Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG bộ TỈNH ĐỒNG NAI LÃNH đạo xây DỰNG đội NGŨ cán bộ từ năm 1997 đến năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.57 KB, 95 trang )

MỞ ĐẦU

MỤC LỤC

TRAN
G
3

CHƯƠNG 1:

CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
ĐỒNG NAI VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN

BỘ TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2008
1.1. Yêu cầu khách quan xây dựng đội ngũ cán bộ của

11

tỉnh Đồng Nai từ năm 1997 đến năm 2008
Đảng bộ tỉnh Đồng Nai vận dụng quan điểm,

11

1.2.

đường lối của Đảng vào xây dựng đội ngũ cán bộ
của tỉnh từ năm 1997 đến năm 2008
Chương 2: QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH ĐỒNG NAI CHỈ

25


ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TỪ NĂM
1997 ĐẾN NĂM 2008, KẾT QUẢ VÀ KINH
NGHIỆM
2.1. Đảng bộ tỉnh Đồng Nai chỉ đạo xây dựng đội ngũ

39

cán bộ
2.2. Kết quả, kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng

39

bộ tỉnh Đồng Nai lónh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ từ năm 1997 đến năm 2008
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

58
84
86
91


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Chính trị Quốc gia


CTQG

Chính trị xã hội

CT - XH

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

ĐLDT & CNXH

Giáo dục và đào tạo

GD & ĐT

Hà Nội

H

Hội đồng nhân dân

HĐND


Khoa học công nghệ

KHCN

Khoa học kỹ thuật

KHKT

Kinh tế - xã hội

KT - XH

Nhà xuất bản

Nxb

Quốc phòng - an ninh

QP - AN

Sự thật

ST

Tiến bộ

TB

Trung ương


TW

Uỷ Ban nhân dân

UBND

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đội ngũ cán bộ của Đảng là cầu nối giữa Đảng, cơ quan lãnh đạo của Đảng với
quần chúng. Cán bộ vừa là người tuyên truyền, giáo dục chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước cho dân chúng hiểu và thi hành; vừa là
người nắm tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đề ra
đường lối, chủ trương đúng. Cán bộ là công bộc của dân, có vai trò quyết định thành
công hay thất bại của cách mạng; gắn liền với vận mệnh của Đảng, đất nước và chế độ;
là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Cán bộ không chỉ là người tham gia
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, mà còn là người trực tiếp tổ chức quần
chúng nhân dân thực hiện đường lối, biến đường lối thành hiện thực. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Công việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt, hay kém”. Các cơ quan, đơn vị Đảng và Nhà nước có
vững mạnh và có hoàn thành tốt nhiệm vụ hay không phụ thuộc quyết định vào chất
lượng của đội ngũ cán bộ các cấp của Đảng. Nhận thức rõ vai trò to lớn của đội ngũ
cán bộ đối với cách mạng, từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm, chăm lo đến công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp của Đảng. Do vậy, đội ngũ cán bộ các cấp của Đảng đã

đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và trong sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
Đảng bộ tỉnh Đồng Nai những năm qua thường xuyên quán triệt và tổ chức
thực hiện xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh theo quan điểm, đường lối của Đảng về
cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Do
đó, đội ngũ cán bộ của tỉnh đã thể hiện được bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định
với mục tiêu lý tưởng ĐLDT & CNXH; năng động sáng tạo, chấp hành và thực hiện
tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ về phát triển KT - XH, giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy
sự nghiệp đổi mới ở địa phương phát triển không ngừng. Song bên cạnh đó, việc
xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh còn nhiều bất cập, đội ngũ cán bộ của tỉnh nhiều,


nhưng chưa mạnh, còn chắp vá, hẫng hụt, năng lực còn nhiều hạn chế, yếu kém
trước yêu cầu đòi hỏi phát triển KT - XH ở địa phương.
Trước yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, địa phương đòi hỏi phải xây
dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh với chất lượng ngày càng cao, nhằm đáp ứng yêu cầu
lãnh đạo nhiệm vụ xây dựng và phát triển KT - XH của tỉnh trong giai đoạn cách
mạng mới. Do đó, nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ trong những năm 1997 - 2008, nhằm làm rõ sự đúng đắn, sáng tạo
trong chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh về xây dựng đội ngũ cán bộ; đánh giá
thành tựu, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm làm cơ sở để
Đảng bộ tỉnh Đồng Nai và các địa phương khác, tiếp tục lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ trong những năm tiếp theo, đạt được nhiều thành tựu vững chắc hơn, là vấn
đề cần thiết hiện nay.
Với ý nghĩa đó, tôi chọn vấn đề: “Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ từ năm 1997 đến năm 2008” ; làm luận văn thạc sĩ lịch sử,
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng nói chung, xây dựng Đảng nói riêng,

vấn đề cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp của Đảng luôn là vấn đề được
nhiều nhà khoa học, các cơ quan, đơn vị quan tâm nghiên cứu ở những góc độ, khía
cạnh khác nhau, tiêu biểu các nhóm công trình nghiên cứu sau:
- Nhóm các công trình khoa học xuất bản thành sách:
Tổng cục Chính trị (1994), Tổng kết công tác cán bộ trong 10 năm đổi mới
(1986 - 1996), H; Ban Tổ chức - Cán bộ Chính Phủ (1994), Chế độ nhân sự các
nước, Nxb CTQG, H; Đỗ Mười (1994), Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
Nxb CTQG, H; Lê Đức Thọ (1985), Xây dựng Đảng trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, Nxb ST, H; Lê Khả Phiêu (1999), Bài nói chuyện tại Hội nghị
toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) về xây dựng và


chỉnh đốn Đảng, H; Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên) (2001),
Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb CTQG, H; Lưu Ngọc Trịnh
(1996), Chiến lược con người trong “thần kỳ” kinh tế Nhật Bản, Nxb CTQG, H;
Nguyễn Trọng Bảo (chủ biên) (1998), xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và đội ngũ
cán bộ quản lý kinh doanh trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, Nxb Giáo dục, H;
Phạm Hữu Dật (chủ biên) (1994), Phương sách dùng người của ông cha ta trong
lịch sử, Nxb CTQG, H; Tô Tử Hạ (1998), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ
cán bộ công chức hiện nay, Nxb CTQG, H; Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa (chủ
biên) (1998), Đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt Nam - Thực trạng và giải
pháp, Nxb CTQG, H; Trần Xuân Sầm (chủ biên) (1998), Xác định cơ cấu và tiêu
chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới, Nxb CTQG, H;
Đức Vượng (1995), Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ, Nxb CTQG, H.
Những công trình trên có một đặc điểm chung là bàn về quá trình xây dựng
và phát triển đội ngũ cán bộ cách mạng của Đảng qua các thời kỳ cách mạng; xác
định rõ vị trí, vai trò tầm quan trọng và yêu cầu khách quan của việc xây dựng đội
ngũ cán bộ của Đảng trong cách mạng. Đặc biệt, làm rõ những quan điểm, đường
lối, nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng

viên của Đảng, gắn với yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà trọng tâm
trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Hơn thế, xác định làm rõ
cơ cấu, số lượng, chất lượng, tiêu chuẩn, nội dung, yêu cầu và giải pháp cụ thể trong
xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ của Đảng trong hệ thống chính trị nước ta hiện
nay. Như vậy, thông qua các tác phẩm này, có thể nhận thấy tư tưởng xuyên suốt chỉ
đạo quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ cách mạng của Đảng, nhất là cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của Đảng qua các thời kỳ cách mạng khác nhau.
- Nhóm các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học
Như: Phạm Đình Bộ (2009), “Rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính


trị quân sự (số 5); Đoàn Ngọc Hải (1996), “Xây dựng con người mới trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Lịch sử Đảng (số 7);
Tiến Hải (2000), “Yếu tố quan trọng hàng đầu trong công tác cán bộ”, Tạp chí
Thông tin lý luận, (số 267); Trần Ngọc Hiên (1993), “Phương pháp luận và
phương pháp cụ thể nghiên cứu cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ”, Tạp chí Nghiên cứu lý
luận, (số 1); Trần Hưng (1995),“Khắc phục tư tưởng cục bộ địa phương trong lựa
chọn sử dụng đề bạt cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 7); Nguyễn Thành Khải
(1998), “Một số cá tính, thói quen của cán bộ quản lý hiện nay”, Tạp chí Quản lý
nhà nước, (số 33); Nguyễn Hải Khoát (1994), “Đánh giá cán bộ dựa theo đặc điểm
nhân cách cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 8); Trần Ngọc Khuê (1993),
“Nghiên cứu, học tập, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm
hàng đầu của người cán bộ trong hệ thống chính trị hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu
lý luận, (số 1); Lê Văn Lý (1990), “Bàn về đổi mới đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản
lý”, Tạp chí Cộng sản, (số 11); Lê Văn Lý (1997), “Giải pháp nâng cao chất lượng
công tác cán bộ”, Tạp chí Cộng sản, (số 7); Đặng Văn Mấm (1996), “Một số vấn
đề công tác cán bộ trong thời kỳ mới ở Đảng bộ thành phố Hải Phòng”, Tạp chí
Xây dựng Đảng, (số 12); Đỗ Mười (1999), “Bài học từ sự kiện Thái Bình”, Tạp
chí Cộng sản, (số 4); Tô Huy Rứa (1999), “Xây dựng và thực hiện tốt công tác

quy hoạch cán bộ trong thời kỳ mới”, Tạp chí Cộng sản (số 3).
Các bài báo trên đã đề cập ở các phạm vi, góc độ khác nhau về vấn đề xây
dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong hệ thống chính trị. Song có một đặc điểm
chung nhất là đi sâu vào phân tích làm rõ những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và
những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao về tiêu chuẩn, phẩm chất, năng lực của đội
ngũ cán bộ các cấp của Đảng trong thời kỳ phát triển mới. Đồng thời, các tác giả
đưa ra những giải pháp cơ bản trong việc nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp của Đảng, bảo đảm đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.


Nhóm các bài báo như: Huỳnh Xuân Cơ (1995), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của thời kỳ mới”, Tạp chí Xây dựng
Đảng (số 3); Cao Duy Hạ (1999), “Nghĩ về giải pháp nâng cao phẩm chất, năng lực đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Tạp chí Thông tin lý luận, (số 253); Nguyễn
Thế Phấn (1999), “Năng lực tổ chức thực tiễn và uy tín của người cán bộ lãnh đạo”, Tạp
chí Thông tin lý luận, (số 253); Chu Văn Rỵ (1997), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
các cấp, trước nhất là người đứng đầu”, Tạp chí Cộng sản (số 6); Lê Doãn Tá (1995),
“Mấy vấn đề cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị”, Tạp chí Xây
dựng Đảng, (số 9); Nguyễn Quốc Tuấn (1999), “Năng lực người lãnh đạo”, Tạp chí
Cộng sản, (số 1); Đỗ Văn (1995), “Đánh giá đúng cán bộ trong cơ chế thị trường”, Tạp
chí Xây dựng Đảng, (số 7); Lê Hữu Xanh (1993), “Từ vai trò xã hội mới của các đoàn
thể nghĩ về tiêu chuẩn cán bộ các đoàn thể nhân dân”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận (số 4);
Lê Hữu Xanh (1994), “Đưa tâm lý học chính trị vào chương trình đào tạo cán bộ lãnh
đạo chính trị”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận (số 4); Nguyễn Minh Khôi (2009), “Nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục - đào tạo các học viện, trường sĩ quan Quân
đội, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, (số 4); Đồng Xuân Trường (2009), “Góp
phần nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, xã, phường, thị trấn ở Tây
Nguyên hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự (số 5).
Nhóm các công trình trên cơ bản đề cập về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ

chốt các cấp của Đảng hiện nay. Trong đó, các công trình của các tác giả đã tập trung đi
sâu đề cập, lý giải về vị trí, vai trò, tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực, cơ cấu tổ chức, nội
dung xây dựng đội ngũ cán bộ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp của Đảng trong hệ thống
chính trị. Đặc biệt, đề xuất các giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp của Đảng đáp ứng yêu cầu phát triển của thời kỳ mới.
- Nhóm các đề tài khoa học, luận văn, luận án, kỷ yếu hội thảo khoa học
Như: “Cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính
trị đổi mới ở nước ta - Những vấn đề lý luận và phương pháp luận ”, Chương
trình khoa học - công nghệ cấp Nhà nước KX.05, đề tài KX.05 -11(1993); “ Một


số vấn đề về quy hoạch cán bộ”(Kỷ yếu hội thảo khoa học), Chương trình khoa
học - công nghệ cấp Nhà nước KHXH.05 (1998), “Thực trạng và giải pháp xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị ”, đề tài khoa học KX
01- BĐ 03, Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Tổ chức Trung ương (1998); “ Hoàn
thiện mục tiêu, đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo cán bộ lãnh đạo,
quản lý cao, trung cấp của Đảng và Nhà nước (qua thực tế Học viện Nguyễn ái
Quốc”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, PGS, TS Vũ Nhật Khải làm chủ nhiệm (1992); “Xây dựng đội ngũ cán
bộ quản lý kinh tế ở nước ta trong quá trình đổi mới kinh tế ”, đề tài nghiên cứu
khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, PGS Đào Xuân
Sâm làm chủ nhiệm (1994); “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước”, đề tài KHXH.05.03 thuộc chương trình khoa học cấp nhà nước
KHXH.05, do PGS, TS Nguyễn Phú Trọng làm chủ nhiệm (2000).
Luận án phó tiến sĩ khoa học lịch sử của tác giả Nguyễn Mậu Dựng: “Xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay”
(1996); Luận án phó tiến sĩ khoa học quân sự của tác giả Trần Danh Bích: “Xây dựng
cơ cấu hợp lý đội ngũ cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng
mới” (1996); Luận án tiến sĩ của tác giả Ngô Huy Tiếp: “Xây dựng đội ngũ cán bộ ở

đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay” (1999); Luận án
tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Hiệp: “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính trị
phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh” (2000); Luận án tiến sĩ lịch sử của tác giả Nguyễn Hồng Châu: “Nâng cao chất
lượng đội ngũ chủ nhiệm hậu cần trung đoàn binh chủng hợp thành Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay” (2003); Luận án tiến sĩ lịch sử của tác giả Nguyễn Tiến Quốc:
“Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ trì ban chỉ huy quân sự các huyện miền núi
phía Bắc trong giai đoạn hiện nay”(2003); Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng của tác
giả Đoàn Đình Phú: “Xây dựng đội ngũ cán bộ của Trường sĩ quan Pháo binh hiện


nay” (2001); Luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng của tác giả Đào Công Khanh: “Nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý học viên ở Học viện Hải quân hiện nay” (2003);
Luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng của tác giả Phạm Ngọc Thuỵ: “Xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ trì cơ quan ở Học viện Quốc phòng trong giai đoạn hiện nay” (2004).
Các công trình nghiên cứu trên đi sâu nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau
theo từng chuyên ngành riêng, nhưng đều có mục tiêu chung là nhằm xây dựng và
phát triển đội ngũ cán bộ của Đảng trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong toàn
Đảng. Những kết quả của các công trình trên đã có nhiều đóng góp cả về mặt lý
luận và thực tiễn cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp của Đảng,
trong sự nghiệp đổi mới đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay.
Có thể khẳng định các công trình khoa học của các cơ quan nghiên cứu,
các nhà khoa học đề cập đến vấn đề cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp
của Đảng dưới những góc độ, khía cạnh khác nhau tuỳ theo chuyên ngành cụ
thể. Các tác phẩm và các công trình nghiên cứu nêu trên đã đi sâu làm rõ về
quan điểm, đường lối của Đảng về lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác cán bộ
các cấp. Đặc biệt, bước đầu đã đề xuất nhiều giải pháp quan trọng về xây dựng
đội ngũ cán bộ trong tình hình mới. Tuy nhiên, trong thời gian qua, chưa có
công trình khoa học nào đi sâu vào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống
về Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ từ năm 1997 đến

năm 2008. Các công trình trên là tài liệu tham khảo quý để tác giả có hệ
thống tư liệu, tài liệu tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn của
mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Đồng Nai trong việc quán triệt, vận dụng
đường lối, quan điểm của Đảng vào xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh từ năm 1997
đến năm 2008; từ đó rút ra những kinh nghiệm có giá trị tham khảo vận dụng vào
xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn cách mạng mới.
* Nhiệm vụ:


Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Trình bày yêu cầu khách quan về nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ của
Đảng bộ tỉnh Đồng Nai trong những năm 1997 - 2008.
- Phân tích, luận giải làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng
Nai về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo của tỉnh từ năm 1997 đến năm 2008.
- Khái quát thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm
chủ yếu từ quá trình Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ của
tỉnh trong những năm 1997 - 2008.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai về xây dựng đội ngũ cán bộ.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai
về xây dựng đội ngũ cán bộ do cấp tỉnh quản lý.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu các vấn đề trên từ năm 1997 đến năm 2008.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; của Đảng bộ
tỉnh Đồng Nai về cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp.
* Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu của luận văn chủ yếu dựa vào phương pháp lịch sử,
phương pháp lôgic và sự kết hợp hai phương pháp đó. Ngoài ra tác giả còn sử dụng
một số phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh
và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn


- Luận văn hệ thống hoá chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai
về xây dựng đội ngũ cán bộ từ năm 1997 đến năm 2008.
- Luận văn góp phần tổng kết hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ địa phương về
lĩnh vực xây dựng đội ngũ cán bộ trong những năm 1997 - 2008. Qua đó làm phong
phú hơn lịch sử của toàn Đảng trong quá trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ.
- Luận văn rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho quá trình lãnh
đạo xây dựng đội ngũ cán bộ của các tỉnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong
giai đoạn cách mạng mới.
- Luận văn, có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng
dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở các học viện, nhà trường trong và ngoài
Quân đội hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐỒNG NAI VỀ XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2008
1.1. Yêu cầu khách quan xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh Đồng Nai từ
năm 1997 đến năm 2008

1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Đồng Nai
- Về điều kiện tự nhiên
Tỉnh Đồng Nai thuộc địa bàn miền Đông Nam Bộ có diện tích tự nhiên là
5.864 km,2 chiếm 1,76% diện tích tự nhiên của cả nước và chiếm 25,5% diện tích tự
nhiên của miền Đông Nam Bộ. Dân số toàn tỉnh Đồng Nai hiện nay là trên 2,4 triệu
người; mật độ dân số bình quân là 353 người/km 2 gấp 1,4 lần so với mật độ bình
quân của cả nước; là tỉnh đông dân thứ 7 sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và
các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, An Giang...Dân số của tỉnh có nguồn gốc của 64 tỉnh
thành trong cả nước với cộng đồng dân cư của hơn 30 dân tộc anh em và có 6 tôn


giáo chính chiếm hơn 60% dân số của tỉnh, trong đó dân tộc Kinh chiếm 94%. Đây
là vùng đất chuyển tiếp giữa cực Nam Trung bộ, Tây Nguyên và vùng đồng bằng
Nam bộ. Hiện nay, Đồng Nai có 11 huyện, thị, thành phố với 171 xã, phường, thị
trấn. Đồng Nai, có địa giới hành chính tiếp giáp với 5 tỉnh, thành phố. Phía Đông
tiếp giáp với tỉnh Bình Thuận; Đông Nam tiếp giáp với thành phố Hồ Chí Minh;
Đông Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng; Tây Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Bình Phước; phía
Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Đồng Nai là một tỉnh có nhiều tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, đất đai
màu mỡ, khoáng sản phong phú; nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa với hai mùa
mưa, nắng rõ rệt (mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng
4); thuận lợi cho việc canh tác sản xuất xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, trồng
các cây nông nghiệp có giá trị cao (như cao su, tiêu, điều, cà phê…). Tài nguyên
rừng của Đồng Nai khá phong phú với diện tích là 153.355 ha, bao gồm hai loại
rừng chủ yếu đó là rừng tự nhiên và rừng trồng (có diện tích rừng tự nhiên là
110.678 ha, rừng trồng là 46, 538 ha).
Đồng Nai là tỉnh nằm ở trung tâm khu vực miền Đông Nam Bộ, cửa ngõ đi
vào Thành phố Hồ Chí Minh và trải dài trên các quốc lộ quan trọng là quốc lộ 1A,
quốc lộ 51 và quốc lộ 20; trên tuyến đường sắt Bắc - Nam. Hệ thống sông, suối mật
độ dày đặc với nhiều cảng sông quan trọng. Vì thế mà Đồng Nai có hệ thống giao

thông rất thuận lợi cả đường sắt, đường bộ, đường thuỷ, thuận tiện cho việc phục vụ
phát triển KT - XH của tỉnh và khu vực.
- Về điều kiện kinh tế - xã hội
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo
từ Đại hội VI của Đảng (12/1986); Đảng bộ tỉnh Đồng Nai triển khai, thực hiện có
hiệu quả đường lối, chủ trương đó. Đến năm 1991 Đảng bộ tỉnh Đồng Nai ra Nghị
quyết lần thứ V, về chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch
vụ sang cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp đã làm cho nền kinh tế
của tỉnh phát triển đúng hướng và năng động “Từ năm 1991 đến năm 1996 đã đưa
Đồng Nai trở thành tỉnh có thu nhập GDP đạt 446 đô la 01 người/ 01năm” [10,


tr.19]. Đặc biệt, mức độ tăng trưởng kinh tế tăng cao: “Bình quân hàng năm tăng 13
% vượt 3 % so với chỉ tiêu đại hội V đề ra. Sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển
với mức tăng trưởng cao, bình quân đạt 32,2 %/ năm; các ngành dịch vụ từng bước
được củng cố và tăng cao đạt 11,9 % /năm. Riêng kim ngạch xuất khẩu địa phương
tăng 30,1%/ năm. Sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, đúng hướng, cả trồng
trọt và chăn nuôi, mức tăng trưởng đạt 5,5 %/ năm” [10, tr.13].
Về mặt văn hoá - xã hội, trong quá trình xây dựng và phát triển, Đảng bộ và
chính quyền các cấp ở Đồng Nai luôn quán triệt và thực hiện phương châm phát
triển kinh tế đi đôi với giải quyết các vấn đề văn hoá, xã hội. Tỉnh đã giành các điều
kiện tốt nhất cho sự phát triển văn hoá, xã hội, các sở chuyên ngành hoạt động tích
cực, có hiệu quả, các cơ sở và nhân dân tham gia có trách nhiệm, thực hiện bước
đầu có hiệu quả theo phương châm xã hội hoá sự nghiệp văn hoá, xã hội. Chất
lượng GD & ĐT được nâng lên, xoá mù chữ và phổ cập tiểu học theo tiêu chuẩn
quốc gia được 81/163 xã, phường và mở trường đào tạo con em đồng bào dân tộc.
Hoạt động văn hoá - thông tin, thể dục - thể thao có nhiều tiến bộ, khắc phục một
bước sự chênh lệch về đời sống văn hoá tinh thần giữa thành thị và nông thôn:
“Hàng năm đã giải quyết từ 40.000 đến 50.000 lao động có việc làm. Tình trạng
thiếu đói thường xuyên ở các vùng khó khăn trước đây được giải quyết cơ bản; tỷ lệ

hộ nghèo giảm, tỷ lệ hộ khá và giàu dần dần được tăng lên; những nhu cầu cơ bản
về ăn, mặc, ở, đi lại của nhân dân được đáp ứng khá hơn” [10, tr.18 - 19]. Hoạt
động chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân ban đầu có tiến bộ. Công tác phòng chống
bệnh hiểm nghèo, sốt rét, các bệnh xã hội có hiệu quả. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
giảm từ 2,35 % năm 1991 suống còn 1,97% năm 1995. Công tác chính sách xã hội
thực hiện có hiệu quả, các phong trào đền ơn, đáp nghĩa chăm lo các đối tượng
chính sách, thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công với cách mạng ngày càng
tốt hơn.
Công tác chỉnh đốn tổ chức đảng, được Đảng bộ chú trọng tập trung xây
dựng đáp ứng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Toàn tỉnh có 670 tổ chức cơ sở
đảng, qua củng cố kiện toàn, các tổ chức cơ sở đảng đã có nhiều chuyển biến tích


cực, từng bước làm rõ chức năng, nhiệm vụ loại hình cơ sở theo Quy định của
Ban Bí thư Trung ương Đảng. Thường xuyên đổi mới lề lối làm việc và giải
quyết tốt mối quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo giữa cấp uỷ đảng và chính quyền, đoàn
thể. Chất lượng sinh hoạt của cấp uỷ, chi bộ được nâng lên, nội dung toàn diện,
thiết thực hơn: “Số cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh tăng lên rõ rệt trong
năm 1992 có 44,1% thì đến năm 1995 đạt 75,18%; số cơ sở yếu kém giảm dần”
[10, tr.29]. Đặc biệt, “Qua phân loại hàng năm tỷ lệ đảng viên đủ tư cách ngày
càng cao, năm 1992 là 99,69%, năm 1993 là 99,86%, năm 1994 là 99,87% đến
năm 1995 là 99,85%, số đảng viên dự phân loại” [10, tr.31]. Cùng với nhiệm vụ
xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
luôn được Đảng bộ coi trọng và có nhiều chuyển biến tích cực: “Trong 5 năm
1991 - 1995 đã có 7.085 cán bộ các cấp được đào tạo lý luận chính trị và nghiệp
vụ” [10, tr.32]. Những thành tựu nêu trên đã góp phần tích cực vào việc ổn định
kinh tế, chính trị, xã hội, QP - AN của tỉnh.
Tuy nhiên, Đồng Nai vẫn còn tồn tại một số yếu kém như: cơ sở hạ tầng kinh
tế phát triển thiếu đồng bộ; quy trình tiến hành CNH, HĐH và mức độ tăng trưởng
kinh tế còn chậm, thiếu ổn định chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh.

Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực đời sống xã hội còn những mặt tồn tại bất
cập như: tốc độ tăng dân số tự nhiên còn cao; tỷ lệ lao động có kỹ thuật còn thấp,
còn nhiều lao động chưa có việc làm ổn định. Các tệ nạn xã hội đã và đang được
ngăn chặn nhưng chưa giảm. Phân hoá giàu nghèo còn cao và thực tế Đồng Nai vẫn
còn có 16 xã đặc biệt khó khăn, 56 xã miền núi và 32 xã vùng căn cứ cách mạng,
vùng sâu khó khăn và có khoảng 14000 hộ nghèo. Tình hình an ninh trật tự xã hội
diễn biến phức tạp, các vi phạm trật tự an toàn xã hội, vi phạm trật tự đô thị, cờ bạc,
mại dâm, tai nạn giao thông chưa giảm; nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của
công, tội phạm kinh tế, hình sự còn nhiều; kỷ cương phép nước có nơi, có lúc
chưa nghiêm, thủ tục hành chính còn phiền hà, chậm sửa đổi; tình trạng quan
liêu cửa quyền ở một số cơ quan Nhà nước các cấp chưa khắc phục có hiệu quả.
Công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng chuyển biến tích cực song chưa đều ở các


địa phương và trong loại hình cơ sở đảng. Đặc biệt, một bộ phận cán bộ, đảng
viên giảm sút ý chí, vi phạm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, thoái hoá, biến
chất, vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Việc xây dựng và
thực hiện làm việc theo quy chế của Ban cán sự đảng, đảng đoàn và các loại hình
cơ sở đảng, nhất là cơ sở đảng trong doanh nghiệp và trong cơ quan hành chính
sự nghiệp còn nhiều lúng túng, chậm được sơ kết rút kinh nghiệm. Công tác quy
hoạch cán bộ, xây dựng quy trình nhận xét đánh giá cán bộ, tiêu chuẩn hoá chức
danh làm chậm. Đội ngũ cán bộ hẫng hụt ở nhiều ngành. Chưa quan tâm đúng
mức đến việc chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Để tỉnh Đồng Nai ngày càng vững bước tiến lên, xứng đáng với vị trí chiến
lược của miền Đông Nam Bộ, góp phần vào sự nghiệp chung của cả nước; dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, Đồng Nai đã khai thác triệt để những lợi thế vốn có của
tỉnh; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; làm tốt công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp của tỉnh thực sự trong sạch, vững mạnh; có đầy đủ
phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao hơn của sự nghiệp đổi mới

đất nước nói chung, sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở tỉnh Đồng Nai
nói riêng, nhằm sớm đưa tỉnh trở thành một trong những trung tâm công nghiệp
hàng đầu của cả nước.
1.1.2. Tình hình đội ngũ cán bộ của tỉnh Đồng Nai trước năm 1997
- Quan niệm về cán bộ
Cán bộ cách mạng không chỉ là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, với Nhà
nước, cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người “đầy tớ” thật trung thành của nhân
dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Cán bộ là những người đem chính sách
của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng [47, tr.269].


Với chức năng là “cầu nối” giữa Đảng với nhân dân, vào thời kỳ Đảng lãnh
đạo đấu tranh giành chính quyền, mọi đảng viên của Đảng chính là cán bộ của
Đảng, có nhiệm vụ vận động và giác ngộ quần chúng, tập hợp quần chúng xây dựng
lực lượng cho Đảng. Sau khi cách mạng giành được chính quyền, Nhà nước dân chủ
nhân dân được thành lập, hệ thống chính trị được hình thành phát triển và hoàn
thiện cùng với sự phát triển của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, thì cán bộ
được coi như là tất cả mọi người làm việc trong bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn
thể CT - XH. Tuy nhiên cho đến nay vẫn còn nhiều nhận thức khác nhau về khái
niệm “Cán bộ”. Trong Pháp lệnh cán bộ, công chức Việt Nam năm 1998 đã xác
định đối tượng là cán bộ, công chức bao gồm những người “Trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách Nhà nước; những người được bầu cử, được tuyển dụng,
bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ thường xuyên... Trong các cơ quan Nhà nước, các tổ
chức chính trị, các tổ chức chính trị, xã hội và trong các cơ quan đơn vị Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân” [52, tr. 5 - 6].
Như vậy, ở nước ta, sự hình thành đội ngũ cán bộ, viên chức có đặc điểm
khác các nước. Cán bộ làm việc ở các cơ quan Nhà nước, Đảng và đoàn thể là một
khối thống nhất trong hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Bởi vậy, cần có một

pháp lệnh có phạm vi điều chỉnh chung đối với cán bộ trong toàn bộ hệ thống chính
trị bao gồm: các công chức Nhà nước (trong đó có công chức làm việc ở cơ quan
quân đội, cảnh sát, an ninh...), cán bộ làm việc chuyên trách trong các cơ quan,
Đảng, đoàn thể.
Công chức được hiểu là tất cả những người làm việc chính ngạch trong hệ
thống nhà nước. Khi đất nước mở rộng quan hệ, hội nhập kinh tế với thế giới và khu
vực, cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy trong hệ thống chính
trị, đặc biệt tăng cường vai trò Đảng cầm quyền, thì cần mở rộng nội hàm khái niệm
công chức cho phù hợp. Công chức không chỉ bao gồm những người làm việc chính
ngạch trong bộ máy chính quyền nhà nước, mà còn bao gồm cả những người làm
việc trong bộ máy Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể CT - XH thuộc hệ thống


chính trị. Còn cán bộ có thể là công chức, cũng có thể không phải công chức, song
phải giữ vai trò trụ cột, nòng cốt trong tổ chức bộ máy, giữ những chức vụ lãnh đạo,
quản lý do bổ nhiệm hoặc do bầu cử. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII)
và nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về cán bộ được công bố trên các tạp chí
cũng đưa ra quan niệm về cán bộ cho phù hợp với cách lý giải nêu trên.
Tóm lại, cán bộ gồm những người giữ vai trò trụ cột, nòng cốt trong một
lĩnh vực công tác; những người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý (do bổ nhiệm hoặc do
bầu cử) trong một số tổ chức, bộ máy có chức năng đề ra phương hướng hoạt động,
tổ chức và phối hợp hành động của các thành viên trong tổ chức, bộ máy đó, thiết
lập và xử lý tốt các mối quan hệ phối hợp trong và ngoài tổ chức để thực hiện mục
tiêu công việc đã đề ra.
Với quan niệm trên, tính chất và nội dung công tác của cán bộ thể hiện ở vai
trò nòng cốt, cương vị lãnh đạo, quản lý trong một tổ chức cụ thể. Tuỳ theo vị trí,
chức năng, lĩnh vực hoạt động, loại hình tổ chức, theo phân cấp hành chính trong tổ
chức, bộ máy, trong hệ thống chính trị mà có thể phân chia thành nhiều loại cán bộ.
Chẳng hạn, trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương

(khoá VIII) đề cập tới bốn loại cán bộ: cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể
nhân dân; cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang; cán bộ khoa học, chuyên gia và cán
bộ quản lý kinh doanh.
Từ cách tiếp cận quan niệm về đội ngũ cán bộ của Đảng nêu trên cho thấy,
về thành phần biên chế, cơ cấu, tổ chức cán bộ được thực hiện thống nhất theo đúng
Pháp lệnh Cán bộ, công chức của Nhà nước, được áp dụng cụ thể cho từng tỉnh. Đội
ngũ cán bộ của tỉnh Đồng Nai được biên chế trong các cơ quan Đảng, Nhà nước,
các đoàn thể CT - XH trong hệ thống chính trị, được tổ chức từ cấp tỉnh cho đến cấp
cơ sở. Đội ngũ cán bộ của tỉnh Đồng Nai với vai trò là người trực tiếp lĩnh hội mọi
nghị quyết, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước để triển khai và
quán triệt tổ chức chỉ đạo đảng viên và quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối,
chủ trương đó. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ của tỉnh Đồng Nai còn giữ vai trò quyết


định trong xây dựng chủ trương, định hướng, chương trình, kế hoạch phát triển toàn
diện hoặc trong phạm vi từng ngành, từng lĩnh vực của tỉnh.
Như vậy, đội ngũ cán bộ của tỉnh Đồng Nai chính là những người giữ vai trò
trụ cột, nòng cốt trong bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể CT - XH của tỉnh; trực
tiếp hoạch định chiến lược phát triển KT - XH và trực tiếp lãnh đạo, điều hành, tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ của hệ thống chính trị của tỉnh; tổ chức động viên
quần chúng tham gia tích cực thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn tại địa phương.
- Thực trạng về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp của tỉnh Đồng
Nai trước năm 1997
Về quy hoạch cán bộ, Đảng bộ tỉnh xác định là nội dụng quan trọng của
công tác cán bộ. Thực hiện Chỉ thị số 07 CT/TU ngày 17/06/1993 và Nghị quyết
24/TU ngày 26/06/1993 của Tỉnh uỷ, trong những năm 1991 - 1997, các cấp uỷ và
các tổ chức đảng đã tiến hành rà soát, bố trí, sắp xếp cán bộ, đáp ứng phần lớn yêu
cầu nhiệm vụ, trẻ hoá một bộ phận cán bộ lãnh đạo và quản lý; thay thế một số
cán bộ năng lực hạn chế, phẩm chất kém, hoặc tuổi cao, sức yếu. Một số ngành,

địa phương, đơn vị đã triển khai công tác xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ dự
bị, đào tạo một đội ngũ cán bộ kế cận thay thế, bổ sung vào các vị trí lãnh đạo
các cơ quan trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở. Tuy nhiên bên cạnh
những mặt tiến bộ đã đạt được, công tác quy hoạch cán bộ mặc dù đã có chuyển
biến tích cực, nhưng chưa tạo thành ý thức tự giác, thường xuyên, chưa nhận
thức về yêu cầu bức thiết và tầm quan trọng chiến lược của vấn đề này, nhất là
quy hoạch cán bộ lâu dài và cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành. Nhiều nơi còn
lúng túng trong cách làm, chưa giới thiệu và tạo điều kiện nguồn cán bộ dự bị
rộng rãi. Trong nhận xét, đánh giá cán bộ còn nể nang, thiếu dân chủ tập thể,
công khai; không bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị và tiêu chuẩn cán bộ, dẫn
đến chất lượng quy hoạch không cao. Sau khi quy hoạch cán bộ, nhiều cấp uỷ
không chú ý theo dõi, kiểm tra, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch; bản


thân một số cán bộ được quy hoạch chủ quan, tự mãn, không liên tục phấn đấu
vươn lên, đã có một số trường hợp không thực hiện đúng theo quy hoạch.
Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Đảng bộ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo,
đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cả về lý luận chính trị, văn hoá chuyên môn
nghiệp vụ được đẩy mạnh, từ khi có Nghị quyết 24/TU và Chỉ thị 07/TU số lượng
lớp học mở ở tỉnh, các huyện và số cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể được cử đi
học tăng gấp nhiều lần so với những năm trước, chất lượng học tập từng bước được
nâng lên. Tỉnh uỷ quan tâm ban hành và thực hiện chính sách đối với cán bộ đi học.
Trong bố trí sắp xếp, đề bạt, bổ nhiệm đã chú trọng đến cán bộ trẻ, cán bộ khoa học
kỹ thuật. Do vậy, đã tạo được động lực mới trong đội ngũ cán bộ an tâm vươn lên
học tập, nghiên cứu và công tác. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan tâm
và có nhiều chuyển biến tích cực. Mở rộng đối tượng đào tạo, số lượng đào tạo và
nội dung đào tạo. “Trong 5 năm từ 1991 - 1995 đã có 7.085 cán bộ các cấp được
đào tạo lý luận chính trị và nghiệp vụ” [10, tr.32].
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong những năm qua được đẩy mạnh,
nhưng thiếu kế hoạch toàn diện, thiếu chủ động đào tạo mới, đào tạo lại số cán bộ

đã qua đào tạo nhưng chưa thích ứng với cơ chế quản lý mới nhằm đáp ứng yêu cầu
hiện tại và lâu dài. Chưa xây dựng được kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho từng loại
cán bộ trong từng năm để chủ động sắp xếp cho cán bộ đi học. Đào tạo chưa thực sự
gắn với quy hoạch cán bộ, chưa gắn với đầu ra, thậm trí có tình trạng tự phát, có
hiện tượng đào tạo dàn đều hoặc khi có chiêu sinh mở lớp thì mới chọn người đi
học. Mặt khác, cũng còn một bộ phận cán bộ có quan niệm chạy theo bằng cấp, thấy
cần gì học nấy nên có tình trạng một người đăng ký cùng một thời gian học nhiều
lớp. Có đơn vị do nhiều người đi học nên không có người làm việc, hoặc khi đi học
không đảm bảo thời gian đến lớp nên ảnh hưởng đến chất lượng học tập. Việc tổ
chức mở nhiều lớp học tại chức có ưu điểm được đông đảo cán bộ đi học, nhưng
chất lượng học tập chưa cao và đối tượng được cử đi học chưa đúng quy hoạch; do
đó hiệu quả và chất lượng đào tạo không cao.


Do chưa làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ
dự bị và kế cận, đã dẫn đến trong bố trí, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ không ít trường
hợp bị động, chắp vá, bố trí không đúng ngành nghề được đào tạo, thậm trí có
trường hợp bố trí gượng ép, đưa người chưa đủ tiêu chuẩn vào các vị trí lãnh đạo
làm cho cán bộ không phát huy được tác dụng, ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện
nhiệm vụ chính trị của từng cấp, từng ngành, từng địa phương trong tỉnh.
Về công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ, công tác
tuyển chọn cán bộ đã từng bước đổi mới, Tỉnh đã ban hành các quy định, hướng
dẫn về điều kiện, tiêu chuẩn cán bộ. Đã thực hiện chế độ dân chủ, công khai trong
việc tuyển chọn cán bộ, cơ bản bảo đảm đúng tiêu chuẩn từng chức danh cán bộ, tổ
chức tốt việc thi tuyển, sát hạch để làm căn cứ tuyển chọn đúng cán bộ, nhất là đối
với cán bộ, công chức mới được tuyển dụng vào cơ quan, đơn vị. Việc bố trí, sử
dụng cán bộ được thực hiện nghiêm túc theo quy chế và xuất phát từ nhiệm vụ để
bố trí cán bộ. Các trường hợp bố trí cán bộ vào chức danh lãnh đạo, bầu cử được tập
thể cấp uỷ thảo luận dân chủ và thống nhất chủ trương với đơn vị cấp trên, do đó về
cơ bản bố trí cán bộ bảo đảm đúng người, đúng việc, đúng sở trường và bước đầu

thực hiện trẻ hoá đội ngũ cán bộ, kết hợp các độ tuổi bảo đảm tính liên tục, phát
triển qua bầu cử hoặc khi đề bạt, bổ nhiệm. Trong bố trí, sử dụng cán bộ các cấp uỷ
đảng đã bám sát vào quy hoạch, kế hoạch cán bộ đã được xây dựng. Việc đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ được gắn với nguồn cán bộ quy hoạch; bảo đảm sự ổn định, kế thừa
và phát triển của đội ngũ cán bộ; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của
từng tổ chức, cơ quan, đơn vị. Việc luân chuyển cán bộ bước đầu đã đạt được yêu
cầu của luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý giữa các địa phương, các ngành tạo
được điều kiện cho cán bộ trẻ có triển vọng phát triển toàn diện và được rèn luyện
trong thực tiễn. Đặc biệt, Tỉnh uỷ đã giải quyết có kết quả mối quan hệ giữa luân
chuyển với ổn định và xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh, đáp ứng kịp thời đòi hỏi
của thực tiễn, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị và kịp thời giải quyết những
vấn đề khó khăn, phức tạp của địa phương.


Tuy nhiên, công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ và quản lý cán bộ
theo phân cấp cũng còn hạn chế: việc nhận xét, đánh giá, đề bạt, bồi dưỡng, bố trí
cán bộ, công chức có trường hợp chưa chuẩn xác, chưa toàn diện, thiếu khách quan,
giao nhiệm vụ chưa sát với khả năng thực tế của cán bộ hoặc còn nặng về bằng cấp,
cơ cấu, chưa chú trọng đến tiêu chuẩn cán bộ và hiệu quả công tác của cán bộ. Việc
đề bạt, bổ nhiệm cán bộ trẻ, cán bộ nữ chưa thực sự mạnh dạn, số lượng còn ít. Một
số trường hợp cán bộ được bổ nhiệm, điều động, luân chuyển chưa nằm trong quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Nhận thức tư tưởng về luân chuyển cán bộ của một số cấp uỷ đảng, một số
ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh chưa sâu; xem việc luân chuyển cán bộ gần giống
như việc điều động cán bộ; chưa chú trọng để rèn luyện, thử thách cán bộ một cách
chủ động, qua đó để rèn luyện, bồi dưỡng phát triển cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ
trẻ, có triển vọng phát triển. Việc luân chuyển cán bộ chưa trở thành thường xuyên;
thời gian luân chuyển của một số cán bộ ngắn, gây xáo trộn không cần thiết. Một số
cán bộ luân chuyển ý thức trách nhiệm chưa cao, năng lực hạn chế. Mối quan hệ
giữa cơ quan, đơn vị cử cán bộ luân chuyển với cấp uỷ, chính quyền nơi cán bộ luân

chuyển thiếu chặt chẽ, hiệu quả thấp.
Nguyên nhân của mặt hạn chế trên do cách làm quy hoạch, luân chuyển cán
bộ còn chắp vá, lúng túng chưa toàn diện; chưa thường xuyên, liên tục và chưa quy
hoạch được chức danh cán bộ sau khi hết thời gian luân chuyển sẽ đảm nhiệm trọng
trách gì. Chưa có chính sách hỗ trợ từ huyện về tỉnh, hoặc cán bộ từ huyện về công
tác ở các xã vùng xa, vùng sâu và ngược lại, những cán bộ có nhiều khó khăn trong
cuộc sống. Tỉnh uỷ có chủ trương về công tác quy hoạch cán bộ, nhưng các cấp uỷ
đảng, các ngành, các cấp làm còn chậm, chưa tập trung tổ chức thực hiện tốt công
tác quy hoạch cán bộ và luân chuyển cán bộ. Nhận thức của một số cán bộ và tổ
chức chưa đúng đắn, có nơi cấp trên điều động cán bộ và tăng cường lại băn khoăn,
cho rằng cấp trên thiếu tin vào cán bộ tại chỗ.
- Đánh giá chung về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp của tỉnh Đồng Nai
trước năm 1997


Tình hình đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh cuối năm
1997: “Gồm có 21.161 cán bộ, công chức, công tác trong cơ quan đảng, đoàn
thể, các đơn vị sự nghiệp. Đội ngũ cán bộ của tỉnh hình thành từ nhiều
nguồn, cán bộ tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ tại chỗ; cán bộ
cấp tỉnh phía Bắc chi viện và tăng cường trước và sau 1975; cán bộ trưởng
thành sau 30/4/1975” [15, tr.2].
Nguồn cán bộ này được đào tạo bằng nhiều hình thức khác nhau: có cán bộ
đào tạo chính quy tập trung, hoặc tại chức dài hạn, có cán bộ được đào tạo ngắn
hạn, hoặc chỉ qua những lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn ngày. Đội ngũ cán bộ được
rèn luyện, thử thách trong kháng chiến có lập trường chính trị vững vàng. Số cán bộ
trưởng thành sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 phần lớn trẻ, có trình độ, năng động,
sáng tạo trong học tập và công tác.
Qua nhiều năm đào tạo, đội ngũ cán bộ của tỉnh được nâng lên một bước về
trình độ; giữ gìn được phẩm chất đạo đức cách mạng; không ngừng học tập nâng
cao trình độ chuyên môn, chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài,

góp phần quan trọng cho việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của tỉnh: “Đa số cán
bộ còn trẻ, dưới 40 tuổi 16.489 đ/c, đạt 77,96%. Trình độ chuyên môn sau đại học
81 đ/c, chiếm 0,3%; cao đẳng, đại học 6.652 đ/c, chiếm 31,43%; trung cấp 7.319
đ/c, chiếm 34,58 %. Trình độ chính trị trung cấp 691 đ/c, chiếm 3,26%; cao cấp
169 đ/c, chiếm 0,79%” [15, tr.2].
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh đã từng bước trưởng thành, phát
triển về số lượng và ngày càng nâng cao chất lượng. Trình độ kiến thức và năng lực
quản lý KT - XH bước đầu được nâng lên, góp phần tạo ra những chuyển biến quan
trọng về mặt KT - XH, giữ vững được sự ổn định CT - XH , thúc đẩy sự nghiệp
CNH, HĐH ở địa phương: “Cán bộ lãnh đạo chủ chốt 178 đ/c. Trong đó nữ 26 đ/c,
chiếm 14,6%, trên 50 tuổi chiếm 45,5%. Cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh trình độ đại học
chuyên môn 63,3%, trình độ lý luận chính trị từ trung cấp đến cao cấp 79%, cán bộ
lãnh đạo cấp huyện trình độ đại học 41,3%, trình độ lý luận chính trị từ trung cấp
đến đại học chiếm 78,3%” [15, tr.2].


Tuy nhiên, trước những diễn biến tình hình trong nước và thế giới, nhất là khi
đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, một bộ phận cán
bộ còn hoài nghi, dao động trước sự lựa chọn về kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN của Đảng ta. Một số cán bộ do không vững vàng đã biểu hiện thoái hoá,
biến chất; một bộ phận cán bộ trải qua rèn luyện thử thách trong kháng chiến,
nhưng sau giải phóng không quan tâm học tập, rèn luyện nên năng lực lãnh đạo,
quản lý còn hạn chế. Trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ chưa ngang tầm với yêu
cầu của nhiệm vụ mới; còn một số cán bộ chưa đảm bảo tiêu chuẩn về trình độ so
với quy định. Còn trên 60% tỷ lệ cán bộ, công chức chưa có trình độ cao đẳng, đại
học chuyên môn, số đông chưa được đào tạo về lý luận chính trị (chỉ có 4,05%
trung cấp, cao cấp). Nguồn cán bộ trưởng thành sau 30/4/1975, đa số là cán bộ trẻ,
có trình độ, năng lực nhưng còn thiếu kinh nghiệm trong lãnh đạo quản lý.
1.1.3. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đặt ra yêu cầu
mới đối với xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp của tỉnh Đồng Nai

Vấn đề CNH, HĐH đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định là
nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Mục đích
chính của quá trình CNH, HĐH là nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết về cơ sở
vật chất - kỹ thuật, về con người và KHCN, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cả trong nước và ngoài nước,
không ngừng tăng năng xuất lao động xã hội, làm cho kinh tế tăng trưởng nhanh và
bền vững; nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực hiện công bằng
và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, sinh thái; phấn đấu đến năm 2020
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt
được mục đích trên yếu tố quyết định trực tiếp là phải khai thác và sử dụng có hiệu
quả mọi nguồn lực của đất nước và của từng địa phương; trong đó nguồn lực con
người và trọng tâm là đội ngũ cán bộ các cấp trong hệ thống chính trị từ Trung
ương xuống các địa phương. Do đó, xây dựng đội ngũ cán bộ trở thành mục tiêu
hàng đầu và là yêu cầu cần thiết và cấp bách của quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo


đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH trên phạm vị cả nước, cũng như ở từng địa
phương.
Dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ tỉnh Đồng Nai đã tận
dụng khai thác, phát huy mọi tiềm năng và thế mạnh của tỉnh về những điều kiện
tự nhiên như: về dân số của tỉnh đông, nguồn lao động phong phú và có nguồn
gốc từ khắp các tỉnh thành trong cả nước; có nhiều tiềm năng về tài nguyên thiên
nhiên; kết cấu hạ tầng giao thông thuận lợi; điều kiện KT - XH thường xuyên có
sự phát triển: mức độ tăng trưởng kinh tế qua các năm tăng cao, tình hình CT XH luôn giữ vững được sự ổn định...vv...Những tiềm năng, lợi thế trên tạo thuận
lợi để Đảng bộ tỉnh Đồng Nai vận dụng những chủ trương, quan điểm, chính
sách của Đảng vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn tại địa phương. Đặc biệt, tập trung khai thác,
sử dụng có hiệu quả mọi nguồn nhân lực tại chỗ, nhất là xây dựng và phát huy
vai trò đội ngũ cán bộ các cấp của tỉnh với tư cách là nguồn nhân lực chủ yếu,
quyết định trực tiếp đến sự phát triển KT - XH của tỉnh. Tuy vậy, quá trình khai

thác, sử dụng nguồn nhân lực với nòng cốt là xây dựng và phát huy vai trò đội
ngũ cán bộ các cấp của tỉnh Đồng Nai những năm qua bên cạnh kết quả đạt được
vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế như: đội ngũ cán bộ của tỉnh đông, nhưng
chưa mạnh, còn chắp vá, hẫng hụt, năng lực còn nhiều hạn chế, yếu kém tác
động trực tiếp tới sự phát triển KT - XH ở địa phương trong những năm qua.
Do đó, bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH của đất nước, địa phương, đòi
hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp của tỉnh với cơ cấu, số lượng phù hợp,
chất lượng ngày càng cao, đã trở thành yêu cầu cần thiết và cấp bách đặt ra,
nhằm đáp ứng yêu cầu lãnh đạo nhiệm vụ xây dựng và phát triển KT - XH của
tỉnh phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn.
Thực tiễn cho thấy nguồn nhân lực của tỉnh là phong phú, đa dạng tiềm
năng to lớn, do đó việc khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực không
chỉ có vai trò quyết định ở ý nghĩa lâu dài mà còn là điều kiện rất thuận lợi để thu
hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ bên ngoài vào tỉnh. Trong khi đó nguồn


đầu tư từ bên ngoài và từ ngân sách Nhà nước vào Đồng Nai còn hạn hẹp, thì vấn
đề khai thác, sử dụng nguồn lực tại chỗ, chủ yếu, trực tiếp là đội ngũ cán bộ các
cấp của tỉnh trở thành yêu cầu cấp thiết và là giải pháp quan trọng, đúng đắn, phù
hợp nhằm thúc đẩy nhanh tốc độ hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn
tỉnh trong thời kỳ mới.
Quá trình CNH, HĐH của đất nước, địa phương diễn ra trong điều kiện
mới, ngày càng dựa vào lợi thế phát triển chủ yếu của trí tuệ, năng lực sáng tạo của
người lao động và dựa trên nền học vấn, nhân cách và phẩm chất ngày càng tăng,
đó là vấn đề quan trọng hàng đầu. Do đó, xây dựng phát huy vai trò của đội ngũ cán
bộ các cấp của tỉnh trong thời kỳ mới, lực lượng giữ vai trò trụ cột, nòng cốt trong
từng lĩnh vực công tác của tỉnh trở thành yêu cầu bức thiết đặt ra. Song để khai thác,
sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trong nhân dân, đội ngũ cán bộ các cấp của
tỉnh phải được xây dựng, đào tạo cơ bản đáp ứng tiêu chí của con người mới
XHCN, đó là con người có văn hoá, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất. Đó là con

người phát triển toàn diện, vừa có “đức”, vừa có “tài”; là người phải vừa “hồng”,
vừa “chuyên”; những con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, có năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng
nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà
trong gia đình, cộng đồng và xã hội, có tinh thần quốc tế XHCN trong sáng. Đây
cũng chính là những đòi hỏi khách quan của quá trình CNH, HĐH đất nước.
Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp của tỉnh là kết quả của sự tác động tổng
hợp của nhiều nhân tố: kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hoá, vai trò của hệ thống
chính trị...vv...Trong đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp giữ vai trò nòng cốt, trong
công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ trở thành yêu cầu bức thiết đặt
ra trong thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Để tỉnh Đồng Nai ngày càng vững bước tiến lên, xứng đáng với vị trí chiến
lược của miền Đông Nam Bộ, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
của cả nước; trước hết, Đảng bộ tỉnh tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ
trung tâm là xây dựng và phát triển KT- XH gắn với củng cố QP - AN vững chắc,


×