Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Đảng bộ tỉnh thanh hóa lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã , phường trong những năm 1986 2001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LUẬN VĂN THẠC SỸ

ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HÓA XÂY
DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP XÃ, PHƯỜNG TRONG NHỮNG
NĂM 1986-2001
CHUYÊN NGÀNH

: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

MÃ SỐ

: 5 03 16

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

: PGS. TS. NGÔ ĐĂNG TRI

NGƯỜI THỰC HIỆN

: VŨ THỊ HOÀNG OANH

HÀ NỘI - 2005

HÀ NỘI, 2006


Mục lục


MỞ ĐẦU:

Trang
1

Chương 1:
ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HÓA LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG TRONG 5 NĂM ĐẦU
CỦA THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 - 1990).

1.1.Nhận thức về vai trò của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở và thực trạng
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã phường của Đảng bộ tỉnh
Thanh Hóa trước đổi mới ( 1975 - 1985).
1.2. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã phường trong 5 năm đầu của thời kỳ đổi mới
(1986 - 1990).
Chương 2:
ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HÓA LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG TRONG NHỮNG NĂM
ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, THỰC HIỆN CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1991 - 2001)

2.1. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã, phường trong những năm đẩy mạnh công cuộc đổi
mới (1991 - 1995).
2.2. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã, phường phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa (1996 - 2001).
Chương 3:
NHẬN XÉT CHUNG VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM CHỦ YẾU


A3.1. Nhận xét chung.
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu.
KẾT LUẬN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
PHỤ LỤC.

6

6

20

41

41

65
79
79
88
95
98
102


1

MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài:

Xây dựng đội ngũ cán bộ luôn luôn là nhiệm vụ quan trọng của Đảng.
Hồ Chí Minh đã nói: “ Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, "công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.[23.269,240]
Cán bộ có vai trò quan trọng ở mọi cấp, mọi ngành, nhất là ở cơ sở.
Cấp chính quyền cơ sở xã, phường là nơi đường lối, chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước được trực tiếp đưa vào cuộc sống, đây là nơi người
cán bộ của Đảng sống gần dân nhất. Uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng
được biểu hiện một cách cụ thể đối với dân thông qua người cán bộ cơ sở.
Mọi tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của quần chúng nhân dân được Đảng nắm
bắt trước hết là từ cán bộ cơ sở. Việc nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm, đề ra
các chủ trương, hoạch định đường lối cũng bắt nguồn từ thực tế do cán bộ cơ
sở đề đạt. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở giữ một vị
trí quan trọng trong chiến lược cán bộ của Đảng ta.
Trước đây, do có đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có năng lực và
phẩm chất để lãnh đạo phong trào cách mạng ở các địa phương, nên Đảng ta
đã tạo ra được sức mạnh giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong giai đoạn cách mạng mới hiện
nay yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt là phải vừa phát huy những ưu
điểm về nhiệt tình và phẩm chất chính trị, vừa phải vươn lên rất nhiều về năng
lực chuyên môn để quản lý và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ở cơ sở. Để đưa sự nghiệp đổi mới công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước đến thành công đòi hỏi phải có một đội ngũ cán
bộ có phẩm chất và năng lực ngày càng cao hơn trước. Vì thế, nhiệm vụ xây


2

dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Đảng, mà trước hết là cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở trở nên vô cùng cần thiết và cấp bách.
Để nghiên cứu lịch sử của Đảng trong thời kỳ đổi mới nói chung, lịch

sử của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa nói riêng, đồng thời để góp phần tổng kết
những kinh nghiệm trong lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở, đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ CBCC cấp cơ sở có phẩm chất và năng
lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay, tôi đã quyết
định chọn nghiên cứu vấn đề “Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã phường trong những năm 1986 - 2001” làm đề
tài cho bản luận văn thạc sĩ khoa học, chuyên ngành lịch sử Đảng, của mình.
2 - Lịch sử nghiên cứu của vấn đề.
Do tầm quan trọng của vấn đề cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở, nên lâu nay đã có nhiều bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà
nước, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học ở trung ương và địa
phương về vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
Trên các tạp chí tiêu biểu có các bài: “Bố trí đúng cán bộ chủ chốt,
phong trào chuyển biến”, của Hoàng Đức Hiền (Tạp chí Xây dựng Đảng, 91987); “Bàn về năng lực của người bí thư cơ sở” của Lê Duy Thái (Tạp chí
Giáo dục lý luận, 3-1989); “Đào tạo, bồi dưỡng phục vụ công tác quy hoạch
cán bộ” của Tô Huy Rứa (Tạp chí Cộng sản, 21-1991); "Đánh giá, bố trí, sử
dụng cán bộ" của Tiến Hải (Tạp chí Cộng sản, 15- 1998)...
Sách đã xuất bản có: “Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ” của
PGS. PTS Đức Vượng (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995); "Đổi mới để
tiến lên" của Nguyễn Văn Linh (Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1998); Luận
án Phó tiến sĩ có: "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá trình xây dựng đội


3

ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở từ 1975 1993" của Bùi Thị Hồng Tiến (Hà Nội, 1994)...
Trong các bài viết, các công trình nghiên cứu đó, các tác giả đã đề cập
đến vấn đề vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, sự cần
thiết phải đổi mới công tác cán bộ, quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở; xác định cơ cấu, tiểu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ

thống chính trị; đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở. Song chưa có tác giả nào nghiên cứu đến quá trình xây dựng
đội ngũ cán bộ cấp xã phường ở Thanh Hoá từ năm 1986 đến năm 2001 dưới
góc độ lịch sử Đảng. Trong quá trình thực hiện luận văn này, tác giả kế thừa
một cách có chọn lọc những nội dung cơ bản đã nêu trên, đồng thời tập hợp
các tư liệu ở Thanh Hóa để nêu lên kết luận, nhận xét, rút ra các kinh nghiệm
từ kết quả nghiên cứu cụ thể các vấn đề ấy trên địa bàn Thanh Hoá.
3 - Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một lĩnh vực hoạt động quan
trọng của Đảng bộ tỉnh Thanh hoá: hoạt động lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở trong những năm 1986 - 2001, để góp phần vào việc
nghiên cứu lịch sử Đảng bộ Thanh Hóa thời kỳ này; đồng thời qua đó rút ra một
số kinh nghiệm phục vụ yêu cầu thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã
phường ở Thanh Hóa hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn là trình bày một cách có hệ thống quá trình
Đảng bộ Thanh Hoá lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ
1986 đến 2001; nêu lên vai trò của cán bộ chủ chốt xã phường trong hoạt
động thực tiễn và các thành tựu, hạn chế của Đảng bộ Thanh Hóa lãnh đạo
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã phường trong những năm 19862001. Từ đó rút ra một số kinh nghiệm về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ


4

chốt cấp xã phường ở Thanh Hoá để góp phần phục vụ nhiệm vụ này ở Thanh
Hóa hiện tại.
4 - Đối tượng và giới hạn nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quan điểm, chủ trương
lãnh đạo xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã phường của Đảng bộ tỉnh Thanh
Hóa (gồm một số chức danh chủ yếu như: bí thư đảng uỷ, phó bí thư trực
đảng, chủ tịch uỷ ban nhân dân, chủ tịch mặt trận tổ quốc, bí thư Đoàn thanh

niên cộng sản Hồ Chí Minh, hội trưởng hội phụ nữ…)
Giới hạn nghiên cứu: về thời gian là trong những năm 1986 đến 2001, về
phạm vi nghiên cứu là trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
5 - Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về công tác
cán bộ, nhất là với cán bộ chủ chốt cấp xã phường.
Nguồn tư liệu viết luận văn là một số tác phẩm của Hồ Chí Minh về
vấn đề cán bộ; các nghị quyết của Đảng, luật pháp Nhà nước, các báo cáo của
mặt trận và các đoàn thể cấp Trung ương, Nghị quyết các đại hội, các báo cáo
của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá ở một số huyện, một số phường, xã, thị trấn trong
tỉnh từ 1986 đến năm 2001; là các sách, các bài viết có liên quan đến đề tài luận
văn của các tác giả đã được công bố.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp lịch sử kết hợp
với phương pháp logic, phương pháp thống kê, phương pháp điều tra xã hội
học, phương pháp phân tích, tổng hợp…, thông qua các sự kiện lịch sử, các số
liệu được trình bày có hệ thống để rút ra những nhận định, những kinh
nghiệm lịch sử phục vụ hiện tại.


5

6 - Đóng góp của luận văn.
Thông qua việc hệ thống hóa, phân tích các sự kiện, tư liệu lịch sử, luận
văn góp phần làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ cấp xã phường từ năm 1986 đến 2001; qua đó nêu lên thực
trạng mạnh, yếu của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh Hoá.
Rút ra một số kinh nghiệm về lãnh đạo, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã phường của Đảng bộ Thanh Hoá để góp phần vào việc nghiên cứu
lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa và đổi mới công tác lãnh đạo xây dựng đội

ngũ cán bộ cấp xã phường ở Thanh Hóa hiện nay.
7- Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo.
luận văn chia thành 3 chương 6 tiết.
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã, phường trong 5 năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986 - 1990).
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã, phường trong những năm đẩy mạnh công cuộc đổi mới thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1991 - 2001).
Chương 3: Nhận xét chung và những kinh nghiệm chủ yếu.


6

Chương 1
ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG TRONG 5 NĂM ĐẦU CỦA THỜI
KỲ ĐỔI MỚI (1986 -1990)
1. 1. Nhận thức chung về vai trò cán bộ chủ chốt cấp cơ sở và thực
trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường của
Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa trước đổi mới (1975-1986).
1.1.1. Quan điểm, nhận thức chung của Đảng ta về vai trò cán bộ
chủ chốt và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
Đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ luôn có một vị trí và tầm quan trọng
đặc biệt trong sự nghiệp cách mạng của quần chúng nhân dân. Nhìn vào lịch
sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, ở bất cứ thời kì nào chúng ta
cũng thấy các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê Nin đều đề cao vai trò
cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
C.Mác, và Ph.Ăngghen là những người đặt nền móng cho vấn đề cán
bộ của giai cấp vô sản. Hai ông không chỉ là những người sáng lập ra chủ

nghĩa xã hội khoa học mà còn là những người đem lý luận khoa học đó kết
hợp với phong trào công nhân, lập nên tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới.
Trong điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng ở thời kỳ Đảng chưa nắm chính
quyền, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có thực tế để bàn nhiều về vấn đề cán bộ
và công tác cán bộ. Nhưng hai ông rất quan tâm đến việc xây dựng một đội
ngũ những nhà tuyên truyền, cổ động, truyền bá tư tưởng cộng sản; lãnh đạo,
tổ chức các phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản, trên cơ sở đó kết hợp
với phong trào công nhân để lập nên chính đảng của giai cấp công nhân. Hai
ông cho rằng: “Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn


7

thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực
tiễn”[22.181].
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ cho giai cấp vô sản thấy rằng: nếu không
có những hoạt động thực tiễn có mục đích thì những tư tưởng tốt đẹp bao
nhiêu cũng chẳng đem lại kết quả mong muốn nào cả; Đảng cộng sản phải
quan tâm đến công tác cán bộ thì cách mạng vô sản mới thành công. Theo hai
ông vấn đề cán bộ hoàn toàn xuất phát từ thực tế khách quan do lịch sử đòi
hỏi. Mỗi thời đại, xã hội muốn phát triển được đều phải có đội ngũ cán bộ
tương ứng cho thời kỳ lịch sử của mình. Nghĩa là công tác cán bộ cũng phải
vận động và phát triển theo sự vận động của cách mạng.
Bước lên vũ đài chính trị trong những hoàn cảnh mới từ cuộc đấu tranh
giai cấp của giai cấp vô sản, V.I.Lênin không chỉ là người kế tục xuất sắc về
mặt lý luận học thuyết của Mác, bảo vệ chủ nghĩa Mác trước sự tấn công của
kẻ thù, mà còn là nhà thực tiễn lỗi lạc, đã làm được công việc vĩ đại là đưa lý
luận cách mạng vào phong trào công nhân, tổ chức ra đảng kiểu mới của giai
cấp vô sản, lãnh đạo thực hiện thành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
đầu tiên trong lịch sử nhân loại, biến những tư tưởng của C.Mác và

Ph.Ăngghen trở thành hiện thực.
Cuộc đời hoạt động sôi nổi không mệt mỏi của V.I.Lênin là minh
chứng hùng hồn cho vai trò của cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
V.I.Lênin đã chỉ ra một cách sâu sắc và khoa học tầm quan trọng của vấn đề
cán bộ trong việc thực hiện các mục tiêu có tính cương lĩnh của Đảng. Trong
mọi thời kỳ cách mạng, vai trò này bắt nguồn từ sứ mệnh lịch sử khách quan
của đảng cộng sản - lãnh tụ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trong cuộc đấu tranh xoá bỏ chế độ xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới, xã
hội chủ nghĩa.


8

Ngay từ khi thành lập Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân V.I.Lênin
đã đặc biệt chú ý đến vấn đề cán bộ. Người khẳng định: “Trong lịch sử chưa
hề có giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo ra được
trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong
có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" [19.473];
Lênin còn nhấn mạnh rằng trong đội ngũ cán bộ nói chung thì đội ngũ
cán bộ chủ chốt giữ vị trí hết sức quan trọng, vì họ là hạt nhân, là những
người lãnh đạo chủ yếu, những người được giao trách nhiệm quan trọng nhất
trong mỗi tổ chức của Đảng và Nhà nước. Và từ việc phân tích sâu sắc những
bài học lịch sử, Lênin chỉ ra rằng: vấn đề cán bộ, lựa chọn người bố trí vào
cương vị lãnh đạo là nhiệm vụ quan trọng nhất của Đảng. Lênin gọi đó là “cái
chốt” của tình hình.
Như vậy, qua tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin
chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng và yêu cầu khách quan của nhiệm vụ
đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Nhiệm vụ đó được bắt nguồn từ sứ
mệnh lịch sử khách quan của giai cấp vô sản, và nó phải luôn luôn không
ngừng được đổi mới nhằm xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ phù hợp

với sự chuyển biến, với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng.
Hồ Chí Minh- người sáng lập và rèn luyện Đảng ta đã phải quán triệt
sâu sắc vận dụng sáng tạo và phát triển hơn nữa quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về vai trò của cán bộ và công tác cán bộ.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm đến công tác cán bộ. Người cho rằng “Cán bộ là nguồn gốc của
mọi công việc”, “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém” [23.269,240]. Chính từ nhận thức đó mà trong quá trình chuẩn bị các
mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng cộng sản Người
đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ Người tập hợp những thanh niên Việt


9

Nam yêu nước ở hải ngoại, mở các lớp huấn luyện ở Quảng Châu (Trung
Quốc), Người viết “Đường cách mệnh” làm tài liệu và trực tiếp huấn luyện
cán bộ. Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là một trong những tổ
chức tiền thân của Đảng cộng sản để giáo dục, đào tạo cán bộ cho cách mạng
nước ta.
Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, đảng viên của Đảng phải không ngừng
học tập và rèn luyện cả Đức và Tài để phục vụ cách mạng tốt hơn nữa, nhiều
hơn nữa. Người nói “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua
là Vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được
mọi người yêu mến ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu rơi vào
chủ nghĩa cá nhân” [27.557,558]. Người khuyên cán bộ đảng viên hãy ghi
nhớ lời dạy của Lênin “Học, học nữa, học mãi” và đòi hỏi cán bộ phải học tập
theo yêu cầu và nội dung mới.
Trong hội nghị bàn về công tác huấn luyện học tập năm 1950, Hồ Chí
Minh căn dặn: “Ai lãnh đạo ngành hoạt động nào thì phải biết chuyên môn về
ngành đó mới có thể lãnh đạo mới sát” [24.47]. Người yêu cầu cán bộ, đảng

viên phải chịu khó học tập chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật để nâng cao
năng lực kinh tế phát triển, chiến đấu thắng lợi, đời sống nhân dân ngày càng
ấm no, vui tươi. Người khẳng định vấn đề có ý nghĩa quyết định là cán bộ,
cho nên phải “đào tạo thật nhiều cán bộ. Chỉ có như thế chúng ta mới xây
dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội”[26.313].
Và trong bản Di chúc lịch sử, Người còn căn dặn chúng ta trước lúc đi
xa: “Đảng là Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên, cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
phải giữ gìn Đảng thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.


10

Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cán bộ có ý nghĩa cách mạng sâu sắc,
Người cho rằng: người cán bộ, đảng viên phải vừa “hồng” vừa “chuyên”; phải
không ngừng học tập trau dồi lý tưởng cách mạng, chuyên môn, nghiệp vụ, tri
thức mới, phong cách làm việc khoa học. Để luôn xứng đáng với vai trò lãnh
đạo của Đảng. Đồng thời chỉ ra yêu cầu hàng đầu là phẩm chất của “người
lãnh đạo chính trị” vừa nói lên phẩm chất chỉ có ở người lãnh đạo của giai
cấp vô sản là tính quần chúng. Chính điều đó làm cho người cán bộ không
đứng trên quần chúng mà phục vụ quần chúng, là “đầy tớ của nhân dân” chứ
không phải là “quan cách mạng”.
Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng ta từ Trung ương đến cơ
sở đã luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực để hoàn
thành nhiệm vụ. Trong quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng
đã đặc bịêt quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ và ngày càng nhận
thức rõ rằng: năng lực lãnh đạo và chiến đấu của Đảng phụ thuộc một cách quyết
định vào chất lượng của đội ngũ cán bộ. Phải coi công tác cán bộ là vấn đề có tầm
quan trọng chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình. Về cơ bản

Đảng đã từng bước xây dựng được một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng
lực thực hiện các nhiệm vụ cơ bản của từng giai đoạn cách mạng.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cả nước ta đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện: tình hình thế giới và trong nước có
nhiều biến động nhanh chóng và phức tạp. Nhiệm vụ mới trong tình hình mới
đòi hỏi Đảng phải có phương thức hoạt động mới đội ngũ cán bộ tương ứng.
Nhận thức được điều đó nhiều nghị quyết mà Đảng và Nhà nước ta trong thời
kì này đã chỉ rõ phải: “bồi dưỡng và nâng cao nhanh chóng trình độ và năng
lực công tác của các loại cán bộ, trước hết cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý”.
Thế nhưng trong thực tế chúng ta đã có thiếu sót là không tích cực và kịp thời


11

đưa cán bộ ưu tú đã trải qua kháng chiến đi đào tạo, bồi dưỡng một cách có kế
hoạch, bài bản.
Thời kỳ này còn có quan niệm cho rằng ta đã đánh thắng Mỹ thì việc gì
cũng làm được; cán bộ có quyết tâm, có nhiệt tình, có lý lịch trong sạch là có
thể làm bất cứ việc gì Đảng giao; ai đã trúng vào cấp uỷ thì bố trí làm việc gì
cũng tốt. Vì vậy trong lựa chọn và bố trí cán bộ có thiên hướng nặng về tiêu
chuẩn, nhiệt tình, ý chí, quá trình công tác mà xem nhẹ trình độ học vấn, kiến
thức khoa học, chất lượng và hiệu quả công tác. Có thể nói nhiệm vụ mới rất
nặng nề nhưng cán bộ chưa được chuẩn bị, trình độ hiểu biết và năng lực quản
lý còn nhiều hạn chế.
Đó cũng là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến những chủ trương sai lầm
góp phần làm trầm trọng thêm những khó khăn trong thời kì khủng hoảng
kinh tế - xã hội cuối những năm 70 đầu những năm 80. Khi đánh giá tình hình
Thanh Hoá thời kỳ này, văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Thanh Hoá lần thứ XII
(1986) viết: “...Trong việc thực hiện nhiệm vụ hai chiến lược còn những
nhược điểm, khuyết điểm, nổi lên là kinh tế phát triển chậm chưa toàn diện,

chất lượng hiệu quả còn thấp, có những mặt còn yếu kém như kinh tế rừng,
kinh tế biển, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xuất khẩu. Công tác quốc
phòng an ninh chưa được xây dựng thực sự vững mạnh từ cơ sở”. Nguyên
nhân là do: “cán bộ chủ chốt và các cơ quan lãnh đạo, quản lý kinh tế còn nặng
chủ quan, giản đơn và bảo thủ. Việc tổ chức chỉ đạo thực hiện còn quan liêu, hành
chính bao cấp nặng, chưa bám sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết.
Tổ chức bộ máy và cán bộ còn nhiều chỗ chưa phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ”
[14].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đánh dấu
một bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cũng
chỉ ra nguyên nhân của những sai lầm, khuyết điểm trong thời gian qua:


12

“Những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ
những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của
Đảng”, do “sự lạc hậu về nhận thức lý luận và sự vận dụng các quy luật đang
hoạt động trong thời kì quá độ” [9.27].
Cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nhấn mạnh: “Chúng ta nhận thức
sâu sắc rằng nếu không kiên quyết đổi mới về tổ chức bộ máy và cán bộ thì
không một chủ trương, chính sách nào thực hiện được tốt. Nhiệm vụ đổi mới
tổ chức bộ máy và cán bộ vẫn tiếp tục là một trong những nhiệm vụ hàng đầu
của chúng ta hiện nay và sắp tới” [18.132], và Đại hội VI xác định: “Đổi mới
đội ngũ cán bộ có nghĩa là đánh giá, lựa chọn, bố trí lại đi đôi với đào tạo,
bồi dưỡng để có được một đội ngũ cán bộ có đủ tiêu chuẩn về phẩm
chất và năng lực lãnh đạo, quản lý ngang tầm nhiệm vụ” [9.132].
Từ nội dung được trình bầy ở trên, chúng ta có thể thấy rõ từ trước đến
nay cả về lý luận và thực tiễn, đổi mới công tác cán bộ luôn là một đòi hỏi
khách quan. Điều đó xuất phát từ vị trí và vai trò của cán bộ cũng như công

tác cán bộ lối với sự nghiệp cách mạng của Đảng cộng sản. Đặc biệt ở những
mốc chuyển giai đoạn của cách mạng, khi mà nhiệm vụ và phương thức hoạt
động thay đổi, đội ngũ cán bộ hiện có chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
của thời kỳ mới thì đổi mới công tác cán bộ lại càng trở nên vô cùng cần thiết,
và đó là một đòi hỏi khách quan.
1.1.2. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
phường ở Thanh Hóa trước đổi mới (1975-1985).
Thanh Hoá là một tỉnh có tiềm năng kinh tế lớn nằm cách thủ đô Hà
Nội 153 Km về phía Nam, với 98 km đường quốc lộ 1A đi qua. Diện tích tự
nhiên toàn tỉnh là 11.168 km2, bằng 3,3% diện tích cả nước với trên 500 km
địa giới tỉnh và quốc gia, khoảng 102 km bờ biển, 70% đất đai là đồi núi và


13

rừng. Có thể nói Thanh Hoá như là một hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam
với đủ các vùng rừng núi, trung du, đồng bằng và thềm lục địa; có khả năng
hỗ trợ và liên kết với nhau để xây dựng và phát triển nền kinh tế nông, lâm,
ngư nghiệp tương đối hoàn chỉnh.
Cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc, nhân dân Thanh Hoá cũng
đã đóng góp nhiều sức người sức của vào quá trình dựng nước và giữ nước
của dân tộc. Những Bà Triệu, Lê Lợi, Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Tống
Duy Tân đã luôn là niềm tự hào của nhân dân Thanh Hoá. Trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân Thanh Hoá đã có
nhiều đóng góp vô cùng to lớn. Chỉ tính riêng trong chiến dịch Điện Biên Phủ
nhân dân Thanh Hoá đã đóng góp 1.061.593 lượt người dân công, hàng chục
tấn vũ khí, 4.361 tấn gạo, 1.300 con bò, 2000 con lợn, 250.000 quả trứng, 450
tấn cá khô, 2000 hũ nước mắm, 150 tấn đậu các loại. Trong lần về thăm
Thanh Hoá lần thứ hai (13-6-1957), Hồ Chí Minh đã khen ngợi “Bây giờ
tiếng Việt nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ

đến đâu, đồng bào Thanh Hoá cũng có một phần vinh dự đến đó” [ 25.400].
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước(1954 - 1975), Thanh
Hoá còn là hậu phương lớn cung cấp sức người, sức của cho chiến trường
Miền Nam. Đặc biệt là qua hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,
mặc dù bị tàn phá rất nặng nề nhưng nhân dân Thanh Hoá đã có những đóng
góp to lớn rất đáng tự hào cho cuộc kháng chiến anh dũng của cả dân tộc.
Những con người ưu tú của Quê hương Thanh Hoá đã lần lượt lên đường đi
chiến đấu và nhiều người đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường. Tính từ tháng
8 năm 1945 đến tháng 10 năm 1995, Thanh Hoá có 391.657 người đi bộ đội,
41.863 người đi thanh niên xung phong. Toàn tỉnh có 6.559 liệt sĩ, 32.146
thương binh, 25 đơn vị và 71 cá nhân được tuyên dương anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân, có 1.125 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 2 đơn vị và 16 cá


14

nhân được tuyên dương Anh hùng lao động. Đó là những con số biết nói, nói
lên truyền thống đánh giặc, bảo vệ và xây dựng của quê hương Thanh Hoá.
Bên cạnh đó thời kỳ trước đổi mới Thanh Hoá còn một số vấn đề phải
quan tâm hơn như: Tỷ lệ dân số ở mới là quá cao (2,3%). Số người đến tuổi
lao động mỗi năm tăng thêm 31.000 người nhưng chưa đủ việc làm. Phân bố
lao động lên trung du, miền núi chậm. Trên dưới 15% số hộ nông dân còn
thiếu ăn. Đời sống của những người ăn lương, hưởng trợ cấp xã hội, lực lượng
vũ trang, một số gia đình liệt sỹ, thương binh còn nhiều khó khăn do giá cả
tăng vọt, tiền lương thực tế giảm sút nhanh. Một bộ phận cán bộ công nhân
viên, thanh niên bị cuốn hút vào chủ nghĩa thực dụng tầm thường, sa sút về
phẩm chất và nếp sống.
Công tác tổ chức, chăm lo đời sống nhân dân về vật chất và tinh thần
chưa được giải quyết tốt từ cơ sở.
Sự nghiệp giáo dục, văn hoá thông tin, phát thanh, y tế tiến bộ chậm,

chất lượng thấp.
Sinh hoạt văn hoá tinh thần ở vùng sâu, vùng xa ít được quan tâm.
Vệ sinh phòng bệnh, thể dục thể thao chưa thành phong trào rộng rãi
thường xuyên, chất lượng khám chữa bệnh, sản xuất phân phối thuốc vẫn
kém. Hoạt động y tế cơ sở, ở các bệnh viện còn nhiều phiền hà, tốn kém cho
người bệnh. Lòng tin của quần chúng đối với Đảng và Nhà nước bị giảm sút
[14].
Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần thứ XII ( 10-1986),
Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ đã nêu lên nguyên nhân của tình hình trên:
Trước hết là do sự lãnh đạo của Đảng bộ và sự điều hành của chính quyền
các cấp nhất là cấp tỉnh chưa phát huy mạnh mẽ truyền thống cách mạng vẻ
vang của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, khả năng hiện thực và tiềm lực
phong phú của địa phương và từng ngành. Cụ thể là:


15

1) Việc bố trí cơ cấu kinh tế - xã hội, cơ cấu đầu tư, tổ chức lại sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ còn nhiều chỗ chưa sát hợp, vừa chậm trễ vừa phân tán.
2) Chưa vận dụng tốt đồng thời 3 cuộc cách mạng, trong đó cách mạng
khoa học kỹ thuật là then chốt. Chưa sử dụng và phát huy tốt sức mạnh tổng
hợp của chuyên chính vô sản trong đấu tranh chống tiêu cực, đấu tranh giai
cấp giữa hai con đường. Đặc biệt chưa kết hợp hữu cơ và năng động việc
củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với phát triển lực
lượng sản xuất; chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chưa coi trọng lấy kế
hoạch hoá làm trung tâm và các chính sách đòn bẩy kinh tế. Cán bộ chủ chốt
và các cơ quan lãnh đạo, quản lý kinh tế còn nặng chủ quan, giản đơn và bảo
thủ.
3) Việc tổ chức chỉ đạo thực hiện còn quan liêu, hành chính bao cấp
nặng, chưa bám sát cơ sở, thiếu kiểm tra đôn đốc, sơ kết, tổng kết. Tổ chức bộ

máy và cán bộ còn nhiều chỗ chưa phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ
[14.28,29].
Có thể nói những nguyên nhân của tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội ở
Thanh Hoá vào đầu những năm 80 như Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh
Hoá lần thứ XII đã nêu lên đều là những nguyên nhân chủ quan. Nó phản ánh
trình độ và năng lực đội ngũ cán bộ, trong đó đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới - thời kỳ cả nước đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; chưa phát huy được truyền thống, chưa khơi
dậy được tiềm năng, và ngay cả những “khả năng hiện thực” - như trong Văn
kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần thứ XII đã viết - cũng còn chưa phát
huy được. Để làm rõ hơn điều này chúng ta hãy xem xét một số đặc điểm
chung nhất về thực trạng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã phường ở Thanh
Hoá trước đổi mới.


16

Những ưu điểm chính: Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở xã, phường ở
Thanh Hoá có số đông được rèn luyện, thử thách trong chiến đấu và phục vụ
chiến đấu, trong sản xuất và công tác trong những năm chiến tranh khó khăn
nên có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng của Đảng, sẵn
sàng hi sinh bảo vệ Đảng, bảo vệ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa.
Đây là đặc điểm chung nhất và là thế mạnh lớn nhất của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã, phường ở Thanh Hoá trước đổi mới. Đặc điểm này vẫn được
duy trì đến tận ngày nay. Theo kết quả điều tra năm 1995 ở 172 xã, phường
thuộc 17 huyện và thành phố Thanh Hoá thì hiện đang còn 60% cán bộ chủ
chốt xã, phường nguyên là bộ đội hoặc thanh niên xung phong trở về, chỉ có
20,4% trưởng thành từ cơ sở và 19,6% là từ những nguồn khác [ phụ lục 1].
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh Hoá có tinh thần khắc phục khó

khăn gian khổ, sẵn sàng nhận và phấn đấu để hoàn thành mọi nhiệm vụ được
giao. Xã, phường nào cũng có những tấm gương cán bộ tận tuỵ làm việc
không ngại khó khăn và tỏ ra năng động trong công tác, hoàn thành được
nhiệm vụ chung và tổ chức làm kinh tế gia đình tốt. Nhiều cơ sở ở nông thôn
vốn là những điển hình kinh tế tiên tiến trong những năm chiến tranh thì ở
giai đoạn này vẫn giữ được và có bước phát triển như: Hoằng Quý, Hoằng
Anh (Hoằng Hoá); Xuân Thành (Thọ Xuân); Tiến Nông (Triệu Sơn); Nga
Thuỷ (Nga Sơn)... ở thời điểm năm 1984, loại hợp tác xã nông nghiệp được
đánh giá là khá đã tăng từ 13,4% lên 25%; loại hợp tác xã trung bình từ
46,8% lên đến 50,6%; loại yếu kém giảm từ 39,8% xuống còn 24,3%. Số bí
thư Đảng uỷ xã được xếp đảng viên loại A (xuất sắc) và B chiếm 91,4%; chủ
tịch xã được xếp loại A và B chiếm 89%. Phó Bí thư trực Đảng xếp loại A và
B chiếm 87%. Số Đảng viên bị xếp loại C ở cả 3 chức danh trên chỉ chiếm tỷ
lệ thấp: Bí thư Đảng uỷ: 8,4%; Chủ tịch xã: 13%; Trực Đảng uỷ xã: 13% [41].


17

Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh Hoá có tinh thần học tập
nâng cao trình độ công tác và cầu tiến bộ. Đa số cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
Thanh Hoá thời kì trước đổi mới nguyên là bộ đội hoặc thanh niên xung
phong trong chiến tranh. Trong thời kì chiến tranh họ đang còn học dở phổ
thông hoặc vừa tốt nghiệp phổ thông xong thì phải xếp sách bút lại lên đường
đi chiến đấu. Được thử thách trong chiến tranh họ trưởng thành lên về bản
lĩnh chính trị song kiến thức văn hoá lại bị rơi rụng nhiều, nay trở về địa
phương được giao trọng trách, họ ở trong tình trạng thừa nhiệt tình nhưng lại
thiếu kiến thức thực tế về sản xuất, về lãnh đạo kinh tế và các hoạt động xã
hội khác. Vì vậy họ rất ham học tập nhằm năng cao trình độ và năng lực công
tác. Điều này được biểu hiện ở một số người đăng ký theo học ở trường Đảng
tỉnh hàng năm: Đã trong nhiều năm nay trường Đảng Hoàng Văn Thụ trước

đây và trường chính trị tỉnh Thanh Hoá ngày nay không có năm nào vắng
bóng học viên. Năm nào số người đăng ký theo học cũng vượt quá chỉ tiêu
chiêu sinh. Riêng năm 1985 ngoài 3 lớp trung cấp lý luận học tập trung ở
trường Đảng Hoàng Văn Thụ với 260 học viên và 7 lớp tại chức mở tại các
huyện với hơn 700 học viên, còn có 1969 cán bộ chủ chốt xã, phường đương
chức được tổ chức cho học tập, bồi dưỡng về lý luận và nghiệp vụ [44]. Ngoài
ra, đội ngũ cấn bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh Hoá nhìn chung còn có đức
tính cần cù, giản dị, gần gũi quần chúng, được quần chúng yêu mến.
Trên đây là những ưu điểm và thế mạnh rất cơ bản của đội ngũ cán bộ
chủ chốt xã, phường ở Thanh Hoá. Những ưu điểm và thế mạnh đó là một
trong những nhân tố quan trọng góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội
ở Thanh Hoá trong những năm khủng hoảng kinh tế - xã hội, đưa Thanh Hoá
vượt qua khó khăn, đạt được những thành tích trên nhiều lĩnh vực, nhất là trên
mặt trận sản xuất lương thực.


18

Bên cạnh những ưu điểm và thế mạnh nói trên, đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở Thanh Hoá cũng có một số mặt yếu và hạn chế sau:
Đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường ở Thanh Hoá còn mang nặng tư
tưởng sản xuất nhỏ của người tiểu nông, nhiều đồng chí chưa có tầm suy nghĩ
chiến lược, làm ăn lớn. Có một số cán bộ chịu ảnh hưởng khá nặng tư tưởng
phong kiến, gia trưởng, cục bộ địa phương, tư tưởng dòng họ trong công tác
cán bộ, trong việc bàn bạc quyết định xây dựng các công trình phục vụ sản
xuất và đời sống ở cơ sở. Những tư tưởng lạc hậu nêu trên là lực cản đáng kể,
cản trở tính sáng tạo của cán bộ, đảng viên và quần chúng, ảnh hưởng không
tốt đến việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội ở địa phương.
Trình độ của đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường ở Thanh Hoá trước
đổi mới còn quá thấp so với yêu cầu xây dựng và phát triển kinh tế thời kỳ sau

chiến tranh. Năm 1985, còn “có những đảng bộ cơ sở còn chưa xác định rõ
cơ cấu kinh tế, chưa xác định được bước đi và tạo điều kiện phát triển nhanh,
nhất là mở rộng nghành nghề và xuất khẩu” [44]. Số đông cán bộ ở miền núi,
vùng sâu vùng xa mới chỉ có trình độ văn hoá bậc tiểu học, một số ít mới học
xong trung học cơ sở và hầu như còn chưa được đào tạo chuyên môn gì. Do
trình độ cán bộ thấp như vậy nên đã ảnh hưởng lớn đến việc tiếp thu, truyền
đạt và tổ chức thực hiện các đường lối, chính sách của Đảng, các chỉ thị, nghị
quyết cấp trên. Chỉ tính riêng trong đợt sinh hoạt tự phê bình và phê bình
được tiến hành đầu năm 1985 thì đến tháng 7- 1985 đã có 73 cán bộ cấp xã
phường bị xử lý phải đình chỉ công tác hoặc phải thay thế do năng lực yếu hoặc
hoàn cảnh ra đình quá khó khăn [42]
Cơ cấu cán bộ không hợp lý: cán bộ trẻ và cán bộ nữ còn ít, đặc biệt số
cán bộ chủ chốt là nữ giảm nhanh chóng. Nếu như năm 1969, số đảng viên
cấp xã, phường là nữ còn chiếm tới 30% thì năm 1984 chỉ còn 14,4%. Cũng
năm 1969, số chủ tịch xã, phường là nữ chiếm 34,3% thì năm 1984 còn


19

4,3%; nữ chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp năm 1969 là 11,4% đến năm
1984 còn 1,7% [43]. Số cán bộ tuổi cao vẫn đang còn nhiều và tuổi bình
quân cán bộ lại ngày một cao. Tình hình đó là không phù hợp với yêu cầu
thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở xã, phường trong giai đoạn mới, bởi lẽ nó
hạn chế việc huy động tính sáng tạo và khả năng to lớn tiềm tàng của chị em
phụ nữ tham gia thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội ở địa phương; mặt
khác yêu cầu công tác ở xã, phường đòi hỏi người cán bộ chẳng những phải
có phẩm chất tốt, trình độ công tác giỏi mà còn phải có sức khoẻ tốt để “sáng
đi huyện, chiều lội đồng, tối dầm mưa” tổ chức nhân dân chống lụt bão hoặc
giải quyết những vụ việc đột xuất thường phát sinh ở cơ sở.
Có nhiều nguyên nhân làm cho đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường ở

Thanh Hoá có những mặt yếu và hạn chế nói trên, song có thể nêu lên mấy
nguyên nhân chủ yếu sau:
Do nước ta phải tiến hành hai cuộc kháng chiến liên tiếp và lâu dài, ác
liệt cho nên nhiều đồng chí cán bộ chủ chốt xã, phường trong thời niên thiếu
đã phải bỏ dở việc học hành, lên đường đi chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu.
Đến khi trở về phải bước vào xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình mà
không có điều kiện đến trường học tiếp hoặc học lên những bậc học cao hơn,
vì vậy trình độ mọi mặt thấp. Hơn nữa lại quen sống trong cơ chế bao cấp kéo
dài, tâm lý ỷ lại, trong chờ cấp trên đã được định hình nên chậm thích nghi, rất
lúng túng trong cơ chế thị trường, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Do nước ta bước vào cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa
xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trải qua chiến tranh kéo dài,
đời sống nhân dân quá khó khăn, chưa có môi trường kinh tế thị trường và
khoa học kỹ thuật phát triển để đào luyện người cán bộ trong thực tế. Ảnh
hưởng của tư tưởng phong kiến, của tâm lý tiểu nông còn rất lớn. Vì vậy đội


20

ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở còn thiếu những hiểu biết cần thiết về khoa học
kỹ thuật, về quản lý xã hội theo pháp luật.
Công tác tổ chức cán bộ chủ chốt xã, phường còn nhiều thiếu sót:
Chưa tiêu chuẩn hoá được cán bộ, chưa xây dựng quy hoạch cán bộ một cách
khoa học. Việc bố trí cán bộ ở nhiều xã, phường còn mang nặng tính chủ
quan, chắp vá, thiếu ổn định. Vì vậy nhiều đồng chí cán bộ chủ cốt ở cơ sở
thiếu yên tâm công tác, vừa làm việc vừa chuẩn bị tư thế nghỉ, hạn chế đến
tinh thần vươn lên trong học tập và nhiệt tình công tác.
Trong một thời gian dài chúng ta thực hiện chế độ trả lương và phụ
cấp cho đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường còn mang nặng màu sắc duy
tâm, chưa tương xứng với công sức mà các đồng chí cán bộ đã bỏ ra trong quá

trình thực thu nhiệm vụ được giao. Vì vậy đời sống của nhiều đồng chí cán bộ
chủ chốt xã, phường còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Càng liêm khiết, tận tuỵ
với công việc thì đời sống gia đình lại càng khó khăn. Do đó cán bộ thiếu
phấn khởi chưa đem hết khả năng cống hiến cho phong trào.
Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ còn chưa thật sự khoa học, còn
mang tính hình thức, chưa thiết thực. Chất lượng đào tạo chưa cao, chưa đáp
ứng tốt yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội ở cơ sở.
Tóm lại, đó là 5 nguyên nhân chủ yếu làm cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
xã, phường ở Thanh Hoá có những mặt yếu hạn chế nói trên. Hai nguyên
nhân đầu là những nguyên nhân khách quan, còn ba nguyên nhân sau đều là
những nguyên nhân chủ quan cần sớm được khắc phục để nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh Hoá.


21

1.2. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã phường trong 5 năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986 - 1990).
1.2.1. Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XII và quan điểm
của Đảng bộ về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã phường
trong những năm 1986 - 1990.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XII diễn ra từ ngày 23 29/10/1986 tại Hội trường 25B của Tỉnh. Đại hội thảo luận, đóng góp ý kiến
vào dự thảo báo cáo chính trị của BCH TW Đảng, bổ sung sửa đổi điều lệ
trình Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VI. Thảo luận báo cáo của BCH
Đảng bộ tỉnh về tổ chức thực hiện nghị quyết đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XI
và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh,
xây dựng hệ thống chính trị nhiệm kỳ XII. Bầu BCH Đảng bộ Tỉnh và đoàn
Đại biểu đi dự đại hội Đảng VI.
Đại hội bầu BCH Đảng bộ tỉnh khóa XII gồm 54 đồng chí chính thức
và 18 đồng chí dự quyết. BCH bầu 15 đồng chí vào BTV tỉnh uỷ. Đồng chí

Hà Trọng Hòa làm bí thư, đồng chí Quách Lê Thanh làm phó bí thư trực
Đảng, đồng chí Hà Văn Ban làm phó bí thư phụ trách chính quyền.
Với thái độ và phương pháp đánh giá tình hình của Đảng ta là nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh
Hoá lần thứ XII (10-1986) sau khi khẳng định những thành tựu đạt được trong
những năm 1981-1985, đã mạnh dạn nêu lên thực trạng yếu kém về kinh tế,
văn hoá, xã hội của tỉnh Thanh Hoá lúc bấy giờ; cũng như chỉ ra những
nguyên nhân của nó. Đặc biệt, Đại hội chỉ ra những sai lầm khuyết điểm của
công tác cán bộ là: “chưa có chủ trương kế hoạch cụ thể để tăng cường, đề
bạt cán bộ nữ và cán bộ xuất thân từ công nhân vào các cơ quan lãnh đạo và
quản lý. Quan điểm xem xét đánh giá cán bộ còn bảo thủ và thiếu nhất quán.


22

Công tác quy hoạch cán bộ gắn liền với kế hoạch huấn luyện đào tạo, bồi
dưỡng còn sơ sài, chưa ăn khớp, nhất là công tác quản lý cán bộ còn lỏng
lẻo, chất lượng thấp” [14.72].
Từ đó, Đại hội khẳng định: “Đổi mới công tác cán bộ là yêu cầu tất yếu
khách quan và có tính chất quyết định, đảm bảo thực hiện thắng lợi đường lối
cách mạng, nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh và công
tác xây dựng Đảng trong giai đoạn mới”[14.77]. Về nội dung đổi mới công tác
cán bộ trong thời kỳ mới, Đại hội chỉ rõ: Trước hết phải đổi mới về quan điểm
đánh giá, nhận xét, phát hiện, lựa chọn, đề bạt cán bộ sao cho phù hợp với cơ
cấu kinh tế - xã hội, phù hợp với yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý. Khắc phục tư
tưởng phong kiến, bảo thủ, cục bộ địa phương, cảm tình, định kiến cá nhân,
thiên lệch trong công tác cán bộ. Phải: "Từ lợi ích chung của cách mạng, từ
chính sách cán bộ thống nhất cuả Đảng mà xem xét, lựa chọn, đối sử với cán
bộ công minh, vô tư, lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo
phẩm chất và năng lực, lấy nhu cầu nhiệm vụ chính trị làm căn cứ để bố trí cán

bộ". Đổi mới cán bộ có nghĩa là:" xây dựng một đội ngũ cán bộ có đủ kiến thức
và năng lực quản lý, có tư duy mới, có phong cách làm việc ngang tầm với
nhiệm vụ mới. Đồng thời bao hàm ý nghĩa trẻ hoá đội ngũ cán bộ” [14.77].
Về tài năng và phẩm chất cán bộ lãnh đạo và quản lý, Tỉnh uỷ Thanh
Hoá xác định phải đảm bảo các tiêu chuẩn chủ yếu sau:
Có bản lĩnh chính trị vững vàng, đã được thử thách trong hoạt động
thực tiễn, nắm vững và biết vận dụng sáng tạo đường lối chính sách của
Đảng, các nghị quyết của cấp uỷ, biết tính toán sản xuất và kinh doanh đạt
hiệu quả kinh tế cao, tuyệt đối trung thành và trung thực, luôn luôn đặt lợi ích
của Đảng, của nhân dân trên hết.
Dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, năng động sáng tạo trên cơ sở
nguyên tắc và ý thức tổ chức kỷ luật, không bảo thủ, không làm ẩu.


23

Có nếp sống gương mẫu, trong sáng, kiên quyết đấu tranh chống tiêu
cực, chống bè phái chia rẽ, bảo vệ chân lý, bảo vệ người tốt và đúng.
Có phong cách làm việc tốt, có ý thức tập thể dân chủ, dám chịu trách
nhiệm, đi sâu đi sát cơ sở và thực tiễn, gần gũi quần chúng, quan tâm đến con
người, đoàn kết động viên được nhiệt tình, cách mạng của cán bộ đảng viên và
quần chúng". [14.77,78].
Từ những tiêu chuẩn trên mà lựa chọn, bồi dưỡng, bố trí một đội ngũ
cán bộ chủ chốt từ tỉnh đến cơ sở thật trong sạch vững mạnh.
Đại hội còn nhấn mạnh: Các cấp uỷ, các ngành và đơn vị cơ sở phải
tiếp tục bổ sung, điều chỉnh quy hoạch cán bộ, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế tục
phải được đặt lên thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của các tổ chức
đảng. Mở rộng các hình thức đào tạo bồi dưỡng dài ngày, ngắn ngày; nâng
cao chất lượng dạy và học thông qua hệ thống trường đảng; các trường
chuyên nghiệp để nâng cao trình độ lý luận, nghiệp vụ và phương pháp công

tác cho tất cả các loại cán bộ lãnh đạo và quản lý từ tỉnh đến cơ sở. Chấn
chỉnh và nâng cao chất lượng công tác quản lý cán bộ. Chuyển hướng xuống
địa bàn chính là cơ sở. Tăng cường công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết”
[14.79].
Đại hội đã tổng kết: Cán bộ, đảng viên và đồng bào các dân tộc trong
tỉnh đã nâng cao tinh thần cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều
mặt của địch… “công tác xây dựng Đảng đã bám sát nhiệm vụ chính trị và kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, xây dựng tổ chức cơ sở
Đảng vững mạnh, đấu tranh chống tiêu cực, đoàn kết nội bộ, tăng cường đội
ngũ cán bộ chủ chốt từ Tỉnh đến cơ sở”.[61.232]
Đại hội xác định phương hướng và đưa ra khẩu hiệu hành động: nâng
cao năng lực lãnh đạo và ý trí cách mạng tiến công, đổi mới tư duy, đổi mới
tổ chức và cán bộ, tiếp cận tiến bộ khoa học hiện đại, thực hiện cơ chế quản


×