Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

đảng bộ huyện lập thạch lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông tu nam 1997 den nam 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUÓC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HUYỀN

ĐẢNG BỘ HUYỆN LẬP THẠCH (TỈNH VĨNH PHÚC)
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2012

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUÓC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HUYỀN

ĐẢNG BỘ HUYỆN LẬP THẠCH (TỈNH VĨNH PHÚC)
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2012

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56
Giáo viên huớng dẫn: TS. Phùng Thị Hiển

HÀ NỘI - 2013



MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ............................................................................................ 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................ 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................... 7
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn .......................................................................................... 8
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................................. 8
CHƢƠNG 1: QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN LẬP THẠCH TỪ NĂM 1997
ĐẾN NĂM 2005 ....................................................................................................... 9
1.1. Khái quát về huyện Lập Thạch và Đảng bộ huyện Lập Thạch.......................... 9
1.1.1. Khái quát về huyện Lập Thạch ..................................................................................9
1.1.2. Đảng bộ huyện Lập Thạch .......................................................................................14

1.2. Tình hình giáo dục phổ thông của huyện Lập Thạch trước năm 1997 ............ 17
1.3. Lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ huyện Lập Thạch từ
năm 1997 đến năm 2005 ......................................................................................... 22
1.3.1. Một số vấn đề đặt ra đối với Đảng bộ huyện Lập Thạch trong việc lãnh đạo
phát triển giáo dục phổ thông ở huyện ...............................................................................23
1.3.2. Chủ trương phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ huyện Lập Thạch..................26
1.3.3. Quá trình Đảng bộ huyện Lập Thạch chỉ đạo thực hiện Chủ trương phát triển
giáo dục phổ thông .............................................................................................................30
1.3.4. Kết quả phát triển giáo dục phổ thông của Huyện ...................................................37
Tiểu
kết…..………………………….………………………………………………....46


CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN LẬP THẠCH TỪ NĂM 2005
ĐẾN NĂM 2012 ..................................................................................................... 48
2.1. Huyện Lập Thạch sau 8 năm tái lập tỉnh Vĩnh Phúc và những vấn đề đặt
ra đối với công tác phát triển giáo dục phổ thông trên địa bàn huyện .................... 48
2.2. Tiếp tục chủ trương phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ huyện
Lập Thạch ................................................................................................................ 50
2.2.1. Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội X và Đại hội XI của Đảng về giáo
dục và đào tạo.....................................................................................................................50


2.2.2. Chủ trương phát triển giáo dục phổ thông của huyệnLập Thạch từ năm 2006
đến năm 2012 .....................................................................................................................56
2.2.3. Quá trình chỉ đạo thực hiện phát triển giáo dục phổ thông trên địa bàn huyện .......58
2.2.4. Kết quả .....................................................................................................................68
Tiểu kết................................................................................................................73

CHƢƠNG 3: THÀNH TỰU, HẠN CHẾ, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG
KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN LẬP THẠCH TRONG NHỮNG NĂM 1997 2012 ......................................................................................................................... 75
3.1. Về thành tựu ..................................................................................................... 75
3.1.1.Những chủ trương của Đảng bộ huyện Lập Thạch về giáo dục phổ thông đã
kịp thời đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân trong huyện .............................................75
3.1.2. Sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Lập Thạch đã đảm bảo cho giáo dục phổ
thông phát triển đúng định hướng và có hiệu quả ..............Error! Bookmark not defined.
3.1.3. Về sự phát triển giáo dục phổ thông trong 15 năm của huyện Lập Thạch ..............78

3.2. Về hạn chế ........................................................................................................ 83
3.3. Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế .................................................... 85

3.4. Một số kinh nghiệm chủ yếu ............................................................................ 88
3.2.1. Chú trọng tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân và tầm
quan trọng của giáo dục phổ thông ....................................................................................88
3.2.2. Đảm bảo sự thống nhất và tính đồng bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ phát triển giáo dục phổ thông .............................................................................90
3.2.3. Đảng bộ huyện Lập Thạch phát huy mọi nguồn lực trong huyện vào sự
nghiệp phát triển giáo dục phổ thông .................................................................................93
3.2.4. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để không ngừng nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục, coi học sinh là chủ thể của nhà trường ................................................96

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 102


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực
hiện dưới sự hướng dẫn của TS.Phùng Thị Hiển. Các số liệu, kết quả nghiên
cứu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Luận văn có sự kế thừa các công trình nghiên cứu của những người đi
trước và có sự bổ sung thêm những tài liệu mới.

Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 2013
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới

TS. Phùng Thị Hiển, người đã gợi mở cho tôi từ những ý tưởng ban đầu của
luận văn cũng như đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình
thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo tại Bộ môn Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn đã chỉ bảo, động viên khích lệ, tạo điều kiện tốt nhất cho quá trình
học tập của tôi tại đây.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, Ngày 18 tháng 11 năm 2013
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Ý nghĩa

GD – ĐT

Giáo dục – Đào tạo

HĐND

Hội đồng nhân dân


NXB

Nhà xuất bản

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

UBND

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 1.3.1: Quy mô phát triển trường, lớp, học sinh từ năm 2000 đến
năm 2005
Bảng 1.3.2: Biểu tổng hợp phòng học phục vụ cho dạy và học giai đoạn
2000 – 2005
Bảng 1.3.3: Biểu tổng hợp số lượng và trình độ giáo viên từ năm 2000
đến năm 2005
Bảng1.3.5: Bảng tổng hợp xếp loại văn hóa của học sinh các trường
phổ thông từ năm 1999 đến năm 2005

Bảng 2.2.1: Quy mô phát triển trường, lớp, học sinh từ năm 2006 đến
năm 2011


Bảng 2.2.2: Tổng hợp số học sinh thi đỗ vào Đại học, Cao đẳng, Trung
học, Dạy nghề từ năm 2006 đến năm 2012
Bảng 2.2.3: Biểu tổng hợp số lượng và trình độ giáo viên từ năm 2006
đến năm 2012


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam, giáo dục phổ thông được
nhìn nhận như một bậc giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt, vừa là “bản lề”
vừa là “xương sống” của toàn bộ quá trình hình thành và phát triển nhân cách
của lữa tuổi nhi đồng, thiếu niên và thanh niên, giúp các em từ bước đi chập
chững, từ nhận biết đơn giản tiến lên nắm bắt được những kiến thức cơ bản về
văn hóa chữ, văn hóa làm người và định hướng được cuộc sống của mình.
Chính mái trường này đã góp phần không nhỏ tạo ra những con ngoan , trò
giỏi, những công dân tốt và những tài năng cho đất nước. Vì yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới, nhu cầu cuộc sống của nhân dân và những đòi hỏi của cuộc
đấu tranh chống nguy cơ tụt hậu của đất nước, nội dung của giáo dục và đào
tạo (trong đó có giáo dục phổ thông) phải không ngừng đổi mới.
Giáo dục và đào tạo là một quá trình liên thông, là sự tiếp nối liên tục
của các bậc học, cấp học từ mầm non, phổ thông cho đến đại học và sau đại
học. Trong hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta hiện nay, giáo dục phổ
thông gồm giáo dục tiểu học, giáo dục THCS và giáo dục THPT. Đây là bậc
học có vai trò tiếp nối bậc học mầm non và mở đầu cho các bậc học kế tiếp
sau, mang ý nghĩa là bậc học “bản lề” của toàn bộ quá trình hình thành và
phát triển nhân cách của các lứa tuổi nhi đồng, thiếu niên và thanh niên. Nghị

quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục (1979) đã chỉ rõ: Giáo dục phổ
thông là nền tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân
tộc, nó đặt những cơ sở ban đầu rất trọng yếu cho sự phát triển toàn diện con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, trong đường lối đổi mới
giáo dục, Đảng luôn coi trọng vị trí của giáo dục phổ thông.
Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc vùng châu thổ sông Hồng, cầu nối giữa các
tỉnh miền núi phía Bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.

1


Huyện miền núi Lập Thạch thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, trong sách địa chí Việt
Nam nhà sử học Phan Huy Chú có viết: “Lập Thạch thuộc phủ Tam Đái, trấn
Sơn Tây, Lập Thạch là đất khoa mục nhất trong 5 huyện. Trong phủ thì Lập
Thạch và Bạch Hạc là giàu nhất”. Lê Quý Đôn đã viết Lập Thạch: “thật là sơn
bao, thủy bọc” nghĩa là núi sông bao bọc, trù phú. Trong lịch sử phát triển,
nhân dân huyện Lập Thạch đã có những đóng góp cùng với nhân dân cả nước
lập nên những thành tựu to lớn trong các thời kì đấu tranh giành độc lập dân
tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt từ sau khi tái lập tỉnh Vĩnh Phúc
(1997) đến nay, Đảng bộ huyện Lập Thạch (tỉnh Vĩnh Phúc) đã lãnh đạo nhân
dân trong huyện từng bước khắc phục những khó khăn, tranh thủ những thuận
lợi để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và đã đạt được những
thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là
giáo dục phổ thông của huyện cũng có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần
vào phát triển sự nghiệp giáo dục của tỉnh cũng như cả nước.
Nhận thức được vai trò quan trọng của giáo dục phổ thông, Đảng bộ
huyện Lập Thạch (Vĩnh Phúc) đã quan tâm lãnh chỉ đạo để sự nghiệp giáo
dục phổ thông của huyện từng bước đổi mới và phát triển. Thực tiễn cho thấy,
dưới sự lãnh chỉ đạo của Đảng bộ huyện, sự nghiệp giáo dục phổ thông của

huyện đã đạt những kết quả to lớn. Đảng bộ huyện Lập Thạch đã phát huy
truyền thống quê hương, xác định rõ vai trò của giáo dục, đã quan tâm đầu tư
chỉ đạo sự nghiệp giáo dục, coi đó là một đòn bẩy quan trọng để phát triển
kinh tế xã hội của địa phương, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển của
huyện, tỉnh, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua quá trình
lãnh chỉ đạo sự nghiệp giáo dục, vai trò của Đảng bộ huyện Lập Thạch càng
được khẳng định.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn đề tài: Đảng bộ huyện Lập Thạch (tỉnh
Vĩnh Phúc) lãnh đạo phát triển Giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm

2


2012 làm đề tài luận văn thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng cộng sản
Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Giáo dục phổ thông là một trong những nội dung quan trọng của sự
nghiệp giáo dục và đào tạo. Vì vậy, nghiên cứu về giáo dục phổ thông nói
riêng giáo dục và đào tạo nói chung luôn là đề tài thu hút sự quan tâm, nghiên
cứu của các nhà khoa học, nhà quản lý trong cả nước, với nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả liên quan đến
vấn đề giáo dục phổ thông. Có thể phân loại theo những nhóm chủ yếu sau:
Những công trình nghiên cứu về giáo dục và đào tạo nói chung
Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI của GS.TS Phạm
Minh Hạc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Cuốn sách này đã trình
bày tính chất của nền giáo dục, nguyên lý, nội dung, hệ thống giáo dục nước
ta qua các giai đoạn lịch sử, phân tích mối quan hệ giữa giáo dục và phát triển
nguồn lực, các nguồn lực phát triển giáo dục và phương hướng phát triển giáo
dục trong thời gian tới. Cũng bàn về giáo dục, cuốn sách Nhân tố mới về giáo
dục và đào tạo trong thời kỳ dẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa do

GS.TS Phạm Minh Hạc chủ biên, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002
cũng đã nêu bật được những chuyển biến tích cực về chất lượng dạy và học,
có được những kết quả này là do sự cải tiến về phương pháp của cả thầy và
trò, phong trào học tập trong nhân dân được đẩy mạnh. Từ đó xuất hiện
những nhân tố mới, những kinh nghiệm hay để góp phần thực hiện thắng lợi
đường lối giáo dục và đào tạo của Đảng.
Cuốn “Về vấn đề giáo dục – đào tạo” của Phạm Văn Đồng, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999. Một lần nữa khẳng định vai trò của giáo
dục, khẳng định sự nghiệp giáo dục và chính sách giáo dục của Đảng và nhà
nước ta có tầm quan trọng hàng đầu, các cơ quan có thẩm quyền và mọi
người, mọi tầng lớp nhân dân trong cả nước đề phải coi giáo dục là quốc sách

3


hàng đầu. Cuống sách còn khẳng định giáo dục là tương lai của dân tộc,
tương lai của con người, của mọi người trên quan điểm “Sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người”. Tác giả
Phạm Văn Đồng cũng nêu rõ Nhà nước phải nâng cao năng lực quản lý của
mình, đề ra những chủ trương, chính sách động viên mọi nguồn lực để giáo
dục đi trước một bước, góp phần quan trọng phát triển kinh tế xã hội theo
định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các đoàn thể phải tăng cường hoạt
động về nhiều mặt, đóng góp có hiệu quả vào sự nghiệp phát triển giáo dục.
Hay bài viết: Phát triển mạnh mẽ giáo dục – đào tạo phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hóa đất nước của Đỗ Mười, đăng trên tạp chí Nghiên cứu
giáo dục (tháng 1/1996). Bài viết đã khẳng định: muốn đưa sự nghiệp công
nghiệp hóa đất nước nhanh chóng đến thắng lợi thì dứt khoát phải phát triển
mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Các công trình khoa học về tổng kết thực tiễn quá trình giáo dục đào
tạo như: Tổ chức Văn hóa – Khoa học – Giáo dục của Liên Hợp Quốc

(UNESCO), Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) với dự án:
Nghiên cứu tổng thể giáo dục – đào tạo, phân tích nguồn nhân lực VIE89/022
và dự án: Báo cáo đánh giá tình hình giáo dục và đạo tạo của Việt Nam hiện
nay được tiến hành trong 2 năm (1991 – 1992); Trí thức Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước, của Đỗ Mười, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1995.
Dưới góc độ khoa học lịch sử, những năm gần đây cũng đã có một số
luận văn, luận án của học viên chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam nghiên cứu về sự lãnh đạo của một số Đảng bộ địa phương trong việc
thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo như: Đảng bộ tỉnh Nam
Định lãnh đạo sự nghiệp giáo dục và đào tạo từu năm 1997 đến năm 2006
của tác giả Vũ Thị Huệ, luận văn thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2011. Luận văn đã nêu bật được thực trạng giáo dục và đào tạo tỉnh Nam

4


Định trước năm 1997, yêu cầu cần phải đổi mới giáo dục đào tạo của cả nước
nói chung và giáo dục đào tạo ở tỉnh Nam Định nói riêng. Luận văn cũng chỉ
ra chi tiết quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định trong việc đề ra chủ
trương, biện pháp phát triển giáo dục và đào tạo. Hay luận văn Đảng bộ tỉnh
Hòa Bình lãnh đạo sự nghiệp giáo dục và đào tạo từ năm 1991 đến năm 2000
của tác giả Lương Thị Hòe, luận văn thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà
Nội, 1998…
Những công trình nghiên cứu về giáo dục phổ thông
Với một số công trình nghiên cứu chuyên khảo đã xuất bản như: 35
năm phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông của tác giả Võ Thuận Nho đã
thể hiện những quan điểm chung, những nhận định chung nhất về nền giáo
dục Việt Nam trong đó giáo dục phổ thông với tư cách là một bậc học cần có
nhiều sự quan tâm để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội trong

thời kỳ đất nước đổi mới.
Ngoài ra còn một số bài đăng trên các tạp chí như: Một cơ hội để đánh
giá thực trạng giáo dục THPT của TS. Hồ Thiệu Hùng đăng trên báo tuổi trẻ
ngày 10/2/2003; Phát huy việc tự học trong trường phổ thông trung học của
GS.VS. Nguyễn Cảnh Toàn đăng trên báo Giáo dục và Thời đại ngày
10/2/2003; hay Chất lượng giáo dục phổ thông – một vấn đề cấp bách của
GS.VS. Nguyễn Cảnh Toàn đăng trên báo Văn nghệ ngày 11/10/2003…Đây
là những bài viết đưa ra những nhận định về giáo dục phổ thông, đồng thời
đưa ra được một số giải pháp nhằm phát huy ý nghĩa, vai trò của giáo dục phổ
thông trước yêu cầu mới của thời kỳ đổi mới đất nước. Đồng thời phân tích
những thành tựu, hạn chế của giáo dục và đào tạo nước ta trong đó có giáo
dục phổ thông qua những năm đầu thực hiện đổi mới, chỉ ra nguyên nhân và
những giải pháp khắc phục để giáo dục phổ thông có được bước phát triển
mới thực sự trở thành quốc sách hàng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội.

5


Ngoài ra còn một số những luận văn, luận án, khóa luận…đề cập đến
giáo dục phổ thông như: Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo sự nghiệp
giáo dục phổ thông trong thời kỳ 1986 – 2003, luận văn thạc sĩ Lịch sử của
Vũ Thị Kim Tiến, Hà Nội, 2005, Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo phát
triển giáo dục phổ thông giai đoạn 1996 – 2006, luận văn thạc sĩ Lịch sử của
Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Hà Nội, 2009. Hay Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh
đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010, luận văn thạc
sĩ Lịch sử của Trương Thị Nguyệt, Hà Nội 2011…Những đề tài đó đều xuất
phát từ thực trạng giáo dục phổ thông, đặc điểm tình hình và mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội đặc thù của địa phương mình để đưa ra những nhận định
và đề xuất yêu cầu đối với giáo dục phổ thông để phát triển hơn nữa, đáp ứng
yêu cầu về lao động phổ thông và lao động phục vụ cho phát triển kinh tế tại

địa phương mình.
Nhìn chung, những công trình đã nghiên cứu phong phú, đa dạng, nội
dung và phạm vi nghiên cứu, đều nhằm tìm phương hướng cho sự phát triển
giáo dục phổ thông của từng địa phương cũng như cả nước. Những công trình
nghiên cứu và bài viết được công bố đã giúp chúng ta hiểu phần nào về thực
trạng giáo dục phổ thông với nhiều thông tin quý báu, bổ ích. Tuy nhiên, sự
lãnh đạo của Đảng bộ huyện Lập Thạch – tỉnh Vĩnh Phúc đối với sự nghiệp
giáo dục phổ thông trong những năm từ 1997 đến năm 2012 thì chưa có công
trình nào nghiên cứu đầy đủ và cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Làm rõ quá trình Đảng bộ huyện Lập Thạch lãnh đạo phát triển giáo
dục phổ thông ở huyện từ năm 1997 đến năm 2012, qua đó góp phần tổng kết
công tác lãnh đạo của Đảng bộ huyện về lĩnh vực giáo dục, hướng đến nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ huyện cũng như chất lượng giáo dục phổ
thông của huyện trong những năm tiếp theo.

6


3.2. Nhiệm vụ
- Khảo sát điều kiện tự nhiên – xã hội của huyện Lập Thạch; những yếu
tố tác động đến sự phát triển của giáo dục phổ thông của huyện.
- Hệ thống hóa những chủ trương của Đảng bộ huyện về phát triển giáo
dục phổ thông trên địa bàn huyện từ năm 1997 đến năm 2012.
- Khảo sát kết quả thực hiện chủ trương Nghị quyết của Đảng bộ huyện
về phát triển giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2012.
- Phân tích, đánh giá kết quả đạt được (thành tựu, hạn chế, nguyên
nhân) trong lĩnh vực phát triển giáo dục phổ thông của huyện từ năm 1997
đến năm 2012 và rút ra kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện đối

với vấn đề phát triển giáo dục phổ thông trên địa bàn huyện.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Lập Thạch (tỉnh
Vĩnh Phúc) trong lĩnh vực phát triển giáo dục phổ thông ở huyện Lập Thạch
từ năm 1997 đến năm 2012.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Lập Thạch về
vấn đề phát triển giáo dục phổ thông trên địa bàn huyện bao gồm: Giáo dục
tiểu học, giáo dục THCS, giáo dục THPT.
Về thời gian: Từ năm 1997 đến 2012 (Từ khi tái lập tỉnh Vĩnh Phúc đến nay)
Về không gian: Địa bàn huyện Lập Thạch (tỉnh Vĩnh Phúc).
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Nguồn tƣ liệu
- Hệ thống văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1986 đến
năm 2012 về giáo dục phổ thông, những bài nói, bài viết của các đồng chí
lãnh đạo Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo.

7


- Các văn kiện của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc, của Đảng bộ huyện Lập
Thạch từ năm 1997 đến năm 2012.
- Các báo cáo tổng kết hàng năm của Phòng giáo dục huyện, của
UNBD huyện lập Thạch.
- Các công trình nghiên cứu, khảo sát thực tế của các tác giả đã được
công bố.
5.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quản điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương
pháp logic, ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như: so sánh, thống
kê, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn…
6. Đóng góp của luận văn
Góp phần tổng kết hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ huyện Lập Thạch
về phát triển giáo dục phổ thông trên địa bàn huyện từ năm 1997 đến năm
2012, bao gồm:
- Làm rõ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện về phát triển giáo dục
phổ thông từ năm 1997 đến năm 2012.
- Chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và kinh nghiệm lãnh
đạo của Đảng bộ huyện trong lĩnh vực phát triển giáo dục phổ thông.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần: Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết
Chƣơng 1: Quá trình lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông của
Đảng bộ huyện Lập Thạch từ năm 1997 đến năm 2005
Chƣơng 2: Quá trình lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông của
Đảng bộ huyện Lập Thạch từ năm 2006 đến năm 2012
Chƣơng 3: Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những kinh
nghiệm lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ huyện Lập
Thạch trong những năm từ 1997 đến năm 2012

8


CHƢƠNG 1
QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN LẬP THẠCH TỪ
NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005
1.1 Khái quát về huyện Lập Thạch và Đảng bộ huyện Lập Thạch

1.1.1 Khái quát về huyện Lập Thạch
Lập Thạch là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Vĩnh Phúc
Trong sách Địa chí Việt Nam, nhà sử học Phan Huy Chú có viết: “ Lập
Thạch thuộc phủ Tam Thái, trấn Sơn Tây, Lập Thạch là đất khoa mục nhất
trong năm huyện. Trong phủ thì Lập Thạch và Bạch Hạc là giàu nhất”, Lê
Quý Đôn đã viết: “Thật là sơn bao, thủy bọc” [26;7] nghĩa là núi sông bao
bọc, trù phú. Trung tâm huyện lỵ là thị trấn Lập Thạch, cách trung tâm tỉnh
khoảng 20km về phía đông nam. Huyện bao gồm 38 Xã và Thị trấn. Tổng
diện tích tự nhiên của huyện là 41.205,8 ha (chiếm 30% diện tích tỉnh Vĩnh
Phúc). Trong đó, đất nông nghiệp là 16.796,57 ha; đất lâm nghiệp là
13.228,44 ha; đất chuyên dùng là 4.261,58 ha; đất chưa sử dụng và sông, núi,
đá là 6.396,75 ha. Huyện Lập Thạch nằm trong tọa độ địa lý 105 độ 30’ – 105
độ 45’ kinh độ đông và 21 độ 10’ – 21 độ 30’ vĩ độ Bắc. Phía bắc giáp huyện
Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang; phía đông bắc giáp huyện Đại Từ tỉnh Thái
Nguyên; phía Đông, đông nam giáp huyện Tam Dương và huyện Vĩnh
Tường; phía tây giáp huyện Phù Ninh và tây nam giáp thành phố Việt Trì tỉnh
Phú Thọ.
Lập Thạch là vùng tiếp giáp giữa Đông bắc và Tây bắc Việt Nam, có
khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều về hè và khô lạnh vào mùa
đông. Khí hậu được chia làm 4 mùa rõ rệt: xuân – hạ - thu – đông. Nhiệt độ
trung bình hàng năm từ 22 – 23 độ C (cao nhất vào các tháng 6,7,8 và lạnh

9


vào tháng 12,1,2. Khí hậu Lập Thạch thích hợp với nhiều loại cây trồng, vật
nuôi cho phép phát triển nền nông nghiệp đa dạng. Là huyện miền núi nên địa
hình, địa mạo khá phức tạp, xen kẽ đồi gò là những dải ruộng hẹp, khe lạnh,
núi non, làng mạc. Vùng núi gồm 15 xã tập trung ở phía bắc Lập Thạch, vùng
đất giữa gồm 9 xã, đồng ruộng xen kẽ với đồi gò; vùng đất trũng gồm 15 xã

ven sông Lô và sông Phó Đáy.
Về địa lý hành chính: dưới thời Nguyễn thế kỉ XIX, vua Minh Mệnh
đổi trấn thành tỉnh, Lập Thạch vẫn thuộc phủ Tam Đái, tỉnh Sơn Tây. Cuối
thế kỉ XIX, nhà Nguyễn kí điều ước Pa tơ nốt với thực dân Pháp xâm lược.
Thực hiện chính sách “chia để trị” thực dân Pháp tiếp tục chia cắt và xáo trộn
các huyện, các xã ở Bắc kỳ để thành lập các trung tâm cai trị mới. Các tỉnh
Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên bị cắt xén bớt đi, các tỉnh Vĩnh Yên, Phúc
yên lần lượt ra đời.
Tên huyện Lập Thạch có từ đời Trần Thiếu Đế, năm Kiến Tân thứ 2
(1399) thuộc châu Tam Đái, lộ Đông Đô. Ngày 6/1/1890 toàn quyền Đông
Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Vĩnh Yên. Thi hành nghị định này, ngày
20/10/1890, thực dân Pháp tách phủ Vĩnh Tường và 5 huyện: Lập Thạch,
Bạch Hạc, Tam Dương, Yên Lạc, Yên Lãng khỏi tỉnh Sơn Tây, tách huyện
Bình Xuyên khỏi tỉnh Thái Nguyên và một phần huyện Kim Anh khỏi tỉnh
Bắc Ninh, sáp nhập với nhau thành đạo Vĩnh Yên, lỵ sở đặt tại Hương Canh
(Bình Xuyên). Ngày 29/12/1899 do tình hình chống đối liên miên của dân
chúng và sự cần thiết phải can thiệp trực tiếp vào cuộc cai trị, bọn thống trị
phải lập lại tỉnh Vĩnh Yên, tỉnh lỵ đặt tại xã Tích Sơn (huyện Tam Dương).
Huyện Lập Thạch thuộc tỉnh Vĩnh Yên. Ngày 12/2/1950 Thủ tướng Chính
phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra Nghị định số 03/TTg về việc hợp
nhất 2 tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên thành tỉnh Vĩnh Phúc. Thi hành Nghị định
này, tháng 2/1950 tại thôn Sơn Kịch (xã Quang Sơn, huyện Lập Thạch) đã
diễn ra hội nghị hợp nhất 2 tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên thành tỉnh Vĩnh Phúc.

10


Từ đó huyện Lập Thạch trong tỉnh Vĩnh Phúc. Tháng 3/1968 thi hành nghị
quyết của Quốc hội, tỉnh Vĩnh Phúc được hợp nhất với tỉnh Phú Thọ thành
tỉnh Vĩnh Phú, huyện Lập Thạch trong tỉnh Vĩnh Phú.

Ngày 23/11/1995 Chính phủ ra nghị định số 82/CP về việc thành lập thị
trấn Lập Thạch (đơn vị hành chính có sở là huyện lỵ của huyện Lập Thạch)
trên cơ sở chia tách xã Xuân Hòa thành hai đơn vị là thị trấn và xã Xuân Hòa
mới. Theo đó thị trấn Lập Thạch có 414 ha diện tích tự nhiên và 4,700 nhân
khẩu, xã Xuân Hòa (mới) có 1.321,62 ha diện tích tự nhiên và 7.290 nhân
khẩu. Theo nghị định 82/Cp từ ngày 1/1/1996 thị trấn Lập Thạch và xã Xuân
Hòa bắt đầu làm việc theo đơn vị hành chính mới. Như vậy, đến năm 1996
huyện Lập Thạch có 39 đơn vị hành chính cơ sở (38 xã và một thị trấn). Ngày
10/6/2003 UBND tỉnh Vĩnh Phúc ra quyết định số 2159/QĐ – UB công nhận
các thôn và tổ dân phố hiện có của tỉnh Vĩnh Phúc, trong đó huyện Lập Thạch
có 411 thôn thuộc 38 xã và 11 tổ dân phố thuộc thị trấn Lập Thạch.
Lập Thạch hiện nay là một trong những huyện nghèo của tỉnh Vĩnh
Phúc. Chiếm 14,05% về diện tích tự nhiên và 10,73% về dân số, năm 2010
tổng giá trị gia tăng VA (giá 1994) của Lập Thạch trên 557 tỷ đồng, bằng
5,46% tỉnh Vĩnh Phúc. VA (giá HH) bình quân đầu người của huyện đạt trên
32% chỉ tiêu trung bình của tỉnh.Trong giai đoạn 2000 - 2010, kinh tế - xã hội
Lập Thạch đã có nhiều chuyển biến tích cực: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản
xuất bình quân giai đoạn 2000 - 2010 đạt 15,40%/năm. Cơ cấu kinh tế đã có
bước chuyển dịch theo hướng tích cực. Năm 2010 tỷ trọng ngành nông - lâm
nghiệp - thuỷ sản còn chiếm 41,57% giảm 17,64%; công nghiệp - xây dựng
chiếm 25,86% tăng 14,90%; dịch vụ - thương mại chiếm 32,57% tăng 2,74%
so với năm 2000. Tuy nhiên sự chuyển dịch kinh tế còn chậm chưa phù hợp
với tiềm năng của Huyện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2000 2010 của huyện Lập Thạch đạt 15,36% cao hơn của tỉnh Vĩnh Phúc 0,1%.
Dân số trung bình năm 2010 là 118.772 người, trong đó thành thị có 12.515

11


người (chiếm 10,54% dân số toàn huyện), nông thôn 106.257 người, chiếm
89,46%.[26;134]

Mật độ dân số trung bình 686 người/km2. Dân cư phân bố không đồng
đều theo đơn vị hành chính. Mật độ dân số cao nhất là thị trấn Lập Thạch
(1690 người/km2), tiếp đến là xã Triệu Đề (1247 người/km2). Thấp nhất là xã
Vân Trục (341 người/km2). Tổng số lao động trong độ tuổi năm 2010 là
63.556 người chiếm trên 53% tổng dân số. Lực lượng lao động trên địa bàn
Huyện là khá dồi dào nhưng chất lượng lao động nhìn chung còn thấp, lao
động phổ thông chiếm trên 78%. Lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật
chiếm khoảng 22%. Hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn mới đạt 85
- 87,5%. Hiệu quả lao động nhìn chung còn thấp.
Là vùng đất cổ kính nhất của tỉnh Vĩnh Phúc, huyện Lập Thạch là nơi
sinh tụ của người Việt cổ. Có tên từ thế kỷ XIII, là nơi sản sinh ra nhiều anh
hùng và danh nhân văn hoá làm phong phú thêm cho lịch sử phát triển của
huyện, của tỉnh Vĩnh Phúc qua các thời kỳ chống ngoại xâm và xây dựng đất
nước. Trên địa bàn có các lễ hội như lễ "bắt trạch trong chum", "leo cầu" tại
đình làng Thạc Trục; tục "đá cầu", "cướp phết" tại xã Bàn Giản biểu hiện tín
ngưỡng phồn thực rõ rệt. Bên cạnh những phong tục, lễ hội cổ sơ đó là những
kiến trúc nổi tiếng như đình làng Sen Hồ. Ngoài những phong tục, tập quán
trên địa bàn huyện còn có những cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng
hấp dẫn khách du lịch như khu hồ Vân Trục, với những cánh rừng nguyên
sinh và văn hoá ẩm thực đặc trưng giàu bản sắc văn hóa như bánh Gạo Rang
ngon nổi tiếng tại xã Tiên Lữ, bánh làm từ các loại khoai phơi khô. Đặc biệt,
có món ăn đặc trưng của Lập Thạch đó được đưa vào "chuyện lạ Việt Nam"
như phong tục ăn đất sét hun khói.
Từ xa xưa lập Thạch là vùng núi cao, rừng rậm, có vị trí đặc biệt tiếp
giáp với đỉnh của tam giác đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đất đai màu mỡ,
rừng có nhiều lâm sản quý giá, giao thông thuận lợi. Dân cư Lập Thạch có

12



nhiều nguồn gốc khác nhau. Trước hết là người Việt cổ cư trú ở vùng đất Lập
Thạch rất lâu đời, nay là dân tộc Kinh đã có lịch sử hàng ngàn đời. Vào cuối
năm 1964 và năm 1965 tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành “kiểm kê phổ thông di
tích lịch sử” (đợt 1), ngành khảo cổ học đã xác định ở Lập Thạch có di chỉ
thời đại đồ đá mới ở xã Đôn Nhân, tiếp đó xác định Đồng Xuân (xã Xuân
Hòa) có di chỉ đồ đá mới (đã tìm thấy lưỡi rìu bằng đá của người Việt cổ).
Điều đó khẳng định người Việt cổ có mặt sinh sống ở vùng đất Lập Thạch từ
hàng mấy ngàn năm nay. Đến thế kỉ XVII có người Cao Lan, người Sán Dìu
do biến cố của triều đình nhà Thanh bên Trung Quốc, hai dân tộc này đã
phiêu dạt nhập cư vào Việt Nam, trong đó có một bộ phận đã vào đất Lập
Thạch sinh sống. Người Cao Lan đã đến sinh sống tại xã Quang Yên, người
Sán Dìu đã đến sinh sống tại xã Đạo Trù, Bồ Lý, Yên Dương, Quang Sơn và
Bắc Bình. Đến cuối thế kỉ XIX có một bộ phận người Dao từ tỉnh Hòa Bình
nhập cư vào Lập Thạch định cưu tại bản Thành Công (xã Lãng Công). Hiện
nay trên đất Lập Thạch có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó có 4
dân tộc sinh sống thành cộng đồng dân cư là: người Kinh (chiếm 93,2%), Sán
Dìu, Cao Lan và Dao, đồng thời còn có dân tộc thiểu số như: Tày, Nùng,
Thái, Hoa…
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi 7/1954 dân số toàn huyện
có trên 48.000 người. Đến năm 1965 dân số toàn huyện có trên 83.000 người.
Năm 1986, Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước. Với việc xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp. thực hiện
cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, công tác dân số
kế hoạch háo gia đình được nhận thức sâu sắc, triển khai thực hiện sâu rộng,
mạnh mẽ trong toàn huyện nên tình hình dân số đi vào thế ổn định và nhất là
từ tháng 2 năm 1992 Ủy ban dân số kế hoạch hóa gia đình của huyện được
thành lập (nay là Ủy ban dân số- gia đình – trẻ em) công tác dân số kế hoạch
hóa gia đình đi vào nề nếp, tình hình dân số trên địa bàn Huyện rất ổn định, tỷ

13



lệ phát triển dân số tự nhiên hàng năm giảm theo hướng tích cực. Đến
31/12/2003 dân số toàn huyện là 230.485 người (tăng 1,2 lần so với năm
1985).
1.1.2. Đảng bộ huyện Lập Thạch
Tháng 2 năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam ra đời. Ngay từ khi ra đời, Đảng với đường lối “Độc
lập dân tộc”, “Người cày có ruộng” đã tập hợp được lực lượng cách mạng
rộng rãi trong Mặt trận dân tộc thống nhất và xác lập vai trò lãnh đạo của
mình. Ở tỉnh Vĩnh Yên, sau mấy tháng thành lập, Đảng ta cử 2 đảng viên là
Phan Văn Cương và Vũ Duy Cương về gây cơ sở, nhen nhóm phong trào
cách mạng. Nhờ có thuận lợi đã hoạt động trong nhóm Việt Nam cách mạng
thanh niên trước đó ở thị xã, nên trong thời gian ngắn, 2 đồng chí mau chóng
tạo được đội ngũ cốt cán làm chỗ dựa. Từ những cốt cán đó, số quần chúng
được giác ngộ tăng dần và cơ sở cách mạng từ thị xã lan rộng ra các vùng
xung quanh như: Vĩnh Tường, Tam Dương, Yên Lạc….Từ các cơ sở cách
mạng đầu tiên ở các huyện đó và sự hoạt động hăng hái của đội ngũ cốt cán
trong các hội yêu nước đã ảnh hưởng lớn đến huyện Lập Thạch. Nhưng từ sau
khởi nghĩa giành chính quyền, công tác xây dựng Đảng bộ tỉnh nói chung và
các huyện thị nói riêng chưa được Tỉnh ủy quan tâm đúng mức, nhất là công
tác tuyên truyền phát triển giáo dục, bồi dưỡng đối tượng phát triển Đảng.
Khuyết điểm đó được Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Yên tháng
5/1946 nghiêm khắc phê bình. Căn cứ vào số lượng đảng viên và yêu cầu của
tình hình, nhiệm vụ mới, ngày 12/11/1946 Tỉnh ủy Vĩnh Yên quyết định thành
lập Huyện ủy lâm thời Lập Thạch do đồng chí Hoằng Bắc Dũng làm Bí thư.
Sau khi được thành lập Đảng bộ huyện Lập Thạch thường xuyên coi
trọng công tác phát triển Đảng. Hàng tháng huyện ủy đều giao chỉ tiêu phát
triển cho các chi bộ và tổ chức lớp bồi dưỡng ngắn ngày cho các đối tượng
kết nạp Đảng do cơ sở yêu cầu. Trong những năm đầu kháng chiến chống


14


thực dân Pháp, Lập Thạch là huyện được chọn làm khu căn cứ, nên nhiệm vụ
của Đảng bộ và nhân dân trong huyện rất nặng nề. Ngoài việc xây dựng địa
phương về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và quốc phòng, Đảng bộ và nhân
dân còn ra sức khắc phục khó khăn để chuẩn bị tiếp nhận nhiều cơ quan, đơn
vị bộ đội và đồng bào tản cư đến. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (5/1954)
kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược
(1945- 1954). Theo tinh thần Hiệp định Giơ – ne- ver, đất nước ta tạm thời
chia cắt làm 2 miền. Trước tình hình đó, từ ngày 5 đến ngày 7/9/1954 Bộ
Chính trị họp và đề ra nhiệm vụ trước mắt của Đảng là: “ Đoàn kết và lãnh
đạo nhân dân đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến để củng cố hòa bình,
ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng
cường xây dựng Quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy
mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, nhằm củng cố hòa
bình, thực hiện thống nhất hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc” [84;
99]. Bước vào thực hiện nhiệm vụ cách mạng của thời kỳ mới, Đảng bộ và
nhân dân huyện Lập Thạch đã có những thuận lợi cơ bản nhằm ra sức thi đua
phấn đấu, cùng với miền Bắc là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền
Nam. Gắn nhiệm vụ chiến đấu với sản xuất, thực hiện khẩu hiệu “Tay cày,
tay súng”, “Mỗi người làm việc bằng hai tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Tất
cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” [84; 141]. Trong
chiến công chung của của toàn dân tộc đánh cho “Mỹ cút”, Lập Thạch làm tốt
nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Năm 1972, huyện gửi ra
chiến trường 1.165 thanh niên nhập ngũ, 287 thanh niên xung phong làm
nhiệm vụ mở đường nơi tuyến lửa khu IV và trên nước bạn Lào anh em, đóng
góp 6.181 tấn lương thực và hàng trăm tấn thực phẩm. Với những đóng góp
như vậy, 8 năm liên tục huyện Lập Thạch được tỉnh xếp loại là đơn vị khá.

Nhìn lại 20 năm vừa xây dựng XHCN, vừa kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
mặc dù còn những tồn tại khuyết điểm, nhưng về cơ bản Đảng bộ và nhân dân

15


×