Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

chủ trương vận động nông dân của đảng trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền 1930 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.67 KB, 144 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

KIỀU VINH TRỌNG

CHỦ TRƢƠNG VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN CỦA ĐẢNG
TRONG THỜI KỲ ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH
QUYỀN (1930 - 1945)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

KIỀU VINH TRỌNG

CHỦ TRƢƠNG VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN CỦA ĐẢNG
TRONG THỜI KỲ ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH
QUYỀN (1930 - 1945)

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Quang Hiển


Hà Nội - 2012

2


CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BCHTWĐ:

Ban Chấp hành Trung ương Đảng

BCHTW:

Ban Chấp hành Trung ương

CMRĐ:

cách mạng ruộng đất

CNTB:

chủ nghĩa tư bản

CNXH:

chủ nghĩa xã hội

ĐCSĐD:

Đảng Cộng sản Đông Dương


ĐCSVN:

Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐQCN:

đế quốc chủ nghĩa

CMDTDCND:

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

GPDT:

giải phóng dân tộc

HN:

Hà Nội

Nxb.:

Nhà xuất bản

QTCS:

Quốc tế Cộng sản

5



MỤC LỤC

Tr.
MỞ ĐẦU

3

Chƣơng 1: CHỦ TRƢƠNG VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN CỦA ĐẢNG TRONG

13

PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930 - 1935
1.1. Nông dân Việt Nam thời thuộc địa và quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về

13

nông dân trƣớc khi Đảng ra đời
1.1.1. Nông dân trong xã hội Việt Nam thời thuộc địa

13

1.1.2. Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về nông dân trong những năm 20 của thế

17

kỷ XX
1.2. Vận động nông dân trong cao trào cách mạng năm 1930

23


1.2.1. Vấn đề nông dân trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên

23

1.2.2. Vận động nông dân đấu tranh trong cao trào cách mạng năm 1930

26

1.3. Vận động nông dân từ tháng 10-1930 đến năm 1935

32

1.3.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng

32

1.3.2. Vận động nông dân trong cuộc đấu tranh khôi phục lực lượng cách mạng

45

Tiểu kết

47

Chƣơng 2: CHỦ TRƢƠNG VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN CỦA ĐẢNG TRONG

48

PHONG TRÀO DÂN CHỦ 1936 - 1939

2.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trƣơng của Đảng

48

2.2. Công tác vận động nông dân

57

2.2.1. Chỉ đạo công tác tổ chức nông dân

57

2.2.2. Chỉ đạo phong trào đấu tranh của nông dân

61

Tiểu kết

72

Chƣơng 3: CHỦ TRƢƠNG VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN CỦA ĐẢNG TRONG

74

CAO TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC 1939 - 1945
3.1. Tình hình mới và chủ trƣơng “thay đổi chiến lƣợc” cách mạng của Đảng

74

3.2. Chỉ đạo xây dựng tổ chức và phong trào nông dân


82

6


3.2.1. Chỉ đạo xây dựng các tổ chức trong nông dân

82

3.2.2. Chỉ đạo phong trào đấu tranh của nông dân

89

Tiểu kết

100

Chƣơng 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

102

4.1. Một số nhận xét

102

4.2. Một số kinh nghiệm

120


Tiểu kết

130

KẾT LUẬN

132

TÀI LIỆU THAM KHẢO

134

7


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, qua mọi thời kỳ, nông dân luôn luôn là một lực lượng chính trị - xã
hội, lực lượng sản xuất có vai trò quyết định thắng lợi của công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, giai
cấp nông dân luôn phát huy truyền thống đoàn kết, nhân ái, lao động cần cù, sáng
tạo, kiên cường, bất khuất đấu tranh chống áp bức, bóc lột, chống ngoại xâm, bảo vệ
nền độc lập dân tộc, khắc phục thiên tai, lập nên những kỳ tích…
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược và thống trị Việt Nam, nông dân
tham gia các cuộc khởi nghĩa của Trương Định, thủ khoa Huân, Phan Đình Phùng,
Hoàng Hoa Thám… chống Pháp, nhưng cuối cùng đều thất bại. Trong hoàn cảnh
đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn: độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH, thì vị trí, vai trò của nông dân trong cuộc cách mạng GPDT
mới được nhận thức đầy đủ và đúng đắn nhất.
ĐCSVN thành lập năm 1930 dưới sự sáng lập của Nguyễn Ái Quốc, thông qua

Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt (hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên)
của Đảng nêu rõ: “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa
vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và phong
kiến”. Nông dân cùng với công nhân trở thành “gốc của cách mạng”, động lực của
cách mạng. Cương lĩnh chính trị
Công tác vận động nông dân giữ vị trí quan trọng, nền tảng tập hợp các giai cấp
khác trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Trong mỗi giai đoạn, căn cứ vào
đặc điểm tình hình thế giới và trong nước, Đảng xác định nhiệm vụ cụ thể, đề ra
những chủ trương vận động, tổ chức, lãnh đạo nông dân đấu tranh phù hợp. Thắng
lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận động nông dân, tiến tới
thành lập chính quyền cách mạng.

8


Bước vào thời kỳ đổi mới, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp, trong đó
nông dân luôn là lực lượng chiếm số đông trong dân số; vấn đề nông nghiệp, nông
dân và nông thôn vẫn luôn có vị trí rất quan trọng, cấp bách. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu, tổng kết, đánh giá kinh nghiệm cuộc vận động nông dân của Đảng
trong tiến trình cách mạng luôn có giá trị lịch sử, mà còn có tính thực tiễn và khoa
học sâu sắc. Qua đó, nhằm khẳng định vai trò to lớn của nông dân trong tiến trình
cách mạng, đồng thời nhằm phát huy sức mạnh to lớn của nông dân trong khối đại
đoàn kết dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo. Vì vậy,
tôi chọn đề tài Chủ trương vận động nông dân của Đảng trong thời kỳ đấu tranh
giành chính quyền (1930 - 1945) để viết đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lịch
sử ĐCSVN.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Vấn đề vận động nông dân được đề cập đến trong nhiều công trình có liên quan
khác nhau, thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Căn cứ vào nội dung

nghiên cứu có liên quan đến đề tài, có thể chia thành các nhóm công trình như sau:
1. Những công trình trực tiếp đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng đối với nông dân
và phong trào nông dân
Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương với các tác phẩm: Tìm hiểu tính chất
và đặc điểm của Cách mạng tháng Tám, Nxb. Sự thật, HN, 1963; Những sự kiện
lịch sử Đảng, tập I (1920 - 1945), Nxb. Sự thật, HN, 1976; Cách mạng tháng Tám
(1945), Nxb. Sự thật, HN, 1980… Trong các tác phẩm này có đề cập đến hoàn cảnh
lịch sử, chủ trương, biện pháp tập hợp, lãnh đạo nông dân trong thời kỳ 1930 1945; đặc biệt là trình bày vị trí, vai trò của địa bàn nông thôn đối với thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám năm 1945: “Từ khi Đảng chuyển trọng tâm hoạt động về
nông thôn và nhất là từ khi Đảng bắt đầu gây dựng căn cứ địa ở Bắc Sơn - Võ Nhai
và Cao Bằng, nông thôn đã đóng vai trò quyết định chủ yếu đối với sự nghiệp cách
mạng toàn quốc.” [6; tr.59].
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Lịch sử biên niên Đảng
Cộng sản Việt Nam, tập II, Đảng lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền và
thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1930 - 1945), Nxb. Chính trị
quốc gia, HN, 2008. Trình bày những sự kiện phản ánh quá trình Đảng Cộng sản

9


Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền và thành lập Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1930 - 1945); trong đó có trình bày các chủ trương,
biện pháp tổ chức, vận động nông dân. Đồng thời, cuốn sách cũng đã trình bày một
số phong trào đấu tranh của nông nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ
này.
Lê Duẩn: Giai cấp vô sản với vấn đề nông dân trong cách mạng Việt Nam, Nxb.
Sự thật, HN, 1965. Tác phẩm gồm các bài nói và viết của đồng chí Lê Duẩn từ năm
1948 đến 1963 trên quan điểm của giai cấp vô sản nói về vấn đề nông dân trong
cách mạng vô sản: vấn đề nông dân trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ và
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuốn sách đã giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề có tính

chất nguyên tắc về đường lối cách mạng đối với một nước nông nghiệp lạc hậu thể
hiện trên các lĩnh vực: xây dựng đội quân cách mạng, xây dựng chính quyền dân
chủ nhân dân, thành lập mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi trên cơ sở liên minh
công nông, xây dựng căn cứ địa ở nông thôn, kết hợp khởi nghĩa vũ trang ở nông
thôn với phong trào đấu tranh ở đô thị… Tác giả đánh giá vấn đề nông dân là vấn đề
chủ yếu của cách mạng Việt Nam, đánh giá đúng vị trí của vấn đề nông dân: “Ở
thuộc địa, vấn đề dân tộc tức là vấn đề nông dân. Vì tinh thần dân tộc của nông dân
rất cao, không ai tha thiết với mảnh đất Tổ quốc bằng nông dân, cho nên ngoài giai
cấp vô sản ra, cũng không ai tha thiết với việc giải phóng dân tộc bằng nông dân”
[18; tr.37]. Đồng thời, tác giả cũng phân tích sâu sắc những yêu cầu của nông dân
trong xã hội thuộc địa; khẳng định yêu cầu số một của nông dân ở thuộc địa là vấn
đề độc lập dân tộc chứ không phải ruộng đất, chống phong kiến chỉ là khẩu hiệu thứ
yếu…
Tác giả Chu Đức Tính với Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giải quyết vấn đề dân
tộc dân chủ trong cách mạng Việt Nam (1930 - 1954), Nxb. Chính trị quốc gia, HN,
2001. Tác giả phân tích tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX; mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải giải quyết, trong đó nhấn mạnh: “nhiệm
vụ chống đế quốc cấp bách và bao trùm hơn, vì đánh đuổi được đế quốc, giành được
độc lập dân tộc là đã đồng thời giải quyết một phần nhiệm vụ dân chủ, đã đánh đổ
và chặt đứt chỗ dựa của chế độ phong kiến [107; tr.12]. Tác giả cũng phân tích
những quan điểm, chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc giải

10


quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược độc lập dân tộc và CMRĐ của
nông dân…
Lê Thị Quỳnh Nga với Quá trình thực hiện chủ trương cách mạng ruộng đất của
Đảng ở tỉnh Thanh Hóa, luận án tiến sĩ lịch sử, trường Đại học khoa học xã hội và
nhân văn, 2010. Luận án phân tích sâu sắc những biến chuyển của xã hội Việt Nam

dưới chế độ thuộc địa của Pháp đi đến khẳng định sự đối kháng giữa dân tộc Việt
Nam với thực dân xâm lược Pháp diễn ra chủ yếu; đồng thời, luận án đã khái quát
về tình hình ruộng đất và các thành phần giai cấp ở nông thôn trước năm 1945,
trong đó có giai cấp nông dân. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích về quá trình thực
hiện chủ trương cách mạng ruộng đất theo phương thức cải cách từng phần, chủ
trương của Đảng xóa bỏ dần dần phạm vi bóc lột và thu hẹp chế độ chiếm hữu
ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến trong thời kỳ 1930 - 1945.
Một số tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Lịch sử Đảng, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, Tạp chí Cộng sản… cũng có những bài viết đề cập đến nhận thức, sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với phong trào nông dân. Tác giả Vũ
Quang Hiển với Quá trình nhận thức và chủ trương giải quyết vấn đề nông dân
của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ, trên Tạp chí Khoa học, số 2 năm
1994 của Đại học Tổng hợp HN; tác giả Phan Huy Ngạn với bài viết Nghiên cứu
quan điểm của Hồ Chủ tịch về vấn đề nông dân trong giai đoạn cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở nước ta, trên Tạp chí Cộng sản số 174 (tháng 5 và tháng
6-1977); tác giả Hoa Đình Nghĩa với Nguyễn Ái Quốc với việc phát huy vai trò của
nông dân trong quá trình vận động cách mạng (1920 - 1945), Tạp chí Lịch sử
Đảng, tháng 9-2011… cùng một số bài viết có liên quan khác.
Đặc biệt, tác giả Nguyễn Thị Hằng Nga với Đảng với cuộc vận động nông dân
trong cao trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945, luận văn thạc sĩ, năm 2010 làm rõ
sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình vận động, tổ chức nông dân, xây dựng trận địa
cách mạng ở nông thôn trong cao trào cách mạng 1939 - 1945; vai trò của phong
trào nông dân và địa bàn nông thôn đối với cuộc vận động cách mạng GPDT; bước
đầu tổng kết một số kinh nghiệm lịch sử rút ra từ công tác vận động nông dân của
Đảng trong cao trào vận động GPDT 1939 - 1945.

11


2. Những công trình bàn về giai cấp nông dân (vấn đề ruộng đất, tình cảnh giai

cấp nông dân, mối quan hệ giữa địa chủ với nông dân…) và phong trào nông dân,
nhưng ít nhiều có đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng
Hội Nông dân Việt Nam với tác phẩm Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông
dân Việt Nam (1930 - 1995), Nxb. Chính trị quốc gia, HN, 1998: tổng kết quá trình
hình thành, phát triển của phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam từ khi có
Đảng lãnh đạo, đánh giá, phân tích vai trò giai cấp nông dân Việt Nam, rút ra những
kinh nghiệm lãnh đạo phong trào nông dân và tổ chức Hội Nông dân Việt Nam.
Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp với tác phẩm Vấn đề dân cày, Nxb. Sự thật,
HN, 1959. Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng vào
thực tiễn khảo sát về đời sống nông dân, hai tác giả đi sâu nghiên cứu thực trạng của
nông thôn Việt Nam dưới ách áp bức thực dân, phong kiến. Các tác giả đặt vấn đề
về ruộng đất và dân cày là trụ cột của Đông Dương, phân tích về địa vị giai cấp, vị
trí, khuynh hướng và tính chất của giai cấp nông dân. Cuốn sách tố cáo tội ác của đế
quốc và phong kiến, phản ánh trung thực đời sống cơ cực của giai cấp nông dân
Việt Nam, nêu rõ mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến vì độc
lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày, vạch rõ con đường và phương hướng giải
quyết vấn đề ruộng đất ở Việt Nam trong giai đoạn trước mắt và trong tương lai.
Qua cuốn sách, tác giả dành nhiều trang viết để trình bày những vấn đề ruộng đất,
địa tô, sưu thuế, cho vay nặng lãi, hối lộ, giáo dục… đồng thời cũng nêu lên những
yêu sách của dân cày Đông Dương trước Mặt trận nhân dân Pháp.
Minh Tranh với Một số ý kiến về nông dân Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1959. Cuốn sách đề cập đến những nội dung chính: những đặc điểm chính của
phong trào nông dân Việt Nam trong lịch sử; nông dân Việt Nam và cách mạng; vấn
đề nông dân trong cách mạng dân tộc… Đặc biệt, tác giả đã phân tích sâu sắc đặc
điểm tình hình xã hội Việt Nam dưới thời thuộc địa, trong đó nhấn mạnh những
mâu thuẫn giữa nông dân với thực dân xâm lược cao hơn hết: “Ở thuộc địa, vấn đề
dân tộc tức là vấn đề nông dân. Vì tinh thần dân tộc của nông dân rất cao, không ai
tha thiết với mảnh đất Tổ quốc bằng nông dân, cho nên ngoài giai cấp vô sản ra
cũng không ai tha thiết với việc giải phóng dân tộc bằng nông dân” [18; tr.37].


12


Lê Văn Túc, Đảng với vấn đề ruộng đất trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh thời
kỳ 1930 - 1931, luận án Tiến sĩ lịch sử, HN, 2000. Tác giả đã trình bày sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam và cương lĩnh ruộng đất của Đảng, cơ sở lý luận để Xô
Viết Nghệ Tĩnh giải quyết ruộng đất cho nông dân. Phong trào đấu tranh ở Nghệ
Tĩnh và sự ra đời của Xô Viết Nghệ Tĩnh. Vai trò lãnh đạo của Đảng và Xứ ủy
Trung Kỳ trong việc xô viết mang lại ruộng đất và quyền lợi dân chủ khác cho nông
dân Nghệ Tĩnh
Phạm Hồng Tung, Lịch sử cuộc vận động vì các quyền dân sinh, dân chủ ở Việt
Nam (1936 - 1939 ), Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 2008. Tác giả đã khảo cứu về tất
cả các cuộc vận động vì quyền dân sinh, dân chủ trong giai đoạn 1936 - 1939. Qua
đó, nghiên cứu quá trình hình thành, nội dung chiến lược và sách lược của Đảng đối
với cuộc vận động này. Tác giả cũng trình bày các phong trào đấu tranh của nông
dân trong giai đoạn này.
Tác giả Nguyễn Văn Khánh: Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858
- 1945), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, HN, 1999 và Việt Nam 1919 - 1930: Thời
kỳ tìm tòi và định hướng, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2007. Tác giả đã phân tích
những chuyển biến của cơ cấu kinh tế - xã hội cổ truyền vào nửa sau thế kỷ XIX,
quá trình hình thành cơ cấu kinh tế - xã hội, thuộc địa ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
(1900 - 1918) và cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời kỳ 1919 - 1945; phân
tích đặc điểm và sự phân hóa giai cấp nông dân trong thời kỳ này.
Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ: Đại cương lịch sử Việt
Nam, Tập 2 (1858 - 1945), Nxb. Giáo dục, HN, 2005. Các tác giả đã trình bày một
cách hệ thống lịch sử cuộc đấu tranh yêu nước cách mạng của nhân dân chống lại sự
đô hộ của thực dân Pháp từ năm 1858 đến năm 1945. Nêu lên đặc điểm tình hình
phân hóa kinh tế - xã hội Việt Nam từ khi thực dân Pháp xâm lược đến năm 1945,
trong đó có sự phân hóa giai cấp nông dân và yêu cầu của nông dân Việt Nam thời
thuộc địa. Cuốn sách phân tích những điều kiện thế giới, trong nước, chủ trương của

Đảng trong từng giai đoạn cách mạng, đồng thời trình bày khái quát phong trào đấu
tranh của nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nguyễn Thị Ngọc Mai với đề tài Tìm hiểu giai cấp địa chủ Việt Nam ở đồng
bằng Bắc Bộ từ đầu thế kỷ XX đến trước cuộc cải cách ruộng đất, luận văn khoa

13


học lịch sử, 2010. Luận văn khái lược về giai cấp địa chủ Việt Nam thời cận đại,
chính sách thuộc địa của người Pháp đối với nông thôn và sự biến đổi của giai cấp
địa chủ Việt Nam thời cận đại. Tìm hiểu diện mạo kinh tế của giai cấp Việt Nam ở
đồng bằng Bắc Bộ; Nghiên cứu một số luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và
QTCS về vấn đề ruộng đất, nông dân và địa chủ; thái độ của địa chủ Việt Nam đối
với cuộc CMDTDCND. Qua đó, làm rõ những đặc trưng cơ bản của giai cấp địa
chủ Việt Nam ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Kỳ nói chung trong hành trình của cuộc
CMDTDCND (1930 - 1953) như về địa vị kinh tế, phương thức bóc lột, mối quan
hệ với các giai cấp, tầng lớp khác, vị thế xã hội, thái độ chính trị và quá trình
chuyển biến của giai cấp địa chủ trong thời kỳ này. Đặc biệt, luận văn khái quát một
số luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản về vấn đề
ruộng đất, nông dân và địa chủ; chủ trương vận động nông dân của Đảng trong thời
kỳ 1930 - 1945.
3. Những công trình viết về sự lãnh đạo của các cấp bộ Đảng ở địa phương
Các công trình Lịch sử Đảng bộ địa phương được xuất bản như: Hà Nội, Cao
Bằng, Hòa Bình, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Tuyên
Quang, Hà Giang, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, An
Giang, Quảng Ngãi, Bình Dương, Đắk Lăk… đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng bộ
địa phương đối với phong trào cách mạng nói chung, đặc biệt là phong trào nông
dân.
Cùng với công trình nghiên cứu, biên soạn và xuất bản lịch sử Đảng bộ tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, nhiều công trình về lịch sử phong trào nông dân

và Hội Nông dân tỉnh, thành phố được phát hành như: Thanh Hoá (1993), Hoà Bình
(1998), Hà Nội (2000), Hải Dương (2000), Bắc Giang (2002), Kom Tum (2006),
Thừa Thiên - Huế, Cần Thơ (2008), hay huyện Tiên Lãng (Hải Phòng - 2008), Gia
Lai (năm 2009), Thái Bình (năm 2010)…
Bên cạnh việc trình bày những nét lớn các chủ trương của Đảng, sự lãnh đạo cụ
thể của Đảng bộ địa phương nhằm tập hợp, lãnh đạo, chỉ đạo phong trào đấu tranh
của lực lượng nông dân, qua các giai đoạn khác nhau…, các công trình này đã trình
bày khá cụ thể, chi tiết về phong trào nông dân trên địa bàn các tỉnh, huyện, xã…
4. Những vấn đề mà các công trình nghiên cứu chưa làm sáng tỏ

14


Qua khảo sát bước đầu, vấn đề nông dân, nông thôn được đề cập trong một số
công trình cũng như sách báo, tạp chí ở các góc độ lịch sử, kinh tế, cung cấp nhiều
tài liệu, sự chỉ đạo rất quan trọng. Các công trình, bài viết này trực tiếp hoặc gián
tiếp đề cập đến vai trò của nông dân, sự đóng góp của phong trào nông dân đối với
cách mạng GPDT; đồng thời cũng đề cập đến nhận thức và sự lãnh đạo của Đảng
trong việc vận động, tổ chức nông dân. Tuy nhiên, một số vấn đề trong các công
trình đó chưa làm rõ:
- Chưa trình bày một cách có hệ thống các chủ trương, biện pháp vận động nông
dân thời kỳ 1930 - 1945.
- Chưa khai thác hết, triệt để các chủ trương của Đảng được trình bày trong các
văn kiện như: Tài liệu Đảng Cộng sản Đông Dương và những yêu sách chung cho
các giai cấp và dân tộc ở Đông Dương (năm 1932), Chương trình hoạt động của
Nông hội (năm 1933), Nghị quyết của Ban Chỉ huy ở ngoài của ĐCSĐD và đại diện
các tổ chức Đảng ở trong nước (tháng 4-1934), Thư QTCS gửi cho ĐCSĐD (ngày
3-8-1934)…
- Chưa tập trung đánh giá được hiệu quả cuộc vận động cũng như tiến trình vận
động, phát triển trong hình thức tổ chức vận động nông dân…

6. Những vấn đề mà luận văn cần tập trung giải quyết:
- Tập trung trình bày một cách có hệ thống và phân tích các chủ trương, biện
pháp của Đảng về vận động nông dân qua từng giai đoạn cách mạng trong thời kỳ
1930 - 1945, gắn với hoàn cảnh lịch sử từng giai đoạn.
- Làm rõ các hình thức tổ chức, cũng như hình thức vận động nông dân đấu tranh
qua từng giai đoạn cách mạng nhằm làm rõ hiệu quả cuộc vận động của Đảng.
- Bước đầu tổng kết những ưu điểm, hạn chế và một số kinh nghiệm lịch sử rút ra
từ sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc vận động nông dân thời kỳ 1930 - 1945.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ chủ trương và biện pháp của Đảng trong quá trình vận động nông dân,
việc thực hiện những chủ trương của Đảng thời kỳ 1930 - 1945; từ đó bước đầu rút
ra một số một số kinh nghiệm lịch sử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

15


- Tập hợp và hệ thống hóa những tài liệu liên quan đến đề tài.
- Trình bày có hệ thống những chủ trương và biện pháp của Đảng trong vận động
nhằm nông dân qua các giai đoạn cách mạng gắn liền với những hoàn cảnh lịch sử
cụ thể và kết quả của mỗi giai đoạn trong thời kỳ 1930 - 1945.
- Đánh giá ưu điểm và hạn chế của Đảng trong cuộc vận động nông dân, cũng
như hiệu quả của cuộc vận động thời kỳ 1930 - 1945.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng:
- Chủ trương và biện pháp vận động nông dân của Đảng.
- Hiệu quả của cuộc vận động nông dân, biểu hiện ở phong trào nông dân tham
gia đấu tranh cách mạng trong mỗi giai đoạn từ 1930 - 1945
4.2. Phạm vi nghiên cứu:

- Hoàn cảnh lịch sử, yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong mỗi giai
đoạn lịch sử trong thời kỳ 1930 - 1945.
- Thời gian: Từ khi Đảng ra đời đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
công.
- Không gian: Nông thôn Việt Nam
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu chính là toàn bộ văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng từ khi ra
đời năm 1930 đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công.
Trong quá trình thực hiện đề tài, các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo, các văn kiện của Đảng và Nhà
nước về vấn đề nông dân là phương pháp luận để chúng tôi xem xét vấn đề. Các
cuốn sách thông sử, các bài nghiên cứu, các công trình chuyên khảo là những phông
kiến thức quan trọng và là những gợi ý để chúng tôi có thể tham khảo, từ đó có nhận
thức rõ hơn thực chất chủ trương vận động nông dân của Đảng thời kỳ 1930 - 1945.
Bên cạnh đó còn phải kể đến các sách, báo, tài liệu lưu trữ viết về phong trào đấu
tranh cách mạng của nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1930 - 1945.
Ngoài ra, còn có các bài viết liên quan đến đề tài trên các tạp chí chuyên ngành như:

16


Lịch sử Đảng, Nghiên cứu Lịch sử, Xưa và nay, Tạp chí Khoa học của Đại học
Quốc gia HN…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu là Chủ trương vận động nông dân của Đảng trong thời
kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945), chúng tôi vận dụng linh hoạt nhiều
phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Tìm hiểu, thu thập và nghiên cứu các tài liệu
liên quan đến cuộc vận động nông dân của Đảng thời kỳ 1930 - 1945 qua các sách,
báo, tạp chí, những công trình khoa học… từ đó chọn lọc vấn đề, xử lý sử liệu, lựa

chọn các tài liệu cần thiết làm cơ sở cho việc viết nội dung đề tài.
Phương pháp nghiên cứu logic: Trên cơ sở khai thác triệt để các sự kiện lịch sử,
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng thuộc phạm vi đề tài sau đó tiến
hành viết nội dung đề tài. Các sự kiện đều được sắp xếp một cách tuần tự, có hệ
thống, lôgic nhằm phác họa lại chủ trương vận động nông dân trong thời kỳ 1930 1945.
Mặt khác, chúng tôi cũng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh
các quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng ở từng thời điểm khác nhau trong lịch
sử để từ đó thấy rõ sự linh hoạt, sáng tạo của Đảng trong cuộc vận động toàn dân
tham gia phong trào cách mạng nói chung và đối với cuộc vận động nông dân thời
kỳ 1930 - 1945 nói riêng.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn được chia làm
bốn chương:
Chương 1: Chủ trương vận động nông dân của Đảng trong phong trào cách mạng
1930 - 1935
Chương 2: Chủ trương vận động nông dân của Đảng trong phong trào dân chủ
1936 - 1939
Chương 3: Chủ trương vận động nông dân của Đảng trong cao trào giải phóng
dân tộc 1939 - 1945
Chương 4: Một số nhận xét và kinh nghiệm

17


Chƣơng 1
CHỦ TRƢƠNG VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN CỦA ĐẢNG
TRONG PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930 - 1935
1.1. Nông dân Việt Nam thời thuộc địa và quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về
nông dân trƣớc khi Đảng ra đời
1.1.1. Nông dân trong xã hội Việt Nam thời thuộc địa

Việt Nam là một nước nông nghiệp, giai cấp nông dân lực lượng đông đảo nhất
của dân tộc Việt Nam, do đó nói đến cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc là nói đến vai
trò của giai cấp nông dân Việt Nam. Trong lịch sử dân tộc, nông dân là những chủ
nhân đầu tiên khai phá đất đai, quai đê, lấn biển, xây dựng các làng, thôn ấp, các
cộng đồng dân tộc Việt Nam, lập nên non sông đất nước hôm nay.
Trong xã hội Việt Nam thời phong kiến, nông dân luôn luôn là lực lượng đông
đảo nhất, là lực lượng sản xuất lớn nhất, tạo ra của cải nuôi sống xã hội, là lực
lượng chủ yếu trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Cuối thế kỷ XIX, thực
dân Pháp xâm lược Việt Nam. Xã hội Việt Nam từ một xã hội phong kiến chuyển
thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Bên cạnh các hình thức bóc lột thực dân
chúng vẫn duy trì hình thức bóc lột theo lối phong kiến.
Theo số liệu thống kê của Viện Sử học, trong tác phẩm Nông dân và nông thôn
Việt Nam thời cận đại:
…trước Cách mạng tháng Tám, nông dân chiếm tới 97% tổng số nông hộ,
nhưng chỉ chiếm 36% diện tích ruộng đất của cả nước. Ngoài ra, khoảng trên
dưới 40% số hộ nông dân có chút ít ruộng tư, còn gần một nửa (ở Bắc Kỳ và
Trung Kỳ) và 2/3 số hộ (Nam Kỳ) không có lấy “một mảnh đất cắm dùi”.
Ruộng đất bình quân của một hộ tiểu nông ở nước ta thấp nhất thế giới [118;
tr.18].
Ở nước ta, trước Cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp, giai cấp địa chủ
phong kiến và Nhà chung là bọn ngồi không ăn bám. Chúng không quá 4%
dân số, nhưng lại chiếm hơn 50% ruộng đất toàn quốc. Trong khi đó nông

18


dân lao động là người khai phá ruộng đất, trực tiếp sản xuất, chiếm quá 90%
dân số mà chỉ có 1/4 ruộng đất, kể cả ruộng công. Số gia đình nông dân
không có ruộng đất chiếm tới 62%... [88; tr.27].
Nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong các thành phần xã hội. Nét nổi bật

nhất trong bức tranh nông thôn Việt Nam thời Pháp thuộc là cảnh đói nghèo, lạc
hậu. Họ phải chịu rất nhiều gánh nặng từ thuế má, địa tô, nợ lãi…
Trong quá trình sản xuất, giai cấp nông dân cũng bị phân hóa dần thành các tầng
lớp: phú nông, trung nông, bần nông và cố nông.
Phú nông: trong nông dân là số người có nhiều ruộng đất hơn cả. Với 2,2% dân
số nông thôn, họ có 7,1% ruộng đất. Bình quân sở hữu ruộng đất của 1 nhân khẩu
phú nông gấp 3 lần 1 nhân khẩu trung nông, gấp 9 lần 1 nhân khẩu bần nông… Phú
nông không bị bóc lột mà có tham gia bóc lột nhân công, nợ lãi nhưng họ tham gia
lao động sản xuất là chủ yếu [56; tr.43].
Tầng lớp trung nông tương đối đủ ruộng đất (khoảng từ 3 mẫu trở lên đối với
Bắc Kỳ) và các công cụ sản xuất như trâu, bò, nông cụ… để tự sản xuất và nuôi
sống mình, không phải bán sức lao động, nhưng cũng không có khả năng tham gia
vào việc bóc lột người khác. Nhưng đây cũng chỉ là sự phân chia giới hạn tương
đối. Trên thực tế, có một số hộ trung nông lớp dưới đôi khi vẫn phải bán sức lao
động cho địa chủ lớn và một số cũng tham gia bóc lột qua việc cho lĩnh canh ruộng
đất dư hoặc phát canh lại ruộng lĩnh canh của địa chủ như ở Nam Kỳ.
Tầng lớp bần nông bao gồm những người thiếu ruộng đất canh tác, thiếu trâu bò
và nông cụ sản xuất nên phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ, thuê mướn trâu bò,
nông cụ sản xuất và tiền vốn. Theo số liệu điều tra ở 16 tỉnh miền Bắc trước năm
1945 thì tầng lớp này có 20.246 hộ, chiếm 35,4% số hộ nông dân, nắm trong tay
10,8% diện tích canh tác; bình quân mỗi người sở hữu 476 m2 ruộng đất [58; tr.69].
Cố nông là tầng lớp nghèo khổ nhất, bần cùng nhất trong giai cấp nông dân. Họ
thường không có ruộng đất để cày cấy, không có trâu bò, nông cụ để sản xuất.
Nguồn sống chủ yếu của họ là lĩnh canh ruộng đất, đi làm thuê, làm mướn, đi ở cho
nhà giàu, địa chủ... Một phần trong số họ vì không có ruộng đất bỏ làng đi làm thuê
ở các đồn điền hay các cơ sở công nghiệp, hoặc đi làm cu li ở xứ Nam Kỳ. Họ trở
thành công nhân đồn điền hay công nhân “áo nâu” trong các xí nghiệp, công xưởng

19



của thực dân Pháp. Cũng theo số liệu của cuộc điều tra nói trên thì ở miền Bắc thời
kỳ này có 11.785 hộ cố nông, chiếm 20,6% tổng số hộ nông dân, nhưng chỉ có trong
tay 1.513 mẫu 7 sào ruộng, bằng khoảng 1,2% tổng số ruộng, bình quân chiếm hữu
và sử dụng là 92 m2/người [58; tr.69].
Trong thời kỳ này, giai cấp nông dân chiếm tới 90% số hộ nông dân, nhưng chỉ
có trong tay 42,4% diện tích ruộng đất canh tác. Vì thiếu ruộng đất canh tác nên đại
đa số nông dân nghèo (bần nông và cố nông) phải lĩnh canh ruộng đất hay cấy rẽ
(chủ yếu ở Bắc và Trung Kỳ), hoặc thuê mướn ruộng hay làm tá điền cho địa chủ để
kiếm sống. Lĩnh canh là hình thức mướn ruộng của địa chủ, tự mình cày cấy và sau
khi thu hoạch phải nộp cho địa chủ một phần sản phẩm dưới dạng hiện vật hay quy
ra tiền. Ở nông thôn Bắc Kỳ và Trung Kỳ, địa tô thường chiếm từ 50 - 60% hoa lợi.
Còn hình thức mướn ruộng diễn ra phổ biến ở Nam Kỳ theo hai cách: người mướn
ruộng trả tiền thuê ngay cho chủ ruộng, hoặc trả địa tô bằng 1/2 hoa lợi vào vụ thu
hoạch [58; tr.69-70].
Nông dân bị bóc lột nặng nề nhưng lại không có lối thoát. Một bộ phận trong số
họ bị bần cùng hóa, phải bỏ quê hương ra các thành thị, hầm mỏ để tìm việc, song
phần đông phải quay về vì không tìm được việc làm do chủ trương hạn chế mở
mang công nghiệp của thực dân Pháp. Một số lượng lớn nông dân phải đi lính làm
bia đỡ đạn, hoặc rơi vào vòng tù tội. Đó là một con đường bần cùng hóa không lối
thoát của nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Đời sống nhân dân nói chung,
đặc biệt là quần chúng nông dân bị áp bức bóc lột sống rất cơ cực, tủi nhục. Họ
không có bất cứ một quyền tự do tối thiểu nào, ngoài nghĩa vụ phải đóng các thứ
thuế vô lý cho tư bản Pháp.
Ở nông thôn, bần nông, cố nông và trung nông là lực lượng cách mạng, là đồng
minh tin cậy của giai cấp công nhân. Phú nông vẫn là những người có thể lôi kéo đi
cùng dân tộc trong cuộc chiến tranh giải phóng. Từ thực tế của một đất nước thuộc
địa, nửa phong kiến, dẫn tới thực trạng kẻ cướp ruộng của nông dân Việt Nam là cả
đế quốc và địa chủ. Kẻ thù của nông dân không chỉ là địa chủ Việt Nam mà cả đế
quốc Pháp, và đế quốc còn nguy hiểm hơn, bởi chính đế quốc vừa xâm lược, cướp

ruộng đất, vừa là chỗ dựa cho phong kiến. Yêu cầu giải quyết mâu thuẫn dân tộc
của nông dân còn cao hơn, cấp bách hơn yêu cầu giải quyết mâu thuẫn giai cấp.

20


Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tư tưởng cách mạng và phương thức vận động
cách mạng có phát triển tiến bộ hơn, nhưng chủ trương GPDT đều mang một nhược
điểm căn bản, chưa chủ trương dựa vào lực lượng to lớn của nông dân, chưa giải
quyết đúng mức mâu thuẫn giữa phong kiến với nông dân. Vì thế, dù các sĩ phu
phong kiến yêu nước kiên quyết chiến đấu, cố gắng tìm một con đường cứu nước
mới, cũng như hết lòng muốn tập hợp dân tộc, nhưng rốt cuộc phong trào kháng
Pháp vẫn mang tính chất phân tán với sự ủng hộ của nông dân từng địa phương.
Ở thuộc địa, vấn đề dân tộc tức là vấn đề nông dân. Vì tinh thần dân tộc của nông
dân rất cao, không ai tha thiết với mảnh đất Tổ quốc bằng nông dân, cho nên ngoài
giai cấp vô sản ra cũng không ai tha thiết với việc giải phóng dân tộc bằng nông dân
[18; tr.37].
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, nông dân Việt
Nam luôn luôn là đội quân chủ lực. Trong lịch sử ấy, kẻ thù chủ yếu và trước mắt của
nông dân là phong kiến ngoại tộc xâm lược cho nên trong những thời kỳ bị đô hộ
hoặc những thời kỳ phải đề phòng xâm lược, mũi nhọn đấu tranh chủ yếu của nông
dân không chĩa vào đâu khác mà chính là bọn phong kiến xâm lược [83; tr.10]. Khi
Tổ quốc bị xâm lăng thì “… nguyện vọng ấy là nguyện vọng độc lập của đất nước.
Lúc bấy giờ, nông dân đoàn kết với nhau dưới một khẩu hiệu chính trị là diệt xâm
lược còn khẩu hiệu kinh tế, khẩu hiệu chống phong kiến địa phương hay chống
phong kiến Trung ương cũng chỉ là thứ yếu” [83; tr.18].
Nông dân là một bộ phận đông đảo nhất, lại bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất. Họ
chẳng mất gì mà chỉ được lợi trong cuộc cách mạng phản đế và phản phong kiến.
Nếu được giai cấp vô sản lãnh đạo, sức mạnh của nông dân sẽ trở nên lớn lao vô
địch. Nông dân là đồng minh chính và gần gũi nhất của giai cấp vô sản [83; tr.62].

Đế quốc Pháp cướp nước Việt Nam căn bản là bóc lột nông dân - đại bộ phận dân
số trong nước. Nông dân bị bóc lột nhiều nhất, tàn tệ nhất; do đó nông dân là người
sống khổ cực nhất trong xã hội Việt Nam; về mặt khổ cực, chỉ có “vô sản áo nâu”
mới gần như nông dân… Nông dân có ý thức cách mạng rất mạnh mẽ. Ý thức cách
mạng của nông dân trước tiên là ý thức dân tộc. Nói đến dân tộc chủ yếu là nói đến
nông dân. Nói phong trào dân tộc Việt Nam tức là nói phong trào nông dân Việt
Nam. Ý thức dân tộc của nông dân đã rất mạnh ngay trong thời kỳ phong kiến nghìn

21


năm trước đây do tình trạng bị mất nước tạo nên” [83; tr.69]. Việt Nam là một nước
thuần nông nghiệp, nông dân có số lượng đông nhất trong các tầng lớp xã hội. Quả
thật, vấn đề nông dân là vấn đề cơ bản của lịch sử Việt Nam. Đó là “nhân tố bất
biến”, “một hằng số có tầm quan trọng đặc biệt” [61; tr.27]. Vì vậy, việc giải quyết
tốt vấn đề nông dân thì sẽ thúc đẩy lịch sử tiến lên. ĐCSVN ra đời năm 1930, với
đường lối đúng đắn và sáng tạo là giương cao ngọn cờ “độc lập dân tộc” cổ vũ, lôi
cuốn được rất nhiều các tầng lớp nông dân tham gia hưởng ứng.
1.1.2. Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về nông dân trong những năm 20 của thế
kỷ XX
Trong dòng chảy lịch sử của quốc gia nông nghiệp truyền thống, vấn đề nông dân
luôn luôn là một vấn đề chủ yếu. Ở đó, tình cảnh nông dân, vai trò, vị trí, mối quan
hệ của họ đối với tư liệu sản xuất, với chính sách của Nhà nước luôn luôn được đặt
ra. Từ khi thực dân Pháp xâm lược đất Việt Nam (năm 1858), xã hội Việt Nam
nhanh chóng thay đổi tính chất. Thực dân Pháp vẫn tiếp tục duy trì sự bóc lột của
giai cấp phong kiến. Vậy ở đây, vấn đề dân tộc được đặt ra và giải quyết như thế
nào? Có biết đặt ra và giải quyết đúng đắn vấn đề ấy thì cách mạng mới đi tới thắng
lợi được. Các bậc tiền bối dù có nhiều tư tưởng tiến bộ nhưng vẫn chưa ai giải quyết
được mối quan hệ giữa vấn đề nông dân với vấn đề dân tộc. Trương Định khẳng
khái nhưng ông cũng chỉ thấy sở dĩ nước mất là do lũ mũ cao, áo dài, ươn hèn, bán

nước. Những lãnh tụ Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám
huy động chính nông dân cùng mình chống Pháp nhưng lại “cần vương” và chưa
bao giờ coi nông dân là lực lượng chính, vấn đề nông dân chưa được đặt ngang tầm.
Đến Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh tuy có đề xướng Duy tân, dân chủ theo
lối tư sản, song cả hai chưa bao giờ nói đến vấn đề nông dân. Theo Phan Bội Châu,
muốn đánh thắng giặc thì đồng bào cả nước phải đồng tâm, chung sức. Song cụ lại
gửi gắm sứ mệnh cứu nước cho mười giới “phú hào, quý tộc, sĩ phu, lính tập, tín đồ
thiên chúa, du đồ hội đảng, nhi nữ anh si, thông ngôn, ký lục, bồi bếp” mà không
nói gì đến nông dân là lực lượng to lớn nhất. Phan Bội Châu dựa vào Nhật Bản để
đánh Pháp. Còn Phan Chu Trinh coi Pháp là chỗ dựa để thực hiện cải cách dân chủ,
đánh đổ nền quân chủ chuyên chế, gây dân quyền tự do rồi mới tính đến chuyện
GPDT [33; tr.31]. Còn về Việt Nam quốc dân đảng chủ trương dân chủ tư sản rõ rệt

22


hơn các phong trào trước, song khẩu hiệu đề ra cũng chỉ là: Đánh giặc Pháp về nước
Pháp, trả nước Nam cho người Nam, để trăm họ khỏi lầm than, để người người
thêm hạnh phúc. Trong đường lối, chủ trương cũng như thực tiễn hoạt động của
mình, Việt Nam quốc dân đảng chưa thấy được hết vai trò to lớn của giai cấp nông
dân đối với sự nghiệp cách mạng dân tộc, để có chủ trương, biện pháp kêu gọi, lôi
kéo họ đứng về phía mình và tham gia tranh đấu, cho nên trong suốt quá trình hoạt
động của mình, Việt Nam quốc dân đảng không nhận được sự ủng hộ nhiệt tình, sự
tham gia đông đảo của quần chúng. Hoạt động của Việt Nam quốc dân đảng quá
đơn độc giữa quần chúng.
Như vậy, các phong trào yêu nước chống Pháp với các xu hướng chính trị khác
nhau nổi lên, song xác định được lực lượng cơ bản trong vấn đề dân tộc ở Việt Nam
thì chưa ai xác định đúng và trúng. Giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ yếu về thế lực
kinh tế, dễ dao động về chính trị, có quan hệ khá thân thiết với giai cấp phong kiến
và thực dân nên khá xa lạ với vấn đề nông dân. Bởi vậy, dù có tinh thần yêu nước,

họ cũng không đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn của cách mạng đề ra. Xu
hướng chung của phong trào yêu nước dưới các ngọn cờ phong kiến, dân chủ tư sản
đều thất bại vì thiếu đường lối giải phóng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân, không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam, thiếu
một tổ chức tiên phong lãnh đạo.
Ngay từ khi còn nhỏ, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu và gắn bó với cuộc sống của
người nông dân. Năm 1908, khi Người còn học tại trường Quốc học Huế, Nguyễn
Tất Thành tham gia cuộc đấu tranh của nông dân yêu cầu nhà cầm quyền thực dân
giảm nhẹ sưu thuế. Và trên hành trình cứu nước, cứu dân, Nguyễn Ái Quốc đã hiểu
thêm về người nông dân các nước thuộc địa cùng cảnh ngộ. Vượt qua sự hạn chế
của chủ nghĩa yêu nước của các sĩ phu, và của các nhà cách mạng có xu hướng tư
sản đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã sớm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy ở
chủ nghĩa Lênin con đường GPDT đúng đắn. Ngay từ những năm 20 của thế kỷ
XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến vấn đề nông dân thuộc địa nói chung và
Việt Nam nói riêng.

23


Người đồng cảm với nỗi thống khổ của người nông dân ở thuộc địa nói chúng và
nông dân Việt Nam nói riêng; xác định vai trò của nông dân trong cách mạng giải
phóng ở thuộc địa.
Năm 1920, sau khi đọc Sơ thảo Luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc
địa của Lênin, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng ở các nước thuộc địa, phải coi trọng
vai trò của giai cấp nông dân và muốn cách mạng dân tộc thành công, phải thực
hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Theo Nguyễn Ái Quốc, sức mạnh của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa vì
trước hết đây là lực lượng đông đảo, chiếm phần lớn dân số xã hội, nhưng quan
trọng hơn, họ có mối thù sâu nặng với thực dân, địa chủ phong kiến phản động,
những kẻ tước đoạt ruộng đất, hành hạ, áp bức họ như những con súc vật. Do đó,

theo Người khi tiến hành cuộc cách mạng GPDT phải gắn liền với phạm trù cách
mạng dân chủ. Trong một báo cáo gửi QTCS năm 1923, Nguyễn Ái Quốc viết:
“Quần chúng nông dân bị bóc lột nhất và cùng khổ nhất, rất yêu nước. Tuyên truyền
tốt trong nông dân và tổ chức tốt trong công nhân nếu chúng ta làm được điều đó thì
tương lai thuộc về chúng ta” [75; tr.204].
Tháng 10-1923, Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội lần thứ nhất Quốc tế nông dân họp
tại Matxcơva và được bầu vào BCH quốc tế Nông dân với tư cách là đại biểu nông
dân của các nước thuộc địa. Tại Đại hội, Người nêu lên sự đồng cảm sâu sắc đối với
tình cảnh khổ nhục của những người dân mất nước, đặc biệt là nông dân, “nông dân
An Nam lại giống như một người bị trói vào một chiếc cột, đầu ngược xuống đất”
[75; tr.209]. Người nông dân bị nhiều tầng bóc lột của thực dân, đế quốc và phong
kiến “Như vậy là người nông dân An Nam không phải chỉ bị trói vào một chiếc cột
như tôi đã trình bày với các đồng chí, mà họ bị đóng đinh câu bởi bốn thế lực liên
hợp là: Nhà nước, tên thực dân, nhà thờ và tên lái buôn” [75; tr.211].
Ngày 3-7-1924, phát biểu tại phiên họp thứ 25 Đại hội lần thứ V QTCS, khi nói
về tình hình kinh tế thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ: “Trong tất cả các thuộc địa
Pháp, công nghiệp và thương nghiệp phát triển yếu ớt và nhân dân hầu hết làm nghề
nông, 95% dân số bản xứ là nông dân” [75; tr.283].

24


Năm 1924, trong bài viết Tình cảnh nông dân An Nam đăng trên báo La Vie
Ouriève, Người cho thấy bức tranh toàn cảnh về nỗi thống khổ của người dân An
Nam:
Người An Nam nói chung, phải è cổ ra mà chịu công ơn bảo hộ của nước
Pháp. Người nông dân An Nam nói riêng, lại càng phải è cổ ra mà chịu sự
bảo hộ ấy một cách thảm hại hơn: là người An Nam, họ bị áp bức; là người
nông dân, họ bị người ta ăn cắp, cướp bóc, tước đoạt, làm phá sản… [75;
tr.227].

Những bài viết của Nguyễn Ái Quốc trên các báo giúp nhân dân Pháp và các tổ
chức chính trị - xã hội thấu hiểu tình cảnh khổ cực của người nông dân khi bị thực
dân và phong kiến cấu kết tước đoạt ruộng đất, áp bức, bóc lột bần cùng hóa. Từ đó,
có sự thông cảm sâu sắc và thấy được sức mạnh to lớn, tiềm ẩn của người nông dân
chống lại ách áp bức, bóc lột của thực dân phong kiến.
Năm 1924, tại Đại hội lần thứ V QTCS, Nguyễn Ái Quốc tố cáo chính sách cướp
đoạt ruộng đất của tư bản Pháp đối với người nông dân và kêu gọi sự giúp đỡ, ủng
hộ của QTCS đối với phong trào cách mạng của nông dân các nước thuộc địa:
Trong tất cả các nước thuộc địa của Pháp, nạn nghèo đói đều tăng, sự phẫn
uất ngày càng lên cao. Sự nổi dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi. Trong
nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi dậy, nhưng lần nào cũng bị dìm trong
bể máu. Nếu hiện nay nông dân còn ở trong tình trạng tiêu cực, thì nguyên
nhân là vì họ thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế Cộng sản cần phải
giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho
họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng [75; tr.289].
Năm 1925, trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc tiếp
tục nêu lên tình cảnh khổ cực của người nông dân An Nam:
Nói chung, người An Nam đều phải è cổ ra mà chịu công ơn bảo hộ của nước
Pháp. Riêng người nông dân An Nam lại càng phải è ra chịu sự bảo hộ ấy
một cách nhục nhã hơn. Là người An Nam, họ bị áp bức, là người nông dân,
họ bị tước đoạt [76; tr.82].
Có thể nói, Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên đánh giá đúng khả năng cách
mạng của nông dân, về vị trí và vai trò của nông dân trong cách mạng dân chủ tư

25


sản dân quyền. Đó là một công lao của Người nhằm tạo ra những yếu tố cơ bản cho
thắng lợi của cuộc cách mạng GPDT. Năm 1927, Người cho xuất bản cuốn Đường
kách mệnh - tác phẩm gối đầu giường, kim chỉ nam cho các cán bộ cách mạng Việt

Nam lúc bấy giờ. Trong tác phẩm này, Người tiếp tục đề cập đến việc người nông
dân bị tước đoạt ruộng đất, đến sự cùng cực của người nông dân nghèo; đồng thời
vạch ra con đường giải phóng cho họ, đó là gia nhập tổ chức Nông hội và hợp tác
xã. Trong chương “Tổ chức dân cày”, Người nêu lý do “Vì sao phải tổ chức dân
cày?”: Vì “Nước ta kinh tế chưa phát đạt, trong một trăm người thì có đến 90 người
là dân cày. Mà dân cày ta rất là cực khổ, nghề không có mà làm, đất không có mà
đủ ăn, áo không có mà mặc” [76; tr.308]. Người có những đồng cảm sâu sắc với
tình hình đời sống khổ cực của nông dân Việt Nam, nhận thấy được số lượng đông
đảo của họ, là lực lượng to lớn của cách mạng. Đặc biệt, Người khẳng định công
nhân và nông dân là hai lực lượng chủ yếu của cách mạng, là người chủ của cách
mạng, là hai bạn đồng minh tự nhiên, đảm bảo chắc chắn nhất những thắng lợi của
cách mạng.
Nguyễn Ái Quốc cũng xác định vị trí, vai trò của nông dân trong khối liên minh
công nông, tiến hành cách mạng GPDT
Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm của hai cuộc khai thác thuộc địa, có
nguồn gốc xuất thân từ giai cấp nông dân. Chính vì vậy, giai cấp công nhân chịu
ảnh hưởng rất lớn tư tưởng bất khuất, không chịu khuất phục trước thế lực ngoại
bang. Đời sống khổ cực và sự bóc lột dã man, tàn bạo của thực dân Pháp đối với
dân tộc Việt Nam là động lực chính làm khơi sâu thêm mâu thuẫn giữa công nhân
và nông dân với đế quốc. Nguyễn Ái Quốc nhận thấy và phân tích khả năng cách
mạng của giai cấp công nhân và nông dân:
Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì
lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết. Khi trước tư bản bị
phong kiến áp bức cho nên nó cách mệnh. Bây giờ tư bản lại đi áp bức công
nông, cho nên công nông là người chủ cách mệnh [76; tr.266].
Trong bài viết Công tác quân sự của Đảng trong nông dân (năm 1927), Người
rất đề cao vai trò to lớn của nông dân cũng như liên minh công - nông trong sự
nghiệp cách mạng:

26



Cuộc cách mạng vô sản không thể thắng lợi ở các nước nông nghiệp và nửa
nông nghiệp nếu như giai cấp vô sản cách mạng không được quần chúng
nông dân ủng hộ tích cực. Đó là một sự thực hiển nhiên đối với cả hai cuộc
cách mạng - cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng vô sản. Trong thời
kỳ cách mạng tư sản dân quyền, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản không
thể giành được thắng lợi hoàn toàn nếu không có khối liên minh cách mạng
của giai cấp vô sản và nông dân, nếu có sự tham gia tích cực của quần chúng
nông dân bị áp bức vào việc thực hiện những khẩu hiệu của cách mạng [76;
tr.413].
Người cũng chỉ rõ rằng, cuộc cách mạng sẽ không thể thắng lợi được nếu giai
cấp vô sản không tập hợp được giai cấp nông dân: “Cách mạng chỉ có thể thắng lợi
nếu như những làn sóng cách mạng lay động được quần chúng nông dân dưới sự
lãnh đạo của giai cấp vô sản” [76; tr.413]. Cũng trong bài này, Người cũng nêu
những minh chứng cụ thể về tầm quan trọng đặc biệt của quần chúng nông dân
trong các cuộc cách mạng như cách mạng Bungari năm 1923, thất bại là vì “không
quan tâm tới phong trào nông dân” hay cuộc cách mạng tháng Mười không thể
giành thắng lợi nếu như Đảng bônsêvich không có khả năng huy động được quần
chúng nông dân dưới khẩu hiệu của mình và dẫn dắt họ tham gia vào cuộc chiến
đấu lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản và thiết lập nền chuyên chính của giai cấp
vô sản” [76; tr.416].
Điều đặc biệt, Người không bao giờ tuyệt đối hóa khả năng cách mạng của
nông dân. Người nhìn nhận giai cấp này trên quan điểm vừa biện chứng vừa lịch
sử, bên cạnh mặt tích cực, thấy rõ những hạn chế. Người cũng nói một lời tiên tri
thiên tài, đồng thời cũng là lời cảnh báo nghiêm khắc đối với những khuynh hướng
cường điệu vai trò của nông dân, phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân đối với nông dân trong đấu tranh cách mạng:
Trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất và
duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng,

bằng cách liên minh với giai cấp nông dân. Những trào lưu cơ hội chủ nghĩa,
phỉnh nịnh nông dân, coi nông dân là lực lượng chủ yếu, là động lực duy
nhất của cách mạng, là đội ngũ cách mạng nhất, chỉ dẫn tới chủ nghĩa phiêu

27


×