Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

đảng với cuộc vận động nông dân miền bắc giai đoạn 1954 1965

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (955.75 KB, 150 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ KIM DUNG

ĐẢNG VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN MIỀN BẮC
GIAI ĐOẠN 1954-1965

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ KIM DUNG

ĐẢNG VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN MIỀN BẮC
GIAI ĐOẠN 1954-1965

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 60 22 56

Người hướng dẫn khoa học: TS Lê Văn Thịnh

HÀ NỘI - 2012


2


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

CCRĐ

Cải cách ruộng đất

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

HTX

Hợp tác xã

HTH

Hợp tác hóa

HTX NN

Hợp tác xã nông nghiệp

XHCN


Xã hội chủ nghĩa

3


MỤC LỤC
Chương 1: Đảng vận động nông dân miền Bắc giai đoạn 1954-1960 .......... 14
1.1 Một số nét khái quát về công tác vận động nông dân của Đảng .......... 14
1.1.1 Vai trò của nông dân Việt Nam trong lịch sử ............................... 14
1.1.2 Công tác vận động nông dân của Đảng trong tiến trình cách mạng
............................................................................................................. 15
1.2 Chủ trương vận động nông dân miền Bắc tiến hành cách mạng ruộng
đất, thực hiện kế hoạch 3 năm khôi phục và phát triển kinh tế 1954-1957 18
1.2.1 Tình hình kinh tế - xã hội miền Bắc và chủ trương của Đảng....... 18
1.2.2 Quá trình tổ chức thực hiện.......................................................... 32
1.3 Chủ trương vận động nông dân miền Bắc tham gia cải tạo nông nghiệp
theo chủ nghĩa xã hội (1958-1960) ........................................................... 47
1.3.1 Chủ trương cải tạo nông nghiệp theo CNXH của Đảng................ 47
1.3.2 Đảng vận động nông dân tham gia phong trào hợp tác hóa nông
nghiệp................................................................................................... 53
Tiểu kết chương 1..................................................................................... 60
Chương 2: Đảng vận động nông dân miền Bắc giai đoạn 1961-1965 .......... 62
2.1 Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương vận động nông dân của Đảng .......... 62
2.1.1 Hoàn cảnh lịch sử ........................................................................ 62
2.1.2 Chủ trương của Đảng vận động nông dân miền Bắc giai đoạn 19611965 ..................................................................................................... 64
2.2 Đảng vận động nông dân miền Bắc xây dựng, phát triển kinh tế và làm
tốt nghĩa vụ chi viện cho miền Nam ......................................................... 76
2.2.1 Đảng vận động nông dân miền Bắc xây dựng và phát triển kinh tế
............................................................................................................. 76


4


2.2.2 Đảng lãnh đạo nông dân miền Bắc thực hiện nhiệm vụ chi viện cho
tiền tuyến lớn miền Nam (1961-1965) .................................................. 95
Tiểu kết chương 2:.................................................................................. 101
CHƯƠNG 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm .......................................... 104
3.1 Một số nhận xét ................................................................................ 104
3.1.1 Ưu điểm ..................................................................................... 104
3.1.2 Hạn chế...................................................................................... 112
3.2 Một số kinh nghiệm lịch sử .............................................................. 116
Kết luận ..................................................................................................... 125
Tài liệu tham khảo ..................................................................................... 128
Phụ lục ...................................................................................................... 145

5


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết đề tài
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, giai cấp nông dân luôn
luôn có vai trò đặc biệt, là lực lượng đông đảo nhất trong nhân dân, đồng thời
cũng là đội quân chủ lực của cách mạng. Vì vậy, trong mọi thời kỳ cách
mạng, công tác vận động nông dân luôn được coi là một trong những nhiệm
vụ cấp bách nhất của Đảng. Khẳng định vai trò quan trọng của giai cấp nông
dân, Lênin viết: “Nhân tố thắng lợi không phải ở chỗ công nhân, tức vô sản,
hoàn toàn chiếm ưu thế trong dân số toàn quốc và ở tính tổ chức cao hơn của
họ mà là ở chỗ vô sản được sự ủng hộ của những người nông dân nghèo

khổ…”[132, Tr. 424]. Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam cũng chứng tỏ
rằng, không có sự tham gia của giai cấp nông dân, thì đội tiền phong của cách
mạng Việt Nam - giai cấp công nhân khó có thể giành được bá quyền lãnh
đạo cách mạng, khó có thể tập hợp được lực lượng dân tộc đông đảo xung
quanh mình để hình thành mặt trận dân tộc thống nhất, nguồn sức mạnh vô
địch trong cuộc đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước.
Vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt
Nam, ngay từ đầu, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã nhận thấy
vai trò đặc biệt to lớn của giai cấp nông dân và vấn đề liên minh công nông
đối với cách mạng Việt Nam. Không giống giai cấp nông dân các nước
phương Tây, giai cấp nông dân Việt Nam mang những đặc điểm riêng của
một nước nông nghiệp lạc hậu nhưng có truyền thống đoàn kết và lòng yêu
nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất vì nền độc lập của
dân tộc. Thời thuộc Pháp, giai cấp nông dân Việt Nam bị ba tầng áp bức bóc
lột nặng nề: ách áp bức của giai cấp địa chủ, tư sản và thực dân Pháp nên mối
thù dân tộc và mối thù giai cấp hòa quyện làm một.

6


Chính vì vậy, trong tiến trình cách mạng Việt Nam, công tác vận động
nông dân của Đảng có ý nghĩa chiến lược cách mạng sâu sắc. Năm 1930,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã xác định vấn đề quan trọng hàng đầu của
cách mạng là vấn đề tập hợp nông dân. Trong Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt của Đảng đã chỉ rõ: “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân
cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn
đại địa chủ và phong kiến…” [105, tr. 3]. Vì vậy, trong đường lối lãnh đạo
cách mạng, Đảng luôn coi trọng vấn đề vận động nông dân và luôn đề ra
những chủ trương chính sách vận động giai cấp nông dân trở thành lực lượng
đông đảo nhất tham gia cách mạng.

Từ sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và bắt đầu công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời cùng nhân dân miền Nam tiếp tục
tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước. Nhận
thức rõ vai trò và vị trí của giai cấp nông dân trong cách mạng Việt Nam,
Đảng với vai trò là người tiên phong dẫn đường đã lãnh đạo nhân dân miền
Bắc thực hiện sứ mệnh cao cả vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm tròn nhiệm
vụ hậu phương lớn, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam kháng chiến chống
đế quốc Mỹ xâm lược. Đây cũng là giai đoạn lịch sử quan trọng khẳng định
vai trò to lớn và thành công của Đảng trong việc đề ra những chủ trương,
chính sách đúng đắn để vận động nông dân miền Bắc hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình.
Việt Nam hiện nay về cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp, gần 70% dân
số là nông dân, sống trên địa bàn nông thôn. Chính vì vậy, để tăng cường hiệu
quả công tác vận động nông dân, khai thác tốt tiềm năng nông nghiệp phục vụ
chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế,
Đảng coi việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn là một mục tiêu quan trọng của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

7


đất nước. Rõ ràng, trong lịch sử cũng như hiện tại, vấn đề nông dân, nông
nghiệp, nông thôn luôn giữ vị trí quan trọng cần phải được nhìn nhận một
cách thật sự khoa học. Trong đó, việc tổng kết kinh nghiệm vận động nông
dân của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam là vấn đề có tầm quan
trọng hàng đầu.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn vấn đề: “Đảng với cuộc vận động nông
dân miền Bắc giai đoạn 1954-1965” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Đến nay, đã có nhiều cuốn sách và công trình nghiên cứu đề cập đến vấn

đề nông dân miền Bắc giai đoạn 1954-1965. Ở những mức độ khác nhau, các
công trình đó có đề cập đến một số chủ trương chính sách của Đảng đối với
nông dân miền Bắc trong công cuộc khôi phục, phát triển kinh tế miền Bắc và
làm nhiệm vụ hậu phương lớn chi viện cho miền Nam trong giai đoạn 1954-1960.
Trước hết, là các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước:
Nguyễn Duy Trinh, (1976), Miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong quá trình thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược, Nxb Sự thật; Nguyễn Duy Trinh (chủ biên),
(1966), Những thắng lợi vẻ vang của nhân dân ta trong công cuộc xây dựng
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc (1955-1965), Nxb Sự thật; Trường
Chinh, Võ Nguyên Giáp (1959), Vấn đề dân cày, Nxb Sự thật; Trường Chinh
(1969), Kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, đưa phong trào
hợp tác hoá nông nghiệp vững bước tiến lên, Nxb Sự thật; Trường Chinh
(1953), Về phóng tay phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất
của Đảng và Chính phủ năm 1953. Bài nói chuyện tại Hội nghị nông vận
Trung ương; Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, (1974), Tổ chức lại sản xuất và cải
tiến quản lý nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự
thật; Nguyễn Chí Thanh, (1963), Ra sức phấn đấu đưa nông dân miền Bắc
nước ta tiến lên, Nxb Sự thật. Các tác phẩm cung cấp nhiều tài liệu quý giá có

8


giá trị để đề tài đi sâu nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
trong cuộc vận động nông dân miền Bắc từ 1954 đến năm 1965.
Thứ hai, các công trình của các tác giả trong nước viết về phong trào
nông dân và lịch sử phong trào nông dân ở các địa phương: Trịnh Nhu (chủ
biên), (1998), Lịch sử phong trào nông dân và hội nông dân Việt Nam (19301995), Nxb Chính trị quốc gia; Nguyễn Thành Công (chủ biên) (1998), Lịch
sử phong trào nông dân tỉnh Hoà Bình (1930-1995). Nxb Chính trị quốc gia;
Lê Huy Hoà (chủ biên), (2000). Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông
dân Hải Dương (1930-1996). Nxb Chính trị Quốc gia; Lịch sử phong trào

nông dân và Hội nông dân Hà Nội (1930-2000): Sơ thảo, Nxb Hà Nội, 2000;
Nguyễn Thị Má (chủ biên) (2000), Lịch sử Hội nông dân và phong trào Nông
dân Hải Phòng (1930-2000), Nxb Hải Phòng; Lại Duy Mộc (chủ biên),
(2010) Lịch sử phong trào nông dân và hội nông dân Thái Bình (1930 - 2010)
Nxb Chính trị Quốc gia; Trịnh Nhu (chủ biên), (1993), Lịch sử phong trào
nông dân và Hội nông dân Thanh Hoá 1930-1932, Nxb Chính trị quốc gia;
Ban Thường vụ Hội Nông dân tỉnh Bắc Giang Bắc Giang (2000), Lịch sử
phong trào nông dân và Hội nông dân tỉnh Bắc Giang (1930-2000); Ban dân
vận TW, (1999), Sơ thảo công tác dân vận của Đảng cộng sản Việt Nam
(1930-1996), Nxb chính trị Quốc gia. Các công trình trên đã trình bày một
cách khái quát về phong trào nông dân cả nước và phong trào nông dân các
tỉnh miền Bắc.
Thứ ba, một số công trình nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí: Vũ
Quang Hiển (1994), Quá trình nhận thức và chủ trương giải quyết vấn đề
nông dân của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ. Tạp chí khoa học-Đại
học Tổng hợp Hà Nội, số 2-1994; Lý Việt Quang, (2005). Kinh nghiệm lãnh
đạo của Đảng trên lĩnh vực nông nghiệp ở miền Bắc những năm 1945-1957,
Tạp chí Lịch sử Đảng Số 3; Nguyễn Trọng Phúc, (2005). Sự chi viện của

9


miền Bắc đối với miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Lịch sử
Đảng, Số 4 - 2005. Mạch Quang Thắng (1988), “Giai cấp nông dân Việt Nam
trong cuộc vận động cách mạng của Đảng”. Tạp chí Lịch sử Đảng số 4;
Trương Thị Tiến (1990), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề nông dân”. Tạp
chí khoa học - Đại học Tổng hợp, số 5, 6 - 1990; Văn Tạo (1993), “Cải cách
ruộng đất thành quả và sai lầm”. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3-1993;
Ngoài ra, còn có nhiều luận án, luận văn đề cập tới vấn đề nông dân
như: Luận án Tiến sĩ lịch sử của Nguyễn Đức Ngọc, (2007). Đảng Cộng sản

Việt Nam lãnh đạo khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế miền Bắc từ 1954
đến 1960, luận án đã làm rõ sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc khôi
phục và phát triển kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp ở
miền Bắc ở miền Bắc giai đoạn 1954-1960; Luận án Tiến sĩ Lê Thị Quỳnh
Nga (2010), Quá trình thực hiện chủ trương cách mạng ruộng đất của Đảng
ở tỉnh Thanh Hoá (1945-1957). Luận án đã tập trung làm rõ chủ trương tiến
hành cải cách ruộng đất của Đảng và quá trình thực hiện chủ trương này ở
Thanh Hóa, trong đó luận án đã đúc kết chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và
kinh nghiệm trong việc tiến hành cải cách ruộng đất của Đảng; Luận văn Thạc
sĩ Lịch sử của Nguyễn Công Loan (1995), Sự chi viện của hậu phương lớn
miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam trong sự nghiệp kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước. Luận văn đã làm rõ vai trò hậu phương lớn của miền Bắc trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và những đóng góp to lớn về sức
người, vật chất của nhân dân miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam; Luận án
Tiến sĩ sử học của Nguyễn Đình Lê (1996), Biến đổi cơ cấu xã hội miền Bắc
trong thời kỳ 1954-1975; Luận án Tiến sĩ sử học của Trần Tăng Khởi (2001),
Quá trình nhận thức của Đảng về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội trên
miền Bắc những năm 1954-1975; Luận án Tiến sĩ sử học của Lê Kim Việt,
(2002), Công tác vận động nông dân của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công

10


nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước; Luận án Tiến sĩ Triết học Nông Văn Kế
(2008), Đặc điểm Hội nông dân Việt Nam và tác động của nó đến việc xây
dựng đội ngũ cán bộ Hội hiện nay.
Các luận văn, luận án nêu trên, đã nghiên cứu tổng thể công cuộc cải
cách ruộng đất và công cuộc xây dựng và phát triển XHCN ở miền Bắc từ
1954-1975, đánh giá thành tựu, rút ra những kinh nghiệm, dưới nhiều góc độ
khác nhau và làm rõ vai trò miền Bắc trong cuộc đấu tranh thống nhất nước

nhà. Trong các công trình đó cũng đã đề cập và trình bày một số vấn đề có
liên quan đến chủ trương chính sách của Đảng vận động nông dân miền Bắc
tiến hành cải cách ruộng đất, khôi phục, phát triển kinh tế nông nghiệp và chi
viện cho miền Nam. Tuy nhiên, trong hầu hết các công trình đã công bố, vấn
đề Đảng vận động nông dân miền Bắc giai đoạn 1954-1965 vẫn chưa được
quan tâm đúng mức, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ
thống, khoa học và toàn diện. Chính vì vậy, những thành tựu mà các công
trình trên đạt được là nguồn tài liệu, tư liệu quý để giúp tác tác giả tham khảo,
kế thừa trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ đề tài xác định, đối tượng nghiên cứu của luận văn là:
các chủ trương, chính sách về nông dân và công tác vận động nông dân miền
Bắc của Đảng giai đoạn 1954-1965, cũng như một số diễn biến chính của
phong trào nông dân miền Bắc trong giai đoạn này.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: xung quanh vấn đề nông dân, Đảng có nhiều chủ trương,
chính sách lớn, không chỉ trong vấn đề kinh tế, chính trị, mà cả trong vấn đề
văn hóa, xã hội… Trong phạm vi luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ tập trung
nghiên cứu chủ trương và giải pháp vận động nông dân miền Bắc của Đảng

11


trên một số lĩnh vực, như: trong cải cách ruộng đất và trong khôi phục, phát
triển kinh tế; trong phong trào hợp tác hóa, thực hiện cải tạo nông nông
nghiệp theo chủ nghĩa xã hội và trong việc thực hiện nhiệm vụ hậu phương
lớn chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Về thời gian: chủ yếu tập trung trong khoảng thời gian từ sau Hiệp định
Giơnevơ năm 1954 đến năm 1965. Tất nhiên, là một đề tài lịch sử, luận văn sẽ

mở rộng nghiên cứu đến trước năm 1954 để làm rõ một vài vấn đề cần thiết.
Về không gian: trên phạm vi toàn miền Bắc.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Từ thực tiễn vận động nông dân thời kỳ 1954-1965, luận văn góp phần
làm rõ thêm vai trò và vị trí của giai cấp nông dân miền Bắc, đồng thời khái
quát những ưu điểm, hạn chế, rút ra những kinh nghiệm chủ yếu trong công
tác vận động nông dân của Đảng.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp và hệ thống hóa nguồn tư liệu có liên quan đến đề tài nhất là
tư liệu lưu trữ.
- Làm rõ chủ trương vận động nông dân của Đảng trong CCRĐ, khôi
phục kinh tế, cải tạo nông nghiệp và làm nhiệm vụ chi viện cho miền Nam.
- Những diễn biến chính của phong trào nông dân, thành tựu, hạn chế và
những kinh nghiệm chủ yếu trong công tác vận động nông dân thời kỳ này.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1 Nguồn tư liệu nghiên cứu
- Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và Hồ Chí Minh về
vấn đề nông dân là tài liệu định hướng cho việc nghiên cứu đề tài.
- Các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nghị định của chính phủ, tài liệu
lưu trữ ở Cục lưu trữ quốc gia là nguồn tài liệu gốc để nghiên cứu.

12


- Các công trình của các viện: Viện Lịch sử Đảng, Viện Lịch sử Quân
sự, Viện Sử học Việt Nam là những tài liệu tin cậy.
- Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước có liên
quan đến đề tài đăng tải trên báo chí là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng.
5.2 Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
phương pháp luận của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp lịch sử và lôgic, ngoài ra
luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh…
6. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài
Luận văn trình bày một cách có hệ thống và tương đối toàn diện các chủ
trương chính sách của Đảng và quá trình tổ chức vận động nông dân miền
Bắc giai đoạn 1954-1965.
Góp phần làm rõ hơn vị trí, vai trò nông dân miền Bắc trong thắng lợi sự
nghiệp xây dựng bảo vệ miền Bắc XHCN và chi viện cho nhân dân miền
Nam kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Bước đầu khái quát ưu điểm và hạn chế, rút ra các bài học kinh nghiệm
từ công tác vận động nông dân của Đảng trong lịch sử góp phần thực hiện tốt
chủ trương vận động nông dân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3
chương và phần kết luận.
Chương 1: Đảng vận động nông dân miền Bắc giai đoạn 1954 - 1960
Chương 2: Đảng vận động nông dân miền Bắc giai đoạn 1961 - 1965
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm

13


Chương 1: ĐẢNG VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN MIỀN BẮC
GIAI ĐOẠN 1954-1960

1.1 Một số nét khái quát về công tác vận động nông dân của Đảng
1.1.1 Vai trò của nông dân Việt Nam trong lịch sử

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước với bao thế hệ,
bằng sức lao động sáng tạo của mình, giai cấp nông dân có vai trò đặc biệt
quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Không chỉ là đội
quân chủ lực trên mặt trận đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc
mà họ chính là những chủ nhân đầu tiên khai phá, mở mang bờ cõi, xây đắp
nên một nền văn hiến độc đáo, giàu bản sắc dân tộc với những giá trị văn hóa
tinh thần phong phú và bền vững của dân tộc Việt Nam
Trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử, giai cấp nông dân cũng vừa đóng
vai trò là lực lượng chủ yếu cung cấp nguồn nhân lực, vật lực cho các cuộc
kháng chiến, vừa là người tổ chức chiến đấu ngay tại quê hương mình, biến
mỗi làng xã, thôn, ấp thành pháo đài kiên cố, hình thành thế trận chiến tranh
nhân dân trong các cuộc kháng chiến chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ độc
lập dân tộc.
Về vai trò của nông dân, C.Mác cho rằng: nếu giai cấp công nhân không
liên minh được với giai cấp nông dân thì bài ca cách mạng của họ sẽ trở thành
bài “ai điếu”. Và V.I.Lênin mở rộng, khẳng định thêm: nếu giai cấp công
nhân không được giai cấp nông dân ủng hộ, chỉ một mình đơn độc chống kẻ
thù thì chắc chắn sẽ thất bại. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cha ông ta
nhờ thấy rõ được vai trò và sức mạnh to lớn của nhân dân, dựa vào dân, yêu
thương dân, đã biết phát huy truyền thống “cố kết cộng đồng” và “đoàn kết
toàn dân” nhằm tạo nên sức mạnh của cả dân tộc và rút ra được những luận
điểm quan trọng như: “khoan thư sức dân đó là kế sâu bền gốc rễ, đó là

14


thượng sách giữ nước” (Trần Hưng Đạo), hay “Chở thuyền cũng là dân, lật
thuyền cũng là dân” ( Nguyễn Trãi)…
Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta đã xác định nông dân là lực lượng đông đảo nhất của phong trào dân

tộc, là cơ sở cho các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, có gắn bó mật thiết
với giai cấp công nhân, lại chịu ách áp bức của thực dân Pháp và tay sai
(phong kiến và địa chủ) nên sẵn sàng đứng lên cùng giai cấp công nhân tiến
hành cách mạng dân tộc, dân chủ. Đánh giá vai trò của giai cấp nông dân Việt
Nam trong cách mạng, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng khẳng
định: “Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về thực chất là cuộc cách
mạng của nông dân do giai cấp công nhân lãnh đạo” [90, tr.13].
Xác định vai trò rất quan trọng của giai cấp nông dân trong tiến trình
cách mạng nước ta, trong đường lối lãnh đạo của Đảng luôn luôn coi trọng
vấn đề vận động nông dân là vấn đề chính và cấp thiết nhất.
1.1.2 Công tác vận động nông dân của Đảng trong tiến trình cách
mạng
Công tác dân vận là một trong những hoạt động quan trọng của Đảng
nhằm tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, tổ chức các phong trào
cách mạng của nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, “Dân vận là vận động tất cả lực
lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực
lượng toàn dân để thực hành những công việc nên làm, những công việc của
Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho” [104, tr. 698]. Như vậy, công tác dân vận
là sự kết hợp giữa công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục với công tác tổ
chức, xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng phong trào quần chúng.

15


Công tác dân vận bao gồm nhiều bộ phận, như: Công tác vận động công
nhân, trí thức, thanh niên, phụ nữ… trong đó, công tác vận động nông dân là
một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác dân vận của Đảng.
Từ đó, có thể hiểu: công tác vận động nông dân của Đảng là một hoạt
động nhằm tuyền truyền, giáo dục, nâng cao giác ngộ cách mạng, ý thức

chính trị cho nông dân; tập hợp thu hút nông dân và tổ chức các phong trào
nông dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước;
là quá trình xác lập mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân. Nhận định về tầm quan trọng của công tác dân vận, Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Vận động nông dân là phải vận thế nào cho toàn thể nông
dân động, nghĩa là: làm cho nông dân hiểu rõ quyền lợi của dân tộc và của
giới mình, làm cho nông dân vào Hội nông dân cứu quốc cho đông để phấn
đấu cho mục đích của mình và tích cực tham gia công cuộc kháng chiến kiến
quốc” [104, tr. 711].
Như vậy, nội hàm của khái niệm vận động nông dân của Đảng bao gồm:
- Tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, nâng cao giác ngộ cách mạng, ý
thức chính trị cho nông dân. Giải thích cho nông dân hiểu được đường lối chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hiểu được nghĩa vụ,
trách nhiệm, và quyền lợi của mình.
- Tập hợp, thu hút lực lượng nông dân tham gia các tổ chức cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với giai
cấp nông dân. Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, khối liên minh công nhân nông dân - trí thức vững chắc.
- Tổ chức các phong trào hành động cách mạng của nông dân thực hiện
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng.
Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nông vận là phải:
- Tổ chức nông dân thật chặt chẽ.

16


- Đoàn kết nông dân thật khăng khít.
- Huấn luyện nông dân thật giác ngộ.
- Lãnh đạo nông dân hăng hái đấu tranh cho lợi ích của nông dân, của tổ
quốc” [104, tr. 710].
Công tác vận động nông dân là trách nhiệm chủ yếu và trực tiếp của các

cấp ủy và tổ chức đảng. Khi chưa có chính quyền, các tổ chức đảng tiến hành
vận động nông dân thông qua cương lĩnh hoạt động, qua đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng. Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải tìm mọi cách tuyên
truyền, giáo dục, thuyết phục, giải thích cho nông dân hiểu đường lối chủ
trương, chính sách của Đảng, tự nguyện, tự giác đi theo Đảng. Còn khi có
chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị. Vì
vậy, Đảng tiến hành vận động nông dân thông qua toàn bộ hoạt động của hệ
thống chính trị, bao gồm các tổ chức Đảng, bộ máy chính quyền các cấp, các
đoàn thể nhân dân và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, pháp luật của Nhà
nước.
Trong tiến trình cách mạng nước ta, Đảng và Bác Hồ đã vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, giải quyết đúng vấn đề nông dân và luôn coi trọng
công tác vận động nông dân, do đó đã sớm xây dựng được khối liên minh
công nông vững chắc, tạo thành đội quân chủ lực của cách mạng, là một trong
những nhân tố quyết định tạo nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng
Tám (1945), thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN và trong công
cuộc đổi mới đất nước.
Nhìn lại quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng có thể rút ra bài học về
công tác vận động nông dân như sau:
Thứ nhất, phải đánh giá đúng vai trò to lớn của giai cấp nông dân trong
cách mạng.

17


Thứ hai, muốn phát huy vai trò của nông dân trong cách mạng phải tập
hợp nông dân vào một tổ chức của nông dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ ba, phải luôn luôn chăm lo đến lợi ích thiết thân của giai cấp nông
dân.

Thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã cho thấy, trong các
chủ trương đường lối của Đảng đã đáp ứng được yêu cầu và lợi ích thiết tha
của giai cấp nông dân nên họ một lòng tin theo Đảng, liên minh chặt chẽ với
giai cấp công nhân, là động lực thúc đẩy cách mạng giành thắng lợi. Ngược
lại, nếu nguyện vọng của người nông dân không được giải quyết tốt thì tinh
thần cách mạng của nông dân không những bị suy giảm mà phong trào cách
mạng cũng gặp khó khăn. Vì vậy, những bài học cách mạng trên đây về công
tác vận động nông dân của Đảng trong tiến trình cách mạng có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn sâu sắc đối với cuộc vận động nông dân miền Bắc của Đảng giai
đoạn 1954-1965 của Đảng nói riêng và trong thời kỳ đổi mới đất nước nói
chung.
1.2 Chủ trương vận động nông dân miền Bắc tiến hành cách mạng
ruộng đất, thực hiện kế hoạch 3 năm khôi phục và phát triển kinh tế
1954-1957
1.2.1 Tình hình kinh tế - xã hội miền Bắc và chủ trương của Đảng
1.2.1.1 Tình hình kinh tế xã hội miền Bắc
Chiến thắng đông xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên
Phủ của nhân dân Việt Nam buộc chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ.
Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới: miền Bắc quá độ lên
CNXH, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và các lực lượng tay sai thống trị.
Sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ của nhân dân trên cả nước còn chưa
hoàn thành. Nhân dân ta vừa phải lo hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi
phục kinh tế, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, vừa phải tiếp tục đẩy mạnh

18


cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thực hiện hòa
bình thống nhất đất nước.
Bước vào giai đoạn lịch sử mới, nông dân miền Bắc đứng trước một bối

cảnh lịch sử có những thuận lợi mới và những khó khăn mới.
Thuận lợi mới rất cơ bản là trải qua chín năm chiến đấu dũng cảm kiên
cường của nhân dân ta, miền Bắc đã có hòa bình và được hoàn toàn giải
phóng khỏi chủ nghĩa thực dân, nhân dân có quyền làm chủ đất nước nên rất
phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm khắc phục mọi khó
khăn để bắt tay ngay vào công việc kiến thiết đất nước và khôi phục kinh tế:
chống đói, khai hoang phục hóa, khôi phục lại các xí nghiệp, khôi phục lại hệ
thống giao thông vận tải, phát triển văn hóa giáo dục, y tế, củng cố chính
quyền cách mạng vững mạnh đủ sức quản lý, điều hành công cuộc xây dựng
CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Trên thế giới, hệ thống XHCN ngày càng phát triển. Liên Xô, Trung
Quốc phát triển mạnh mẽ và tiếp tục giúp đỡ nhân dân ta trong giai đoạn cách
mạng mới. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, uy tín chính trị của Việt Nam trên
trường quốc tế ngày càng được khẳng định, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế
giới hết lòng ca ngợi và ủng hộ cách mạng Việt Nam. Những thuận lợi căn
bản đó đã cổ vũ, động viên nhân dân ta phát huy truyền thống yêu nước đấu
tranh chống ngoại xâm và khôi phục và phát triển kinh tế, đưa miền Bắc đi
lên CNXH.
Tuy nhiên, miền Bắc bước vào giai đoạn lịch sử mới trong hoàn cảnh đất
nước có những khó khăn rất gay gắt về nhiều mặt của một xã hội vốn là thuộc
địa, nửa phong kiến, vừa trải qua cuộc kháng chiến kéo dài chín năm và đang
chuyển sang giai đoạn cách mạng mới. Trước đó, cùng với các dân tộc trên
thế giới, Việt Nam cũng phải gánh chịu những hậu quả tàn khốc của cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ hai do chủ nghĩa phát xít gây ra. Vì thế, nền kinh

19


tế vốn đã lạc hậu hàng trăm năm so với các nước tư bản chủ nghĩa, nay lại bị
chiến tranh tàn phá nặng nề. Sau năm 1954, giai cấp nông dân miền Bắc dưới

sự lãnh đạo của Đảng đã bắt tay vào công cuộc xây dựng CNXH trước những
thử thách nhất định của một nền kinh tế suy sụp, đổ nát do thực dân Pháp gây
ra.
Nông nghiệp, ngành kinh tế chủ yếu, nguồn sống chính của nhân dân
miền Bắc bị thiệt hại nghiêm trọng. 1.430.000 ha ruộng bị bỏ hoang chiếm
14,3% diện tích canh tác. Tám công trình đại thủy nông và nhiều công trình
vừa và nhỏ bị phá hủy [99, tr. 54]. Phần lớn ruộng đất chỉ làm 1 vụ, năng suất
rất thấp. Trâu bò sức kéo chủ yếu trong nông nghiệp thì hàng vạn con bị giết
hại, trong khi đó (năm 1954) miền Bắc chưa có máy kéo. Kỹ thuật canh tác
hết sức thô sơ, lạc hậu. Những đồng bào công giáo bị dụ dỗ ép di cư vào Nam
để lại hàng chục nghìn ha ruộng đất bị bỏ hoang. Trong điều kiện đó nạn đói
xảy ra nghiêm trọng. Tháng 10-1954, có tới gần nửa triệu người bị đói, ảnh
hưởng trực tiếp đến tiến độ, hiệu quả khôi phục sản xuất và trật tự an toàn xã
hội.
Công nghiệp và thủ công nghiệp miền Bắc vốn nhỏ bé, lạc hậu lại bị
thiệt hại nặng nề trong chiến tranh. Phần lớn các nhà máy, xí nghiệp không
hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng. Gần 50% kho tàng, công sở bị phá
hoại. Khi ta vào tiếp quản Hà Nội chỉ còn nhà máy điện, nhà máy nước tiếp
tục hoạt động. Nền công nghiệp do Pháp để lại vừa ít ỏi, lại lạc hậu về kỹ
thuật và thiếu hẳn các ngành then chốt của công nghiệp nặng.
Giao thông vận tải, mạch máu chính của nền kinh tế quốc dân hầu như
bị ngừng trệ. Chỉ có 102 km tuyến đường sắt Hà Nội – Hải Phòng hoạt động,
còn 1153km đường sắt các tuyến khác bị phá hủy. Đường ôtô hầu hết bị phá
hoại cùng 3500 cây cầu lớn, nhỏ trên các tuyến bị phá sập. Đường thủy cũng
trong tình trạng bị ngừng trệ do lâu ngày không được nạo vét, nhất là các cảng

20


sông, cảng biển; các phương tiện vận tải đường sắt, đường bộ, đường thủy hư

hỏng, cũ nát, thiếu phụ tùng thay thế nên năng lực vận tải không lớn. Giao
thông vận tải ách tắc, tê liệt, làm cho xã hội và các ngành kinh tế vốn đã khó
khăn lại càng trở nên tiêu điều do không vận chuyển, lưu thông được.
Thương nghiệp bị đình đốn, các hoạt động đầu cơ, nâng giá, lũng loạn
thị trường diễn ra phổ biến. Nhà nước mới nắm được 40,5% khối lượng hàng
hóa bán buôn và 22,5% hàng bán lẻ. Sản xuất ngừng trệ, lưu thông phân phối
khó khăn, hàng hóa khan hiếm. Tiền tệ chưa thống nhất, nền kinh tế quốc dân
ở miền Bắc mất cân nghiêm trọng.
Xã hội miền Bắc sau khi Pháp rút đi không mấy thuận lợi cho khôi phục
kinh tế. Đời sống nhân dân rất khó khăn, nhiều người lâm vào cảnh đường
cùng, không có việc làm, số người không biết chữ đông, trình độ khoa học kỹ
thuật thấp. Năm 1955, miền Bắc mới có 30 kỹ sư và cán bộ kỹ thuật, cơ sở y
tế thấp kém, năm 1955 chỉ có 115 bác sĩ, 3796 y sĩ, 78 cơ sở điều trị [92, tr.
56]. Thực dân Pháp còn lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để gây thêm
những khó khăn phức tạp, chia rẽ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tình
hình đó ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế miền
Bắc sau chiến tranh.
Mặt khác, thực dân Pháp và tay sai ra sức phá hoại miền Bắc. Chúng cài
gián điệp, đốt phá kho tàng, phá hoại những công trình công cộng, những di
tích lịch sử và văn hóa (như chùa Một Cột - Hà Nội, cầu Phủ Lạng Thương Bắc Giang, nhà máy nhiệt điện Uông Bí…). Chúng vơ vét tài sản vật tư, tháo
dỡ máy móc thiết bị, mang theo hoặc hủy hoại hồ sơ, tài liệu gây khó khăn
cho ta trong việc kiểm kê, điều hành công việc và hoạt động sau này. Chúng
đóng cửa nhà máy, hãng buôn, công sở, trường học, làm cho sinh hoạt ở thành
phố, thị xã ngừng trệ. Chúng còn tung tin xuyên tạc, bôi nhọ chế độ miền Bắc,
bịa đặt tin “Chính phủ Việt Minh cấm đạo”, “Chúa đã vào Nam”… để dụ dỗ,

21


cưỡng bức gần một triệu đồng bào di cư vào Nam. Ở miền núi, chúng tổ chức

nhiều nhóm thổ phỉ hoạt động gây rối ở Hoàng Xu Phì, Xin Chải, Chiềng Lao
thuộc vùng Tây Bắc; Hoành Bồ, Ba Chẽ thuộc vùng Đông Bắc. Những âm
mưu và thủ đoạn đó làm cho miền Bắc vốn đã kiệt quệ, xơ xác, tiêu điều do
chiến tranh nay lại càng khó khăn hơn.
Tóm lại, sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, xây dựng chế độ mới với
đặc điểm lớn nổi lên là đất nước tạm thời chia làm hai miền với hai chế độ
chính trị - xã hội khác nhau. Đứng trước những nhiệm vụ mới mẻ, khó khăn,
phức tạp, Đảng đã sớm nhận thức được những yêu cầu khách quan của công
việc khôi phục kinh tế miền Bắc sau chiến tranh, tích cực chuẩn bị xây dựng
miền Bắc vững mạnh về mọi mặt làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất
nước nhà và đưa cả nước đi lên CNXH.
1.2.1.2 Chủ trương của Đảng vận động nông dân tiến hành CCRĐ và
khôi phục kinh tế
Cho đến giữa thập niên 50, miền Bắc về căn bản vẫn là một xã hội
phong kiến. Quan hệ sản xuất chủ yếu duy trì trong nông nghiệp là Phát canhthu tô. Nông dân là giai cấp chiếm đa số trong xã hội (90%). Tuy nhiên, họ
chỉ sở hữu khoảng 3/10 ruộng đất. Trong khi đó, 7/10 ruộng đất còn lại nằm
trong tay địa chủ là giai cấp chỉ chiếm chưa đầy 5% dân số.
Chính sách giảm tô, thoái tô do Chính phủ tiến hành ở vùng tự do có làm
cho cuộc sống của nông dân trở nên dễ thở hơn. Tuy vậy, trên thực tế mâu
thuẫn Nông dân - địa chủ vẫn còn nặng nề, vì vấn đề mấu chốt của mâu thuẫn
này là sở hữu ruộng đất vẫn chưa được giải quyết. Tại hội Nghị Trung ương
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (1-1953), dự thảo cương
lĩnh CCRĐ được hình thành. Đảng đã quyết định tiến hành CCRĐ ngay mà
không chờ kết thúc chiến tranh. Lý do là kháng chiến có thể còn kéo dài,

22


Đảng muốn đưa cách mạng tới thắng lợi cuối cùng phải dựa vào sức mạnh

của giai cấp nông dân.
Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (111953), Đảng đã bổ sung, hoàn chỉnh chủ trương trên. Tháng 12 năm 1953,
Quốc hội thông qua Luật CCRĐ và tiến hành làm thí điểm ở 6 xã thuộc huyện
Đại Từ (Thái Nguyên) từ tháng 12/1953 đến tháng 3/1954.
Trong phiên họp ngày 15/3/1954, Hội đồng Chính phủ đã thông qua
quyết định thành lập Ủy ban CCRĐ Trung ương với một Chủ nhiệm (Phạm
Văn Đồng - Phó Thủ tướng), ba Phó Chủ nhiệm (Trường Chinh - Tổng Bí
thư, Nghiêm Xuân Yêm - Bộ trưởng Bộ Canh nông, Hồ Viết Thắng - Thứ
trưởng Bộ Canh nông) cùng 16 ủy viên.
Chính sách cơ bản CCRĐ:
- Triệt để thu không bồi thường ruộng đất của đế quốc và Việt gian.
- Trưng thu ruộng đất công.
- Trưng mua ruộng đất của địa chủ không hợp tác với địch, để lại cho họ
một phần để tự làm mà sống.
- Đối với địa chủ mà nông dân yêu cầu tịch thu không bồi thường thì
Chính phủ xét và phê chuẩn.
- Địa chủ nào phản đối sẽ bị đánh đổ.
- Không đụng chạm đến phú nông.
- Ruộng tôn giáo thì tùy trường hợp mà trưng mua, trưng thu hay tịch
thu. Tuy nhiên trong mọi trường hợp đều để lại một phần để thờ cúng.
- Ruộng đất thu được chia hẳn cho nông dân không có đất hoặc có ít đất,
tùy nhân khẩu mỗi gia đình [52, tr. 56].
Hòa bình lập lại, miền Bắc bước vào đợt giảm tô thứ 6 và CCRĐ lần thứ
hai. Do ảnh hưởng Hiệp định Giơnevơ, luật CCRĐ thời kỳ này có một số thay
đổi.

23


Nghị quyết của Bộ Chính trị (9-1954), xác định: chia ruộng đất cho nông

dân, xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của địa chủ là chính sách bất di, bất dịch
của Đảng. Nông dân chiếm đa số trong nhân khẩu nước ta. Nếu không được
nông dân ủng hộ một cách trung thành thì không củng cố được nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, không những chiến tranh mà trong thời bình cũng
thế [55, tr.297]. Về mối quan hệ giữa CCRĐ và khôi phục kinh tế, Nghị quyết
chỉ rõ: “Nếu không thực hiện việc tiêu diệt chế độ chiếm hữu ruộng đất của
địa chủ thì không thể tạo điều kiện căn bản để phục hồi và phát triển kinh tế”
[55, tr.297]. Tuy nhiên, trước tình hình mới Bộ Chính trị đưa ra chủ trương
“phải sửa đổi một vài điểm trong Luật CCRĐ và trong phương thức thi hành
luật đó” [55, tr. 297]
Đối với ruộng đất phát canh của phú nông có thể đặt vấn đề trưng mua
ở nơi nào cần thiết để cho bần, cố nông có thêm ruộng đất. Nhưng trưng mua
ruộng đất của phú nông cần khác biệt với trưng mua ruộng đất của địa chủ.
Về vấn đề thời gian và yêu cầu hoàn thành CCRĐ ở vùng tự do cũ
trước đã quy định, nay cũng cần phải điều chỉnh. Bộ Chính trị cho rằng, nếu
kéo dài thời gian CCRĐ sẽ không có lợi cho việc củng cố hoà bình, phục hồi
kinh tế, đẩy mạnh sản xuất. Do vậy cần phải rút ngắn thời gian CCRĐ, phấn
đấu trong vòng hai năm hoàn thành CCRĐ ở vùng ta kiểm soát - miền Bắc
(không kể vùng dân tộc thiểu số).
Đến cuối năm 1954, Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng còn
ra nhiều chỉ thị hướng dẫn một số vấn đề cụ thể trong công tác CCRĐ, như:
Chỉ thị ngày 3/11/1954 của Bộ Chính trị: “Về mấy vấn đề cần chú ý trong khi
xử trí bọn địa chủ có tội ác trong phát động quần chúng giảm tô và CCRĐ”;
Chỉ thị ngày 7/12/1954 của Ban Bí thư: “Về việc chỉnh đốn chi bộ nông thôn
trong CCRĐ”...

24


Căn cứ vào chủ trương của Đảng, tháng 9/1954, Uỷ ban CCRĐ Trung

ương ra Nghị quyết về: “Đẩy mạnh phát động quần chúng thực hiện CCRĐ”
được Hội đồng Chính phủ thông qua. Trong Nghị quyết này có một số sửa đổi
bổ sung, như: rút khẩu hiệu “đánh đổ Việt gian phản động”, thay bằng khẩu
hiệu “đánh đổ địa chủ cường hào gian ác”, thu hẹp diện đấu tranh, sửa đổi
phương pháp đấu tranh, tăng cường tác dụng của toà án nhân dân... và ngày
1/3/1955, Chính phủ đã ban hành Điều lệ phân định thành phần giai cấp ở
nông thôn, đưa ra các tiêu chuẩn quy định thành phần các giai cấp, như địa
chủ, phú nông, trung nông, bần và cố nông. Đây là khâu đặc biệt quan trọng,
khâu then chốt trong CCRĐ.
- Địa chủ là những người chiếm hữu nhiều ruộng đất, tự mình không
tham gia lao động chính hoặc chỉ tham gia lao động phụ, nguồn sống chính
nhờ vào bóc lột nông dân theo lối phát canh thu tô hoặc thuê người làm. Địa
chủ có người kiêm cho vay lãi, kiêm công thương nghiệp, nhưng cách bóc lột
chính và thông thường của địa chủ là phát canh thu tô.
- Phú nông là những người chiếm nhiều ruộng đất, tự mình tham gia lao
động chính, nhưng nguồn sống chính vẫn dựa vào lao động thuê hoặc thu tô.
Những người có ít ruộng nhưng lĩnh canh rồi cho thuê cũng xếp vào phú
nông.
- Trung nông: có ruộng đất đủ để sống, không bóc lột, cũng không đi
làm thuê.
- Bần nông: thiếu ruộng đất, phải lĩnh canh, nộp tô
- Cố nông: không có ruộng đất, phải bán sức lao động để sống.
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 3-1955),
chủ trương căn bản hoàn thành CCRĐ trước tháng 7-1956. Một phần tư cán
bộ trong biên chế của Đảng và Nhà nước được huấn luyện, bồi dưỡng tăng

25



×