng cửa thế kỷ XXI của Gs Phạm Minh Hạc, Nbx Chính trị Quốc gia năm 1999;
Toàn cảnh giáo dục - đào tạo Việt Nam của tác giả Nguyễn Quang Hưng, Nxb
Chính trị Quốc gia năm 2000; Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI của
Bộ Giáo dục và Đào tạo và Viện nghiên cứu phát triển giáo dục Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2002; Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu thế
kỷ XXI: Chiến lược phát triển của Đặng Bá Lâm, Nxb Giáo dục năm 2003; Giáo
dục Việt Nam hướng tới tương lai: Vấn đề và giải pháp của Đặng Quốc Bảo,
Nguyễn Đắc Hưng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2004; Giáo dục Việt Nam
1945- 2005, tập 2 của tác giả Nguyễn Quang Kính, Hội Khoa học kinh tế Việt Nam,
Trung tâm Thông tin và Tư vấn phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia năm 2005…
- Nhóm thứ hai là những công trình nghiên cứu về giáo dục phổ thông: Một
số kinh nghiệm về giáo dục phổ thông và hướng nghiệp trên thế giới của tác giả
Nguyễn Văn Lê, Nxb Sư phạm Hà Nội năm 2004; Một số biện pháp sử dụng nguồn
lực tài chính nhằm phát triển giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay của tác
giả Lê Xuân Trường, Luận án tiến sĩ Giáo dục học; Giáo dục phổ thông với chất

lượng nguồn nhân lực. Những bài học thực tiễn từ Nhật Bản của tác giả Đặng Thị
Thanh Huyền, Nxb Khoa học Xã hội năm 2001; Nhà trường phổ thông qua các thời
kỳ lịch sử của tác giả Nguyễn Đăng Tiến, Nxb Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
năm 2001; Suy nghĩ về các giải pháp phát triển giáo dục phổ thông nước ta hiện
nay của tác giả Trần Viết Lưu đăng trên tạp chí Giáo dục số 92 năm 2002; Tiếp cận
chất lượng giáo dục phổ thông dưới góc độ mục tiêu đào tạo của tác giả Huỳnh
Công Minh đăng trên tạp chí Giáo dục số 92 năm 2004…ngoài ra còn rất nhiều các
bài viết, các công trình nghiên cứu đề cập đến giáo dục phổ thông như một số luận
văn chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam viết về vấn đề này: Đảng bộ
tỉnh Hưng Yên lãnh đạo sự nghiệp giáo dục- đào tạo từ năm 1997 đến năm
2006”của tác giả Phạm Thị Hồng Thiết; Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo sự
nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1996- 2006 của tác giả Nguyễn Thị Hồng Hạnh;
Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo sự nghiệp giáo dục- đào tạo từ 1991 đến năm
3


2000 của tác giả Lương Thị Hòe; Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo sự nghiệp giáo
dục phổ thông từ năm 1996- 2005 của tác giả Nguyễn Thị Quế Liên…
- Nhóm thứ ba là những bài viết, công trình nghiên cứu, đề cập đến vấn đề
giáo dục của tỉnh Phú Thọ, của thành phố Việt Trì như Trường trung du tập III của
sở Giáo dục và Đào tạo Phú Thọ - Báo Phú Thọ năm 1999, Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Phú Thọ, Nxb Chính trị Quốc gia năm 2002; Giáo dục – Đào tạo Phú Thọ: Sự
nghiệp “ trồng người” trên mảnh đất cội nguồn của Thu Hà, Việt Cường, Tạp chí
Đông Nam Á, số 11 năm 2004; Phát huy truyền thống dạy và học trên vùng đất Tổ
của tác giả Phan Văn Lân, Tạp chí Thương mại số 13 năm 2005; Lịch sử Đảng bộ
thành phố Việt Trì, Nxb Chính trị quốc gia năm 2007...
Các đề tài nghiên cứu khoa học và các tài liệu đề cập ở trên đã phác họa một
số thực trạng, và đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường lãnh đạo của Đảng trong
sự nghiệp giáo dục phổ thông ở giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, trên thực tế thành
phố Việt Trì có những nét đặc trưng riêng khác với các địa phương khác và nền

giáo dục đang trong giai đoạn đổi mới về mọi mặt, đề tài này một mặt kế thừa có
chọn lọc những thành tựu của các tác giả đi trước, một mặt nghiên cứu sự lãnh đạo
của Đảng về giáo dục, tập trung đi sâu vào nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ
Tỉnh ủy, Thành ủy trong sự nghiệp giáo dục phổ thông để rút ra những bài học kinh
nghiệm, những mặt hạn chế để tìm ra những giải pháp tốt nhất nhằm tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng bộ thành ủy trong sự nghiệp giáo dục phổ thông. Cho đến nay
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về đề tài Đảng bộ thành phố Việt Trì lãnh
đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến 2010.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Nghiên cứu quá trình Đảng bộ thành phố Việt Trì lãnh đạo phát
triển giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến 2010, nhằm mục đích qua tổng kết thực
tiễn ở một địa bàn địa phương có tính đa dạng như thành phố Việt Trì, góp phần
làm khẳng định sự đúng đắn của đường lối giáo dục đào tạo của Đảng, đồng thời
làm sáng tỏ sự vận dụng sáng tạo của Đảng bộ thành phố Việt Trì trong sự nghiệp
giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng, từ đó khẳng định tầm
quan trọng của công tác giáo dục phổ thông đối với sự nghiệp đổi mới đất nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
4


- Làm rõ đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội, truyền thống lịch sử của thành phố Việt
Trì tác động đến công tác phát triển giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010.
- Thực trạng của giáo dục phổ thông của thành phố Việt Trì khi bước vào
năm 1997, những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Hệ thống hóa quan điểm của Trung ương Đảng, chủ trương của Đảng bộ
tỉnh và sự quán triệt của Đảng bộ thành phố Việt Trì về giáo dục phổ thông từ năm
1997 đến 2010.
- Tổng kết quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ thành phố Việt
Trì trong phát triển giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010.
- Khảo sát kết quả thực hiện quá trình phát triển giáo dục phổ thông dưới sự

lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh ủy, Đảng bộ Thành phố, sự quản lý của phòng giáo dục
– đào tạo của thành phố Việt Trì từ năm 1997 đến năm 2010, đánh giá những thành
tựu, hạn chế, nguyên nhân và đúc kết một số kinh nghiệm chủ yếu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu quá trình Đảng bộ thành phố Việt Trì quán
triệt đường lối giáo dục của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy trong việc lãnh đạo thực
hiện công tác giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010.
Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung: Đảng bộ thành phố Việt Trì quán triệt đường lối giáo dục của Trung
ương Đảng, Tỉnh ủy trong việc lãnh đạo thực hiện phát triển giáo dục phổ thông.
- Không gian: khảo sát các trường phổ thông thuộc quản lý của phòng giáo
dục – đào tạo thành phố Việt Trì.
- Thời gian : từ năm 1997 đến năm 2010.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
- Nguồn tài liệu chủ yếu là các văn kiện của Đảng và nhà nước, của Tỉnh ủy, Thành
ủy, HĐND, UBND tỉnh và thành phố về công tác giáo dục phổ thông. Các tác phẩm các
bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước.... Các bài báo in trong các tạp
chí Cộng sản, giáo dục….Các văn bản, chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Đảng bộ tỉnh
Phú Thọ, Đảng bộ thành phố Việt Trì về giáo dục, các báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào
5


tạo về giáo dục phổ thông. Đặc biệt là các báo cáo tổng kết năm học, của Sở Giáo dục và
Đào tạo tỉnh Phú Thọ, của Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Việt Trì.
Quá trình nghiên cứu đề tài tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục để nghiên cứu.
5.2. Phương pháp pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận
Quá trình nghiên cứu đề tài tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với các quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam về giáo dục để nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp lịch sử là chủ yếu nhằm
mô tả đúng sự thật lịch sử diễn ra ở thành phố Việt Trì, đồng thời sử dụng phương
pháp logic kết hợp một số phương pháp như thống kê, so sánh, phân tích, tổng
hợp, điền dã...
6. Đóng góp của Luận văn
- Góp phần tổng kết thực tiễn công tác phát triển giáo dục phổ thông trên địa
bàn thành phố Việt Trì, đánh giá một cách khách quan những thành công, hạn chế
khiếm khuyết, từ đó đúc kết những kinh nghiệm có giá trị vận dụng cho công tác
giáo dục – đào tạo phổ thông trong thời gian tới có hiện quả hơn.
- Hệ thống hóa quá trình vận dụng quan điểm, đường lối của Trung ương
Đảng và Tỉnh ủy từ năm 1997 đến 2010 trên một lĩnh vực cụ thể - giáo dục phổ
thông, góp phần làm sáng tỏ hơn vai trò của Đảng bộ thành phố Việt Trì trong công
cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH.
- Kết quả nghiên cứu là cơ sở thực tiễn để Đảng bộ thành phố Việt Trì nói
riêng, Đảng bộ tỉnh nói chung tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và phát triển chủ trương
về phát triển giáo dục phổ thông đáp ứng yêu cầu mới của địa phương cũng như của
đất nước trong điều kiện mới.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm ba chương sáu tiết.
6


7



Chương 1:
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ LÃNH ĐẠO
SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005
1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của thành phố Việt Trì
và yêu cầu đặt ra đối với sự nghiệp giáo dục phổ thông khi thành phố mới
được thành lập
1.1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của thành phố Việt Trì
và những yếu tố tác động đến công tác giáo dục phổ thông
1.1.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử
Thành phố Việt trì nằm ở hợp lưu của ba dòng sông (sông Hồng, sông Lô,
sông Đà) hay còn được gọi với tên thân thuộc “ thành phố ngã ba sông”, nơi có lịch
sử, xây dựng và phát triển lâu đời, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học
kỹ thuật của tỉnh Phú Thọ. Thành phố đến năm 2005 có diện tích là 76,2 km2, có
ranh giới phía Đông giáp với huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc, phía Tây giáp với
huyện Lâm Thao, phía Nam giáp với huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc và huyện
Ba Vì tỉnh Hà Tây (cũ), phía Bắc giáp với huyện Phù Ninh. Việt Trì là thành phố
nằm ở vị trí chuyển tiếp từ địa hình đồi núi sang địa hình đồng bằng, đỉnh của tam
giác châu thổ Sông Hồng [2, tr.13]. Việt Trì là cửa ngõ án ngữ các tuyến giao thông
thủy, bộ ở phía Bắc Việt Nam, không chỉ có vị trí quan trọng về kinh tế – xã hội mà
còn là trọng điểm về quân sự.
Ngay từ buổi bình minh dựng nước, các vua Hùng đã chọn nơi đây là “ kinh
đô” của nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Trải qua hàng
ngàn năm lịch sử, các thế hệ người dân Việt Trì kế tiếp nhau phát huy truyền thống
tương thân, tương ái, tình làng nghĩa xóm, cần cù trong lao động sản xuất, đoàn kết,
dũng cảm trong đấu tranh chống thiên tai và kẻ thù xâm lược.
Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Đảng bộ và nhân dân Việt Trì đã cùng với nhân dân cả nước vùng lên đấu tranh

giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 lập nên nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp xâm lược (1945- 1954) và cuộc
8


kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975), Đảng bộ và nhân dân Việt Trì đã
cũng với nhân dân cả nước viết lên trang sử vàng chói lọi, đánh đuổi thực dân Pháp,
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Bước vào giai đoạn cách mạng mới, Việt Trì cũng như nhân dân miền Bắc
thực hiện song song hai nhiệm vụ chiến lược. Trong quá trình xây dựng cơ sở vật
chất của chủ nghĩa xã hội, công nghiệp đóng vai trò cực kỳ quan trọng làm tiền đề
cho những bước đi tiếp theo. Do đó Trung ương đã quyết định chọn Việt Trì và
Thái Nguyên xây dựng thành các khu công nghiệp tập trung để tạo tiền đề cho công
cuộc công nghiệp hóa đất nước. Ngày 28/11/1958 đồng chí Lê Thanh Nghị, Phó
Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Đảng và Chính phủ bổ nhát cuốc đầu tiên khởi công
xây dựng khu công nghiệp. Ngày 13/4/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm hỏi
động viên phong trào. Sau bốn năm (1958 – 1962) được sự chỉ đạo chặt chẽ của
Đảng và Chính phủ, sự giúp đỡ tận tình của các bộ, ngành, với quyết tâm cao của
tỉnh và nhân dân Việt Trì, khu công nghiệp đã hiển hiện từng ngày, một loạt các nhà
máy như: Điện, giấy, hóa chất, đường, xay, mỳ chính… đã hoàn thành và đi vào
hoạt động. Ngày 18/3/1962, Bộ kiến trúc, tỉnh Phú Thọ long trọng làm lễ cắt băng
khánh thành khu công nghiệp Việt Trì. Khu công nghiệp Việt Trì ra đời là một
thành tựu to lớn của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc sau giải
phóng. Từ một vùng đất hoang vu đã mọc lên cả một hệ thống các xí nghiệp công
nghiệp hiện đại. Hoàn thành khu công nghiệp là điều kiện tất yếu cho một đô thị
mới ra đời. Ngày 4/6/1962, Chính phủ ra quyết định thành lập thành phố Việt Trì
(trực thuộc tỉnh Phú Thọ). Nửa thế kỷ đã qua, thành phố công nghiệp trước đây,
thành phố Việt Trì ngày nay với tên gọi thân thương và thơ mộng “Thành phố ngã
ba sông” mà không nơi nào có được đã đi vào lịch sử dân tộc những trang hào hùng,
đã đi vào những áng thơ ca, nhạc, họa đậm đà, sâu lắng… Thành phố Việt Trì đang

trên đà phát triển nhanh, mạnh ở nhiều phương diện lĩnh vực xứng đáng là trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, công nghiệp, du lịch
của tỉnh Phú Thọ và là thành phố lễ hội về với cội nguồn của dân tộc Việt Nam.
Trải qua gần nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, Việt Trì đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội, bộ mặt của thành phố từng
bước được thay da đổi thịt; đời sống của nhân dân nâng cao. Từ một thành phố công
9


nghiệp đầu tiên của miền Bắc xã hội chủ nghĩa đến nay Việt Trì vẫn luôn khẳng định
là trung tâm tỉnh lỵ về các lĩnh vực chính trị, hành chính, kinh tế – xã hội và ngày
càng thể hiện rõ chức năng là trung tâm vùng trung du miền núi Bắc Bộ.
1.1.1.2. Các nguồn lực phát triển giáo dục
Điều kiện tự nhiên
Thành phố Việt Trì nằm ở phía đông của tỉnh Phú Thọ, phía bờ tả ngạn sông
Hồng, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội 70 km về phía Tây Bắc, cách thành phố
Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc là 25 km về phía Tây.
Nằm ở Ngã ba Hạc, nơi có con sông Thao đỏ nước phù sa hợp lưu với dòng
sông Lô và sông Đà xanh biếc, đối diện với huyện Ba Vì (Hà Nội). Vì thế, Việt Trì
còn được biết đến với cái tên thân thương: Thành phố ngã ba sông. Đơn vị hành
chính của Việt Trì (đến năm 2008) gồm 23 phường, xã. 13 phường: Bạch Hạc, Bến
Gót, Thanh Miếu, Thọ Sơn, Tiên Cát, Gia Cẩm, Nông Trang, Vân Cơ, Dữu Lâu, Tân
Dân, Minh Phương, Minh Nông, Vân Phú. 10 xã: Sông Lô, Trưng Vương, Phượng
Lâu, Thụy Vân, Tân Đức, Chu Hóa, Thanh Đình, Kim Đức, Hùng Lô, Hy Cương.
Thành phố Việt Trì được thành lập vào ngày 4 tháng 6 năm 1962, nằm trong
khu vực giao lưu giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc. Với vị trí
ngã ba sông cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà Nội, cách Hà Nội 80 km, cách sân bay
Nội Bài 60 km, cách cửa khẩu Lào Cai hơn 200 km, cách cảng Hải Phòng 170 km.
Việt Trì là thành phố trung du tiểu vùng gò, đồi thấp bị chia cắt nhiều, xen kẽ
là đồng ruộng và dải đồng bằng ven sông Hồng, hữu Lô, tả Đáy. Vùng này thuận lợi

cho việc trồng các loại cây công nghiệp, phát triển cây lương thực và chăn nuôi.
Việt Trì nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, có một mùa đông lạnh với ba
tháng nhiệt độ dưới 18 độ C, nét đặc trưng của khí hậu miền Bắc Việt Nam. Nhiệt
độ trung bình năm khoảng 230C, lượng mưa trung bình trong năm khoảng 1.600 đến
1.800 mm. Độ ẩm trung bình trong năm tương đối lớn khoảng 85 - 87%. Nhìn
chung khí hậu của Việt Trì thuận lợi cho việc phát triển cây trồng, vật nuôi đa dạng.
Giao thông của Việt Trì cũng rất thuận tiện cả về đường bộ và đường thủy. Cả ba
phía: Phía Đông, phía Tây và phía Nam đều có sông Hồng và sông Lô bao bọc.
Điều kiện kinh tế

10


- Công nghiệp: Đây là ngành kinh tế trọng yếu của thành phố, nơi đây có
nhiều điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội thuận lợi để phát triển nhiều ngành công
nghiệp. Việt Trì là thành phố công nghiệp đầu tiên của miền Bắc Việt Nam. Trên
địa bàn thành phố tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp, công ty có quy mô sản xuất
công nghiệp với tỷ trọng lớn, hằng năm đóng góp một lượng lớn nguồn ngân sách
của tỉnh và giải quyết việc làm cho nhiều lao động. Một số nhà máy, công ty tiêu
biểu như: Nhà máy giấy Việt Trì, nhà máy thép Sông Hồng, nhà máy hóa chất Việt
Trì, nhà máy đóng tàu Sông Lô, công ty cổ phần bia Hà Nội - Hồng Hà, Công ty cổ
phần nhôm Sông Hồng, công ty cổ phần giày da Vĩnh Phú, công ty cổ phần ác quy
Vĩnh Phú, công ty cổ phần Miwon Việt Nam... Thành phố Việt Trì là nới tập trung
7 khu công nghiệp, chế xuất lớn nhất miền Bắc: Khu công nghiệp Thụy Vân, khu
công nghiệp Bạch Hạc, khu công nghiệp nam Việt Trì, khu công nghiệp Tam Nông,
khu công nghiệp Phú Hà, khu công nghiệp Trung Hà, khu công nghiệp Phù Ninh.
- Nông nghiệp: Cây lương thực chính là lúa, ngô, sắn, khoai. Tuy nhiên, sản
xuất nông nghiệp của thành phố còn nhiều hạn chế. Cơ chế nông nghiệp chậm thay đổi,
ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng cao so với chăn nuôi. Việc vận dụng các thiết bị
khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp còn chậm và chưa đồng đều. Đất đai dành

cho nông nghiệp đang bị thu hẹp dần, tiềm năng lao động vẫn chưa được khai thác hết.
- Dịch vụ: Tỷ trọng của ngành dịch vụ tăng lên hàng năm, chiếm tỷ trọng cao
của cả tỉnh với các ngành dịch vụ: du lịch, bưu chính viễn thông... đáp ứng được
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Ngành giao thông vận tải Việt trì với vai trò là thành phố công nghiệp, vị trí
là thành phố ngã ba sông và đang phấn đấu trở thành đô thị loại I, trở thành thành
phố lễ hội về với cội nguồn trước năm 2015 nên trong những năm gần đây cơ sở hạ
tầng của thành phố được đầu tư xây dựng khá đồng bộ. Nhiều tuyến đường được
đầu tư cải tạo, nâng cấp, xây mới theo đúng tiêu chuẩn đường nội thị đảm bảo giao
thông luôn được thông suốt. Việc vận chuyển hàng hoá thuận lợi trên cả đường ôtô,
đường sắt, đường sông,...Thành phố Việt Trì có quốc lộ 2 nối thủ đô Hà Nội với các
tỉnh thuộc tiểu vùng Tây Bắc, đồng thời còn có tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai
chạy qua nơi này. Số phương tiện vận tải tăng nhanh. Ngành thông tin liên lạc cũng
phát triển với số thuê bao điện thoại ngày càng tăng 125 thuê bao/ 100 dân.

11


Từ một nền kinh tế tự cấp, tự túc, lấy nông nghiệp làm chủ đạo của những
ngày đầu mới thành lập, sau 50 năm xây dựng và phát triển thành phố Việt Trì đã có
cơ cấu kinh tế hợp lý: Công nghiệp – xây dựng 63,2%; dịch vụ 33,6%; nông – lâm
thủy sản 3,2%. Tổng nguồn vốn đầu tư cho phát triển trên địa bàn thành phố năm
2010 ước đạt 4.000 tỷ đồng; thu nhập bình quân đầu người đạt 27,68 triệu
VNĐ/người, tương đương với 1.383,96 USD/người, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí
mới chỉ còn 4,42%; số thuê bao điện thoại tăng đáng kể; giá trị xuất khẩu đạt 360
triệu USD. Việt Trì là thành phố đứng đầu về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Điều kiện xã hội
Với đặc điểm địa lý và điều kiện tự nhiên như vậy, thành phố Việt Trì có một
vị trí đặc biệt quan trọng cả về kinh tế và quân sự của tỉnh cũng như cả nước. Nằm
trong cái nôi văn minh lúa nước Sông Hồng, Việt Trì vinh dự là mảnh đất cội nguồn

dân tộc. Khu vực nằm trong địa giới Việt Trì hiện nay được coi là kinh đô đầu tiên
của quốc gia Văn Lang với các triều đại Vua Hùng, là địa bàn tập trung rất nhiều
dấu tích văn hóa vật thể và phi vật thể. Đó là hệ thống các di tích kiến trúc tôn giáo
phong phú, trong đó chiếm hơn một nửa là di tích thờ tự Vua Hùng và các tướng
lĩnh vua Hùng và cũng là vùng đất có nhiều truyền thuyết về thời đại Hùng Vương.
Hiện nay khu di tích lịch sử đặc biệt Đền Hùng đang được đầu tư và tôn tạo, trở
thành một trung tâm du lịch của thành phố Việt Trì.
Nằm ở vị trí cửa ngõ của Tây Bắc, phía Tây của Kinh thành Thăng Long
xưa, với nhiều luồng văn hóa giao thoa, đã hội tụ ở người dân Việt Trì nhiều nét văn
hóa đặc sắc: Mộc mạc, bình dị, dễ gần, cởi mở và thông thoáng trong việc tiếp thu
các giá trị văn hóa mới.
Dân số thành phố là 168.462 người (số liệu năm 2006), mật độ dân số đông
1.584 người/ km2. Dân tộc Kinh là chủ yếu. Số dân thành thị chiếm 53,62%, số dân
nông thôn chiếm 46,32% (số liệu năm 2009).
Trải qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, người dân Việt Trì đã
có truyền thống cần cù trong lao động, anh hùng, dũng cảm trong đấu tranh, chống
thiên tai dịch họa.Thành phố đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân.Tình hình quốc phòng, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an
toàn xã hội được đảm bảo.

12


Tất cả những yếu tố tự nhiên, xã hội cho thấy thành phố Việt Trì là một địa
phương có nhiều thế mạnh, tiềm năng, khả năng phát triển nhanh chóng, bền vững
và toàn diện.
1.1.1.3. Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội đến công tác giáo
dục- đào tạo của thành phố
- Thuận lợi: Điều kiện tự nhiên, xã hội của Việt Trì thuận lợi để phát triển
kinh tế, văn hóa vì vậy giáo dục luôn được quan tâm phát triển, đa dạng hóa các loại

hình giáo dục, mở rộng không gian và quy mô mạng lưới giáo dục. Giáo dục phổ
thông của Việt Trì luôn đứng đầu cả tỉnh về tỷ lệ học sinh đến trường cao, tỷ lệ học
sinh tốt nghiệp THPT, tỷ lệ học sinh thi vào THPT.
Thành phố Việt Trì đã và đang làm tốt hơn công tác quản lý và phát triển
giáo dục phổ thông. Các chính sách nhằm thu hút các thầy, cô giáo được thực hiện
có bài bản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ Tỉnh ủy, Đảng bộ Thành ủy, Sở
Giáo dục và Đào tạo giao chỉ tiêu cho các Phòng giáo dục thực hiện đúng chủ
trương, chính sách của Đảng, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, UBND tỉnh trong việc
thu hút nhân tài phục vụ giáo dục. Theo đó, các chính sách về tiền lương, phụ cấp
giáo dục, luân chuyển cán bộ giáo dục được thực hiện tốt đã thực sự mang lại làn
gió mới trong xã hội hoá giáo dục. Tuy vẫn còn đó ngổn ngang những thách thức
nhưng mục tiêu phải phát triển kinh tế song song với quá trình phát triển nền giáo
dục phổ thông luôn được đặt lên hàng đầu.
Thành phố Việt Trì có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo. Đảng bộ,
nhân dân đoàn kết thống nhất, chú trọng và quan tâm đến sự nghiệp giáo dục. Bên
cạnh đó, Phú Thọ là căn cứ chuyển tiếp lên chiến khu Việt Bắc (thời chống Pháp)
với nhiều trụ sở các cơ quan của Trung ương, nhiều trường đại học tản cư qua các
cuộc chiến tranh đã giúp nhân dân biết làm giáo dục trong hoàn cảnh khó khăn. Môi
trường giáo dục tốt, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo là điều
kiện phát triển giáo dục.
- Khó khăn: Là thành phố của một tỉnh trung du, miền núi, toàn tỉnh có
215/273 xã miền núi, trong đó có 50 xã đặc biệt khó khăn, mức sống của người dân
thấp, nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của giáo dục,
Với sự phân bố dân cư không đồng đều giữa các xã, phường trong thành phố
nên số lượng học sinh giữa các địa phương cũng có sự khác biệt khá lớn. Đối với
13


các địa phương có điều kiện phát triển về kinh tế - xã hội, tập trung đông dân cư
như các phường ở trung tâm thành phố Việt Trì. Số lượng học sinh, chất lượng học

tập, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp và thi đỗ các trường đại học, cao đẳng đạt tỷ lệ cao hơn
những xã vùng ven đô. Tuy nhiên, số học sinh khá đông thì gặp nhiều khó khăn
trong việc phát triển hệ thống trường, lớp nhằm đáp ứng nhu cầu dạy và học một
cách tốt nhất, một số trường trong một lớp có 50 - 55 học sinh nên ảnh hưởng rất
nhiều đến chất lượng giảng dạy.
1.1.2. Thực trạng giáo dục phổ thông của thành phố Việt Trì trước năm
1997 – những vấn đề đặt ra
Thành phố Việt Trì trực thuộc tỉnh được thành lập vào ngày 4 tháng 6 năm
1962 theo Quyết định số 65/CP của Hội đồng Bộ trưởng. Việt Trì là một trong những
thành phố công nghiệp đầu tiên của miền Bắc, ra đời trong hoàn cảnh đất nước còn
bộn bề khó khăn, thử thách cùng với nhân dân cả nước Đảng bộ và nhân dân Việt Trì
hăng say sản xuất góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
đồng thời cũng là hậu phương vững chắc cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền
Nam. Giáo dục - đào tạo trong giai đoạn này có nhiều chuyển biến tích cực: Với mục
tiêu góp phần đào tạo ra những con người lao động làm chủ đất nước, giác ngộ xã hội
chủ nghĩa, có văn hóa, có kỹ thuật, các hoạt động giáo dục được coi trọng cả chất
lượng và số lượng. Phong trào bình dân học vụ tiếp tục duy trì và đạt kết quả tốt. Đến
năm 1965, toàn thành phố đã huy động 6288 người đi học trong đó có 4115 người tốt
nghiệp cấp 1 bổ túc văn hóa, 323 người được thanh toán mù chữ, hoàn thành và vượt
15% chỉ tiêu đã đặt ra. Nhiều xã số cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia học bổ
túc văn hóa sôi nổi: Lâu Thượng, Hùng Lâu, Tân Dân…Phong trào đã góp phần đưa
65% trong tổng số gần 3 vạn cán bộ, công nhân viên có trình độ cấp I bổ túc văn hóa,
số còn lại có trình độ cấp II, cấp III, nhiều cán bộ được cử đi học đại học trong nước
và ngoài nước. Về giáo dục phổ thông trong những năm đầu thành lập thành phố
được sự đóng góp của nhân dân, “thành phố cũng xây dựng thêm một số trường học
như cấp 1 Minh Khai, cấp II Chiến Thắng và tu sửa các trường cấp I ở nhiều xã” [2,
tr.161-162]. Năm 1962, trường cấp III Việt Trì được thành lập, đáp ứng nhu cầu học
tập của con em nhân dân thành phố, góp phần nâng cao trình độ văn hóa cho nhân
dân. Các phong trào thi đua diễn ra sôi nổi, rộng rãi trong các nhà trường như phong
trào thi đua “ Hai tốt”. Phương pháp giảng dạy được cải tiển, gắn liền giữa lý thuyết

14


và thực tế, kết hợp giữa giáo dục nhà trường, gia đình và toàn xã hội. Trong những
năm vừa hăng say sản xuất, xây dựng thành phố hòa mình vào với nhân dân cả nước
là hậu phương vững chắc cho miền Nam. Phát triển sự nghiệp văn hóa giáo dục trong
điều kiện còn nhiều khó khăn nên cấp ủy, chính quyền thường xuyên quan tâm chỉ
đạo. Ngay những ngày đầu chiến tranh, Đảng và nhà nước đã có những chủ trương
kịp thời, đúng đắn nhằm tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp trồng người
Theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, từ ngày 15 đến ngày 19 tháng 2 năm 1975, Đại
hội Đảng bộ thành phố Việt Trì lần thứ VIII đã được tổ chức tại Hội trường ủy ban
nhân dân thành phố. Đại hội tổng kết, kiểm điểm việc thực hiện Nghi quyết Đại hội
lần thứ VII, đưa ra mục tiêu, phương hướng phát triển thành phố trong nhiệm kỳ
mới. Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng
nước ta bước sang giai đoạn mới với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Việt Trì là một
thành phố trẻ ra đời trong giai đoạn đầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
của miền Bắc. Từ năm 1968, hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ hợp nhất thành tỉnh
Vĩnh Phú, Việt Trì được xác định là thành phố tỉnh lỵ, trung tâm kinh tế, văn hóa,
chính trị của tỉnh. Trong những năm 1976-1985, Việt Trì khôi phục và phát triển
kinh tế sau chiến tranh, từng bước ổn định đời sống nhân dân, đóng góp sức người
sức của vào cuộc chiến đấu bảo vệ biên cương. Sự nghiệp văn hóa, xã hội vẫn duy
trì nề nếp hoạt động và có bước phát triển mới. Giáo dục phổ thông trong giai đoạn
này có nhiều tiến bộ: số học sinh phổ thông hàng năm đều tăng từ 8-10%. Số học
sinh giỏi các cấp tăng lên, trong đó có cả học sinh thành phố tham gia thi học sinh
giỏi toàn quốc và đạt giải. Chất lượng dạy và học ngày càng được nâng lên. Đội ngũ
giáo viên được bổ sung và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ về
chính trị, nghiệp vụ sư phạm theo yêu cầu từng bước của cải cách giáo dục. Tháng
7/1978, trường cấp III Việt Trì mở hệ vừa học, vừa làm vào dịp hè. Tuy số lượng
không lớn, mới tổ chức được 3 lớp (1 lớp 8, 2 lớp 9) với 130 học sinh, nhưng đây

đã là một bước tiến của ngành giáo dục thành phố đã thực hiện nguyên lý học đi đôi
với hành, giáo dục kết hợp với sản xuất, nhà trường gắn với xã hội [2, tr.216] thể
hiện sự sáng tạo trong việc thiệc hiện chủ chương đường lối chính sách của Đảng,
Đảng bộ tỉnh ủy, Đảng bộ thành phố và nhân dân. Trong những năm 1980-1985,
Đảng bộ và nhân dân thành phố tiếp tục nhiệm vụ sản xuất, xây dựng thành phố và
15


góp sức trong cuộc chiến đấu bảo vệ vùng biên giới, sự nghiệp văn hóa, giáo dục
thời kỳ này vẫn được chú trọng, phát triển. Nhiều trường học mới được xây dựng:
trường phổ thông cơ sở Thanh Miếu, Phượng Lâu, Thụy Vân. Năm học 1980-1981,
số học sinh phổ thông có 20009 học sinh với 493 lớp trong đó phổ thông cơ sở có
450 lớp với 17774 học sinh. Số học phổ thông cơ sở thi hết cấp đỗ 91%, phổ thông
trung học đạt 97%. Số học sinh giỏi các môn văn, toán đều tăng hơn các năm trước,
6/14 trường đạt danh hiệu tiên tiến, 11 tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa. Cơ sở vật
chất trong các trường học được tăng như xây dựng thêm trường học, mở rộng thêm
lớp học đáp ứng được nhu cầu đi học ngày càng tăng của nhân dân thành phố. Đội
ngũ giáo viên được tăng thêm, trên 80% giáo viên được chuẩn hóa và bồi dưỡng
thêm nghiệp vụ theo yêu cầu của cải cách giáo dục, nên chất lượng giáo dục phổ
thông không ngừng tăng lên.[2, tr.218]
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết XI và Nghị quyết XII, Đại hội Đảng bộ
Thành phố theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc và Nghị quyết Đại hội
tỉnh Vĩnh Phú lần thứ V, Đảng bộ và nhân dân Việt Trì đã nỗ lực cố gắng phấn đấu,
vượt qua nhiều khó khăn thử thách, giành được những thành tích quan trọng trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục…Đảng bộ và nhân dân Việt Trì
thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, phấn đấu xây dựng thành phố Việt Trì xứng
đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học- kỹ thuật của tỉnh. Về giáo
dục thành phố đã điều chỉnh mạng lưới trường lớp theo hướng hợp lý. Đầu tư xây
dựng và mua sắm nhiều thiết bị dạy học mới, xây dựng 70 phòng học mới, mua sắm
1400 bộ bàn ghế mới, xóa bỏ hoàn toàn tình trạng học 3 ca, học đứng. Mạng lưới

các trường học của thành phố theo quy mô hợp lý. Cơ chế giáo dục đổi mới theo
hướng đa dạng hóa các loại hình trường lớp và các hình thức dạy học mở rộng cấp 1
và nâng cao chất lượng cấp 2, xây dựng các trường bán công, dân lập, trường
chuyên, lớp chọn, lớp dành cho trẻ em khuyết tật, lớp học nghề…ngày càng đáp
ứng đượccỏ bản nhu cầu đi học của con em thành phố. Số học sinh giỏi tăng lên
nhiều học sinh đạt giải quốc gia và tỉnh, mạng lưới trường học được ngói hóa tăng
từ 23 trường năm 1988 lên 28 trường năm 1990. Đội ngũ giáo viên của các cấp
được quan tâm bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ và đời sống. Lãnh đạo Tỉnh ủy và
Thành ủy quan tâm đặc biệt đến công tác giáo dục và đào - tạo, với phương châm vì
lợi ích 10 năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người như Bác
16


Hồ đã dạy. Đến năm 1995, cứ 1000 người dân thành phố thì có 257 người học phổ
thông, phổ cập tiểu học hoàn thành và giữ vững, có 7 phường, xã đạt tiêu chuẩn phổ
cập cấp II. Chất lượng giáo dục mũi nhọn và đại trà ngày càng được nâng lên.
Để đạt được những bước tiến trong giáo dục - đào tạo nói chung và giáo dục
phổ thông nói riêng, Đảng bộ tỉnh ủy, Đảng bộ thành ủy, Sở Giáo dục và Đào tạo của
tỉnh, phòng Giáo dục và Đào tạo của Việt Trì luôn quán triệt sâu sắc đường lối, chủ
trương, chỉ thị, các nghị quyết của Trung ương, vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực
tiễn, đề ra được các nhiệm vụ và biện pháp thực hiện phù hợp với điều kiện của thành
phố. Tuy nhiên bên cạnh những thành quả đã đạt được thì giáo dục phổ thông vẫn còn
có nhiều khó khăn như chất lượng giáo dục ở các xã vùng ven có tiến bộ nhưng vẫn
còn có sự chênh lệch với các phường. Quy mô trường lớp được mở rộng tăng lên
nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của con em nhân dân thành phố, sĩ số
học sinh một lớp khá đông trên 50 học sinh/ lớp rất khó khăn trong việc giảng dạy và
quản lý. Cơ sở vật chất đã được quan tâm nhưng vẫn chưa được đồng bộ, chưa đáp ứng
được nhu cầu của giáo dục trong thời kỳ đổi mới, vẫn còn nhiều lớp học tạm, lớp học 3
ca, thiếu lớp học. Cơ sở vật chất còn thiếu thốn như bàn ghế cho học sinh, đồ dùng dạy
học, sách giáo khoa. Đội ngũ giáo viên đã được quan tâm nhưng chất lượng chưa được

đồng đều, nhiều giáo viên vẫn chưa đạt chuẩn, thiếu nhiều giáo viên các môn phụ như
giáo dục công dân, thể dục, mỹ thuật, âm nhạc…. Công tác đào tạo - dạy nghề cho học
sinh phổ thông hiệu quả còn thấp so với yêu cầu. Chất lượng của học sinh chưa cao,
tình trạng học chay, đọc chép, nghe viết vẫn còn phổ biến…Đó là những khó khăn, thử
thách đặt ra cho Đảng bộ tỉnh, Đảng bộ và nhân dân thành phố cần được chú trọng và
giải quyết trong thời gian tiếp theo.
1.2. Đảng bộ thành phố Việt Trì quán triệt quan điểm của Đảng về phát
triển giáo dục phổ thông (1997 – 2005)
1.2.1. Quan điểm chủ trương của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh
Phú Thọ về phát triển giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng từ
năm 1997 đến năm 2005
1.2.1.1. Quan điểm, chủ trương phát triển giáo dục nói chung và giáo dục
phổ thông nói riêng của Đảng (1997 – 2005)

17


Để đáp ứng yêu cầu của phát triển đất nước, nâng cao hơn nữa chất lượng
giáo dục trước yêu cầu CNH, HĐH đất nước, sau Nghị quyết Trung ương 2 (khóa
VIII), tại kỳ họp ngày 9/12/2000, Quốc hội khóa X đã thông qua 2 nghị quyết quan
trọng về giáo dục, Nghị quyết số 40/2000/QH10 về Đổi mới chương trình giáo dục
phổ thông, mục tiêu là xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục,
sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ
trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ
giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Việc đổi
mới chương trình giáo dục phổ thông phải quán triệt mục tiêu, yêu cầu về nội dung,
phương pháp giáo dục, phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy định
trong Luật giáo dục; khắc phục những mặt còn hạn chế của chương trình, sách giáo
khoa hiện hành, tăng cường tính thực tiễn, kỹ năng thực hành, năng lực tự học, coi

trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa học và
công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh. Đảm bảo sự thống
nhất, kế thừa và phát triển của chương trình giáo dục, tăng cường tính liên thông
giữa giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học; thực hiện phân
luồng trong hệ thống giáo dục quốc dân để tạo sự cân đối về cơ cấu nguồn nhân lực;
bảo đảm sự thống nhất về chuẩn kiến thức và kỹ năng, có phương án vận dụng
chương trình, giáo dục phù hợp với hoàn cảnh và hoàn cảnh của các địa bàn khác
nhau. Đổi mới chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải được
thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học, tổ chức đánh
giá, thi cử, chuẩn hóa trường sở, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và công tác quản lý
giáo dục.
Nghị quyết số 41/2000/QH10 về việc thực hiện phổ cập giáo dục trung học
cơ sở với mục tiêu “phổ cập giáo dục trung học cơ sở giai đoạn 2001-2010 là phải
đảm bảo cho hầu hết thanh niên, thiếu niên sau khi tốt nghiệp tiểu học tiếp tục học
tập để đạt trình độ trung học cơ sở trước khi hết tuổi 18, đáp ứng yêu cầu nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực,bồi dưỡng nhân tài, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đấy nước” [137]

18


Ngày 28/12/2000, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII ra Chỉ thị số
61/CT-TW về việc thực hiện phổ cập Trung học cơ sở. Chỉ thị đã khẳng định:
“Việc thực hiện phổ cập giáo dục Trung học cơ sở giai đoạn 2001- 2010 có ý nghĩa
quan trọng góp phần phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước’[3; tr.501]
15 năm đất nước bước vào đổi mới, 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế- xã hội từ năm 1991 đến năm 2000, sau 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII. Từ thực tiễn đổi mới đất nước nói chung và đổi
mới trong ngành giáo dục - đào tạo nói riêng, tiếp tục tinh thần của Nghị quyết

Trung ương 2 khóa VIII, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX (2001) của Đảng, Đảng và Nhà nước tiếp tục khẳng định: phát triển giáo
dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững [26, tr.654]. Trong
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001-2010, Đảng vẫn xác định: để đáp ứng
yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất
nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn
diện về giáo dục và đào tạo [26; tr.732].
Đại hội khẳng định giáo dục- đào tạo cùng với nguồn nhân lực, khoa học
công nghệ là một trong ba khâu đột phá then chốt phát triển toàn bộ nền kinh tế- xã
hội, trong đó giáo dục - đào tạo đóng vai trò trọng tâm : bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh
thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng XHCN, lòng
nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp,
không cam chịu nghèo hèn [26; tr 732].
Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa IX (7/ 2000), Đại hội
tổng kết kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, khẳng định
những thành tựu đã đạt được, đồng thời chỉ ra những khó khăn, yếu kém, hạn chế,
trên cơ sở đó đề ra mục tiêu, định hướng cho phát triển giáo dục- đào tạo đặc biệt là
chú trọng vào vấn đề phát triển giáo dục phổ thông. Mục tiêu chung vẫn là:

19


- Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục: tạo chuyển biến cơ bản về giáo
dục, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, thực hiện giáo dục toàn diện. Tăng
cường phối hợp giữa nhà trường và gia đình. Đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tăng cường tư duy sáng
tạo, năng lực tự học. Tăng cường giáo dục hướng nghiệp, đáp ứng nhu cầu nhân lực

của các vùng, miền, đất nước
- Phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn, trên cơ sở đảm bảo chất
lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với phát triển kinh tế xã hội. Hoàn
thành cơ bản phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010, củng cố kết quả phổ cập tiểu
học, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục xóa mù chữ, ngăn ngừa tái mù
chữ, giáo dục cho người lớn. Thực hiện phổ cập trung học ở những nơi đã phổ cập
xong trung học cơ sở.
- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện tất cả mọi học
sinh đều có thể đến trường, mọi người đều có thể học tập, học tập suốt đờì. Có
chính sách hỗ trợ những học sinh, sinh viên thuộc các đối tượng chính sách xã hội,
gia đình nghèo. Ưu tiên phát triển giáo dục vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu
số. Củng cố và tăng cường hệ thống trường nội trú, bán trú, miễn phí học tập, cung
cấp sách giáo khoa cho học sinh vùng dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chế độ đãi ngộ
giáo viện vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số nhằm đảm bảo số lượng giáo
viên cho các vùng này.
Để làm tốt các nhiệm vụ, mục tiêu trên, cần tập trung làm tốt các nhiệm vụ sau:
- Đổi mới mạnh mã quản lý nhà nước về giáo dục: tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục; coi việc phát triển và nâng
cao chất lượng giáo dục- đào tạo là một chỉ tiêu phấn đấu xây dựng đảng bộ trong
sạch vững mạnh. Tăng cường trật tự kỷ cương trong các trường học và toàn bộ hệ
thống giáo dục, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục.
Thực hiện mạnh mẽ phân cấp quản lý giáo dục; phát huy tính chủ động, tự chịu trách
nhiệm của các cơ sở giáo dục, nhất là các trường đại học, trách nhiệm của ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố và các huyện, quận trong việc thực hiện quản lý nhà nước
về giáo dục. Tiếp tục xây dựng đồng bộ và kịp thời hoàn thiện các văn bản pháp lý
giáo dục. Xác định và thể chế hóa vai trò, chức năng các cấp quản lý. Hoàn thiện tổ
20


chức bộ máy quản lý giáo dục từ Bộ giáo dục và đào tạo đến các cơ sở giáo dục.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; đổi mới cơ bản công tác thi cử, kiểm tra
đánh giá kết quả học tập, công tác tuyển sinh, các loại hình đào tạo; xóa tệ nạn văn
bằng chứng chỉ không hợp pháp; kiên quyết chấn chỉnh tình trạng quản lý thu chi
không minh bạch và hiện tượng dạy thêm, học thêm tràn lan; chống thương mại hóa
giáo dục. Có cơ chế, chính sách tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp, cá
nhân, tổ chức tham gia xây dựng các cơ sở giáo dục ngoài công lập, Đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học giáo dục nhằm cung cấp cơ sở khoa học để hoàn thiện đường
lối, chính sách giải quyết các vấn đề bức xúc trong giáo dục. Mở rộng hợp tác quốc tế
về giáo dục; mở rộng nhiều hình thức liên kết đào tạo ở nước ngoài, đồng thời
khuyến khích đi học nước ngoài tự túc, thống nhất quản lý nhà nước về lưu học sinh
và có chính sách sử dụng người đi học, du học ở nước ngoài về phục vụ Tổ quốc.
- Xây dựng và triển khai chương trình Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục một cách toàn diện. Thực hiện tốt Chỉ thị số 18/2001/CT- TTg Về
một số biện pháp cấp bách xây dựng đội ngũ nhà giáo của hệ thống giáo dục quốc
dân ngày 27/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Hoàn thành trước năm 2005 việc
sàng lọc bố trí lại những cán bộ, giáo viên không còn đủ điều kiện công tác trong
ngành giáo dục, giải quyết chế độ nghỉ trước tuổi cho các nhà giáo các cấp học học
chưa đạt chuẩn, năng lực giảng dạy yếu. Bố trí cán bộ quản lý giáo dục các cấp phù
hợp với yêu nhiệm vụ và năng lực của cán bộ, có cơ chế thay thế khi không đáp ứng
yêu cầu. các cấp ủy Đảng từ Trung ương tới địa phương quan tâm chỉ đạo thường
xuyên công tác đào tạo, bồi dưỡng và cán bộ quản lý giáo dục về mọi mặt, coi đây
là một phần của công tác cán bộ; đặc biệt chú trọng việc nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất, lối sống của nhà giáo. Ngày 15/6/2004, Ban bí thư Trung qương Đảng
đã ban hành Chỉ thị số 40/ CT-TW về việc Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục,. Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đồng bộ về cơ cấu. Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm đảm bảo đủ giáo viên và cơ cấu đội
ngũ giáo viên trong địa phương mình. Hoàn thiện chính sách đối với nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục. Có chính sách thu hút cán bộ khoa học có trình độ cao của
các viện nghiên cứu trong nước và các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài, các

21


nhà khoa học trong nước giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng. Ngày
3/12/2004, Quốc hội ra Nghị quyết số 37/2004/QH11 về giáo dục với mục tiêu lớn
là hoàn thiện hệ thống giáo dục, đổi mới toàn diện, nâng cao hệ thống trường lớp,
đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng đa dạng
hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa, liên thông, tổ chức phân luồng sau trung
học cơ sở và trung học phổ thông theo hướng xây dựng cơ cấu đào tạo hợp lý, gắn
với yêu cầu của thị trường lao động. Nghiên cứu chuyển dần một số trường phổ
thông và dạy nghề dân lập hiện có sang loại hình tư thuộc; tiếp tục phát triển các
loại hình trường ngoài công lập trên cơ sở đảm bảo chất lượng và các điều kiện dạy
và học; đảm bảo quản lý nhà nước đối với loại hình trường này.
- Tăng cường đầu tư cho giáo dục - đào tạo dung với yêu cầu quốc sách hang
đầu. Đổi mới cơ chế, chính sách nhằm huy động mọi nguồn lục có thể huy động để
phát triển giáo dục, bảo đảm tốc độ chi ngân sách cho giáo dục hằng năm cao hơn
tốc độ tăng chi ngân sách Nhà nước; tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục- đào tạo sẽ tùy
thuộc vào điều kiện cụ thể mà quyết định, nhưng không thấp hơn tỷ lệ chi ghi trong
Chiến lược giáo dục. Đa dạng hóa các nguồn đầu tư từ các thành phần kinh tế. Phát
hành trái phiếu giáo dục.
- Xóa lớp học 3 ca, thực hiện kiên cố hóa trường lớp sau 5 năm và đạt chuẩn
quốc gia hầu hết các trường học sau 10 năm. Dành đủ đất cho xây dựng, phát triển
trường học, nhất là ở nông thôn. Triển khai nhanh chủ trương xây dựng ký túc xá cho
sinh viên, học sinh và nơi ở cho các giáo viên được điều động đến vùng khó khăn.
- Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân là
một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục. Nhà nước khuyến khích
mọi đóng góp của tất cả các cơ quann, đoàn thể, các tổ chức kinh tế, tổ chức cá
nhân, toàn dân. Tập trung đầu tư cho giáo dục ở vùng sâu, vùng dân tộc, những đối
tượng gặp khó khăn. Thực hiện chương trình giáo dục cho mọi người. Hoàn thiện

quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội đồng giáo dục các cấp, của Hội khuyến
học, của các loại hình trường ngoài công lập…
Từ ngày 5/5 đến ngày 14/6 năm 2005, Quốc hội đã soạn thảo thông qua Luật
giáo dục quy định hệ thống quốc dân, trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống
22


×