Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

đảng cộng sản việt nam lãnh đạo công tác vận động quần chúng tu nam 1930 den nam 1939

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TRẦN XUÂN CHIẾN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG
TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG TỪ NĂM 1930
ĐẾN NĂM 1939.
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

Hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Hồng Tung

Hà Nội, 2008

1


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................................6
1.Lý do chọn đề tài:................................................................................................. 6
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. ......................................................... 8
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................ 11
4. Phạm vi nghiên cứu........................................................................................... 12
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. ...................................................... 12
5.1 Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác quần chúng, các văn kiện, nghị quyết về công
tác vận động quần chúng nói riêng và các văn kiện, nghị quyết chỉ đạo cách


mạng của Đảng nói chung trong giai đoạn từ 1930- 1939. ............................... 12
5.2 Đề tài thuộc vấn đề lịch sử nên phương pháp nghiên cứu chủ yếu là các
phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử và lôgic. Ngoài ra luận văn còn
phối hợp sử dụng các cách tiếp cận khác của khoa học chính trị, phương pháp
phân tích, đồng đại, lịch đại, tổng hợp, so sánh, khái quát, rút ra kết luận để làm
rõ hơn hai phương pháp trên. ............................................................................. 12
6. Kết cấu luận văn. ............................................................................................... 12
Chương 1: Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1930-1935. ... 13
1.1. Bối cảnh lịch sử và các vấn đề đặt ra đối với công tác quần chúng của Đảng.
............................................................................................................................... 13
1.2. Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1930- 1931. .............. 13
1.3. Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1932- 1935. .............. 13
Chương 2: Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1936-1939. .... 13

2


2.1. Chủ trương của Đảng về công tác vận động quần chúng trong tình hình mới.
............................................................................................................................... 13
2.2. Quá trình tổ chức thực hiện công tác quần chúng giai đọan 1936-1939. ...... 13
Chương 3: Ý nghĩa và kinh nghiệm. ..................................................................... 13
3.1 Ý nghĩa. ........................................................................................................... 13
3.2 Một số kinh nghiệm. ....................................................................................... 13
Chương 1 ............................................................................................................... 14
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG CỦA ĐẢNG NHỮNG NĂM 19301935 ....................................................................................................................... 14
1.1 Bối cảnh lịch sử và các vấn đề đặt ra đối với công tác quần chúng của Đảng.
............................................................................................................................... 14
1.1.1. Khái niệm quần chúng. ............................................................................ 14
1.1.2. Khái lược về vai trò quần chúng nhân dân trong phong trào cách mạng
dân tộc dân chủ ở nước ta từ 1858 đến trước khi thành lập Đảng (3/2/1930). .. 14

1.1.3.Những cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự hình thành đường lối vận động
quần chúng của Đảng khi mới thành lập. .......................................................... 25
1. 2. Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1930- 1931............. 31
1. 2. 1. Đường lối vận động quần chúng của Đảng Cộng sản Việt Nam. ......... 31
1.2.2 Qúa trình lãnh đạo và tổ chức quần chúng đấu tranh giai đoạn cao trào
cách mạng 1930- 1931. ...................................................................................... 34
1. 2. 3 Những chủ trương vận động quần chúng của Đảng Cộng sản Đông
Dương từ Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10 năm 1930: .............................. 39

3


1.2. 4 Phong trào cách mạng 1930 – 1931 từ sau Hội nghị Trung ương tháng 10.
1930. ................................................................................................................... 41
1. 3. Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1932- 1935. ............ 48
1.3.1Đấu tranh trong các nhà tù thực dân .......................................................... 49
1.3.2 Cuộc đấu tranh để giữ gìn cơ sở, khôi phục tổ chức và phong trào cách
mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương ............................................................. 52
Chương 2 ................................................................................................................. 58
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG CỦA ĐẢNG .................................. 58
NHỮNG NĂM 1936-1939. ..................................................................................... 58
2.1. Chủ trương của Đảng về công tác vận động quần chúng trong tình hình mới.
............................................................................................................................... 58
2.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước. .............................................................. 58
2.1.2. Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng. ........ 62
2.1.3 Nội dung chuyển hướng chỉ đạo công tác vận động quần chúng của Đảng.
............................................................................................................................ 63
2.2 Quá trình tổ chức thực hiện công tác quần chúng giai đoạn 1936- 1939. ...... 71
Chương 3 .................................................................................................................. 97
Ý NGHĨA VÀ KINH NGHIỆM. ............................................................................. 97

3.1 Ý nghĩa ............................................................................................................ 97
3.1.1 Cao trào 1930 - 1931. ............................................................................... 97
3.1.2 Giai đoạn 1932- 1935. .............................................................................. 99
3.1.3 Giai đoạn 1936- 1939. ............................................................................ 101
3.2 Một số kinh nghiệm. ..................................................................................... 103
4


3.2.1 Từ quá trình lãnh đạo cách mạng nói chung và quá trình vận động quần
chúng nói riêng của Đảng trong giai đoạn 1930- 1931, chúng ta có thể rút ra
một số kinh nghiệm như sau: ........................................................................... 103
3.2.2. Giai đoạn Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo quần chúng đấu tranh
để phục hồi lực lượng sau khủng bố trắng của Thực dân Pháp để lại nhiều kinh
nghiệm sâu sắc trong đấu tranh cách mạng vận động quần chúng: ................. 107
3.2.3. Qua thời kỳ Mặt trận Dân chủ 1936- 1939 có thể ghi nhận nhiều kinh
nghiệm về công tác vận động quần chúng. ...................................................... 108
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 120

5


MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài:
Một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử là “quần chúng
nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử nhân loại”. Lịch sử dựng nước và giữ nước
của nhân dân ta cũng chứng minh hùng hồn chân lý đó.
Việt Nam là một quốc gia có vị trí địa lý chiến lược quan trọng nên ngay từ thuở
bình minh của lịch sử nhân dân ta đã liên tiếp phải đương đầu với nhiều thế lực

ngoại xâm lớn mạnh hơn mình rất nhiều lần. Để giữ vững được độc lập cho đất
nước và chủ quyền cho dân tộc,` cách duy nhất là phải củng cố khối đoàn kết toàn
dân, huy động toàn thể nhân dân tham gia vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Đại Việt sử ký toàn thư có ghi việc tháng 6 năm 1300, vị tướng già Trần Quốc
Tuấn ốm nặng, vua Trần ngự tới thăm, có hỏi về kế sách giữ nước nếu lại bị nước
ngoài xâm lược, sau khi trình bày kinh nghiệm đánh giặc một cách rõ ràng và tỉ mỉ,
Trần Quốc Tuấn đã khẳng định: khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là
thượng sách giữ nước.
Cũng trên lập trường thân dân, Nguyễn Trãi nhận thức rất rõ về vai trò và sức
mạnh của nhân dân. Thay mặt vua Lê, trong Chiếu răn dạy Thái tử, ông viết: Mến
người có nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân; thuyền bị lật mới
tin rằng dân như nước.
Những bài học kinh nghiệm của cha ông cũng như những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác – Lênin đã được vận dụng hết sức sáng tạo vào sự nghiệp cách mạng
của Đảng và nhân dân ta do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin ngay từ khi bắt đầu sáng lập ra Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, Hồ Chí Minh đã nêu ra một nguyên lý có tính chất dẫn
đường cho toàn bộ sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, đây là nguyên nhân của
mọi thắng lợi sau này của cách mạng Việt Nam, nguyên lý này là: công nông là gốc
cách mạng.
Quả thật như vậy, nhìn lại lịch sử cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam
từ khi người Pháp xâm lược cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 đặc biệt là
giai đoạn 1930- 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng chúng ta đều phát hiện ra một đặc
điểm nổi trội, một sự khác biệt giữa phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam với
6


phong trào giải phóng dân tộc ở các nước khác trong khu vực Đông nam Á đó là sự
tham gia đông đảo tích cực của quần chúng nhân dân vào sự nghiệp cứu nước
chung của toàn dân tộc.

Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân vào xâm lược nước ta, chính nhờ sự tham
gia của quần chúng nhân dân vào phong trào kháng chiến đã kìm chân địch và
giáng cho địch những đòn nặng nề tại Đà Nẵng, 3 tỉnh miền Tây, 3 tỉnh miền Đông
Nam kỳ của những lãnh tụ như Trương Định, Nguyễn Trung Trực... chính là sức
mạnh của quần chúng, tấm lòng cảm khái của quần chúng đã giữ Trương Định lại
để nhận thanh kiếm Bình Tây đại nguyên soái chứ không phải là việc đi nhận chức
lãnh binh ở An Giang, chính cảm khái những tấm gương chiến đấu anh dũng của
quần chúng nhân dân mà Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những áng văn bất hủ
như Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc hay Văn tế chiến sỹ trận vong lục tỉnh.
Phong trào Cần Vương, do sự tham gia của đông đảo quần chúng nên Nguyễn
Thiện Thuật, Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng mới có thể duy trì
được sức bền của cuộc đấu tranh oanh liệt như ở Bãi Sậy, Ba Đình, Hương
Sơn...Chính sự che chở, tham gia tích cực của nhân dân đã giúp cho Hùm thiêng
Yên Thế Đề Thám có thể giằng co với thực dân Pháp suốt 30 năm trời.
Sang đầu thế kỷ XX, phong trào quần chúng đầu tiên đã làm nên một phong trào
cách mạng có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình trong nước, đó là phong trào biểu
tình chống thuế của hàng vạn nông dân ở miền Trung, phong trào Duy Tân, Đông
Kinh Nghĩa Thục. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, chính phong trào cách mạng
của quần chúng đã làm chấn động toàn cõi Đông Dương, đặc biệt ở Việt Nam, đó
là cuộc biểu tình của quần chúng đòi xóa bản án của Phan Bội Châu, đòi để tang
Phan Chu Trinh, bảo vệ nhà chí sỹ yêu nước Nguyễn An Ninh...trong những năm
1925 – 1927 và phong trào đó đã tiến lên một bước mới khi nó được tiếp nhận,
được dẫn đường bởi ánh sáng của của nghĩa Mác- Lê Nin do sự truyền bá của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc. Từ đây, phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam
đã kết hợp chặt chẽ với chủ nghĩa Mác- Lê Nin, thúc đẩy phong trào cách mạng
Việt Nam phát triển ngày một mạnh mẽ hơn, kết quả của nó, một mặt là sự ra đời
của Đảng vào đầu năm 1930, mặt khác là cao trào cách mạng 1930-1931 đỉnh cao
là Xô viết Nghệ Tĩnh. Trải qua một thời kỳ khó khăn đến những năm 1936- 1939
một cao trào vận động với sự tham gia của đông đảo quần chúng đã tạo ra một cao
trào cách mạng duy nhất có ở xứ thuộc địa Việt Nam chứ không có ở xứ thuộc địa

khác, đó là cuộc vận động vì các quyền dân sinh dân chủ, đây là những cuộc tập
dượt lần lượt từ thấp đến cao, tập dượt cho sự hồi sinh mạnh mẽ của toàn dân tộc
khi thời cơ đến đó là Cách mạng tháng Tám năm 1945. Cách mạng tháng Tám diễn
7


ra trong một thời gian ngắn với hình thái chủ yếu là biểu tình của hàng vạn quần
chúng đã làm suy sụp chính quyền địch. Một câu hỏi đặt ra: tại sao những chính
đảng khác, những tổ chức yêu nước khác cũng được sự ủng không nhỏ của quần
chúng mà không thể duy trì được sức bền của phong trào quần chúng, và cuối cùng
phong trào yêu nước của họ đã thất bại, trong khi Hồ Chí Minh và những người
cộng sản đã thành công trong việc huy động được quần chúng tham gia phong trào
mà còn giác ngộ quần chúng, nhân bội sức mạnh quần chúng đi đến lật nhào ách
thống trị của thực dân Pháp, của Nhật, phong kiến và tạo đà cho toàn dân tộc Việt
Nam vượt qua hai cuộc trường chinh để đến thắng lợi cuối cùng. Đó chính là bí
quyết của Đảng với đường lối lãnh đạo sáng suốt với phương pháp cách mạng khoa
học được chỉnh sửa tùy theo từng thời kỳ của thực tiễn, học được từ chính những
sai lầm của mình để cuối cùng thành công trong cuộc vận động tuyên truyền, vận
động tổ chức quần chúng đấu tranh. Đó chính là những lý do khoa học cũng như
thực tiễn, lý do lý luận cũng như học thuật để tôi chọn đề tài này làm luận văn thạc
sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ đặc biệt mang tính chiến lược
trong các phong trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo từ khi thành lập đến nay, đặc
biệt trong các giai đoạn cách mạng từ khi thành lập Đảng đến khi cách mạng tháng
Tám thắng lợi, vì vậy, đã có nhiều công trình khoa học và tác phẩm lý luận của
nhiều tác giả, bao gồm cả các nhà khoa học và các nhà lý luận, các nhà chính trị
nghiên cứu về vấn đề này như:
* Nhóm công trình của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà Nước:

- Hồ Chí Minh: Về liên minh công nông, Nxb Sự thật, HN, 1977. Gồm một số
bài viết của Hồ chí Minh về vấn đề Liên minh công nông từ năm 1924 đến năm
1969, chia làm hai phần: Phần thứ nhất: từ năm 1924 đến năm 1954; Phần thứ hai:
từ 1954 đến năm 1969, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến những cơ sở hình
thành liên minh công nông, tầm quan trọng của liên minh công nông trong sự
nghiệp cách mạng dân tộc, những kinh nghiệm xây dựng liên minh công nông
trong các thời kỳ lịch sử…
- Tôn Đức Thắng: Về Mặt trận dân tộc thống nhất, Nxb Sự Thật, HN, 1977.
Tác phẩm trình bày những phát biểu của đồng chí Tôn Đức Thắng về đường lối,
chính sách của Đảng về công tác mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó đáng chú ý
là sự nhấn mạnh tầm quan trọng công tác Mặt trận đối với sự nghiệp cách mạng,
8


quá trình vận động sự tham gia đông đảo quần chúng trong các thời kỳ.
- Võ Nguyên Giáp (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003. Trong nội dung “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
chiến lược đại đoàn kết và chính sách mặt trận dân tộc thống nhất”, tác giả đã trình
bày một cách cơ bản những nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, về chính sách Mặt trận dân tộc thống nhất và
khẳng định đây là một chính sách rất quan trọng.
* Nhóm công trình của các tổ chức, nhà nghiên cứu khoa học:
- Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
(Sơ thảo), tập 1, Nxb Sự Thật, HN.1981. Tác phẩm trình bày có cơ bản, có hệ
thống sự ra đời và phát triển Đảng Cộng sản Việt Nam trong chặng đường lãnh đạo
quần chúng đấu tranh từ năm 1920 đến năm 1954. Trong đó trình bày khái quát
mục tiêu, hoạt động cụ thể của công tác vận động quần chúng của Đảng ta qua các
giai đoạn cụ thể như : 1930- 1931; 1936- 1939…
- Tác giả Trần Văn Giàu trong một bộ sách viết về giai cấp công nhân Việt Nam
( Giai cấp công nhân Việt Nam, tập 1. Nxb Sử học Viện Sử Học, HN. 1962. ; Giai

cấp công nhân Việt Nam, tập 2. Nxb Sử học Viện Sử Học, HN. 1962; Giai cấp
công nhân Việt Nam, tập 3. Nxb Sử học Viện Sử Học, HN. 1963; Giai cấp công
nhân Việt Nam - sự hình thành và sự phát triển của nó từ giai cấp” tự mình” đến
giai cấp “cho mình”, Nxb Sự Thật, HN, 1958) đã cung cấp bức tranh sinh động về
quá trình hình thành và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam từ lúc mới hình
thành, phát triển qua các giai đoạn lịch sử, những đặc trưng chủ yếu, những cống
hiến to lớn của giai cấp công nhân Việt Nam đối với sự phát triển của phong trào
cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo. Đồng thời, tổng kết kinh nghiệm vận
động, lãnh đạo giai cấp công nhân không chỉ đi đầu trong quá trình đấu tranh cách
mạng mà còn là trụ cột cho sự đoàn kết rộng rãi của dân tộc. Những cuốn sách này
là sự mở đầu tốt đẹp cho những công trình tiếp theo của những nhà khoa học Việt
Nam nghiên cứu về giai cấp công nhân.
- Tác giả Nguyễn Công Bình trong cuốn Mặt trận dân tộc thống nhất (Nxb
Khoa học, Hà Nội, 1963) đã nghiên cứu một cách hệ thống quá trình tập hợp lực
lượng dân tộc trước khi đảng của giai cấp công nhân ra đời, các hình thức mặt trận
dân tộc thống nhất qua các thời kỳ lịch sử từ khi Đảng thành lập, thời kỳ vận động
cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền
Bắc sau năm 1954, kháng chiến chống Mỹ.
- Uỷ Ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Lịch sử Mặt trận dân tộc
thống nhất Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, 2007. Gồm ba quyển,
9


Quyển 1: từ năm 1930 đến năm 1954; Quyển 2: từ năm 1954 đến năm 1975; Quyển
3: từ năm 1975 đến năm 2004. Đặc biệt, trong Quyển 1(1930-1954): trình bày lịch
sử Mặt trận từ khi thành lập (1930) đến khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng với quá
trình đấu tranh gian khổ trong công tác vận động quần chúng cách mạng để thành
lập Mặt trận Dân tộc thống nhất, qua các phong trào Mặt trận, tiến tới thành lập
Mặt trận Việt Minh, đoàn kết toàn dân làm Cách mạng tháng Tám thắng lợi, tiến
hành 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giải phóng hoàn toàn

miền Bắc, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước sau này.
- Ngoài ra còn nhiều bài viết của nhiều tác giả về công tác vận động quần chúng
của Đảng trên các báo và tạp chí như:
+ Lê Mậu Hãn: Hồ Chí Minh hoàn thiện về đường lối chính trị và tổ chức cho
sự ra đời của Mặt trận dân tộc thống nhất ở Việt Nam, Nghiên cứu lịch sử, số 2,
1992. Tác giả đã trình bày một cách xác đáng những đánh giá của mình về quá
trình Hồ Chí Minh cũng như Đảng ta khẳng định và hoàn thiện về đường lối chính
trị và tổ chức cho sự ra đời của Mặt trận dân tộc thống nhất cho cách mạng Việt
Nam. Tiến trình này, theo tác giả, việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất được
khởi nguồn từ năm 1930 và được hoàn thiện về chính trị và tổ chức vào năm 1941.
+ Lê Mậu Hãn: Chủ nghĩa dân tộc truyền thống và tư tưởng độc lập tự do động lực, mục tiêu đại đoàn kết, đại thành công của cách mạng Việt Nam, Nghiên
cứu lịch sử, số 6, 1995. Tác giả khẳng định độc lập tự do là tư tưởng cách mạng vĩ
đại của Hồ Chí Minh có bệ đỡ của chủ nghĩa dân tộc truyền thống, phản ánh khát
vọng của hiện tại và rọi sáng cả tương lai của dân tộc, chính là chìa khoá vạn năng,
điểm hội tụ thắng lợi của chiến lược “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công,
thành công, đại thành công.” Nội dung và hình thức tổ chức tập hợp lực lượng
trong chiến lược đại đoàn kết của Đảng và Hồ Chí Minh được thực hiện phong phú
qua các thời kỳ cách mạng của nhân dân Việt Nam.
+ Phạm Hồng Tung: Lịch sử cuộc vận động vì các quyền dân sinh, dân chủ ở
Việt Nam(1936- 1939), Nxb. CTQG, HN, 2008. Với nguồn tư liệu phong phú từ
các tài liệu trong nước và nước ngoài, tác giả đã trình bày một cách ngắn gọn
nhưng đầy đủ về tất cả các cuộc vận động vì các quyền dân sinh, dân chủ trong thời
kỳ 1936- 1939, đặc biệt tác giả rất chú trọng trình bày về những diễn biến cách
mạng tại các vùng nông thôn. Công trình mang lại cách nhìn tổng quan nhưng cũng
rất rõ ràng về những thành công cũng như những hạn chế của Đảng Cộng sản Đông
Dương trong công tác vận động quần chúng thời kỳ đấu tranh dân chủ công khai
1936- 1939.
10



+ Phạm Hồng Tung: Các cuộc vận động bầu cử và tranh cử trong cuộc đấu
tranh vì các quyền dân sinh, dân chủ (1936-1939), Nghiên cứu lịch sử, số 10 (366),
2006, tr. 39-46. Tác giả đã góp phần làm sáng tỏ hơn một loại hình đấu tranh cách
mạng sáng tạo, linh hoạt của Đảng ta, phù hợp của với hoàn cảnh lịch sử trong thời
kỳ đấu tranh vì các quyền dân sinh, dân chủ ở Việt Nam từ 1936- 1939, loại hình “
đấu tranh nghị trường”. Chính thông qua các cuộc vận động bầu cử này đã vận
động được sự tham gia của hàng triệu quần chúng vào phong trào do Đảng ta lãnh
đạo. Uy tín chính trị của Đảng do vậy được củng cố và tăng cường thêm.
+ Phạm Hồng Tung: Về quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
Cộng sản Đông Dương trong quá trình lãnh đạo cuộc vận động dân chủ 1936-1939
ở Việt Nam, Nghiên cứu lịch sử, số 2 (358), 2006, tr. 3-14. Tác giả trình bày những
điều kiện khách quan và chủ quan cũng như quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược và sách lược của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam thời kỳ
1936- 1939, từ đó làm sáng tỏ hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, từ những thành công
và cả những hạn chế trong quá trình lãnh đạo cuộc vận động dân chủ sôi nổi, phong
phú, được coi là cuộc “Tổng diễn tập lần thứ hai” cho thắng lợi của cách mạng
tháng Tám năm 1945.
Các tác giả nói trên dù là những nhà lãnh đạo hay những nhà khoa học đều đã cố
gắng trình bày công trình của mình theo những cách thể hiện riêng biệt và để đạt
được những hiệu quả ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, những tác phẩm của
những nhà lãnh đạo thường nặng về chính trị vận động nên tính khoa học chưa thực
sự nổi bật, còn những công trình của những nhà khoa học thường chi tiết hóa trong
những vấn đề nghiên cứu riêng. Mặc dù đã có một số nghiên cứu đề cập ở mức độ
khác nhau nhưng cho đến nay, nhìn chung, chưa có một công trình chuyên khảo
nào nghiên cứu toàn diện về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động quần
chúng từ 1930 đến 1939. Trong những năm gần đây, việc công bố bộ Văn kiện
Đảng Toàn tập đã cho phép nghiên cứu đầy đủ, cụ thể hơn về vấn đề này. Đây là
một thuận lợi, một chỗ dựa rất căn bản của Luận văn.
Kế thừa những kết quả nghiên cứu đó, luận văn sẽ làm rõ công tác vận động
quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta với những thành công và hạn chế trong

giai đoạn từ 1930 – 1939.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
*

Mục đích nghiên cứu:
Hệ thống hóa, làm sáng tỏ đường lối, chủ trương và biện pháp của Đảng
11


trong lĩnh vực tuyên truyền, vận động, tổ chức và hướng dẫn quần chúng đấu tranh.
Trên cơ sở đó rút ra những nhận xét về sự thành công và chưa thành công của Đảng
trong lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn công tác vận động quần chúng trong từng thời kỳ
cách mạng cụ thể, đồng thời rút ra những bài học thiết thực cho công tác vận động
quần chúng của Đảng và Nhà nước ta trong bối cảnh hiện nay của thời kỳ công
nghiệp hóa hiện đại hóa.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
- Làm rõ quá trình hình thành quan điểm đường lối và phương pháp vận
động quần chúng của Đảng.
- Làm rõ quá trình hiện thực hóa đường lối và phương pháp đó.
- Trên cơ sở đó đánh giá khách quan những thành công và hạn chế của Đảng
trong lãnh đạo công tác vận động quần chúng thời kỳ này, qua đó rút ra những bài
học kinh nghiệm.

4. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài giới hạn nghiên cứu trong quá trình hình thành, phát triển của chủ trương,
quan điểm của Đảng về công tác vận động quần chúng và thực tiễn tổ chức thực
hiện đường lối, chủ trương đó trong giai đoạn 1930- 1939.


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1 Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác quần chúng, các văn kiện, nghị quyết về
công tác vận động quần chúng nói riêng và các văn kiện, nghị quyết chỉ đạo
cách mạng của Đảng nói chung trong giai đoạn từ 1930- 1939.
5.2 Đề tài thuộc vấn đề lịch sử nên phương pháp nghiên cứu chủ yếu là các phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử và lôgic. Ngoài ra luận văn còn phối
hợp sử dụng các cách tiếp cận khác của khoa học chính trị, phương pháp phân tích,
đồng đại, lịch đại, tổng hợp, so sánh, khái quát, rút ra kết luận để làm rõ hơn hai
phương pháp trên.
6. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn có 3 chương, 7 tiết.

12


Chương 1: Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1930-1935.
1.1. Bối cảnh lịch sử và các vấn đề đặt ra đối với công tác quần chúng của Đảng.
1.2. Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1930- 1931.
1.3. Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1932- 1935.
Chương 2: Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1936-1939.
2.1. Chủ trương của Đảng về công tác vận động quần chúng trong tình hình mới.
2.2. Quá trình tổ chức thực hiện công tác quần chúng giai đọan 1936-1939.
Chương 3: Ý nghĩa và kinh nghiệm.
3.1 Ý nghĩa.
3.2 Một số kinh nghiệm.

13


NỘI DUNG

Chương 1

CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG CỦA ĐẢNG NHỮNG NĂM 19301935

1.1 Bối cảnh lịch sử và các vấn đề đặt ra đối với công tác quần chúng của Đảng.

1.1.1. Khái niệm quần chúng.
Từ trước đến nay, trong cuộc sống hàng ngày và trong nghiên cứu khoa học
đã có những quan niệm khác nhau về “quần chúng”. Đây là khái niệm có tính lịch
sử, thường được tiếp cận dưới góc độ triết học, xã hội học và khoa học chính trị.
Trong Từ điển xã hội học giản yếu (bản tiếng Đức, Nxb. Kindler Muenchen,
1977, tr.423) viết: “Quần chúng là một khái niệm xã hội học- lịch sử dùng để chỉ
bộ phận đông đảo nhất trong cộng đồng dân cư không bao gồm giai cấp thống trị và
tầng lớp lãnh đạo. Như vậy, tại mỗi cộng đồng dân cư và ở trong từng giai đoạn
lịch sử cụ thể, quần chúng có thể bao gồm những giai cấp và tầng lớp khác nhau,
nhưng nó luôn không bao gồm tầng lớp thống trị và tầng lớp lãnh đạo”.
Trong bối cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, quần chúng bao
gồm giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản, và tất cả những cá nhân thuộc các
giai tầng không nắm quyền thống trị và lãnh đạo các tổ chức chính trị- xã hội và
các phong trào tôn giáo.
1.1.2. Khái lược về vai trò quần chúng nhân dân trong phong trào cách mạng dân
tộc dân chủ ở nước ta từ 1858 đến trước khi thành lập Đảng (3/2/1930).
Ngay từ thuở bình minh của lịch sử, sự nghiệp dựng nước và giữ nước đã
gắn liền với sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Điều này xuất phát từ
đặc trưng nói chung của các dân tộc phương Đông khi dân cư phải quần tụ, đoàn
kết để đương đầu với giặc ngoại xâm và làm thủy lợi. Điều này được phản ánh vào
14


huyền thoại và truyện Thánh Gióng là một điển hình, câu chuyện phản ánh tinh

thần đoàn kết của dân tộc Việt chống ngoại xâm ngay từ thuở xa xưa. Hình ảnh
Gióng ra trận là một chỉnh thể của sự đoàn kết của nhân dân, sự đóng góp của nhân
dân nuôi Gióng khôn lớn, trang bị cho Gióng ngựa sắt, roi sắt, kể cả lũy tre, kể cả
dân làng cũng xung trận...tất cả nói lên tinh thần đoàn kết đấu tranh bất khuất của
dân tộc.
Nhìn lại lịch sử dựng nước chống ngoại xâm từ đầu đến giữa thế kỷ XIX
chúng ta đều thấy rõ một chân lý, sáng rõ một sự thật lịch sử hiển nhiên: khi nào,
triều đại nào, lãnh tụ nào huy động được sức dân đoàn kết một lòng thì triều đại đó
đứng vững, lãnh tụ đó giành thắng lợi.
Triều Trần trong thế kỷ XIII sở dĩ đã thắng được quân Nguyên đông hơn
mình, mạnh hơn mình nhiều lần bởi vì đã biết dùng kế ‘‘thanh dã’’, biết tranh thủ
sức dân. Tâm đắc với nguyên nhân thành công của đời mình và cũng thể hiện nhãn
quan chính trị sáng suốt đến cuối đời mình Trần Quốc Tuấn còn dặn lại vua Trần,
nếu muốn duy trì nghiệp lớn của cha ông cần: “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ
bền gốc, đó là thượng sách để giữ nước”.
Cuối triều Trần, trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, Hồ Quý Ly đã
thể hiện tài năng trị nước của mình với những chính sách cải cách mang một tầm
nhìn vượt thời đại, tuy nhiên những cải cách của ông chưa mang lại hiệu quả thì đã
vấp phải một trở ngại khách quan – sự xâm lược của nhà Minh- mặc dù đã có
những sự chuẩn bị nhất định nhưng nhà Hồ vẫn không thể vượt qua được thử thách
của lịch sử. Nguyên nhân của thất bại này nằm ngay trong lời than của con trai Hồ
Quý Ly – Hồ Nguyên Trừng : không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo. Nói như
Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo : Vừa rồi,
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
để trong nước lòng dân oán hận!
Không được lòng dân dẫn đến việc để mất nước là một thất bại có tính chất tất yếu.
Nhận thức được giá trị sâu xa của quy luật đó nên sau này Nguyễn Trãi đã tổng kết
một cách sâu sắc: dân như nước, chở thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là
dân.
Sang thế kỷ XVIII, nhận thấy sự phức tạp của tình hình chính trị, xã hội ở cả

hai Đàng, anh em Tây Sơn đã biết giương lá cờ lấy của nhà giàu chia cho dân
nghèo để huy động sức dân. Đi đến đâu anh em Tây Sơn cũng được ủng hộ, số
người tham gia khởi nghĩa ngày một đông. Chỉ trong một thời gian ngắn nghĩa
quân đã giành được nhiều thắng lợi vang dội, dẹp chúa Nguyễn, đánh tan tập đoàn
Trịnh – Lê, bảo vệ thành công chủ quyền dân tộc trước sự xâm lăng của giặc Xiêm,
15


Thanh, đặt nền móng vững chắc cho sự thống nhất sau này. Nổi bật và xuyên suốt
trong quá trình gian khổ và vinh quang đó chính là vai trò của Nguyễn Huệ – người
đã biết tranh thủ tinh thần ủng hộ của nhân dân, sự dũng cảm của binh sỹ để mang
lại thắng lợi chung của cả dân tộc.
Nhìn sang lịch sử cận đại, mùa thu năm 1858, ngay từ khi thực dân Pháp nổ
phát súng đầu tiên xâm lược nước ta, phong trào đấu tranh của quần chúng nhân
dân chống Pháp xâm lược đã bùng lên mạnh mẽ. Nhân dân Nam Bộ luôn đi đầu
trong phong trào đánh Pháp, bắt đầu từ miền Đông, phong trào lan khắp Nam Bộ
và biến thành một cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp, sôi nổi, gây cho giặc Pháp
nhiều khó khăn và tổn thất. Từ Nam Kỳ ra Bắc Kỳ đi đến đâu quân Pháp cũng vấp
phải tinh thần chiến đấu kiên cường của quần chúng nhân dân. Nhiều tấm gương
nghĩa liệt quên mình vì dân tộc, thà hy sinh chứ không chịu nhục, làm cho chính kẻ
thù cũng phải khâm phục. Tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa do Trương Định lãnh
đạo. Từ đất Gò Công, cuộc khởi nghĩa đã thu hút được nhiều nhân tài như Đỗ
Quang, Đỗ Trình Thoại, Âu Dương Lân, Nguyễn Thông, Thủ khoa Huân... với sự
ủng hộ của đông đảo quần chúng, lực lượng nghĩa binh có lúc lên tới 1 vạn người.
Với lá cờ Bình Tây đại nguyên soái, cảm khái trước lòng dân yêu nước, Trương
Định đã kháng lệnh triều đình không đi nhận chức Lãnh binh An Giang, tình
nguyện ở lại cùng nhân dân kháng chiến. Vì triều đình cố tình bỏ rơi hay tìm cách
ngăn trở phá hoại, các cuộc khởi nghĩa lần lượt thất bại, nhưng phong trào yêu
nước chống Pháp trong nhân dân miền Nam không bao giờ bị dập tắt bất chấp
muôn vàn thủ đoạn đàn áp man rợ của quân thù, đúng như lời tuyên bố hiên ngang

của Nguyễn Trung Trực trước giặc Pháp: "Bao giờ người Tây làm hết cỏ đất này
thì người Nam mới hết chống Tây". Ngôi sao sáng Nguyễn Đình Chiểu với những
bài thơ, văn tế, hịch tràn đầy tính nhân văn, đậm đà chính nghĩa là người tiêu biểu
trong cuộc đấu tranh dùng dùng ngòi bút để đánh giặc. Trong Văn tế nghĩa sỹ Cần
Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định tinh thần vì nghĩa của nhân dân mà xả
thân mình để chiến đấu: vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn
binh ; chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
Sau sự biến ở kinh thành Huế, nhân dân cả nước đi theo hưởng ứng phong
trào Cần Vương khá mạnh mẽ, đặc biệt là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Tuy nhiên, do
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, đặc biệt do lực lượng lãnh đạo đã không đưa
ra được những chính sách phù hợp, không biết tổ chức phong trào đấu tranh của
đông đảo quần chúng cho tập trung, thống nhất nên phong trào Cần Vương đã thất
bại.
16


Bên cạnh phong trào Cần Vương, lúc ấy còn có hàng loạt các cuộc đấu tranh
tự phát của nông dân, họ vùng đậy với mọi thứ khí thô sơ giới có trong tay gậy tầy,
giáo mác, đinh ba, dao quắm…tiêu biểu nhất là phong trào nông dân Yên Thế do
Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Tuy nhiên, do không thể tự mình tập hợp được lực
lượng trong cả nước, thiếu cơ bản về năng lực lãnh đạo và tổ chức cũng như đường
lối đúng đắn để chỉ đạo đấu tranh nên những phong trào nổi đạy tự động của nông
dân cũng đi vào bế tắc và thất bại.
Con đường cứu nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến cũng như
những nhận thức về vai trò quần chúng và cách thức tuyên truyền, vận động, tổ
chức chỉ đạo quần chúng đấu trah theo thế giới quan phong kiến đã không đáp ứng
được những yêu cầu của lịch sử và dãn đến thất bại.
Đầu thế kỷ XX, Việt Nam có nhiều biến chuyển quan trọng về cơ cấu kinh
tế, xã hội, trên cơ sở phức hợp những tác động của tư tưởng dân chủ tư sản từ Pháp,
Nhật Bản và Trung Quốc dội vào Việt Nam với những biến chuyển trong nước nên

phong trào cách mạng Việt Nam đã mang một khuynh hướng mới, khuynh hướng
dân chủ tư sản. Những sỹ phu phong kiến lãnh đạo như: Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền…cùng với việc phổ biến sử dụng các khái
niệm mới như: tự do, dân chủ, bình đẳng, dân sinh, dân quyền, lập hiến…những
nhận thức về công tác quần chúng nói chung của văn thân, sỹ phu tiến bộ đã có
những chuyển biến đáng kể, các nhà lãnh đạo đã chú ý tới đông đảo, rộng rãi các
tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907- 1908) - Thực dân Pháp gọi là “cái lò
phiến loạn ở Bắc Kỳ”- chú ý vận động duy tân kinh tế và cải cách xã hội, đả kích tư
tưởng bảo thủ, chống lối học từ chương và thi cử cũ, chống tham nhũng trong đội
ngũ quan lại, chống các hủ tục lạc hậu, hô hào cắt tóc ngắn, bài trừ nạn xôi thịt ở
hương thôn…Cuộc vận động cách mạng hồi đầu thế kỷ XX đã bắt đầu có tính chất
dân tộc và dân chủ, tuy vậy, tính chất tiến bộ đó, vì nhiều lý do khác nhau nên đã
có nhiều hạn chế. Đã xuất hiện nhiều ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản,
nhưng hầu hết những sỹ phu này “vẫn nặng về cốt cách phong kiến”, chưa thể dứt
bỏ được hệ tư tưởng phong kiến, mặc dù đã mở rộng quan niệm về lực lượng quần
chúng nhưng còn đặt hy vọng quá nhiều vào giai cấp phong kiến - một giai cấp đã
hết vai trò lịch sử trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng dân tộc. Tuy nhiên, thành
công lớn nhất và có ý nghĩa sâu sắc là việc các nhà nho tiến bộ đã phát hiện ra chữ
dân. Đây là một sự thay đổi lớn lao trong nhận thức chính trị, xã hội lúc bấy giờ.
Chữ dân đã được các nhà nho tiến bộ đặt ở vị trí trung tâm. Nhân dân được khai
sáng là yếu tố đầu tiên, là điều kiện tiên quyết nếu muốn thực hiện nhiệm vụ cứu
17


nước, giải phóng dân tộc. Quan điểm tiến bộ của những nhà nho yêu nước đầu thế
kỷ XX, tiêu biểu nhất là hai cụ Phan, đã đặt viên gạch đầu tiên cho những bước tiến
tiếp theo của con đường cứu nước giải phóng dân tộc mà cụ Hồ sẽ đi tiếp.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lịch sử cách mạng Việt Nam chứng kiến
những thử nghiệm mới của những con đường cách mạng khác nhau, mang nhiều

sắc thái, quan điểm chính trị khác nhau, cũng chính vì vậy mà công tác vận động
quần chúng những năm sau Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng có những nét đặc
trưng so với các thời kỳ trước.
Một loạt các hoạt động yêu nước sôi nổi của quần chúng đã diễn ra dưới nhiều
hình thức phong phú như: phong trào tẩy chay tư sản Hoa kiều, giành lại thị trường
buôn bán của tư sản người Việt (1919), đấu tranh chống độc quyền cảng Sài Gòn
(1923), dùng báo chí để đấu tranh, thành lập Đảng Lập hiến (1923), phong trào đòi
ân xá Phan Bội Châu (1925), phong trào đấu tranh đòi để tang Phan Châu Trinh
(1926), cuộc “đón tiếp” Bùi Quang Chiêu từ Pháp về, phong trào đấu tranh đòi thả
nhà ái quốc Nguyễn An Ninh...
Năm 1926, một tôn giáo có tính dung hợp, tương đối mới, mang tinh thần phản
kháng xã hội đã xuất hiện ở Việt Nam, đạo Cao Đài. Đạo Cao Đài là tên ngắn gọn,
tên đầy đủ là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Sự xuất hiện này là một hệ quả của một
phong trào cách mạng quốc gia phát triển trong những năm 1925- 1926 của lực
lượng tư sản và địa chủ bất lực và bất mãn chống lại chính quyền thực dân. Đạo
Cao Đài thờ biểu tượng “một con mắt” (thiên nhỡn) và là sự pha trộn của nhiều tôn
giáo, tín ngưỡng đương thời như: Thiên Chúa giáo, tục đồng bóng, đặc biệt là Phật
giáo, Khổng giáo và Lão giáo. Tôn chỉ đầu tiên của Cao Đài ghi rõ : “tam giáo quy
nguyên, ngũ chi phục nhất” tức là về giáo lý, Cao Đài là sự kết hợp của ba tôn giáo
trên và có năm chi phái cấu thành (Minh đạo, Minh đường, Minh sư, Minh tân và
Minh thiện). Những năm 20 của thế kỷ XX, đạo Cao Đài phát triển khá mạnh, gây
một ảnh hưởng quan trọng trong đời sống chính trị - tư tưởng nhân dân Nam Bộ.
Đặc biệt, trong những năm từ 1926 đến 1932, “tuy không có con số thống kê chính
thức nhưng số tín đồ của nó đã vượt lên con số hàng triệu. Ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Campuchia, tuy cũng có tín đồ Cao Đài nhưng chủ yếu vẫn tập trung ở Nam
Kỳ”.{58; 120}. Mặc dù vậy, những ảnh hưởng của đạo Cao Đài theo thời gian
không được phát triển thêm hơn, không lôi cuốn được nhiều hơn nữa sự tham gia
của quần chúng thực hiện những mục tiêu khác ngoài tôn giáo, vì nhiều lý do:
Trước hết, do sự phân liệt, tranh giành quyền lực khá sớm của đội ngũ đứng đầu
đạo Cao Đài nên không tạo cho tôn giáo này sự lôi cuốn mạnh mẽ đối với quần

chúng.
18


Thứ hai, phong trào đấu tranh dưới “vỏ bọc” tôn giáo hoặc mang màu sắc tôn
giáo trong thế kỷ XX, đã không còn đủ sức “quyến rũ” để thu hút đông đảo quần
chúng tham gia thực hiện các mục tiêu dân tộc, dân chủ như các thế kỷ trước.
Thứ ba, mặc dù “đạo Cao Đài có tính chất phản đế nhưng lại là một tôn giáo
hỗn hợp gồm cả ý thức tập trung thống nhất của tư sản, hình thức địa phương của
địa chủ phong kiến, hình thức tiểu sản xuất của của tiểu tư sản trên nền tảng văn
hoá suy đồi, không cổ, không kim, không Âu, không Á, sự lũng đoạn của đế
quốc…”{58; 121}. Bởi vậy, sự lan toả của tôn giáo này không tới được đa số tầng
lớp nhân dân lao động bị áp bức, một bộ phận quần chúng Nam Bộ tham gia Cao
Đài theo mục đích tôn giáo thuần tuý là chủ yếu, hơn là các mục đích chính trị và
giải phóng dân tộc.
Đạo Cao Đài ra đời đã đáp ứng được phần nào yêu cầu giải thoát và giải phóng
tinh thần của một bộ phận nhân dân Nam Bộ lúc đó đang bị đời sống khổ đau thực
tại dày vò. Đạo Cao Đài là một tôn giáo thể hiện rõ tính dung hợp, hợp nhất và
được bản thân những người sáng lập gọi là “Đại Đạo”, tôn giáo của các tôn giáo.
Mặc dù đạo Cao Đài phát triển khá mạnh, nhưng vẫn chỉ là một tôn giáo bản địa, có
quy mô vùng, và tập trung chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ.
Tham gia vào quá trình vận động quần chúng cách mạng thời kỳ này còn phải
kể đến vai trò quan trọng của Việt Nam Quốc dân đảng. Đại diện điển hình cho lực
lượng trí thức Tây học tiếp nhận một luồng tư tưởng mới du nhập vào Việt Nam
hồi đầu thế kỷ XX- tư tưởng dân chủ tư sản. Hạt nhân ban đầu về tổ chức của Việt
Nam Quốc dân đảng là Nam Đồng Thư Xã- một nhà xuất bản do Phạm Tuấn Tài,
Phạm Tuấn Lâm lập ra. Đêm Noel 1927, tại Hà Nội, Việt Nam Quốc dân đảng
tuyên bố thành lập, Chủ tịch đảng là Nguyễn Thái Học. Thành phần lực lượng tham
gia tổ chức này gồm nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội lúc ấy như học sinh,
sinh viên, giáo viên, công chức,… ngoài ra còn có cả tầng lớp trên ở nông thôn,

binh lính, sỹ quan người Việt trong quân đội Pháp.
Về đường lối, ban đầu chủ trương chính trị của Việt Nam Quốc dân đảng chưa
rõ ràng, phần nhiều nghiêng biện pháp bạo động làm khuynh hướng hoạt động chủ
yếu. Càng về sau, ảnh hưởng của tư tưởng “Tam dân” của Tôn Trung Sơn đến Việt
Nam Quốc dân đảng càng rõ nét. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi tồn tại, Việt
Nam Quốc dân đảng có nhiều nỗ lực trong việc mở rộng địa bàn hoạt động, xây
dựng và phát triển cơ sở đảng, tuy nhiên, ngoài một số chi bộ ở Lào, Nam kỳ, địa
bàn hoạt động chính của Việt Nam Quốc dân đảng là Bắc Kỳ. “Tính đến đầu năm
19


1929, riêng Bắc Kỳ đã có 120 chi bộ với khoảng 1.500 đảng viên, trong đó có 120
người là cai, đội và lính khố đỏ.”{35; 277]. Trong chủ trương của mình, Việt Nam
Quốc dân đảng định thành lập các tổ chức quần chúng như: Đoàn phụ nữ, Đoàn
công nhân, Đoàn nông dân, học sinh, quân sự…đây là lực lượng cảm tình của
Đảng, sẽ hỗ trợ hành động cho Đảng…Trong quá trình tồn tại, Việt Nam Quốc dân
đảng có những cố gắng nhất định trong việc liên kết, phối hợp hành động với các tổ
chức như Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt cách mạng đảng nhưng
không có kết quả.
Đầu năm 1930, trong bối cảnh bị động, các yếu nhân của Việt Nam Quốc dân
đảng tiến hành cuộc bạo động với chủ trương như Nguyễn Thái Học nói trước cuộc
khởi nghĩa: “Âu là chết đi để thành cái gương phấn đấu cho người sau nối bước.
Không thành công thì cũng thành nhân”{35; 287}. Xem xét những nguyên nhân
dẫn đến thất bại của Việt Nam Quốc dân đảng có những yếu tố chủ quan và khách
quan: Thực dân Pháp còn rất mạnh; tư tưởng dân chủ tư sản đã lỗi thời; cuộc bạo
động diễn ra trong bối cảnh không thuận lợi; sự yếu đuối của tư sản Việt Nam cả về
cơ sở kinh tế và vị thế chính trị; sự yếu kém trong công tác tổ chức đảng…nhưng
trong đó nổi lên một nguyên nhân quan trọng có tính chất quyết định đến sự tồn tại
và phát triển của đảng này chính là Việt Nam Quốc dân đảng không nhận được sự
ủng hộ, giúp đỡ và tham gia của đông đảo quần chúng, nguyên nhân dẫn đến tình

trạng này là do những nhược điểm và hạn chế từ chủ trương đường lối của Việt
Nam Quốc dân đảng công tác tổ chức và vận động quần chúng:
Thứ nhất: Trong đường lối, chủ trương cũng như trong thực tiễn hoạt động của
mình Việt Nam Quốc dân đảng chưa thấy hết được vai trò to lớn của giai cấp nông
dân - chiếm khoảng 90% dân số nước ta lúc ấy - đối với sự nghiệp cách mạng dân
tộc, để có chủ trương, biện pháp kêu gọi, lôi kéo họ đứng về phía mình và tham gia
tranh đấu, cho nên, trong suốt quá trình hoạt động của mình Việt Nam Quốc dân
đảng không nhận được sự ủng hộ nhiệt tình, sự tham gia trực tiếp của đông đảo
quần chúng. Hoạt động của Việt Nam Quốc dân đảng quá đơn độc giữa quần
chúng.
Thứ hai, “Khác với các tổ chức HVNCMTN và TVCMĐ, VNQDĐ ít chú trọng
tới công tác tuyên truyền và huấn luyện đảng viên”{35; 277}. Thực tiễn cách mạng
đấu tranh luôn đòi hỏi mỗi đảng cách mạng phải không ngừng nâng cao giác ngộ
nhiệm vụ chính trị cũng như đường lối, chủ trương của đảng tới từng đảng viên và
tới đông đảo quần chúng. Đây là hạn chế rất cơ bản của Việt Nam Quốc dân đảng.
“Đảng không có một cơ quan ngôn luận, hoặc tài liệu, văn kiện chính thức nào để
giải thích tôn chỉ mục đích của đảng và để tuyên truyền huấn luyện đảng viên. Đây
20


cũng là một nguyên nhân khiến cho công tác phát triển đảng tiến hành tuỳ tiện,
thiếu cơ sở và chuẩn mực, đồng thời gây nên tình trạng mơ hồ về lập trường chính
trị của Đảng”.{35; 277}.
Những hạn chế về xác định lực lượng cách mạng, những thiếu sót trong công tác
tuyên truyền, giáo dục, công tác tổ chức kết nạp đảng viên của Việt Nam Quốc dân
đảng …là những hạn chế cơ bản và chính nó đã giải thích cho nguyên nhân thất bại
về phía chủ quan của đảng này. Đây cũng là bài học lịch sử có giá trị cho những
người cộng sản không chỉ ngay trong thời điểm đó, thậm chí cả hiện nay soi vào để
xét mình.
Từ trong cao trào đấu tranh yêu nước sau Thế chiến thứ nhất đã dần dần xuất

hiện một tổ chức tiến bộ và cách mạng- Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niênmột tổ chức do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập vào năm 1925. Đây là tổ chức
cách mạng mới kết hợp được chủ nghĩa Mác – Lê Nin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam.
Trăn trở với vận mệnh của dân tộc, chứng kiến những cuộc đấu tranh cứu nước
ở dạng thử và sai của các bậc tiền bối. Ngày 5- 6- 1911, người thanh niên Nguyễn
Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Anh đã trải qua nhiều nghề khác nhau để
được đến nhiều miền khác nhau trên thế giới khảo nghiệm và học tập.
Cuối năm 1917, Anh từ nước Anh trở lại Pháp. Năm 1919, Anh gia nhập Đảng
Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó tại Pháp. Tháng 6 năm 1919, với
tên gọi Nguyễn Ái Quốc – Anh đã gửi tới Hội nghị Véc xai Bản yêu sách của nhân
dân Việt nam gồm 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Tháng 7 năm 1920, Người đã đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.Lê Nin đăng trên báo Nhân Đạo của
Đảng Xã hội Pháp, Người đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Từ
đây, Người hoàn toàn tin theo Lê Nin và Quốc tế thứ ba.
Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở thành
phố Tua , Nguyễn Ái Quốc đã tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và gia nhập
Quốc tế thứ ba. Từ chủ nghĩa yêu nước, Người đã đến với chủ nghĩa cộng sản,
Người đa tìm thấy trong đó con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Sau một quá trình hoạt động, học tập, rèn luyện tại Pháp, Liên Xô, tháng 11 năm
1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người đã tiếp xúc
với những người Việt Nam yêu nước đang hoạt động tại đây, đặc biệt với tổ chức
Tâm tâm xã. Người đã lựa chọn một số thanh niên tích cực trong tổ chức này và
tháng 6 năm 1925 lập ra nhóm Cộng sản đoàn làm hạt nhân cho một tổ chức cách
21


mạng lớn hơn. Tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên. Đây chưa phải là đảng cộng sản nhưng đường lối chính trị,

chương trình hành động và điều lệ của Hội đã thể hiện rõ lập trường cách mạng của
giai cấp công nhân. Thông qua tổ chức này Nguyễn Ái Quốc muốn xúc tiến thêm
một bước việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập một
đảng cộng sản ở Việt Nam.
Sau khi thành lập, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên hướng hoạt động của
mình vào một số nội dung chủ yếu như: trực tiếp đào tạo cán bộ cách mạng và gửi
cốt cán ra nước ngoài học tập; xuất bản báo chí, sách vở, tài liệu cách mạng nhằm
mục đích tuyên truyền đường lối chủ trương của Hội, cụ thể: ngay khi vừa thành
lập Hội đã xuất bản tờ Thanh Niên làm công cụ tuyên truyền chủ yếu, năm 1927,
những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc đã được tập hợp thành cuốn Đường cách
mệnh, cuốn sách đã chỉ ra cho nhân dân con đường và cách thức tiến tới thắng lợi.
Cuốn sách khẳng định Việt Nam trước hết phải làm “dân tộc cách mạng” sau đó
mới làm “giai cấp cách mạng”. Cách mạng muốn giành thắng lợi phải coi “công
nông là gốc” của cách mạng, còn học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ là bầu bạn của
cách mạng…; tiến hành xây dựng tổ chức cách mạng trong cả nước.
Hoạt động thành công nhất, gây được hiệu quả quan trọng nhất của Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên chính là việc phát động và thực hiện thành công phong
trào “vô sản hóa”. Xuất phát từ tình hình đại bộ phận hội viên Thanh niên đều có
nguồn gốc từ các thành phần trí thức tiểu tư sản, từ cuối năm 1928 Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên chủ trương thực hiện phong trào “vô sản hoá”, tích cực đưa
các hội viên vào các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, nông thôn thông qua cùng ăn,
cùng ở, cùng làm để tìm hiểu trình độ giác ngộ chính trị cũng như tâm tư nguyện
vọng của quần chúng, ngôn ngữ, thói quen của quần chúng, từ đó rèn luyện, học
tập, nâng cao lập trường giai cấp công nhân, đồng thời trực tiếp tuyên truyền giác
ngộ lý luận cách mạng và tổ chức quần chúng đấu tranh, gây dựng thêm nhiều cơ
sở trong quần chúng. Phong trào bắt đầu từ Bắc Kỳ, mạnh nhất ở các tỉnh Quảng
Ninh, Bắc Ninh, Nam Định, Hà Nội…phong trào lan vào miền Nam. Từ phong trào
của riêng Kỳ bộ Bắc Kỳ đã trở thành phong trào chung của toàn bộ Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, không chỉ có vậy, phong trào còn lan sang cả Tân Việt cách
mạng đảng và làm cho tổ chức này chịu ảnh hưởng đậm nét của tư tưởng cộng sản.

Nhờ vậy, phong trào công nhân và phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân
ngày càng phát triển rầm rộ, sôi nổi.
22


Sang những năm 1928, 1929, phong trào tham gia Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên ngày càng mạnh mẽ, số hội viên chính thức và cảm tình đã lên đến con
số hàng nghìn. Tính đến giữa năm 1929, trong cả nước đã có 1.800 hội viên, trong
đó đông nhất là ở Bắc và Trung Kỳ. Thông qua việc tăng cường phát triển tổ chức,
mở rộng địa bàn hoạt động, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã góp phần
truyền bá tư tưởng Mác- Lê Nin, phổ biến chủ trương, đường lối của Hội trong
nhân dân, tích cực thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam chuyển nhanh theo xu
hướng cách mạng vô sản.
Từ thực tiễn cách mạng có những biến chuyển quan trọng, những người lãnh
đạo trong Kỳ bộ Bắc kỳ đã nhận thức được đòi hỏi của thực tế cách mạng cần có
một Đảng Cộng sản để thay thế cho Hội Việt Nam cách mạng thanh niên nhằm tiếp
tục đưa cách mạng Việt Nam tiến lên. Những động thái để thành lập chính đảng
Cộng sản của nhóm Thanh niên Bắc Kỳ đã không được phần còn lại trong Hội tán
thành.
Ngày 17-6-1929 các đại biểu ưu tú của Kỳ bộ Bắc Kỳ đã nhóm họp tại 312
Khâm Thiên (Hà Nội) tuyên bố thành lập Đông Dương cộng sản đảng. Thông qua
Tuyên ngôn, Điều lệ, quyết định xuất bản báo Búa Liềm làm cơ quan ngôn luận.
Bên cạnh công tác truyên truyền, Đảng còn tích cực xây dựng và phát triển cơ sở ở
các địa phương trong cả nước. Nhờ vậy, sau một thời gian ngắn, đến tháng 8 năm
1929, nhiều thành, tỉnh bộ Đông Dương Cộng sản đảng đã lần lượt ra đời ở Hà Nội,
Nam Định, Thái Bình, Bắc Ninh. Ngày 28 tháng 7 năm 1929, Đảng quyết định
thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ do Nguyễn Đức Cảnh đứng đầu. Tại Nam Kỳ,
Đông Dương Cộng Sản Đảng đã cử người đến các tỉnh để xây dựng và phát triển
cơ sở đảng. Bởi vậy, khi đoàn đại biểu Kỳ bộ Nam Kỳ về tới Sài Gòn thì đã xuất
hiện nhiều cơ sở của Đông Dương Cộng Sản Đảng.

Trước ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của Đông Dương Cộng Sản Đảng, Kỳ
bộ Nam Kỳ do Châu Văn Liêm phụ trách đã quyết định giải tán Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên và thành lập An Nam Cộng sản Đảng vào tháng 8 năm 1929. An
Nam Cộng sản Đảng xuất bản báo “Đỏ” và tạp chí Bônsêvic ở Hương Cảng, rồi gửi
về nước để tuyên truyền trong nhân dân.
Cùng với quá trình phân hoá trong Hội Việt Nam cách mạng thanh niên dẫn
tới sự ra đời của hai đảng cộng sản, các đại biểu tiên tiến của Tân Việt Cách mạng

23


Đảng đã nhóm họp vào tháng 9 năm 1929 tại Sài Gòn và đã ra Tuyên đạt chính
thức tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn .
Sự xuất hiện và tăng cường hoạt động của ba tổ chức cộng sản vào nửa sau
năm 1929 đã khẳng định bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, nó
chứng tỏ hệ tư tưởng cộng sản đã giành được ưu thế trong phong trào dân tộc. Sự
kiện đó cũng chỉ ra rằng những điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã
hoàn toàn chín muồi trong phạm vi cả nước.
Mặc dù vậy, sau khi ra đời, ba tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế
Cộng sản và đều tự nhận mình là đảng cách mạng chân chính. Tuy nhiên, trong quá
trình tuyên truyền, vận động quần chúng, các tổ chức cộng sản không tránh khỏi
tranh giành ảnh hưởng, công kích lẫn nhau. Đông Dương Cộng sản Đảng cho An
nam Cộng sản Đảng là: “hoạt đầu, giả cách mạng”; An nam Cộng sản Đảng lại
cho Đông Dương Cộng sản Đảng chưa: “thật sự là cộng sản”; “chưa thật
Bônsêvích”…Tình trạng tranh giành đó vừa gây tổn hại lớn cho bước phát triển của
phong trào cách mạng, vừa gây nên tâm lý nghi ngờ, hoang mang trong quần chúng.
Ngày 27- 10- 1929, Quốc tế Cộng sản đã gửi cho những người cộng sản Đông
Dương một bức thư, yêu cầu các tổ chức cộng sản phải chấm dứt sự chia rẽ, công
kích lẫn nhau, đồng thời xúc tiến việc hợp nhất thành một chính đảng cộng sản duy
nhất ở Đông Dương.

Đúng vào lúc khó khăn nhất, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện kịp thời.
Ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc dưới danh nghĩa một thương nhân người Hoa
đã từ Xiêm qua Trung Quốc và đến Hồng Công để chuẩn bị triệu tập hội nghị hợp
nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7 – 2 – 1930, tại bán đảo Cửu Long (Hương
Cảng), Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã được tiến hành dưới sự chủ trì
của Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị gồm có 6 đại biểu, hai đại biểu của Đông Dương
Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh) và hai đại biểu của An Nam
Cộng sản Đảng (Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu) và hai đại biểu ngoài nước. Tại
Hội nghị, các đại biểu đã nhất trí hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng và An
Nam Cộng sản Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời thông qua Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ tóm tắt do
Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đó là Cương lĩnh và Điều lệ đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
24


Sau Hội nghị hợp nhất đảng, ngày 24- 2- 1930, theo đề nghị của Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã chấp thuận kết nạp tổ chức cộng sản này vào Đảng. Như vậy phải
tính đến ngày 24-2-1930, việc hợp nhất giữa ba tổ chức cộng sản thành một chính
đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam mới được hoàn tất trên thực tế.
1.1.3. Những cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự hình thành đường lối vận động quần
chúng của Đảng khi mới thành lập.
a. Bối cảnh lịch sử.
* Tình hình thế giới.
- Ngay khi cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất chưa kết thúc, ngay tại châu Âu
đã diễn ra một phong trào đấu tranh giai cấp và cách mạng quyết liệt. Tháng 11
năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ và thắng lợi, nhà nước chuyên
chính vô sản đầu tiên trên thế giới ra đời. Tiếp theo đó, phong trào đấu tranh của

công nhân và nhân dân lao động nhiều nước dâng lên mạnh mẽ. Được cổ vũ bởi
thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, đảng cộng sản đã ra đời ở nhiều nước
Tây Âu, và phong trào cộng sản ngày càng trở thành một xu hướng mạnh mẽ. Ngày
19 tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản, bộ tham mưu chiến đấu của phong trào
cộng sản và công nhân toàn thế giới được thành lập ở Matxcơva. Phong trào khởi
nghĩa phát triển mạnh mẽ ở châu Âu. Trong khoảng thời gian từ 1918 tới 1923, tại
nhiều vùng thuộc các nước Hungary, Đức, Áo, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan v.v... giai cấp
vô sản đã giành được chính quyền và lập nên chính quyền cách mạng theo mô hình
Xô viết ở nước Nga.
Lực lượng tư bản quốc tế đã cấu kết nhằm tiến hành đàn áp phong trào cách
mạng trên diện rộng tại các nước tư bản đồng thời thực hiện cuộc bao vây, tấn công
vào nước Nga Xô viết. Cho đến khoảng cuối năm 1923, tuy nước Nga Xô viết vẫn
tồn tại và năm 1922 Liên bang Xô viết (Liên Xô) ra đời, nhưng phần lớn các Xô
viết và các nhà nước cách mạng khác ở châu Âu đều bị các thế lực đế quốc phản
động đánh bại. Từ năm 1924 đến 1929 thế giới tư bản bước vào thời kỳ khôi phục
và phát triển nhanh chóng.
- Nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh và phục hồi nền kinh tế, cùng với
việc đàn áp phong trào cách mạng ở chính quốc, các nước đế quốc thực dân cũng ra
sức khai thác và bóc lột các xứ thuộc địa. Đặc điểm chung của chính sách khai thác
thuộc địa của các nước thực dân được áp dụng ở hầu hết các xứ thuộc địa tại châu
25


×