Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

quá trình thực hiện đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp , nông thôn của đảng ở tỉnh hà tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.34 KB, 171 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---000---

NGUYỄN THỊ NĂM

QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƢỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN CỦA ĐẢNG
Ở TỈNH HÀ TÂY (1996 - 2005)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS Hoàng Hồng

HÀ NỘI - 2009


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... ...1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... ...1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... ...2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. ...4
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu............................................................... ...4
5. Nguồn tài liệu, phƣơng pháp nghiên cứu ................................................ ...5
6. Bố cục luận văn ...................................................................................... ...6

CHƢƠNG 1: CÁC CĂN CỨ ĐỂ THỰC HIỆN CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP
NÔNG THÔN Ở TỈNH HÀ TÂY................................................................... ...7
1.1 Điều kiện tự nhiên - xã hội của tỉnh Hà Tây .......................................... ...7
1.2. Tình hình nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Hà Tây trƣớc năm 1996 (kề
từ khi tái lập tỉnh năm 1991) ............................................................................. .14


1.3. Đƣờng lối CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đảng ..................... .29

CHƢƠNG 2: ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHH,
HĐH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN 1996 - 2005 ...................................... .44
2.1. Đảng bộ tỉnh Hà Tây quán triệt và chỉ đạo thực hiện đƣờng lối CNH,
HĐH nông nghiệp ............................................................................................. .44

2.1.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ................................... .44
2.1.2 Thực hiện cơ khí hoá, thuỷ lợi hoá và ứng dụng công nghệ sinh
học vào sản xuất nông nghiệp ........................................................................... .73
2.2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây quán triệt và chỉ đạo thực hiện đƣờng lối CNH,
HĐH nông thôn ................................................................................................. .86

2.2.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ....................................... 86
2.2.2 Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở
nông thôn ............................................................................... 89
2.2.3 Phát triển cơ cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn ............... .97


CHƢƠNG 3: MỘT VÀI NHẬN XÉT VỀ THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ
BÀI HỌC KINH NGHIỆM ........................................................................... 106
3.1. Nhận xét về thành tựu và hạn chế .................................................... 106

3.1.1 Về những thành tựu .................................................................. 106
3.1.2 Về những hạn chế .................................................................... 119
3.2. Một số bài học kinh nghiệm ............................................................. 127

KẾT LUẬN .................................................................................................... 137
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 140



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ

CNH

Công nghiệp hoá

HĐH

Hiện đại hoá

HTX

Hợp tác xã

NTTS

Nuôi trồng thuỷ sản

PTNT

Phát triển nông thôn

THPT

Trung học phổ thông


TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

UBND

Uỷ ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong chiến lƣợc phát triển

kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia. Đối với Việt Nam việc đầu tƣ phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn càng có vị trí quan trọng, có ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế đất nƣớc. Điều đó đã
đƣợc minh chứng bằng thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nƣớc ta.
Để nền kinh tế của đất nƣớc có thể phát triển nhanh, ổn định và
bền vững, trƣớc hết là phải đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp,
nông thôn, coi nông nghiệp là một ngành kinh tế chủ đạo, tạo tiền đề
cho các ngành kinh tế khác phát triển. Nhận thức rõ tầm quan trọng của
việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, Đảng và Nhà nƣớc ta
đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm đổi mới chính sách phát triển nông
nghiệp theo định hƣớng CNH, HĐH. Nhờ đó, nông nghiệp nƣớc ta đã
đạt đƣợc những thành tựu quan trọng, đƣa đất nƣớc ra khỏi tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội. Cho nên, việc tổng kết những thành công

và hạn chế trong việc thực hiện đƣờng lối phát triển nông nghiệp, nông
thôn của Đảng để có một hƣớng đi đúng đắn là rất quan trọng.
Hà Tây thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, là một tỉnh có nền
kinh tế nông nghiệp với nhiều làng nghề truyền thống phát triển. Trong
những năm qua, Đảng bộ Hà Tây đã chỉ đạo triển khai thực hiện đƣờng
lối lãnh đạo của Đảng vào tình hình thực tế ở địa phƣơng để phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn làm cho Hà Tây từ một nền nông
nghiệp tự cung tự cấp, đã vững bƣớc đi lên thành tỉnh đảm bảo an ninh
lƣơng thực; từng bƣớc tiếp cận thị trƣờng với nền sản xuất hàng hoá có
giá trị kinh tế cao; bộ mặt nông thôn Hà Tây có nhiều khởi sắc, chất
1


lƣợng cuộc sống của ngƣời dân đƣợc cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đạt đƣợc, trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ Hà
Tây cũng còn một số hạn chế cần khắc phục.
Đặc biệt, hiện nay Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, Hà Tây
đã sáp nhập vào thành phố Hà Nội, nông nghiệp, nông thôn Hà Tây
đang đứng trƣớc những cơ hội và thách thức mới. Về cơ hội: Nông
nghiệp, nông thôn Hà Tây sẽ có thêm nhiều cơ hội để phát triển; mở
rộng thị trƣờng để xuất khẩu nông sản, thúc đẩy đổi mới công nghệ sản
xuất hàng hoá, chế biến nông sản, thu hút nhiều hơn vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài. Về thách thức: Nông nghiệp, nông thôn Hà Tây còn lạc hậu cả
về cơ sở vật chất kỹ thuật lẫn cơ chế quản lý, tỷ lệ ngƣời nghèo tập
trung chủ yếu ở nông thôn.
Trong bối cảnh mới, cần phải tổng kết, đánh giá một cách khách
quan khoa học thực trạng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Hà
Tây trong những năm qua và những cơ hội, thách thức đối với nông
nghiệp, nông thôn Hà Tây trong tình hình mới, trên cơ sở đó chỉ ra
đƣợc hạn chế, bài học kinh nghiệm nhằm đẩy mạnh sự nghiệp CNH,

HĐH nông nghiệp, nông thôn của Hà Tây nay thuộc Hà Nội trong
những năm tới là việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng .
Với những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Quá trình
thực hiện đƣờng lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn của Đảng ở tỉnh Hà tây (1996 - 2005)” để viết luận văn
thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nông nghiệp, nông thôn có vị trí quan trọng trong quá trình cách
mạng XHCN cũng nhƣ trong sự nghiệp đổi mới ở nƣớc ta. Vì vậy,
đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng trên mặt trận nông nghiệp đƣợc các
2


nhà lý luận, các nhà lãnh đạo quan tâm nghiên cứu. Trên phạm vi cả
nƣớc đã có nhiều công trình của các nhà khoa học đề cập đến vấn đề ở
những góc độ khác nhau. Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu:
Các cuốn sách: “Một số vấn đề kinh tế HTX nông nghiệp Việt
Nam”, tập thể tác giả Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc
gia, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991; “Đổi mới quản lý kinh tế
nông nghiệp, thành tựu, vấn đề và triển vọng”, Nguyễn Văn Bích (chủ
biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; “Thực trạng CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn Việt Nam” Lê Mạnh Hùng (chủ biên), Nxb
Thống kê, Hà Nội, 1998; “Thực trạng nông nghiệp, nông thôn và nông
dân ở nước ta” của Nguyễn Sinh Cúc, Nxb Thống Kê, Hà Nội, 1999;
“Con đường CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn”, Chu Hữu Quý,
Nguyễn Kế Tuấn (đồng chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2001; “Con đường CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam” , Lê
Huy Ngọ (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002; “CNH,
HĐH nông nghiệp và nông thôn ở tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh”, Mai Thị
Xuân, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội, 2003; “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ 1991- 2002”, Lê Quang Phi,
Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện chính trị quân sự, Hà Nội, 2006;
"Đảng bộ huyện Thanh Oai lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp từ năm 1996 đến năm 2005”, Phạm Thị Vƣợng, Khoá
luận cử nhân lịch sử, Trƣờng ĐHKHXH và NV, Hà Nội, 2007;
“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại tỉnh Hà Tây và một số
giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hàng hoá đến năm
2010 ”, Nguyễn Thị Thu Hằng, Luận văn cử nhân kinh tế, Trƣờng Đại
học kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2007...Ngoài ra còn có một số bài viết
trên các báo, tập san, tạp chí nông nghiệp, nông thôn có liên quan đến

3


đề tài.
Nhìn chung các công trình này chủ yếu nghiên cứu về thực trạng
tổ chức HTX, kinh nghiệm tổ chức và những giải pháp nhằm đẩy mạnh
phát triển các hình thức hợp tác của hộ nông dân. Nghiên cứu đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp; đầu tƣ cơ sở vật chất tạo đ iều kiện
thuận lợi cho nông nghiệp, nông thôn nƣớc ta phát triển. Nghiên cứu
con đƣờng của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ đó đề ra những
phƣơng hƣớng và giải pháp đối với những vấn đề đặt ra trong quá trình
CNH, HĐH; rút ra bài học học kinh nghiệm cho sự phát triển của giai
đoạn sau.
Các công trình nghiên cứu chủ yếu đề cập đến vấn đề khoa học
kinh tế mà ít đề cập đến góc độ lịch sử. Đối với việc nghiên cứu Đảng
bộ Hà Tây lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn lại càng hạn chế.
Hiện nay chƣa có đề tài nào nghiên cứu về Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh
đạo thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong những năm

1996 - 2005.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
Khôi phục chân thực quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Hà Tây
trong việc thực hiện đƣờng lối CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của
Đảng ở tỉnh Hà Tây (1996-2005).
Làm rõ những chuyển biến kinh tế nông nghiệp, nông thôn qua
việc thực hiện đƣờng lối CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đảng
ở tỉnh Hà Tây
Nêu đƣợc những thành tựu đạt đƣợc và những hạn chế cần khắc

4


phục và rút ra một số bài học kinh nghiệm thiết thực .
Nhiệm vụ
- Tập hợp và lựa chọn những tài liệu lịch sử có liên quan đến quá
trình thực hiện chủ trƣơng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của
Đảng ở tỉnh Hà Tây trong những năm 1996 - 2005.
- Hệ thống các chủ trƣơng của Đảng về CNH, HĐH nông nghiêp,
nông thôn; các biện pháp của Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo thực hiện
chủ trƣơng của Đảng trong những năm 1996 - 2005 và trình bày quá
trình trên theo tiến trình lịch sử.
- Khảo sát thực tiễn thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở tỉnh Hà Tây và bƣớc đầu tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Các chủ trƣơng và biện pháp của Đảng bộ tỉnh Hà Tây và những
diễn biến cụ thể trong quá trình thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở tỉnh Hà Tây.

Phạm vi nghiên cứu
Các vấn đề liên quan đến quá trình thực hiện CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn ở tỉnh Hà Tây trong những năm 1996 - 2005, trọng
tâm nghiên cứu là: Các chủ trƣơng của Đảng về CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn; các biện pháp của Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo thực
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp; thực hiện cơ khí hoá,
thuỷ lợi hoá và ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp;
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn; phát triển c ông nghiệp - dịch vụ

5


nông thôn; phát triển cơ cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn.
5. Nguồn tài liệu, phƣơng pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu
- Các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản
Việt Nam lần thứ VI, VII, VIII, IX, X; Các Nghị quyết, Chỉ thị của
Đảng, Đề án của Ban cán sự Đảng Chính phủ.
- Các Nghị quyết, Chỉ thị, Quyết định của Đảng bộ tỉnh Hà Tây
khoá VII, Khoá VIII, IX. Các báo cáo tổng kết về tình hình nông
nghiệp nông thôn của các cơ quan, sở, ban ngành trong tỉnh.
- Các công trình nghiên cứu có liên quan đến nội dung đề tài.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phƣơng pháp lịch sử để mô tả trình bày quá
trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn những năm 1996 - 2005 và phƣơng pháp logic để
tổng hợp khái quát và nhận xét đánh giá quá trình đó. Ngoài ra còn sử
dụng phƣơng pháp thống kê, so sánh, để làm rõ các sự kiện lịch sử.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, cấu trúc luận

văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Các căn cứ để thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở tỉnh Hà Tây.
Chƣơng 2: Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực hiện CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn (1996 - 2005).
6


Chƣơng 3: Một vài nhận xét về thành tựu, hạn chế và bài học
kinh nghiệm.

CHƢƠNG 1
CÁC CĂN CỨ ĐỂ THỰC HIỆN CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN Ở TỈNH HÀ TÂY
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI CỦA TỈNH HÀ TÂY

Vị trí địa lý
Hà Tây là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong toạ độ điạ lý
từ 20 0 33' - 21 0 18' vĩ độ Bắc và 105 0 17 ‟ - 105 0 59 ‟kinh độ Đông. Phía
Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía Nam giáp tỉnh Hà Nam, phía Đông giáp
thủ đô Hà Nội và tỉnh Hƣng Yên, phía Tây giáp Hoà Bình và Phú Thọ.
Từ Hà Nội có nhiều mạch máu giao thông chiến lƣ ợc qua Hà Tây
rồi toả đi nhiều miền của đất nƣớc: đƣờng 32 qua Phùng, thị xã Sơn
Tây, lên Trung Hà sang Phú Thọ - cửa ngõ Việt Bắc; đƣờng 6 qua thị
xã Hà Đông, Xuân Mai lên Hoà Bình và Tây Bắc; quan trọng nhất là
tuyến quốc lộ số 1 nối thủ đô Hà Nội với thành phố Hồ Chí Minh;
tuyến đƣờng sắt xuyên Việt chạy qua địa bàn các huyện Thƣ ờng Tín,
Phú Xuyên với chiều dài gần 30km. Ngoài ra, giao thông đƣ ờng thuỷ
cũng rất phát triển với đoạn sông Hồng chảy qua địa bàn tỉnh dài
127km và sông Đà là 32km. Với vị trí này tạo điều kiện thuận lợi để Hà

Tây khai thác và phát huy các thế mạnh của mình.
Tổng diện tích tự nhiên của Hà Tây là 2.191,6 km 2 , trong đó diện
7


tích vùng đồng bằng chiếm 66,4% còn lại 33,6% là diện tích đồi núi.
Vùng đồng bằng rộng lớn, màu mỡ thuộc châu thổ sông Hồng chính là
điều kiện quan trọng để Hà Tây phát triển kinh tế nông nghiệp, thâm
canh lúa nƣớc cho năng xuất cao. Ngoài ra với hàng nghìn héc ta gò đồi
thuộc vùng bán sơn địa là tiềm năng lớn để gieo trồng hoa màu, cây
công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc. Rừng quốc gia Ba Vì là nơi
hội tụ của nhiều loại cây gỗ quý, thuốc quý và một số loài thú hiếm.
Các loại đá vôi, đá ong, đá đỏ là tài nguyên có giá trị lớn đối với
nghề xây dựng kiến trúc cũng đ ƣợc tìm thấy.
Địa giới hành chính
Hà Tây trong lịch sử có nhiều lần biến đổi . Hà Đông và Sơn
Tây là hai tỉnh đƣợc thành lập từ thời Pháp thuộc và đ ƣợc duy trì
nguyên trạng cho tới đầu năm 1965. Trƣớc yêu cầu của tình hình mới,
ngày 21 - 4 - 1965, Ban Thƣờng vụ Quốc hội đã phê chuẩn quyết
định số 103-NQ/TVQH về việc hợp nhất hai tỉnh Hà Đông và Sơn
Tây thành tỉnh Hà Tây.
Sau khi đất nƣớc hoà bình, thống nhất, tiến lên xây dựng
XHCN, Hà Tây lại sáp nhập với Hoà Bình thành một tỉnh lấy tên là
Hà Sơn Bình vào năm 1976. Tiếp đó, theo kế hoạch xây dựng vào bảo
vệ thủ đô Hà Nội, năm 1979 một bộ phận của tỉnh Hà Sơn Bình bao
gồm 6 huyện, thị đã cắt chuyển về Hà Nội là: Ba Vì, Thạch Thất,
Phúc Thọ, Đan Phƣợng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây.
Thực hiện Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ
lên XHCN do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đề ra, Quốc hội
khoá VII đã quyết định chia lại và điều chỉnh một số tỉnh, thành phố.

Hà Sơn Bình lại đƣợc tách thành hai đơn vị hành chính là tỉnh Hà
Tây và tỉnh Hoà Bình, đồng thời các huyện thị sáp nhập vào Hà Nội
8


năm 1979 lại đƣợc trả về cho Hà Tây. Nhƣ vậy từ khi tái lập tỉnh (1 10 - 1991), Hà Tây có 14 đơn vị hành chính là thị xã Hà Đông, thị xã
Sơn Tây cùng 12 huyện: Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai,
Đan Phƣợng, Hoài Đức, Chƣơng Mỹ, Thanh Oai, Thƣờng Tín, Phú
Xuyên, ứng Hoà, Mỹ Đức; với 324 xã, phƣờng, thị trấn. Tỉnh lỵ của
Hà Tây đặt tại thị xã Hà Đông, nằm trên trục đƣờng số 6, cách trung
tâm thủ đô Hà Nội 11 km về phía Tây.
Địa hình
Hà Tây là vùng có địa hình khá đa dạng, vùng đồi núi phía Tây và
vùng đồng bằng phía Đông, độ cao dốc dần từ Tây Bắc xuống Đông
Nam
Vùng đồi núi phía Tây bao gồm một số dãy núi lớn nhƣ núi Ba Vì,
núi đá vôi Nƣơng Ngái, Hƣơng Sơn, trong đó vùng núi Ba Vì là vùng
sinh thái hoàn chỉnh (bao gồm cả vƣờn quốc gia Ba Vì) với diện tích
7.000 ha. Núi còn có tên là núi Tản Viên, vƣơn cao ba ngọn, ngọn cao
nhất (1.281m) cũng là điểm cao nhất tỉnh. Vùng núi đá vôi Nƣơng Ngái Hƣơng Sơn chạy theo hƣớng Tây Bắc - Đông Nam với chiều dài trên 30
km. Vùng núi này là ranh giới giữa hai tỉnh Hoà Bình và Hà Tây, hệ sinh
thái là danh lam thắng cảnh.
Vùng đồng bằng phía Đông rộng 169.742 ha, chiếm 65% diện tích
tự nhiên toàn tỉnh. Địa hình vùng đồng bằng nghiêng từ Tây sang Đông
và từ Bắc xuống Nam. Độ cao trung bình của bề mặt đồng bằng từ 2 m
đến 10 m, đặc biệt có một số khu trũng cao 0,8 - 1 m.
Vùng đồng bằng đƣợc chia thành hai phần: vùng bãi ngoài đê và
vùng đồng bằng trong đê. Trong đó vùng bồi ngoài đê của đồng bằng
sông Hồng, sông Đáy và một phần của sông Đà có diện tích trên 20
nghìn ha, chiếm khoảng 7,9% diện tích toàn tỉnh; đây là vùng phì nhiêu,

9


thích hợp với trồng cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng đồng bằng trong
đê là vựa lúa chính của tỉnh Hà Tây với diện tích gieo trồng trên 124
nghìn ha (bằng 58% diện tích tự nhiên của tỉnh) và 3.800 ha mặt nƣớc
dùng nuôi trồng thuỷ sản.
Khí hậu
Nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, cũng nhƣ các tỉnh khác
trong vùng, Hà Tây có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, trong năm có 2
mùa rõ rệt, mùa mƣa và mùa khô. Tuy vậy, do đặc điểm địa hình, Hà
Tây hình thành 3 vùng khí hậu khác nhau:
Vùng đồng bằng: độ cao trung bình 5 - 7 m, có khí hậu của đồng
bằng sông Hồng. Vùng này chịu ảnh hƣởng của gió biển, khí hậu nóng
ẩm hơn, nhiệt độ trung bình trong năm là 23,8 độ C; lƣợng mƣa trung
bình 1700 - 1800 mm.
Vùng đồi: độ cao trung bình 15 - 20 m; có khí hậu “lục địa”, chịu
ảnh hƣởng của gió Lào, nhiệt độ trung bình trong năm 23,5 độ C; lƣợng
mƣa 2300 - 2400 mm/năm.
Vùng núi Ba Vì: Từ độ cao 700 m đến đỉnh núi Ba Vì là 1282 m,
có khí hậu mát, nhiệt độ trung bình cả năm là 18 độ C.
Đất đai
Hà Tây có tiềm năng quỹ đất và khả năng phát triển các loại cây
22

trồng, vật nuôi. Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là: 2191,6 km 2
(219.160 ha). Cơ cấu hiện trạng sử dụng đất nhƣ sau:
- Đất nông nghiệp 136.786,47 ha chiếm 62,3%
- Đất phi nông nghiệp 75.674,99 ha chiếm 34,4%


10


- Đất chƣa sử dụng 7.168,24 ha chiếm 3,3% .
Đất nông nghiệp chủ yếu thuộc vùng đồng bằng phía Nam tỉnh có
độ phì cao gồm 68 ngàn ha thuận lợi cho phát triển cây l ƣơng thực, rau
mầu và cây công nghiệp ngắn ngày. Đất vùng đồi núi 31,4 ngàn ha chủ
yếu đất nâu vàng thuận lợi cho phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp
dài ngày. Đất lâm nghiệp tuy ít nhƣng có rừng đặc dụng, rừng phòng hộ
chiếm 58%, có hệ thực vật phong phú đa dạng. Đất chuyên dùng chủ
yếu là đất thủy lợi, mặt nƣớc chuyên dùng chiếm 38%, đất giao thông
26,8% và đất quốc phòng 15,8%.
Nhìn chung, đất đai của Hà Tây có độ PH cao, với nhiều loại địa
hình có thể trồng đƣợc nhiều loại cây ngắn ngày, cây dài n gày, cây
lƣơng thực, cây công nghiệp, đồng cỏ chăn nuôi. Vùng gò đồi còn
nhiều đất giành cho xây dựng các cơ sở CN hoặc khu CN tập trung và
các cơ sở du lịch.
Nguồn nƣớc
Tài nguyên nƣớc của Hà Tây có đủ về dung lƣợng lƣợng và chất
lƣợng, nếu sử dụng hợp lý sẽ đảm bảo bền vững cho phát triển kinh tế xã hội (cả nƣớc mặt và nƣớc ngầm). Hệ thống sông suối khá dày và
phân bố trải đều với những sông lớn nhƣ sông Hồng, sông Đà bao bọc ở
phía Đông, phía Bắc (sông Đà, sông Hồng chảy qua tỉnh 159 km, sông
Đáy chảy qua tỉnh 103 km), sông Tích, sông Bùi và mạng lƣới sông
ngòi nội tỉnh phong phú và hàng chục hồ, đầm lớn với trên 3500 ha.
Khối lƣợng nƣớc mặt khá lớn khoảng 180 - 250 tỷ m 3 /năm. Nƣớc ngầm
khá dồi dào và nông (độ sâu trên 10 m).
Hệ thống sông gồm 6 sông chính: Sông Hồng, sông Đà và 5 sông
nội tỉnh. Sông Hồng có chiều dài đi qua địa bàn tỉnh Hà Tây là 127 km,
sông Đà dài 32 km; các sông khác nhƣ sông Đáy dài 114 km, sông Tích
11



dài 110 km, sông Bùi dài 32 km, sông Nhuệ hơn 10 km. Toàn tỉnh có
27 hồ chứa lớn nhỏ với tổng dung tích là 189,44 triệu m 3 trong đó: Hồ
Đồng Mô - Ngải Sơn khoảng 86 triệu m 3 ; Hồ Suối Hai khoảng 48 triệu
m 3 ; Hồ Đồng Xƣơng khoảng 14 triệu m 3 ; Hồ Quan Sơn khoảng 12,5
triệu m 3 ; Hồ Văn Sơn khoảng 7,5 triệu m 3 ; Hồ Xuân Khanh khoảng 6,2
triệu m 3 ; Hồ Tân Xã: Khoảng 4,0 triệu m 3 . Còn lại là các hồ nhỏ có
dung tích dƣới 3,0 triệu m 3 . Nƣớc tự chảy tƣới cho khoảng 12.000 ha;
nƣớc bơm tƣới cho khoảng 60.000 ha.
Nhìn chung khí hậu và hệ thống sông suối của Hà Tây tạo điều
kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp sản xuất lƣơng thực, chăn
nuôi và nuôi trồng thuỷ sản. Song cần có biện pháp chủ động nguồn
nƣớc trong sản xuất và sinh hoạt vào mùa khô, đồng thời chú trọng
công tác dự báo, phòng trừ dịch bệnh cho nhân dân và sản xuất.
Tài nguyên rừng
Hà Tây có 2 khu rừng tự nhiên: rừng Quốc gia Ba Vì có diện tích
7.400 ha với chủng loại thực vật phong phú và qúi hiếm, 872 loài thực
vật bậc cao thuộc 427 chi, trong 60 họ đã đƣợc xác định. Khu rừng
chùa Hƣơng (huyện Mỹ Đức) cũng có nhiều loại thực vậ t quý hiếm
đƣợc nhà nƣớc công nhận là khu văn hoá lịch sử, đƣợc phân loại là
rừng đặc dụng.
Tài nguyên khoáng sản
Theo sơ đồ địa chất và khoáng sản năm 1982, Hà Tây có các
khoáng sản chính là: đá vôi, đá granit, đất sét, cao lanh, vàng sa
khoáng, sắt, đồng, pyrit, than bùn, nƣớc khoáng..v.v...với trữ lƣợng khá
lớn, có thể khai thác và chế biến ở qui mô vừa và lớn.
Khoáng sản kim loại: Quặng sắt trữ lƣợng khoảng 16.149 tấn,
12



đồng, vàng gốc và vàng sa khoáng ...
Nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng: Phong phú và đa dạng về
chủng loại bao gồm: Cuội sỏi, sét gạch, bột màu, puzlan, đá bazan, đá
vôi xi măng, đá vôi xây dựng, đá ốp lát, đá ong.
Khoáng sản làm nguyên liệu phân bón, hoá chất: Pyrit trữ lƣợng
16.744.000 tấn quặng Pyrit trong đó có 1.640 tấn lƣu huỳnh , còn ở
Minh Quang 10.710 tấn trong đó trữ lƣợng lƣu huỳnh chiếm 750,45 tấn.
Than bùn trữ lƣợng trên 1 triệu tấn nhƣ Can Mục Thạch Thất và
Bằng Tạ (Ba Vì); các điểm khác có trữ lƣợng từ vài chục đến vài trăm
tấn. Nhìn chung than bùn ở Hà Tây có chất l ƣợng tốt, có thể làm
nguyên liệu sản xuất phân bón...
Kaolin trữ lƣợng mỗi mỏ và điểm khoáng từ vài trăm tấn đến
hơn chục triệu tấn. Các loại khoáng sản phân bố nhiều nơi trong tỉnh.
Trong đó chú ý nhất là khoáng sản làm nguyên liệu sản xuất vật liệu
xây dựng nhƣ Đá bazan. Đây là các loại đá có độ khoáng nén, khoáng
kéo cao, mức độ kết tinh tốt, có thể sử dụng làm vật liệu xây dựng, bê
tông, rải đƣờng và làm phụ gia xi măng. Do vậy trong thời gian tới cần
có các biện pháp quản lý, giữ gìn tài nguyên đá bazan nhƣ một tài sản
quí giá.
Về cảnh quan, di tích lịch sử
Hà Tây là mảnh đất với nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, làm
mê đắm lòng ngƣời. Đó là núi Tản Viên thờ thần Sơn Tinh, ngƣ ời đứng
đầu trong “tứ bất tử”, làng Việt cổ Đƣờng Lâm với đất 2 Vua (Phùng
Hƣng, Ngô Quyền), danh lam thắng cảnh chùa Hƣơng với “Nam thiên
đệ nhất động”; quần thể núi Thầy (Quốc Oai) với “Nhị Thập Bát Tú
Sơn”, đƣợc ví nhƣ vịnh Hạ Long cạn. Lao động và tài năng của ngƣời
13



dân Hà Tây đã sáng tạo ra nhiều công trình có giá trị văn hoá và nghệ
thuật đặc sắc nhƣ chùa Bối Khê (Thanh Oai), đình Tây Đằng (Ba Vì),
chùa Mía (Sơn Tây), chùa Trăm Gian (Chƣơng Mỹ), chùa Tây Phƣơng
(Thạch Thất). Hà Tây có 2.388 di tích lịch sử - văn hoá, đến năm 2006
đã có 1086 di tích đƣợc Nhà nƣớc xếp hạng. Nhiều giá trị văn hoá phi
vật thể nhƣ hò cửa đình, hát dô, chèo tàu, rối nƣớc...; nhiều cảnh quan
kỳ thú thuộc vùng đồi núi Ba Vì, Sơn Tây, Thạch Thất, Mỹ Đức (Ao
Vua, Khoang Xanh, Suối Tiên, Đồng Mô, Đầm Long, hồ Quan Sơn...)
Tài nguyên cảnh quan, di tích lịch sử cùng với vị trí địa lý thuận lợi tạo
ra tiềm năng, lợi thế du lịch rất lớn của tỉnh.
Điều kiện dân cƣ - xã hội
Năm 2005 dân số Hà Tây có 2.543.496 ngƣời, mật độ dân cƣ
trung bình tƣơng ứng các năm 1996 là 1.062 ngƣời/km2, năm 2000 l à
1.105 ngƣời/km2, năm2001 là: 20051.158 ngƣời/km 2 ; gấp trên 4 lần
mật độ trung bình của cả nƣớc. Mật độ dân số cao nhất khu vực nông
thôn là huyện Hoài Đức 2091 ngƣời/km 2 , thấp nhất là huyện Ba Vì 606
ngƣời/km 2 . Cộng đồng dân cƣ tỉnh Hà Tây gồm 4 dân tộc: Kinh, Tày,
Mƣờng, Dao trong đó đông nhất là ngƣời Kinh chiếm 99%.
Số ngƣời trong độ tuổi 15 trở lên có 1.869.469 ngƣời, trong đó số
ngƣời làm việc trong các ngành kinh tế có 1.299.371, trong đó lao động
trực tiếp trong lĩnh vực Nông - Lâm nghiệp - Thuỷ sản có 699.038
ngƣời, chiếm 53% số lao động làm việc tại các ngành kinh tế. Lao động
có tay nghề kỹ thuật ở 1/3 số xã trong toàn tỉnh có làng nghề tiểu thủ
công nghiệp. Về trình độ văn hoá trong lao động nông nghiệp: 21% có
trình độ Trung học phổ thông; 62% trình độ Trung học cơ sở, 14% có
trình độ Tiểu học. Qua kết quả khảo sát của Cục Thống kê Hà Tây năm
2005, lực lƣợng lao động đang tham gia hoạt động kinh tế của toàn tỉnh
chiếm 51% dân số (tƣơng đƣơng cả nƣớc 51%), Trong đó lao động nữ
14



chiếm 53,3% và đƣợc chia ra nhƣ sau:
Trong tổng số lực lƣợng lao động đang tham gia hoạt động kinh
tế: Lao động có trình độ Tiến sĩ là 155 ngƣời; lao động có trình độ Thạc
sĩ là 1088 ngƣời; lao động có trình độ đại học là 36.167 ngƣời; lao
động có trình độ cao đẳng là 21.392 ngƣời; lao động có trình độ trung
cấp 41.786 ngƣời; lao động có trình độ từ đào tạo dạy nghề dài hạn là
39.240 ngƣời; số lƣợng lao động chƣa qua đào tạo dài hạn hoặc chỉ mới
đƣợc truyền nghề, dạy nghề ngắn hạn là 1.157.670 ngƣời.
Tóm lại: Hà Tây có các điều kiện về vị trí địa lý, tài nguyên thiên
nhiên, dân cƣ, truyền thống ... là cơ sở thuận lợi để phát triển kinh tế
toàn diện. Diện tích đất nông nghiệp lớn là điều kiện để phát triển nông
nghiệp đa dạng vùng ven đô. Có thị trƣờng tiêu thụ hàng nông sản thực
phẩm rộng lớn và gần gũi là thủ đô Hà Nội. Hà Tây có điều kiện phát
triển gắn với phát triển vùng thủ đô Hà Nội về công nghiệp, xây dựng,
phát triển thành phố, chuỗi đô thị...; có lợi thế lớn về phát triển các
ngành dịch vụ thƣơng mại, dịch vụ tài chính, ngân hàng, giáo dục, y tế.
Đặc biệt là có thể phát triển các loại hình dịch vụ, du lịch đa dạng: Du
lịch sinh thái, du lịch văn hóa, lễ hội, du lịch thắng cảnh, du lịch làng
nghề, du lịch nghỉ dƣỡng cuối tuần, du lịch thể thao vui chơi giải trí.
1.2. TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN CỦA TỈNH HÀ TÂY
TRƢỚC NĂM 1996 ( KỂ TỪ KHI TÁI LẬP TỈNH THÁNG 10 NĂM 1991)

Trồng trọt
Đảng bộ tỉnh Hà Tây đƣợc tái lập khi Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VII vừa thành công rực rỡ; Đại hội đã tổng kết những thành tự u
trong 5 năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, thông qua cƣơng lĩnh
xây dựng đất nƣớc ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và định hƣớng
kinh tế - xã hội đến năm 2000 là tiếp tục phát triển nông nghiệp “phát
15



triển nông - lâm - ngƣ nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây
dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình
hình kinh tế - xã hội, bƣớc đầu đƣa nền kinh tế vƣợt khỏi tình trạng
nông nghiệp lạc hậu”[14,tr.11]. Đƣợc sự chỉ đạo của Trung ƣơng, ba
tháng cuối năm 1991, Tỉnh uỷ tăng cƣờng lãnh đạo đổi mới, kiên định
con đƣờng chủ nghĩa xã hội, khắc phục tƣ tƣởng bi quan, dao động
trƣớc sự sụp đổ của Liên Xô và các nƣớc XHCN ở Đông Âu, cảnh giác
với mọi âm mƣu phá hoại của mọi thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, Tỉnh uỷ đã lãnh đạo các ngành, các địa phƣơng hoàn thành
giao nộp thuế nông nghiệp, kế hoạch sản xuất vụ đông, chuẩn bị gieo
cấy lúa xuân năm 1992, đẩy mạnh sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp và các ngành kinh tế khác.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, tháng 31992, Đại hội đại biểu lần thứ VII tỉnh Hà Tây đƣợc triệu tập, Đại hội
đã phân tích những thắng lợi đạt đƣợc, đồng thời cũng chỉ ra những
khuyết điểm trong việc chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ, đánh giá thực
trạng tình hình kinh tế trong tỉnh và đề ra mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu
trong 4 năm 1992 - 1995. Đặc biệt giải quyết tốt hơn vấn đề lƣơng thực,
có thêm nhiều nông sản hàng hoá chế biến và hàng tiêu dùng, tăng
nhanh hàng xuất khẩu và đánh giá những năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội VI của Đảng (1986 - 1991), Đại hội nhận thấy, tình hình địa
phƣơng có những chuyển biến đáng kể trên các mặt: lƣơng thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng tăng về số lƣợng và đa dạng về sản phẩm hơn
trƣớc; cơ sở vật chất phục vụ nông nghiệp và nông thôn đƣợc tăng
cƣờng. Thực hiện đổi mới quản lý kinh tế, phát triển kinh tế nhiều
thành phần và đạt đƣợc một số kết quả bƣớc đầu, đời sống nhân dân
trong tỉnh đƣợc cải thiện một bƣớc.
Ngoài ra, Đại hội đã đi sâu đánh giá từng mặt công tác, nhất là


16


thực hiện chƣơng trình lƣơng thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng do Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra, đồng thời chỉ rõ những mặt yếu
kém nhƣ sản xuất phát triển chƣa toàn diện, kết quả ba chƣơng trình
kinh tế chƣa tƣơng xứng với tiềm năng. Vận dụng cơ chế quản lý mới
đối với các thành phần kinh tế còn lúng túng và còn nhiều khuyết điểm.
Đến năm 1993, Tỉnh uỷ đã đề ra một số nhiệm vụ chủ yếu trong 2
năm 1994 - 1995 là:
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông - lâm nghiệp toàn diện, bảo
đảm vững chắc nhu cầu lƣơng thực, tăng nhanh nông sản hàng hoá.
- Xây dựng nền kinh tế theo hƣớng đổi mới cơ cấu kinh tế gắn bó
giữa nông nghiệp với lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất với chế
biến và công nghiệp, dịch vụ nông thôn. Việc giải quyết lƣơng thực
trong mấy năm qua đã có cơ sở để chúng ta chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp theo hƣớng đa dạng hoá sản phẩm.
- Phát triển kinh tế hộ gia đình, đổi mới hoạt động của bộ máy
quản lý HTX và phát triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác, đổi
mới các hình thức kinh tế quốc doanh nông nghiệp.
- Để phát triển nông - lâm nghiệp cần tập trung đầu tƣ vào những
mục tiêu chƣơng trình, theo các dự án đã đƣợc xác định, chú trọng đầu
tƣ giải quyết tiêu úng cho vùng trọng điểm lúa, tƣới vùng bãi, đổi gò.
Chuyển mạnh cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp theo hƣớng sản xuất
hàng hoá, đẩy mạnh phát triển chăn nuôi và chế biến nông - lâm sản.
Làm tốt công tác khuyến nông từ tỉnh đến cơ sở đƣa tiến bộ khoa học
kỹ thuật đến hộ nông dân, hết sức coi trọng giống cây, giống con có
năng suất, chất lƣợng và hiệu quả phù hợp với điều kiện sinh thái từng
vùng. Tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân vay vốn sản xuất; chỉ đạo
chặt chẽ việc giao đất đến hộ nông dân theo luật đất đai làm xong năm

17


1994 và gắn với việc thực hiện xây dựng bản đồ địa giới hành chính
theo Chỉ thị 364 của Thủ tƣớng Chính phủ.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ VII, nhân dân ra sức thi đua sản
xuất nông nghiệp, phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp. Trong
lĩnh vực nông nghiêp, với Chỉ thị 100 của Trung ƣơng (Khoá 5), nghị
quyết 10 của Trung ƣơng thực sự là chìa khoá, là động lực mạnh mẽ
thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp và nông thôn của tỉnh. Đặc biệt
trong tỉnh có những chƣơng trình khuyến nông, tập trung đƣa các giống
cây trồng, vật nuôi vào sản xuất nhằm chuyển dịch cơ cấu mùa vụ cho
phù hợp, các giống lúa cũ thoái hoá năng suất thấp, các giống dài ngày
đã dần dần đƣợc thay thế bằng các giống tiến bộ ngắn ngày có năng
suất cao và mở rộng diện tích cây vụ đông. Trong chăn nuô i, chƣơng
trình cải tạo đàn bò vàng địa phƣơng theo hƣớng giống Sind hoá đƣợc
đẩy nhanh. Nhiều giống gia cầm, thuỷ cầm mới đƣợc đƣa ra sản xuất.
Nhƣ vậy, sau hơn 30 năm thờ ơ với ruộng đất, đến nay ngƣời nông dân
thực sự gắn bó trở lại với đồng ruộng, mạnh dạn đầu tƣ vốn, lao động
để thâm canh tăng năng suất và tăng vụ, đầu tƣ cơ sở hạ tầng chủ yếu,
nhất là thủy lợi cộng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật nông nghiệp
và sự thuận lợi của thời tiết, giúp cho nông nghiệp của tỉnh đạt đƣợc
những kết quả đáng ghi nhận. Tổng giá trị sản lƣợng nông nghiệp năm
1990 đạt 461,9 tỷ, năm 1992 đạt 499,3 tỷ (theo giá cố định năm 1989);
bình quân năm tăng 4,04%.
Thành tựu nổi bật nhất trong nông nghiệp là về sản xuất lƣơng
thực đã tăng cả về diện tích, năng suất và sản lƣ ợng; không những chỉ
tăng lúa mà hoa mầu cũng tăng với tốc độ nhanh. Năm 1992, sản lƣợng
lƣơng thực đã đạt 75,8 vạn tấn so với năm 1989, là năm có sản lƣợng

tăng cao 13%. Trong 5 năm (1989 - 1992) bình quân mỗi năm tăng

18


4,5% về sản lƣợng lƣơng thực. Năm 1992 sản lƣợng lƣơng thực sản
xuất bình quân đầu ngƣời đạt 346 kg, bình quân riêng cho nhân khẩu
nông nghiệp là 414 kg. Do sản lƣợng lƣơng thực tăng nên chúng ta đã
giải quyết đƣợc vấn đề ăn cho toàn tỉnh và một phần dự trữ. Từ đó đã
góp phần ổn định chính trị xã hội ở nông thôn và tạo tiền đề cho sự
phát triển công nghiệp nông thôn.
Đến năm 1993 kinh tế hộ gia đình ở nông thôn rất phát triển, đã
có 93,4% số hộ nông dân đƣợc giao ruộng đất để sản xuất. Nhờ đó nông
dân đã gắn bó trở lại với ruộng đồng và đầu tƣ vốn, lao động để thâm
canh tăng vụ trên tổng thửa đất của mình, lựa chọn những giống cây
phù hợp. Nông dân đã từng bƣớc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào trong
sản xuất nông - lâm nghiệp theo vùng sinh thái và nhu cầu của thị
trƣờng, thực hiện những biện pháp mới thâm canh tổng hợp đem lại
hiệu quả kinh tế cao. Năm 1993 là năm hạn hán gay gắt, nƣớc hồ cạn
kiệt nhƣng đƣợc sự quan tâm của Trung ƣơng, các bộ, các sở, ban
ngành và kết hợp với sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân trong tỉnh nên
công tác thuỷ lợi, xây dựng các trạm bơm dã chiến, tận dụng các nguồn
nƣớc để hỗ trợ nhau, tiếp nƣớc sông Hồng qua các hệ thống thuỷ nông
Phù Sa, sông Tích, sông Nhuệ vào sông Đáy, hoàn thành 2 công trình
lớn lấy nƣớc sông Hồng là cống Phù Sa và cống Ba Giang. Ngoài ra, xã
Quảng Bị huyện Chƣơng Mỹ đã đầu tƣ xây dựng 4 km kênh dẫn nƣớc
bằng bê tông, tạo ra đƣợc mô hình quản lý thuỷ nông mới. Nông nghiệp
năm 1993 nông dân đã giành đƣợc những thắng lợi nhất định. Sản xuất
nông nghiệp phát triển khá toàn diện; sản xuất lƣơng thực đƣợc mùa cả
3 vụ. Tổng sản lƣợng qui thóc đạt 83,2 vạn tấn tăng 7,5 vạn so với năm

1992. Bình quân năng suất lúa toàn tỉnh đạt 84,1 tạ/ha, tốc độ tăng 10
tạ/ha; có 4 huyện đã giành thắng lợi cao nhất đạt 10 tấn trở lên là các
huyện Đan Phƣợng đạt 10,80 tấn/ha, Phú Xuyên đạt 10,40 tấn/ha,
Thƣờng Tín đạt 10,10 tấn/ha, Thanh Oai đạt 10,08 tấn/ha. Phú Xuyên là
19


huyện đồng trũng có tốc độ tăng cao nhất 24%. Vùng bán sơn địa huyện
Thạch Thất cũng đạt gần 9 tấn/ha.
Thực hiện Chỉ thị số 26-CT/TW, ngày 2-8-1993 cuả Ban Bí thƣ
Trung ƣơng Đảng, tháng 2-1994, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tây
mở Hội nghị đại biểu Đảng bộ Tỉnh giữa nhiệm kỳ; Hội nghị đã bàn và
đƣa ra một số chỉ tiêu về phát triển kinh tế:
- Phấn đấu tăng tổng giá trị sản xuất hàng năm là 8% trở lên, thúc
đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến năm 1995 đạt giá trị công
nghiệp, thủ công nghiệp chiểm 30% tổng giá trị sản xuất; trong nông
nghiệp, giá trị chăn nuôi chiếm 30%.
- Tăng cƣờng cơ sở hạ tầng, tạo môi trƣờng thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế địa phƣơng, cần tập trung vào giao thông, điện nƣớc,
thông tin liên lạc, thuỷ lợi và một số công trình bức thiết về văn hoá xã hội.
- Tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế, khuyến khích các thành phần
kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh.
Vụ xuân năm 1994 của Hà Tây đƣợc mùa lớn, năng suất lúa đạt
44,93 tạ/ha, sản lƣợng thóc so với năm 1993 tăng 34 ngàn t ấn. Sau khi
thu hoạch vụ xuân, Tỉnh uỷ chỉ đạo bắt tay ngay vào sản xuất vụ mùa.
Tổng diện tích gieo cấy lúa đúng thời vụ là 83.535 ha. Nhƣng từ ngày
14 đến 17-7-1994 đã xảy ra mƣa lớn, lƣợng mƣa phổ biến 200 ly, có
nơi tới 270 - 320 ly. Mƣa to cộng với lũ rừng ngang từ phía huyện
Lƣơng Sơn tỉnh Hoà Bình đổ xuống, hồ Hoà Bình xả lũ nên mức nƣớc
các sông trên địa bàn tỉnh đều trên báo động số 2. Tại xã Hồng Quang

huyện Ứng Hòa nƣớc lũ vƣợt mức báo động số 3. Mƣa lũ kéo dài làm
ngập úng trên 40.000 ha lúa gây thiệt hại lớn cho nông dân trong tỉnh.

20


Đến năm 1995 kinh tế xã hội của tỉnh đã giành đƣợc những thắng
lợi. Tổng sản phẩm xã hội tăng 10% so với năm 1994. Cơ cấ u kinh tế
có bƣớc chuyển biến tích cực, nông- lâm nghiệp chiếm 49,98%, công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm 27,72%, dịch vụ chiếm 25,3%. Sản
xuất nông nghiệp đã đƣợc đổi mới, cơ cấu giống, thời vụ gieo trồng,
giảm bớt lúa xuân sớm và lúa mùa muộn, mở rộng diện tích vụ đông,
tăng cƣờng cơ sở vật chất phục vụ cho phát triển nông nghiệp.
Năm 1995, tổng sản lƣợng lƣơng thực cả năm đạt 83 vạn tấn,
lƣơng thực bình quân từ 300 kg lên 361 kg. Cây công nghiệp phát triển:
chè tăng 20%, lạc 6,3%, mía 3%...Trồng và bảo vệ rừng đƣợc đẩy
mạnh, trồng mới 800 ha rừng tập trung, 1,6 triệu cây phân tán, khoanh
nuôi 1700 ha, chăm sóc và bảo vệ 1000 ha. Chăn nuôi phát triển đa
dạng, so với năm 1994, đàn bò tăng 9,8%, đàn lợn 6,7%, đàn trâu giảm
1,7%. Các giống gia cầm, thuỷ sản, bò lai Sind năng suất cao đƣợc đƣa
vào sản xuất trên diện rộng.
Nhƣ vậy, qua số liệu trên ta thấy trong ngành trồng trọt, tỷ trọng
cây lƣơng thực vẫn chiếm giá trị lớn khoảng 76% giá trị sản lƣợng
ngành trồng trọt, trong đó cây công nghiệp và thực phẩm chỉ chiếm hơn
10%. Sở dĩ nhƣ vậy là do sự biến đổi của cung cầu và sự điều tiết của
thị trƣờng. Sản phẩm cây lƣơng thực ở thị trƣờng ổn định hơn, đầu ra
dễ hơn và làm ra vẫn có lãi. Vì vậy, ngƣời nông dân không dám mạnh
dạn trồng cây công nghiệp theo qui mô lớn mà chủ yếu sản xuất với qui
mô vừa và nhỏ.
Chăn nuôi

Để phát triển ngành chăn nuôi, Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ VII
(1992) đã đề ra một số nhiệm vụ nhƣ: “Phát triển chăn nuôi trâu, bò,

21


×