ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ VIỆT HÀ
ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội, 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ VIỆT HÀ
ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Mã số
: 60 22 03 15
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà
Hà Nội, 2015
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1 ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH DÂN TỘC TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 ............................................. 7
1.1. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH TRONG
VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC ..................................................................... 7
1.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ............................................ 7
1.1.2.
Đặc điểm dân cư và dân tộc thiểu số ..................................................... 11
1.1.3. Tình hình thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh trước năm 2001 ... 16
1.2. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ SỰ QUÁN TRIỆT, VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH PHÚ THỌ TRONG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 ................................................................ 19
1.2.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc...... 19
1.2.2. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ quán triệt, vận dụng chủ trương của Đảng trong
lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc................................................................ 32
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................ 40
Chương 2 CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở PHÚ THỌ DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010 .................................. 41
2.1. NHỮNG NHÂN TỐ MỚI TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC ...................................................................................................... 41
2.1.1. Bối cảnh trong nước và trên địa bàn tỉnh ................................................. 41
2.1.2. Chủ trương mới của Đảng về chính sách dân tộc .................................... 47
2.2. QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA
ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010 .........................................................50
2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh về chính sách dân tộc ............................... 50
2.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện chính sách dân tộc ....................................... 53
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 67
Chương 3 NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM..................................... 68
3.1. NHẬN XÉT ....................................................................................................................... 68
3.1.1. Ưu điểm ...................................................................................................... 68
3.1.2. Hạn chế....................................................................................................... 82
3.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM .............................................................................................. 88
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 98
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
ATK:
An toàn khu
CNXH:
Chủ nghĩa xã hội
DTTS:
Dân tộc thiểu số
ĐBKK:
Đặc biệt khó khăn
HĐ
Hội đồng
HĐBT:
Hội đồng Bộ trưởng
LĐTBXH - XĐGNVL:
Lao động thương binh xã hội - Xóa đói
giảm nghèo việc làm
NQ/TW:
Nghị quyết Trung ương
TƯ:
Trung ương
UB:
Uỷ ban
UBMTTQ:
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
UBND:
Ủy ban nhân dân
XĐGN:
Xóa đói giảm nghèo
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia thống nhất có nhiều dân tộc cùng sinh sống. Trong
tiến trình phát triển hàng ngàn năm, các tộc người luôn sát cánh bên nhau xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc với truyền thống “Bầu ơi thương lấy bí cùng; tuy rằng khác
giống nhưng chung một giàn”. Các dân tộc thiểu số nước ta cư trú xen kẽ trên
những địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh,
quốc phòng và môi trường sinh thái. Trong quá trình đảm đương vai trò lãnh đạo,
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định vấn đề dân tộc có vai trò và vị trí đặc
biệt quan trọng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ xuyên suốt toàn bộ
tiến trình lịch sử đất nước. Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng đề ra các chủ trương, chính sách dân
tộc với nội dung cơ bản: “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát
triển”. Trải qua các thời kỳ cách mạng, công tác dân tộc đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn, góp phần quan trọng vào sự ổn định kinh tế - chính trị của đất nước.
Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng trung du miền núi Bắc Bộ. Đây là vùng đất
chuyển tiếp, nối kết giữa miền núi cao, thượng du với đồng bằng châu thổ sông
Hồng, điều này tạo cho Phú Thọ vị thế “Địa - chính trị” quan trọng và “bản sắc văn
hóa” đa dạng, phong phú, đậm chất cội nguồn. Phú Thọ có 20 dân tộc anh em chung
sống, gồm các dân tộc: Kinh, Mường, Dao, Sán Chay, H’mông, Sán Dìu, Tày, Thái,
Nùng, Thổ, Hoa, Sê Đăng, Pa Cô, Giáy, La Chí, Ê Đê, Vân Kiều, Kháng, Khơ Me,
Lô Lô. Các dân tộc thiểu số chiếm 21% dân số trong tỉnh. Trong tiến trình lịch sử,
các dân tộc thiểu số đã gắn bó, đoàn kết cùng dân tộc Kinh, tạo thành một khối cộng
đồng thống nhất. Với đặc điểm kết cấu dân cư nêu trên, việc lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp tỉnh Phú Thọ
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Tuy nhiên, việc lãnh đạo cũng như quá trình chỉ đạo
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ còn bộc lộ một số hạn chế
nhất định. Kết quả thực hiện chính sách dân tộc của Đảng có mặt chưa đáp ứng yêu
1
cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; nhận thức của một số cán bộ, đảng viên về công
tác dân tộc chưa đầy đủ nên hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh
còn hạn chế. Bởi vậy, tiếp tục nghiên cứu, tổng kết những quan điểm lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng nói chung, của Đảng bộ tỉnh về chính sách dân tộc, nhằm tạo ra một
sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động, là một yêu cầu cần thiết, có
ý nghĩa về lý luận cũng như về thực tiễn hiện nay. Với lý do đó, tác giả chọn đề tài:
“Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc từ năm 2001 đến
năm 2010” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dân tộc, quá trình hoạch định và thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng luôn là một vấn đề bức thiết, thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu. Trong
những năm qua, đã có nhiều công trình đề cập đến các lĩnh vực của đời sống xã hội
các dân tộc thiểu số như: vấn đề thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước, về lịch sử văn hóa, thực trạng kinh tế xã hội…
Tiêu biểu có các công trình sau:
Phan Xuân Sơn, Lưu Văn Quảng (Đồng chủ biên), Những vấn đề cơ bản về
chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006.
Đỗ Tư, Mấy suy nghĩ về vấn đề dân tộc ở nước ta và chính sách dân tộc của
Đảng, Chính sách dân tộc - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1990.
Trần Nam Sơn, Lê Thái Anh, Những quy định về chính sách dân tộc, Nxb Lao
động, Hà Nội, 2001.
Trần Quang Nhiếp, Phát triển quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay, Nxb Văn
hóa dân tộc, 1997.
Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh Quốc Tuấn, Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dân
tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
Phan Hữu Dật (Chủ biên), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan
đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
2
Đặng Nghiêm Vạn, Cần đề ra một chính sách dân tộc thích hợp, một tổ chức
nghiên cứu và lãnh đạo có hiệu lực, Chính sách dân tộc - những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990.
Nông Quốc Chấn (cùng nhiều tác giả), “Văn hóa và sự phát triển các dân tộc ở
Việt Nam”, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1997.
Bế Viết Đẳng, Các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
miền núi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa, Phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và
miền núi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1998.
Các công trình trên đây đã phân tích, làm rõ khía cạnh của vấn đề dân tộc, chính
sách dân tộc trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm, chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Đề cập đến vấn đề này còn có các bài đăng trên các báo, tạp chí như: “Đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số - Thực trạng và một số vấn đề đặt ra” của Lê Duy Đại
(2001), đăng trên Tạp chí Dân tộc học, số 3; “Mấy vấn đề bức thiết đối với vùng
dân tộc thiểu số hiện nay” của Nông Đức Mạnh (1992), đăng trên Tạp chí Cộng
sản, số 8; “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức dân tộc thiểu số trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Nguyễn Hữu Ngà (2005), đăng trên Tạp
chí Dân tộc học, số 3… Những bài viết này đề cập những vấn đề cụ thể trong chính
sách dân tộc của Đảng, nêu thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm khắc phục những
hạn chế.
Riêng ở Phú Thọ, có một số công trình nghiên cứu về vấn đề dân tộc, nhưng chủ
yếu được khai thác ở góc độ lịch sử, văn hóa. Tiêu biểu có các công trình nghiên
cứu:
Nguyễn Hữu Nhàn (2007), Tổng tập văn nghệ dân gian Đất Tổ, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
Nguyễn Hữu Nhàn (2008), Vài nét lịch sử người Dao ở Phú Thọ, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
3
Sở Văn hóa thông tin thể thao (2000), Văn hóa Ẩm thực vùng Đất Tổ, Phú Thọ.
Đặng Đình Thuận (2011), Văn hóa dân gian của dân tộc Cao Lan: Làng Ngọc
Tân - xã Ngọc Quan - huyện Đoan Hùng, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
Cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn diện,
có hệ thống dưới góc độ khoa học lịch sử Đảng về quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ
lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc từ năm 2001 đến năm 2010. Vì thế, tác giả
chọn vấn đề trên làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hệ thống, làm rõ những chủ trương, đường lối, chính sách dân tộc
của Đảng trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc.
Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện chính sách
dân tộc trên địa bàn tỉnh từ năm 2001 đến năm 2010. Rút ra những nhận xét và kinh
nghiệm trong việc thực hiện chính sách dân tộc những năm tiếp theo trên địa bàn
tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ
Tập hợp các nguồn tài liệu tại Thư viện Quốc gia Hà Nội, Ủy ban nhân dân
tỉnh Phú Thọ, Tỉnh ủy Phú Thọ… để làm rõ vai trò, tầm quan trọng của vấn đề dân
tộc.
Hệ thống hóa và làm rõ các chủ trương, chính sách của Đảng bộ tỉnh Phú
Thọ về lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh từ năm 2001 đến
năm 2010…
Nêu lên những nhận xét và đúc rút một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ
Phú Thọ lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh từ năm 2001 đến
năm 2010.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống chủ trương, chính sách của Đảng về
vấn đề dân tộc và quá trình chỉ đạo thực hiện chính sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh
Phú Thọ từ năm 2001 đến năm 2010.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung:
- Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, bao gồm việc vận dụng đường lối
của Đảng, đề ra những chủ trương, đường lối cụ thể nhằm thực hiện chính sách dân
tộc từ năm 2001 đến năm 2005 và từ năm 2006 đến năm 2010.
- Sự chỉ đạo, quá trình thực hiện chủ trương của Đảng bộ tỉnh và kết quả thực
hiện chính sách dân tộc.
- Phân tích ưu điểm, hạn chế và rút ra những kinh nghiệm về sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc.
Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay (gồm 01 thành phố, 01
thị xã, 11 huyện).
Về thời gian: Giới hạn nghiên cứu của luận văn từ năm 2001 đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được triển khai thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề
dân tộc và chính sách dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chủ yếu.
Ngoài ra, luận văn sử dụng kết hợp với các phương pháp khác như phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh…
5.3. Nguồn tư liệu
- Các Văn kiện của Đảng, đặc biệt là các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc,
những Nghị quyết, Chỉ thị, Thông tư của Trung ương Đảng và Chính phủ; các Nghị
5
quyết của Tỉnh ủy, Quyết định, Chỉ thị của Ủy ban nhân dân tỉnh cũng như các tài
liệu của Sở, Ban, Ngành Phú Thọ liên quan đến vấn đề dân tộc và phát triển kinh tế
- xã hội vùng dân tộc thiểu số.
- Các công trình nghiên cứu (báo, tạp chí, đề tài khoa học, chuyên khảo luận
văn, luận án) liên quan đến vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Khẳng định sự đúng đắn trong các quan điểm, chủ trương, chính sách của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về
vấn đề và chính sách dân tộc.
Bước đầu hệ thống hóa một cách khách quan, toàn diện quan điểm, chủ
trương, chính sách và tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Phú Thọ, qua đó
làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong việc thực hiện chính sách dân tộc.
Rút ra những nhận xét và kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ
lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc ở vùng dân tộc thiểu số từ năm 2001 đến năm
2010.
Luận văn cung cấp thêm những tư liệu về thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng ở vùng dân tộc thiểu số, từ đó giúp các cơ quan của tỉnh tham khảo, nghiên
cứu, chỉ đạo, hoạch định các chủ trương, chính sách cho phù hợp, hiệu quả.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc từ
năm 2001 đến năm 2005
Chương 2: Chính sách dân tộc ở Phú Thọ dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
từ năm 2006 đến năm 2010
Chương 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm
6
Chương 1
ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN
TỘC TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
1.1. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
1.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
1.1.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên
Phú Thọ được coi là vùng Đất tổ của Việt Nam. Trong quá trình lịch sử, địa
danh và địa giới Phú Thọ có nhiều sự thay đổi.
Thời Hùng Vương, nhà nước Văn Lang được chia thành 16 bộ, trong đó Phú
Thọ thuộc bộ Văn Lang, trung tâm của nước Văn Lang.
Dưới thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc (từ năm 111 trước Công nguyên
đến thế kỷ X), Phú Thọ thuộc quận Mê Linh, Tân Xương, Phong Châu.
Đến thời kỳ phong kiến độc lập, dưới triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối
cùng ở Việt Nam, vùng đất Phú Thọ nằm trong tỉnh Sơn Tây và Hưng Hóa.
Ngày 5 tháng 5 năm 1903, Toàn quyền Đông Dương ký nghị định chuyển
tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Hóa lên làng Phú Thọ thuộc tổng Yên Phú, huyện Sơn Vi. Từ
đây, tỉnh Hưng Hóa đổi tên thành tỉnh Phú Thọ.
Từ năm 1903 đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, về cơ bản đơn vị hành
chính trong tỉnh không có những thay đổi lớn, chỉ có thay đổi tên gọi một số huyện
và thành lập một số làng xã mới.
Đến tháng 1 năm 1968, theo Nghị quyết số 504-NQ/TVQH của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, tỉnh Phú Thọ được hợp nhất với tỉnh Vĩnh Phúc thành tỉnh
Vĩnh Phú, thành phố Việt Trì là tỉnh lỵ của tỉnh Vĩnh Phú.
Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tháng 11 năm 1996,
Quốc hội khóa IX ra Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một
số tỉnh, trong đó có việc tái lập tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Phú Thọ. Tỉnh Phú Thọ
7
chính thức được tái lập và đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1997. Sau đó,
Phú Thọ được công nhận là tỉnh miền núi.
Phú Thọ được tái lập với diện tích đất tự nhiên là 3.528 km2, nằm trong khu
vực giao lưu giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc. Đây là vị trí
địa lý mang ý nghĩa trung tâm của tiểu vùng Tây - Đông - Bắc.
Phú Thọ cách trung tâm Hà Nội 80 km, cách sân bay quốc tế Nội Bài 60 km
về phía Bắc, cách cửa khẩu Lào Cai, cửa khẩu Thanh Thủy hơn 200 km, cách Hải
Phòng 170 km và cảng Cái Lân 200 km. Việt Trì là thành phố duy nhất trên cả nước
có 3 con sông lớn chảy qua: sông Hồng, sông Lô và sông Đà nên đây thường được
gọi là thành phố “ngã ba sông”. Với vị trí “ngã ba sông”, cửa ngõ phía Tây nối với
thủ đô Hà Nội, Phú Thọ là cầu nối giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật…
giữa các tỉnh đồng bằng Bắc bộ với các tỉnh miền núi phía Tây Bắc và Đông Bắc
như Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai… Phú Thọ vừa có thể đáp ứng
được nhu cầu vừa thu hút nguyên liệu, nông lâm khoáng sản từ các tỉnh trên. Tất cả
các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông từ các tỉnh phía Tây Đông Bắc đều quy tụ về Phú Thọ rồi mới về Hà Nội, Hải Phòng và các nơi khác.
Đặc điểm địa hình nổi bật của Phú Thọ là chia cắt tương đối mạnh vì nằm ở
cuối dãy Hoàng Liên Sơn, nơi chuyển tiếp giữa miền núi cao và miền núi thấp, gò
đồi, độ cao giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Căn cứ vào địa hình, có thể
chia Phú Thọ thành 2 tiểu vùng chủ yếu:
Tiểu vùng miền núi gồm các huyện Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, Hạ Hòa
và một phần của huyện Cẩm Khê có diện tích tự nhiên 182.475,82 ha; dân số
418.266 người, mật độ dân số 228 người/km2 [6, tr. 3]; có độ cao trung bình so với
mặt nước biển từ 200 - 500m. Đây là tiểu vùng đang gặp khó khăn về giao thông,
trình độ dân trí thấp, nhiều dân tộc sinh nhưng có nhiều tiềm năng phát triển lâm
nghiệp, khai khoáng và kinh tế trang trại.
Tiểu vùng trung du đồng bằng gồm thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ và các
huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Thanh Thủy, Tam Nông, Đoan Hùng và phần còn lại
của huyện Cẩm Khê, Hạ Hòa; diện tích tự nhiên 169.489,50 ha; dân số 884.734
8
người, mật độ 519 người/km2 [6, tr. 4]; có độ cao trung bình so với mặt nước biển từ
50 - 200m. Đây là tiểu vùng có kinh tế - xã hội phát triển, tiềm năng nông, lâm,
khoáng sản được khai thác tương đối triệt để; là nơi sản xuất nhiều nông sản hàng
hóa xuất khẩu như: chè, đậu tương, lạc…; nơi có nhiều khu, cụm, điểm công
nghiệp… nhưng đã xuất hiện hiện tượng đất bị thoái hóa ở một vài nơi. Còn dải đất
ven sông màu mỡ thuận lợi cho phát triển chè, đậu tương, lạc, vừng, cây ăn quả, sản
xuất lương thực, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thủy sản… Đây là tiểu vùng
thuận lợi về điều kiện giao thông vận tải, có đất đai phù hợp cho phát triển khu công
nghiệp và đô thị.
Có thể thấy, Phú Thọ có địa hình đa dạng, vừa có miền núi, vừa có trung du
và đồng bằng ven sông, đã tạo ra nguồn đất đai đa dạng, phong phú để phát triển
nông, lâm nghiệp hàng hóa toàn diện với những cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế
cao. Tuy nhiên, do địa hình chia cắt, mức độ cao thấp khác nhau nên việc đầu tư
khai thác tiềm năng, phát triển sản xuất, phát triển hạ tầng để phát triển kinh tế - xã
hội phải đầu tư tốn kém, nhất là giao thông, thủy lợi, cấp điện, cấp nước… ở vùng
miền núi, dân tộc.
Những đặc điểm về vị trí địa lý, địa hình cũng như điều kiện tự nhiên trên
đây thể hiện Phú Thọ là một tỉnh có vị trí địa - chính trị quan trọng, có tiềm năng
phát triển năng động về kinh tế, và có ảnh hưởng nhất định đến chính sách dân tộc
của Đảng bộ tỉnh.
1.1.1.2. Khái quát về kinh tế - xã hội
Kinh tế Phú Thọ thời gian qua phát triển đúng hướng, phù hợp với đường lối
phát triển kinh tế nhiều thành phần. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do thời tiết và
thị trường có nhiều biến động phức tạp, tuy nhiên, với sự cố gắng nỗ lực của các
cấp, các ngành, doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh, cộng với sự giúp đỡ của
Chính phủ, các bộ, ngành, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh luôn được giữ vững ở
mức cao so với các địa phương khác thuộc vùng miền núi trung du Bắc Bộ cũng
như so với mặt bằng chung của cả nước; chất lượng tăng trưởng từng bước được
nâng lên. Những năm gần đây (2005 - 2010), tốc độ tăng trưởng bình quân đạt
9
10,6%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 11,8 triệu đồng, tương đương
637 USD.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, phù hợp với định hướng phát
triển của tỉnh. Năm 2010, tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 38,6%, dịch
vụ 35,8%, nông lâm nghiệp 25,6%. Cơ cấu nội bộ ngành có sự chuyển dịch khá tích
cực, theo hướng sản xuất hàng hóa. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh
tế giảm từ 27,6% năm 2005 xuống còn 25,6% năm 2010. Trong sản xuất nông
nghiệp, nhờ việc chú trọng các giống cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao đi đôi
với đa dạng hoá cây trồng nên tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản liên tục tăng, cơ cấu cây
trồng có sự thay đổi: chuyển từ thế độc canh cây lương thực sang tập trung đầu tư,
hình thành một số vùng chuyên canh cây trồng như: cây ăn quả ở Phú Lộc - thị xã
Phú Thọ, rau ở Lâm Thao, Tân Đức... Cơ cấu mùa vụ có sự chuyển đổi cơ bản. Phú
Thọ là một trong những tỉnh dẫn đầu miền Bắc về sản xuất ba vụ trong năm. Sản
lượng hạt lương thực tăng 3,7%. Tuy nhiên, tốc độ chuyển dịch cơ cấu còn chậm,
giá trị sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ tương đối lớn so với công nghiệp và
dịch vụ trong cơ cấu kinh tế.
Sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất tăng
bình quân 12,5%/ năm và tăng 1,8 lần so với năm 2005. Năng lực sản xuất các
ngành có lợi thế tăng nhanh, như: Xi măng tăng 7,9 lần, phân bón tăng 1,2 lần, giấy
tăng 1,2 lần…; một số sản phẩm mới, công nghệ cao đang hình thành; sản xuất
công nghiệp đa dạng. Cơ cấu theo ngành và theo thành phần kinh tế chuyển dịch
theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp chế biến, công nghiệp ngoài quốc doanh
tăng nhanh. Đã hình thành một số khu, cụm công nghiệp đóng vai trò quan trọng
trong thu hút đầu tư vào tỉnh.
Các ngành dịch vụ có mức tăng trưởng khá, đạt 9,8%/ năm. Hoạt động tín
dụng, ngân hàng, tài chính có nhiều đổi mới, chất lượng được nâng lên. Mạng lưới
bưu chính - viễn thông đã được đầu tư xây dựng rộng khắp trong cả tỉnh. Xã nào
cũng có những điểm bưu điện văn hoá xã, đảm bảo sự thông suốt của thông tin giữa
10
các vùng miền trong tỉnh với các miền trong cả nước và quốc tế, phục vụ công cuộc
xây dựng, phát triển kinh tế của tỉnh.
Tình hình chính trị - xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững, các
lĩnh vực giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, văn hóa, văn nghệ, báo chí, thể dục, thể
thao tiếp tục có bước phát triển.
Những kết quả đó có đóng góp không nhỏ của các dân tộc thiểu số tỉnh Phú
Thọ.
1.1.2. Đặc điểm dân cư và dân tộc thiểu số
Là vùng đất “sơn chầu, thủy tụ”, từ xa xưa vùng đất Phú Thọ đã có người
Việt cổ sinh sống. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nơi đây đã quy tụ được nhiều
tộc người với bản sắc văn hóa khác nhau, hòa vào cuộc đấu tranh chung để sinh tồn,
gìn giữ, phấn đấu đưa Phú Thọ phát triển xứng đáng là vùng đất cội nguồn của Việt
Nam.
Phú Thọ có dân số là 1.350.565 triệu người (năm 2007); mật độ dân số trung
bình 383 người/km2; trong đó dân tộc thiểu số là 202.800 người, chiếm 15,1% dân
số toàn tỉnh. Đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ chủ yếu sinh sống ở các
xã, thôn, bản miền núi đặc biệt khó khăn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa của tỉnh; dân
cư thưa thớt, mật độ trung bình khoảng 100 người/km2 với điều kiện tự nhiên
không thuận lợi, địa hình chia cắt, giao thông đi lại khó khăn, khí hậu thất thường,
tố lốc thường xuyên xảy ra.
Phú Thọ gồm 01 thành phố, 01 thị xã và 11 huyện với 274 xã, phường, thị
trấn; trong đó có 216 xã miền núi, được phân định thành 3 khu vực:
Khu vực I: 48 xã, thị trấn, số dân là 307.182 người;
Khu vực II: 126 xã (trong đó có 10 xã ATK), số dân là 490.413 người;
Khu vực III: 40 xã, 32 thôn, bản, động vùng cao, vùng sâu, số dân là 136.944
người.
Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ có 20 dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số có số
dân đông, sinh sống tập trung thành làng, bản, có bản sắc văn hóa, phong tục tập
quán đậm nét như: Dân tộc Mường, dân tộc Dao, dân tộc Cao Lan, dân tộc H’mông;
11
sinh sống chủ yếu ở các xã khu vực III, các thôn bản đặc biệt khó khăn, vùng sâu và
xen kẽ ở một số xã miền núi khu vực II và khu vực I. Còn các dân tộc khác do di cư
hoặc do kết hôn mà đến sinh sống tại tỉnh Phú Thọ, có số dân ít, sống xen kẽ với
người Kinh và các dân tộc khác, không duy trì được bản sắc văn hóa cộng đồng
riêng của dân tộc mình.
Dân tộc Mường được coi là người bản địa tại vùng miền núi tỉnh Phú Thọ có
số dân là 183.414 người chiếm 13,5% dân số toàn tỉnh, chiếm 90,44% số dân là dân
tộc thiểu số của tỉnh; chiếm 18,3% số người dân tộc Mường cả nước. Người Mường
sinh sống chủ yếu ở 2 huyện miền núi Thanh Sơn, Yên Lập và một số xã miền núi
thuộc huyện Thanh Thuỷ. Dân tộc Mường có lịch sử hình thành, tồn tại và phát
triển gắn với lịch sử dân tộc Việt Nam từ thời đại Hùng Vương thuộc nền văn hoá
Đông Sơn.
Người Mường Phú Thọ di cư từ lưu vực sông Mã (Thanh Hoá, Hoà Bình) đến,
sống định cư ở các triền núi thấp. Trước đây, sản xuất chủ yếu là độc canh cây lúa,
khai thác rừng. Nghề thủ công truyền thống của người Mường là dệt vải, đan lát
phát triển khá tinh xảo.
Người Mường có vốn văn nghệ dân gian phong phú với nhiều truyện cổ tích,
dân ca, hát ru em, hát đối, hò du, múa sạp, múa mỡi. Cồng là nhạc cụ đặc sắc của
người Mường, ngoài ra còn có nhị, sáo, trống, khèn lá, đâm đuống...
Trong quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước, người Mường đã có nhiều
đóng góp quan trọng cùng các dân tộc khác trên tỉnh Phú Thọ làm rạng rỡ truyền
thống quê hương Đất Tổ. Trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự
chỉ đạo của Ban Cán sự liên tỉnh của Mặt trận Việt Minh, đồng bào Mường của hai
huyện Thanh Sơn, Yên Lập đã cùng các đồng bào dân tộc khác trong huyện vùng
dậy khởi nghĩa giành chính quyền sớm trong tỉnh Phú Thọ. Trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, đồng bào Mường đã không tiếc sức người, sức của, đẩy mạnh
tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng hậu phương vững chắc, sẵn sàng
chiến đấu, động viên con em lên đường nhập ngũ đánh giặc với khẩu hiệu “Tất cả
cho tiền tuyến”. Với đóng góp to lớn của mình, người Mường đã được Đảng, Nhà
12
nước tặng thưởng nhiều huân, huy chương các loại cho tập thể và cá nhân. Trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, người Mường phát huy tính cần cù, sáng tạo,
năng động; đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân điển hình cho gương người tốt, việc
tốt. Đặc biệt, huyện Thanh Sơn có anh hùng lao động là Hà Minh Khang (xã Võ
Miếu), Đinh Văn Xếp (xã Yên Lãng).
Sau dân tộc Mường, dân tộc Dao có số dân đông thứ hai ở Phú Thọ với trên
12.212 người chiếm 6,02% dân tộc thiểu số toàn tỉnh và 2,6% số dân là người Dao
cả nước. Họ sinh sống chủ yếu ở các xóm, bản, các xã vùng cao, xa xôi hẻo lánh
của các huyện miền núi Thanh Sơn, Yên Lập, Hạ Hoà.
Dân tộc Dao có 2 nhóm chính: Nhóm Đại bản (Dao Quần Chẹt) và nhóm Tiểu
bản (Dao tiền). Người Dao ở Phú Thọ chủ yếu là nhóm Tiểu bản gồm 6 dòng họ là
họ Triệu, Dương, Phùng, Trịnh, Lý, Bàn. Mỗi dòng họ có các nhánh khác nhau như:
Họ Triệu có các nhánh Triệu Bế, Triệu Xanh, Triệu Mốc, Triệu Lớn... Những người
cùng dòng họ (cùng thờ 1 ông tổ) không được kết hôn cho dù hàng ngàn đời.
Trước năm 1945, người Dao sống du canh, du cư trên các triền núi cao, sống
bằng nghề nương rẫy và sơn tràng. Ngày nay, với chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước, đại bộ phận người Dao đã hạ sơn, định canh định cư ở vùng núi thấp
hơn, sống bằng nghề trồng lúa nước, nương rẫy; một số nghề thủ công phát triển
như dệt vải, rèn, mộc, làm giấy, ép dầu. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận du canh,
xâm canh ở vùng giáp danh với tỉnh Yên Bái, Sơn La, Hoà Bình.
Do đặc điểm về địa bàn cư trú, lịch sử xã hội nên người Dao có tâm lý tự ti,
nhưng tri thức dân gian rất phong phú, đặc biệt là y học dân tộc cổ truyền; có đặc
tính thảo ăn và mến khách, có tính cộng đồng dân tộc cao.
Tiếng nói, chữ viết người Dao có nguồn gốc từ tiếng Quan Hoả được Nôm hoá
thành tiếng Dao. Hiện nay, người Dao không sử dụng chữ viết riêng, chỉ có một số
ít người già sử dụng chữ Nôm - Dao trong việc lập bùa, thờ cúng. Người Dao hiện
còn duy trì một số ngày lễ tết truyền thống như tết Nhảy, đám chay, lễ Lập tĩnh (đặt
tên), các điệu hát ví, hát đối, múa chiêng, múa trống.
13
Thực hiện chủ trương bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc của Đảng và Nhà
nước, trong những năm qua, cấp uỷ, chính quyền các cấp ở Phú Thọ luôn quan tâm
tới việc phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương miền núi có đồng bào dân tộc
Dao. Đến nay, người Dao đã tham gia công tác Đảng và chính quyền ở cấp xã,
nhiều người là Trưởng khu hành chính, Bí thư chi bộ, Đảng uỷ viên, Uỷ viên Uỷ
ban, thậm chí làm lãnh đạo chủ chốt xã (Vinh Tiền, Xuân Sơn - Thanh Sơn). Con
em đồng bào Dao có nhiều người học lên bậc phổ thông trung học, có nhiều người
học lên bậc đại học và tham gia lãnh đạo chủ chốt mặt trận và các đoàn thể quần
chúng ở cấp huyện.
Người H’mông trên địa bàn toàn tỉnh có gần 700 người, chiếm khoảng 0,05%
dân số toàn tỉnh, 0,34% số dân là dân tộc thiểu số và 0,1% số dân là người H’mông
trong cả nước. Người H’mông ở Phú Thọ chủ yếu là Mông Hoa, sống tập trung chủ
yếu ở bản Mỹ Á - xã Thu Cúc, huyện Thanh Sơn và ở Khe Nhồi - Khu Sáu Khe, xã
Trung Sơn, huyện Yên Lập. Tiếng H’mông thuộc ngôn ngữ Mông - Dao.
Đồng bào H’mông sống bằng nghề nương rẫy (đã định cư nhưng còn du
canh), trồng ngô, lúa nương, đời sống không ổn định do chưa thoát khỏi tập quán du
canh. Các dòng họ H’mông sống quây quần thành từng cụm. Trưởng họ lo đảm
nhiệm công việc chung. Người cùng họ có thể đẻ hoặc chết trong nhà nhau vì cho
rằng cùng một tổ tiên thì phải giúp đỡ, cưu mang nhau trong cuộc sống.
Tuy người H’mông mới đến cư trú ở tỉnh Phú Thọ, song đã được các cấp ủy
Đảng, chính quyền và đoàn thể quan tâm giúp đỡ tạo mọi điều kiện để người
H’mông nhanh chóng định canh, định cư, ổn định cuộc sống, hòa đồng, đoàn kết với
các anh em dân tộc khác trên quê hương đất Tổ.
Ngày nay, do điều kiện môi trường sống và yếu tố lịch sử xã hội chi phối,
người H’mông vẫn còn gặp khó khăn trong phát triển sản xuất và ổn định cuộc
sống.
Dân tộc Sán Chay ở Phú Thọ có khoảng 4.000 người, chiếm 0,22% dân số của
tỉnh, 1,94% số dân là dân tộc thiểu số và 4,7% số dân là người Sán Chay của cả
14
nước. Địa bàn sinh sống chủ yếu ở huyện Đoan Hùng và Phù Ninh. Ngôn ngữ dân
tộc Sán Chay thuộc nhóm Tày - Thái.
Người Sán Chay di cư đến Phú Thọ cách đây khoảng 300 năm. Thời gian đầu
cư trú chủ yếu ở phố Vàng - huyện Thanh Sơn, sau di cư sang huyện Đoan Hùng.
Người Sán Chay có nền sản xuất nông nghiệp đa dạng và phát triển.
Người Sán Chay có truyền thống yêu nước, cố kết cộng đồng dân tộc; tôn vinh
những người có công với nước, với làng, được thể hiện rõ nét ở những tiệc làng
được tổ chức tại đình làng (nơi thờ Thành hoàng làng); tôn vinh Già làng - người có
uy tín cao nhất đối với đồng bào dân tộc Sán Chay.
Sinh hoạt văn hóa tinh thần của đồng bào dân tộc Sán Chay phong phú, có
những nét văn hóa mang đậm sắc thái lâu đời như: Truyện cổ tích, thơ ca, hò vè …
trong đó “Sình ca” là một hình thức văn hóa hấp dẫn.
Ngày nay, người Sán Chay sống xen kẽ với các dân tộc khác, nhưng nhìn
chung người Sán Chay thường quần tụ thành từng làng. Với những xã có đông đồng
bào Sán Chay cư trú, tỷ lệ cao nhất chiếm từ 20 - 25% dân số trong xã. Người dân
tộc Sán Chay sống gần gũi với dân tộc Kinh và dân tộc Tày nên đời sống văn hoá
dân tộc Sán Chay được “tiếp biến” hoà đồng trong khu vực; đời sống kinh tế - xã
hội ổn định và phát triển.
Nhìn chung, các dân tộc thiểu số ở tỉnh Phú Thọ đều có nguồn gốc, bản sắc
văn hoá truyền thống đặc sắc, có phong tục tập quán riêng trong sản xuất và đời
sống xã hội, có quá trình theo Đảng tham gia làm cách mạng rất đáng tự hào và đã
xây dựng được cơ sở chính trị khá vững chắc. Điểm chung cần quan tâm là đời sống
kinh tế, văn hoá, dân trí các dân tộc còn thấp, tỷ lệ đói nghèo trong vùng đồng bào
các dân tộc còn cao, thông tin tuyên truyền về đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước ở vùng này còn hạn chế, là miếng đất “màu mỡ” cho việc truyền đạo trái
phép của các tôn giáo và là điểm nhạy cảm mà các thế lực thù địch phản động lợi
dụng để kích động đồng bào, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống lại Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta.
15
Bên cạnh đó, các xã miền núi, vùng dân tộc cũng đang tồn tại những khó khăn
mang tính đặc thù: kinh tế phổ biến là tự cấp, tự túc, đời sống còn rất khó khăn; tỷ
lệ đói nghèo khoảng 60%; cơ sở hạ tầng còn sơ khai; 20,28% số hộ được sử dụng
điện lưới quốc gia, 28,35% được sử dụng nước sạch. Hệ thống đường giao thông
chưa phát triển, trường học, trạm xá còn sơ sài, tạm bợ hoặc chưa có... Trình độ dân
trí còn thấp kém; số người mù chữ còn khoảng 55% toàn tỉnh. Trình độ cán bộ cơ
sở rất non yếu, đa số còn ở trình độ cấp I và cấp II, một số người chưa nói được
tiếng phổ thông, ảnh hưởng rất lớn đến việc lãnh đạo, chỉ đạo ở địa phương [4, tr.
3].
Những vấn đề có tính đặc thù trên đây của vùng DTTS đòi hỏi phải có một
chương trình phát triển kinh tế - xã hội tổng hợp với những quyết sách đặc biệt để
ổn định phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực này.
Thực hiện chính sách dân tộc, đổi mới các giải pháp thực hiện chính sách dân
tộc hiện nay là vấn đề cấp thiết, vừa có ý nghĩa “chiến lược cơ bản, lâu dài” vừa là
vấn đề “cấp bách hiện nay” của từng địa phương, từng địa bàn thuộc miền núi và
vùng dân tộc thiểu số tỉnh Phú Thọ.
1.1.3. Tình hình thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh trước
năm 2001
Kể từ khi tách tỉnh (1997) đến năm 2000, chính sách dân tộc vùng đồng bào
dân tộc thiểu số ở Phú Thọ được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh. Dưới ánh
sáng đường lối của Đảng nói chung và đổi mới chính sách dân tộc nói riêng, Đảng
bộ và chính quyền tỉnh Phú Thọ luôn quan tâm giải quyết các vấn đề liên quan đến
dân tộc, miền núi. Ngoài việc triển khai những chỉ thị, nghị quyết của Đảng và
Chính phủ về vấn đề dân tộc thiểu số và chính sách dân tộc, Đảng bộ đã căn cứ vào
đặc điểm tình hình cụ thể của từng vùng, từng dân tộc để đề ra những chủ trương,
phương hướng và giải pháp thích hợp nhằm giải quyết tốt vấn đề dân tộc, góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XIV (nhiệm kỳ
1997 - 2000): Tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế của tỉnh ngày càng phát triển. Củng cố
16
sự phát triển bền vững, cân bằng giữa đồng bằng và miền núi, tập trung nguồn lực
thúc đẩy kinh tế của miền núi và vùng dân tộc thiểu số có cơ hội phát triển mạnh
hơn, ngày 8/7/1997, Tỉnh ủy Phú Thọ ra Nghị quyết số 08 - NQ/TU Về phát triển
kinh tế - xã hội miền núi tỉnh Phú Thọ đến năm 2000. Nghị quyết đề ra nhiệm vụ:
“Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn theo hướng lâm,
nông, công nghiệp. Ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến, phát triển công nghiệp
khai khoáng, vật liệu xây dựng ở những nơi có điều kiện; phát huy kết quả đã đạt
được, đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; xây dựng một kết cấu hạ
tầng hợp lý để làm tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao mức sống vật
chất, tinh thần, trình độ dân trí lên một bước; xây dựng hệ thống quốc phòng, an
ninh vững chắc, tăng cường khối đoàn kết giữa các dân tộc; xây dựng hệ thống
chính trị vững mạnh toàn diện”. [18, tr. 38-39]
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, UBND tỉnh đã thành lập Ban chỉ đạo thực
hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi; cụ thể hóa thành các chương
trình, mục tiêu, chỉ tiêu và chính sách; đồng thời, phân công nhiệm vụ cụ thể cho
các sở, ban, ngành, cấp huyện, cấp xã; thường xuyên theo dõi, sơ tổng kết rút kinh
nghiệm, đề xuất những kiến nghị bổ sung trong quá trình thực hiện.
Đến năm 1999, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ra Nghị quyết số 17 - NQ/TU về
“Chương trình phát triển kinh tế - xã hội 31 xã đặc biệt khó khăn giai đoạn 1999 2005”, với mục tiêu “nâng cao đời sống vật chất, mức hưởng thụ đời sống văn hóa
tinh thần cho đồng bào dân tộc miền núi, từng bước đưa các xã đặc biệt khó khăn
thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, hòa nhập vào sự phát triển chung của toàn
tỉnh. Đảm bảo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã
hội, an ninh quốc phòng” [66, tr. 8].
Các Nghị quyết đã tạo ra một động lực mới cho các xã dân tộc thiểu số và
các xã miền núi đặc biệt khó khăn có điều kiện phát triển hơn về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân
vùng dân tộc.
17
Kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số có những chuyển biến. Tăng
trưởng kinh tế tăng nhanh hơn trước, giá trị sản xuất công nghiệp năm 1999 tăng 2,1
lần so với năm 1995, sản lượng lương thực tăng 1,6 lần so với năm 1995. [18, tr.
37]. Đàn trâu, đàn bò, đàn lợn tăng khá. Vốn rừng được tái tạo, đất có rừng tăng lên,
đất trống đồi trọc giảm.
Kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư xây dựng. Đến năm 1999, đường giao
thông đến trung tâm các huyện miền núi được thông suốt, trong 145 xã miền núi có
142 xã đường ô tô đến được trung tâm xã, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đi
lại, giao lưu hàng hóa được thuận lợi, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội miền núi.
Hệ thống điện cao thế được tập trung đầu tư đến tất cả các huyện miền núi và các
vùng trọng điểm. Trong 145 xã miền núi đã có 40 xã có điện, đảm bảo cho khoảng
30.000 hộ được dùng điện. [18, tr. 35].
Các hoạt động dịch vụ đã phát triển ở các thị trấn, thị tứ và trung tâm cụm
xã. Mạng lưới đại lý dịch vụ bán buôn, bán lẻ hàng hóa được mở rộng, bước đầu đã
tạo được chân hàng xuống tận nông thôn, làng, bản, đáp ứng một phần nhu cầu của
người tiêu dùng.
Hệ thống thông tin tuyên truyền đối với đồng bào miền núi được xây dựng.
Đầu tư đưa vào và sử dụng các trạm phát lại truyền hình của huyện Thanh Sơn, Yên
Lập, Đoan Hùng, Hạ Hòa để phủ sóng truyền hình trên tất cả địa bàn miền núi.
Giáo dục miền núi có bước phát triển. Tỷ lệ học sinh lên lớp, đỗ tốt nghiệp
ngày càng cao, tỷ lệ học sinh bỏ học giảm, tỷ lệ huy động các cháu đến trường mẫu
giáo và vào lớp 1 ngày càng tăng. Cơ bản chấm dứt tình trạng học 3 ca, số phòng
học được ngói hóa tăng lên.
Mạng lưới y tế cơ sở phát triển khá. Cơ bản đã xóa xong xã trắng về y tế. Đội
ngũ cán bộ y tế xã từng bước được chuẩn hóa, bình quân mỗi trạm y tế có từ 3 đến 5
cán bộ và thường xuyên có người thường trực.
Các lực lượng quốc phòng, an ninh được củng cố và tăng cường, vì vậy,
những phức tạp về an ninh trật tự được kịp thời giải quyết.
18
Có thể thấy, các quan điểm, chủ trương của Đảng bộ về chính sách dân tộc
được các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở quán
triệt, thực hiện đầy đủ, tổ chức thực hiện nghiêm túc, đã đem lại hiệu quả nhất định.
Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế: Nền kinh tế chủ yếu vẫn là sản xuất
nông, lâm nghiệp, trình độ sản xuất thấp. Tập quán canh tác lạc hậu, tình trạng du
canh, du cư, chặt phá rừng, đốt rừng làm rẫy vẫn còn, sản xuất mang nặng tính chất
tự cung tự cấp, chậm tiếp thu những tiến bộ về giống và ứng dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, chưa rõ nét. Dân trí tuy
có nâng lên nhưng vẫn còn thấp, mức độ hưởng thụ văn hóa còn hạn chế, tệ nạn xã
hội chưa được đẩy lùi. Chính quyền địa phương chưa thực sự sâu sát với đồng bào
dân tộc thiểu số để nắm tâm tư, nguyện vọng của đồng bào về đời sống và sản xuất
để có những biện pháp giải quyết kịp thời, phù hợp. Công tác quản lý còn yếu kém
nên nhiều công trình không đảm bảo chất lượng, hiệu quả sử dụng không cao.
Những tồn tại, yếu kém trên là những thách thức to lớn, đòi hỏi Đảng bộ và chính
quyền tỉnh Phú Thọ phải tập trung giải quyết trong chặng đường tiếp theo.
1.2. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ SỰ QUÁN TRIỆT, VẬN DỤNG CỦA
ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ TRONG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN
TỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
1.2.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề
dân tộc
Cùng với vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn là một nội dung quan trọng có
ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc là
một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng
hoảng, tan rã của một quốc gia, dân tộc.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến vấn đề
dân tộc. Đây là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng
nước ta. Chính sách dân tộc của Đảng là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề dân tộc là một bộ phận
của những vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản. Do đó, giải
19
quyết vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản và trên cơ sở của cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nhấn mạnh rằng, khi xem xét và giải
quyết vấn đề dân tộc phải đứng trên lập trường giai cấp công nhân. Điều này cũng
có nghĩa là việc xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải trên cơ sở và vì lợi ích cơ
bản, lâu dài của dân tộc.
Giải quyết vấn đề dân tộc thực chất là xác lập quan hệ công bằng, bình đẳng
giữa các dân tộc trong một quốc gia, giữa các quốc gia, dân tộc trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Trên cơ sở tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc và giai cấp,
cùng với sự phân tích vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã nêu ra “Cương lĩnh dân tộc” với
ba nội dung cơ bản: Các dân tộc có quyền bình đẳng; các dân tộc được quyền tự
quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Bình đẳng giữa các dân tộc là thủ tiêu tình trạng giai cấp này áp bức giai cấp
khác để trên cơ sở đó xóa bỏ tình trạng giai cấp này đặt ách nô dịch lên dân tộc
khác; phải khắc phục tình trạng chênh lệch trong sự phát triển của các dân tộc, tạo
điều kiện thuận lợi để các dân tộc còn ở trình độ lạc hậu, bằng sự nỗ lực của chính
mình, cùng với sự giúp đỡ của các dân tộc anh em phát triển nhanh trên con đường
tiến bộ. Bình đẳng ở đây là bình đẳng toàn diện giữa các dân tộc về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội… phải được ghi nhận trong pháp lý và quan trọng là phải được
thực hiện trong cuộc sống, đó mới là sự bình đẳng thực sự.
Quyền tự quyết là quyền làm chủ giữa các dân tộc đối với vận mệnh của dân
tộc mình, quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc
mình. Sự bình đẳng và quyền tự quyết dân tộc có được và thực hiện được là nhờ sự
đoàn kết, thống nhất giai cấp công nhân và các dân tộc trong từng quốc gia cũng
như trên thế giới.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã bắt gặp tư tưởng Lênin về cách mạng vô sản và vấn đề dân tộc thuộc địa.
Người nói: Chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp Đảng thấy rõ rằng trong điều kiện một
nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta thì vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề nông
20