Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Đảng bộ tỉnh phú thọ lãnh đạo phát triển công nghiệp địa phương nam 1997 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

BÙI THANH PHƯƠNG
`

ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO PHÁT
TRIỂN
CÔNG NGHIỆP ĐỊA PHƯƠNG NHỮNG NĂM
1997-2009

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


Hà Nội, 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

BÙI THANH PHƯƠNG

ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO PHÁT
TRIỂN
CÔNG NGHIỆP ĐỊA PHƯƠNG NHỮNG NĂM
1997-2009

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sảnViệt Nam
Mã số: 60 22 56


Người hướng dẫn khoa học: PGS. NGND. Lê Mậu Hãn

Hà Nội, 2012


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia, công nghiệp là ngành có vị trí quan
trọng hàng đầu, có ảnh hưởng quyết định nhất đến trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đến tình hình kinh tế -xã hội. Đối với các quốc gia đang phát triển
thì vai trò của công nghiệp ngày càng to lớn, trở thành đại diện của một nền kinh
tế hiện đại.
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ.
Đường lối công nghiệp hóa đã được Đảng đề ra từ Đại hội III, IV và nhất là Đại hội
VI- khi đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới- thì nhiệm vụ công nghiệp hóahiện đại hóa lại được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Qua các kì Đại hội VII, VIII, IX, X,
XI nhiệm vụ đó ngày càng được nhận thức chính xác hơn và được cụ thể hóa thêm
cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước ta trong từng thời kì.
Phú Thọ là vùng đất có vị thế quan trọng về địa lí chính trị và an ninh quốc
phòng. Với trọng điểm công nghiệp Việt Trì, tỉnh đã sớm trở thành một trong những
trung tâm kinh tế công nghiệp đầu tiên của miền Bắc. Chính vì vậy, sự phát triển
của công nghiệp địa phương Phú Thọ trong thời kì quá độ có ý nghĩa quan trọng
không chỉ đối với vùng Đông Bắc Bộ, mà đối với cả sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước nói chung cũng như sự phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn
tỉnh nói riêng.
Xác định rõ vị thế của công nghiệp địa phương đối với tỉnh, Đảng bộ Phú
Thọ ngay từ khi mới ra đời đã đưa ra các chủ trương, chính sách nhằm đẩy nhanh
tốc độ phát triển của ngành kinh tế này, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ kinh tế- xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra.

Tìm hiểu quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo phát triển công nghiệp địa
phương từ năm 1997-2009 chính là nhằm tái hiện lại hành trình thực hiện các chủ
trương phát triển kinh tế công nghiệp nói chung và công nghiệp địa phương nói
riêng mà Đảng và Nhà nước đã đề ra của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh.
Từ đó thấy được những thành tựu quan trọng cũng như những cơ hội và thách thức
1


mà Đảng bộ tỉnh đã trải qua để đưa công nghiệp Phú Thọ vững bước đi lên. Qua đó
làm nổi bật lên những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện công nghiệp
hóa- hiện đại hóa, phát triển kinh tế -xã hội ở địa phương; cũng là tái dựng lại một
góc của bức tranh sôi động: Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa- hiện đại hóa.
Từ ý nghĩa trên, chúng tôi chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo
phát triển công nghiệp địa phương những năm 1997-2009” làm đề tài luận văn
Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề phát triển công nghiệp nói chung và công nghiệp địa phương nói riêng
luôn được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, các cơ quan và các địa phương cũng
như sự nghiên cứu, tìm hiểu của các nhà khoa học ở nhiều khía cạnh, góc độ khác
nhau, góp phần quan trọng vào quá trình tổng kết lịch sử Đảng lãnh đạo xây dựng,
phát triển sản xuất công nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
Trong thời gian qua, đứng trước công cuộc đổi mới của Đảng, đặc biệt là khi
nước ta tiến hành công nghiệp hóa- hiện đại hóa, mở cửa giao lưu hội nhập kinh tế
quốc tế thì đã có rất nhiều các công trình của các cơ quan, các nhà quản lí, các cá
nhân… nghiên cứu, đề cập đến các vấn đề về phát triển kinh tế công nghiệp Việt
Nam. Các nhà khoa học Việt Nam đề cập đến các nội dung về công nghiệp thông
qua nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài, tổng kết kinh nghiệm trong quá trình
thực hiện công nghiệp hóa như: “Kinh tế học phát triển về công nghiệp hóa và cải
cách nền kinh tế” (Đỗ Đức Định, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004);
“Một số vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” (Đỗ Hoài Nam, Nhà

xuất bản Khoa học xã hội, 2003); “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: phác
thảo lộ trình” (Trần Đình Thiên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002)...
Tuy nhiên, các vấn đề về công nghiệp địa phương nói chung chủ yếu chỉ được phản
ảnh bởi các nhà nghiên cứu kinh tế và thường giới hạn trong một địa phương cụ thể
như: luận án tiến sĩ kinh tế “Chính sách phát triển công nghiệp tại địa phương
(nghiên cứu áp dụng với tỉnh Bắc Ninh)” của Bùi Vĩnh Kiên, năm 2009; hoặc khá
tản mạn trong các bài viết... Nhìn chung, chưa có một công trình nào thực sự mang
tính khoa học về vấn đề vai trò cũng như sự lãnh đạo của Đảng với việc phát triển
công nghiệp địa phương.

2


Ở tỉnh Phú Thọ, mặc dù công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng, nhận được
sự quan tâm và chú ý đầu tư của các cấp, các ngành song chưa có một công trình
nào thực sự mang tính chuyên môn về quá trình Đảng bộ tỉnh lãnh đạo phát triển
công nghiệp địa phương từ năm 1997 đến năm 2009. Vấn đề chủ yếu được phản
ảnh trong các báo cáo trình Đại hội Đảng bộ tỉnh, các chuyên đề, kế hoạch, kết luận
của Tỉnh ủy… là những tư liệu chưa được phổ biến rộng rãi.
Vì vậy, đây là công trình đầu tiên có tính khái quát và hệ thống về quá trình
lãnh đạo phát triển công nghiệp địa phương của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong thời
gian 1997-2009.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo phát triển công nghiệp
địa phương những năm 1997-2009” nhằm tìm hiểu một cách hệ thống về sự lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Phú Thọ trong phát triển công nghiệp
địa phương từ năm 1997 đến năm 2009. Từ đó đánh giá những thành tựu và hạn chế
của Đảng bộ tỉnh khi làm nhiệm vụ lãnh đạo phát triển công nghiệp địa phương và
góp phần làm rõ thêm quá trình thực thi, đường lối chính sách công nghiệp của

Đảng trong lịch sử.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở những tài liệu thu thập được về quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ
lãnh đạo phát triển công nghiệp địa phương những năm 1997-2009, luận văn hướng
đến giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, trình bày một cách khách quan, toàn diện những chủ trương, chính
sách và quá trình lãnh đạo phát triển công nghiệp địa phương của Đảng bộ tỉnh
trong thời gian từ năm 1997 đến năm 2009. Qua đó, thấy được những thuận lợi
cũng như khó khăn, thử thách mà tỉnh đã phải trải qua để đẩy nhanh sự phát triển
của ngành kinh tế này trong từng thời kì.
Thứ hai, nêu lên những kết quả đạt được, rút ra nhận xét, đánh giá và bài học
kinh nghiệm; bước đầu nêu lên phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế công
nghiệp tại địa phương của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.

3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung vào những đối tượng nghiên cứu sau: Những chủ trương và
biện pháp của Đảng bộ Phú Thọ nhằm phát triển công nghiệp địa phương; Quá trình
thực hiện những chủ trương, biện pháp này và kết quả đạt được.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt thời gian: từ năm 1997 đến năm 2009, có khảo sát thêm những năm
từ 1968-1997.
- Về không gian:
Tỉnh Phú Thọ từ sau khi tái lập, tức là từ năm 1997. Do vị thế chính trị cũng
như vai trò kinh tế của tỉnh Phú Thọ đối với khu vực Đông Bắc bộ và Đồng bằng Sông
Hồng nên trong khi tái hiện quá trình Đảng bộ Phú Thọ lãnh đạo phát triển công nghiệp
địa phương, luận văn cũng sẽ phản ảnh các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà

nước đối với phát triển công nghiệp địa phương.
5. Nguồn tư liệu, cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
* Nguồn tư liệu
Nguồn tài liệu chính của luận văn là các kế hoạch, chương trình, các đề án,
báo cáo tổng kết về tình hình phát triển công nghiệp; số liệu thống kê hàng năm,
thường kì, niên giám thống kê, các tư liệu lưu trữ, tạp chí, ấn phẩm ngành của các
cơ quan, ban ngành trong tỉnh Phú Thọ; chủ yếu được khai thác tại Kho lưu trữ Tỉnh
ủy, Sở Công thương Phú Thọ, Cục Thống kê Phú Thọ và Tuyên giáo Tỉnh ủy.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng tư liệu từ các sách, tạp chí đã xuất bản ở
Trung ương và địa phương, đặc biệt là các sách viết về chủ trương, chính sách phát
triển công nghiệp của Đảng và Nhà nước như: Văn kiện các kì Đại hội Đảng lần thứ
VI, VII, VIII, IX, X, XI…, các văn bản của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân tỉnh trong các năm từ 1997 đến 2009 và các năm trước đó.
* Phương pháp nghiên cứu
Với nội dung và phạm vi nghiên cứu như trên, luận văn sử dụng những
phương pháp truyền thống trong nghiên cứu lịch sử. Trong đó, chủ yếu là dùng
phương pháp lịch sử và phương pháp logic, phân tích và tổng hợp để làm rõ nội
dung nghiên cứu.

4


6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần trình bày rõ sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, có hiệu quả
của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về phát triển công nghiệp địa phương (1997-2009). Qua
đó làm rõ được bản lĩnh chính trị, tư duy sáng tạo, khả năng vận dụng linh hoạt và
những hạn chế, khiếm khuyết của Ban Chấp hành Đảng bộ Phú Thọ trong quá
trình lãnh đạo phát triển công nghiệp địa phương nói riêng và kinh tế địa phương
nói chung.
- Tổng kết, đúc rút kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ

lãnh đạo phát triển công nghiệp địa phương những năm 1997-2009 và làm rõ ý
nghĩa lịch sử, thực tiễn của kinh nghiệm đó, vận dụng vào quá trình đổi mới nền
công nghiệp đất nước.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3
chương chính:
Chương 1: Tổng quan về tỉnh Phú Thọ và chủ trương phát triển công nghiệp
địa phương Vĩnh Phú trước năm 1997.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo phát triển công nghiệp địa
phương từ năm 1997 đến năm 2009.
Chương 3: Một vài nhận xét và bài học kinh nghiệm

5


NỘI DUNG
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ PHÚ THỌ VÀ CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP ĐỊA PHƯƠNG VĨNH PHÚ TRƯỚC NĂM 1997
1.1. Tổng quan về tỉnh Phú Thọ
1.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử
Phú Thọ là vùng đất cổ có bề dày lịch sử truyền thống và văn hiến, thường được
cả nước biết đến với tên gọi thân thương: “quê hương đất Tổ”. Là một tỉnh miền núi,
nhưng địa hình Phú Thọ vừa có tính chất miền núi, trung du, vừa có tính chất đồng
bằng. Đoạn sông Hồng chảy qua Phú Thọ (sông Thao) đã chia Phú Thọ thành hai miền
có những đặc điểm khác nhau và hình thành địa hình mang ba tính chất trên.
Về địa giới hành chính: Phú Thọ nằm ở phía Tây Bắc của thủ đô, trung tâm
của Bắc Bộ, trên đỉnh tam giác đồng bằng sông Hồng; phía Bắc giáp Tuyên Quang
và Yên Bái, phía Nam giáp Hà Tây và Hoà Bình, phía Tây giáp Sơn La và phía
Đông giáp Vĩnh Phúc.

Vùng đất Phú Thọ ngày nay, vào thời Hùng Vương, thuộc bộ Văn Lang, là
trung tâm kinh tế- chính trị của nhà nước Văn Lang. Nơi đây có một trong 3 “thủ đô
tự nhiên” của người Việt trong lịch sử (làng Cả ở Việt Trì- Phú Thọ, thành Chủ ở
Cổ Loa, Đại La ở Thăng Long). Xét về thời gian hình thành, vùng đất Phú Thọ đến
nay đã có trên 2000 năm tuổi.
Tiền thân của tỉnh Phú Thọ ngày nay chính là tỉnh Hưng Hoá. Ngày 5/5/1903
Toàn quyền Đông Dương ký nghị định chuyển tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Hoá lên làng
Phú Thọ thuộc tổng Yên Phú, huyện Sơn Vi và từ đây tỉnh Hưng Hoá đổi tên thành
tỉnh Phú Thọ. Tỉnh Phú Thọ cuối năm 1903 có 10 huyện: Tam Nông, Thanh Thuỷ,
Sơn Vi Thanh Ba, Phù Ninh, Cẩm Khê, Hạ Hoà, Hạc Trì, Hùng Quan, Ngọc Quan
và hai châu là Thanh Sơn, Yên Lập1.
Từ năm 1903 đến Cách mạng tháng Tám 1945, về cơ bản đơn vị hành chính trong
tỉnh không có thay đổi lớn, chỉ có thay đổi tên gọi phủ huyện và một số làng xã mới…
1

Đây là nghị định chuyển tỉnh lỵ chứ không phải quyết định thành lập tỉnh mới. Vì vậy, ngày thành lập tỉnh
Phú Thọ được tính từ ngày 8/9/1891 khi thành lập tỉnh Hưng Hoá mới

6


Ngày 4/6/1962, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 65 thành lập thành phố
Việt Trì- là trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị của tỉnh Phú Thọ.
Ngày 26/1/1968 Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết 504 hợp nhất hai
tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ thành Vĩnh Phú.
Tới ngày 6/11/1996, Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Nghị quyết:
“về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh”, trong đó có việc tái lập
tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Tỉnh Phú Thọ chính thức được tái lập vào ngày 1/1/1997.
Tỉnh Phú Thọ tái lập (1997) có diện tích tự nhiên là 3.465km2, dân số
1.261.900 người, mật độ dân số trung bình là 373 người/km2, gồm 21 dân tộc anh

em sinh sống, trong đó người Kinh chiếm đa số (1.1 triệu người). Toàn tỉnh có 12
huyện, thành, thị (thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ, 10 huyện: Thanh Sơn, Yên
Lập, Sông Thao, Tam Nông, Thanh Thuỷ, Hạ Hoà, Thanh Ba, Đoan Hùng, Lâm
Thao, Phù Ninh), 270 xã, phường, thị trấn.
Cho tới năm 2009, Phú Thọ có diện tích là 3532,5 ha (chiếm 1,2% diện tích
cả nước và chiếm 5,4% diện tích vùng trung du miền núi phía Bắc), dân số
1.316.659 người, với 13 đơn vị hành chính (thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ, 11
huyện: Thanh Sơn, Yên Lập, Sông Thao, Tam Nông, Thanh Thuỷ, Hạ Hoà, Thanh
Ba, Đoan Hùng, Lâm Thao, Phù Ninh, Tân Sơn).
Xét về diện tích và dân số, Phú Thọ là tỉnh có quy mô đứng vào loại trung
bình so với cả nước
1.1.2. Nguồn lực phát triển công nghiệp địa phương
a. Tài nguyên thiên nhiên cho phát triển công nghiệp địa phương
- Điều kiện địa lý tự nhiên
Phú Thọ có tọa độ địa lý 20O55’ - 21O43’ vĩ độ Bắc, 104O48’ - 105O27’ kinh
độ Đông, phía Bắc giáp Tuyên Quang, phía Nam giáp Hòa Bình, phía Đông giáp
Vĩnh Phúc và Hà Tây, phía Tây giáp Sơn La và Yên Bái. Đất Tổ nằm ở vị trí tiếp
giáp giữa Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc, là trung tâm tiểu vùng Tây
- Đông Bắc.
Với vị trí “ngã ba sông”, cửa ngõ phía Tây của thủ đô Hà Nội và địa bàn
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cầu nối các tỉnh đồng bằng Sông Hồng với các
tỉnh miền núi Tây Bắc và Đông Bắc. Hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông từ
các tỉnh phía Tây Đông Bắc đều qui tụ về Phú Thọ đi Hà Nội, Hải Phòng.
7


Quốc lộ 70 xuất phát từ thị trấn Đoan Hùng đi Yên Bái - Lào Cai sang Vân
Nam - Trung Quốc, tuyến này đang được nâng cấp để trở thành con đường chiến
lược Hà Nội - Hải Phòng - Côn Minh (Trung Quốc) cũng tạo nhiều cơ hội cho Phú
Thọ phát triển. Quốc lộ 32A nối Hà Nội - Trung Hà - Sơn La, quốc lộ 32B Phú Thọ

- Yên Bái với cầu Ngọc Tháp qua sông Hồng tại thị xã Phú Thọ là một phần của
đường Hồ Chí Minh, nhánh 32C thuộc hữu ngạn sông Hồng đi thành phố Yên Bái
cũng tạo ra thuận lợi để Phú Thọ giao lưu kinh tế, vận chuyển nguyên liệu và sản
phẩm công nghiệp với bên ngoài.
- Tài nguyên đất
Hiện nay, một trong những yếu tố làm hạn chế sự phát triển của công nghiệp
hiện đại chính là tài nguyên đất. Ở Hà Nội và một số tỉnh, thành khác, tốc độ gia
tăng dân số, tỉ lệ người nhập cư cao khiến nhu cầu về nhà ở cao, đất chuyên dụng
ngày một bị thu hẹp. Phú Thọ tuy là tỉnh có quy mô dân số không nhỏ nhưng đất đai
chưa trở thành nhu cầu quá đỗi cấp bách như ở các nơi khác.
Về cơ bản, đất đai ở tỉnh không chịu áp lực nặng nề của dân số. Tài nguyên
đất cho công nghiệp còn khá lớn, có nhiều khả năng để xây dựng các khu công
nghiệp tập trung, các nhà máy phục vụ cho các ngành công nghiệp, đặc biệt là các
ngành công nghiệp có hàm lượng kĩ thuật cao. Đây chính là một đặc trưng cơ bản
của nền công nghiệp hiện đại.
- Tài nguyên nước:
Có 3 con sông có lưu lượng nước rất lớn chảy qua địa bàn Phú Thọ là sông
Hồng, sông Đà và sông Lô. Đây là nguồn nước quan trọng đáp ứng cho nhu cầu sản
xuất và đời sống, đặc biệt là nước cho sản xuất công nghiệp. Hàng năm, các con
sông này còn bồi đắp một lượng phù sa màu mỡ cho đồng bằng ven sông. Với tổng
chiều dài trên 200km, Phú Thọ là tỉnh có mạng lưới giao thông đường thuỷ thuận
lợi, ngay cả mùa nước kiệt, các phương tiện tàu, thuyền, bè, mảng có sức chở trên
100 tấn vẫn hoạt động được.
Nếu được khai thác hợp lý, các điều kiện thuận lợi kể trên sẽ giúp cho Tỉnh
đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội và công nghiệp, đặc biệt là vận chuyển hàng hoá,
nguyên vật liệu phục vụ sản xuất công nghiệp.

8



- Về tài nguyên khoáng sản
Tính chất địa hình và cấu tạo địa chất đã tạo cho Phú Thọ khá nhiều khoáng
sản phân bố ở hầu khắp các huyện, nhưng tập trung ở các huyện phía hữu ngạn sông
Hồng. Nhìn chung, Phú Thọ không giàu về khoáng sản, nhưng lại có Cao lanh,
Fensphat, đá vôi, nước khoáng nóng là lợi thế để Phú Thọ phát triển công nghiệp
khai thác và chế biến khoáng sản, công nghiệp gốm sứ, xi măng và vật liệu xây
dựng. Phú Thọ lại không xa các trung tâm công nghiệp lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Hải
Dương) nên việc mở rộng liên doanh liên kết với các địa phương trên để phát triển
công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản là rất thuận lợi và cần thiết. Tuy
nhiên phần lớn khoáng sản còn hiện nay đều phân bố ở khu vực phía Tây của tỉnh
(hữu ngạn sông Hồng) nơi đang có hạ tầng yếu kém, nhất là giao thông nên việc đẩy
mạnh khai thác trước mắt sẽ gặp nhiều khó khăn.
b. Các nguồn lực kinh tế -xã hội
- Nguồn nhân lực:
Theo thống kê sơ bộ, dân số Phú Thọ năm 2009 là 1.316.659 người. Mật độ
dân số 373 người/km2. Dân cư phân bố không đồng đều, thành phố Việt Trì có mật
độ dân cư đông nhất 1.664,9 người/km2, thấp nhất là ở huyện Tân Sơn là 110,4
người/km2, Yên Lập 186,2người/km2 và huyện Thanh Sơn 189 người/km2.
Cơ cấu dân số nông thôn và thành thị: dân số nông thôn chiếm 84,6%; dân số
thành thị chiếm 15,4%. Với tỷ lệ này mức độ đô thị hoá của Phú Thọ là thấp so với
trung bình cả nước (25%) và vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ (gần 28%). Cơ cấu
dân số nam, nữ năm là 49,2 – 50,8%.
Năm 2005 lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân ước khoảng
675 nghìn người, chiếm 51,8% dân số của tỉnh. Số lao động đã qua đào tạo đạt
29,0%, trong đó có 17% là công nhân kỹ thuật.
Dự báo năm 2010 dân số của tỉnh khoảng 1.385 nghìn người và năm 2020
khoảng 1.479 nghìn người. Dân số trong độ tuổi lao động đến năm 2010 khoảng
820 nghìn lao động và năm 2020 có khoảng 880 nghìn lao động. Tốc độ tăng dân số
bình quân năm từ 2006 - 2010 khoảng 0,84%, thời kỳ 2011 -2020 khoảng 0,66%.
Toàn tỉnh có 1 trường đại học, 1 trường cao đẳng, 4 trường trung học chuyên nghiệp,

27 trường, trung tâm và cơ sở dạy nghề, 600 trường phổ thông các cấp với 6.600

9


sinh viên đại học, cao đẳng, 4.700 học sinh trung học chuyên nghiệp, 9.800 học sinh
học nghề và 307.000 học sinh phổ thông, bình quân 2.310 học sinh/vạn dân là điều
kiện rất thuận lợi cho việc đào tạo nghề và tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Phú Thọ là tỉnh có số dân tương đối đông, số người trong độ tuổi lao động
chiếm đa số. Đây chính là nguồn lao động dồi dào cho phát triển công nghiệp với cơ
cấu ngành đa dạng, đặc biệt là các ngành công nghiệp nặng- vốn là những ngành
công nghiệp đòi hỏi nguồn nhân lực lớn, đồng thời cũng là thế mạnh của tỉnh. Dân
số đông không chỉ tạo ra nguồn nhân lực dồi dào cho các ngành công nghiệp (nhất
là công nghiệp nặng và công nghiệp chế biến) mà còn là thị trường lớn để tiêu thụ
các sản phẩm công nghiệp.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, đặc điểm về dân số cũng gây ra không ít
khó khăn cho đảng bộ tỉnh trong việc đề ra chính sách thích hợp về nhân lực cho
công nghiệp địa phương. Hiện nay, tỉ lệ lao động trong ngành nông nghiệp còn khá
cao. Thêm vào đó, tỉnh đang thiếu những cán bộ quản lý doanh nghiệp giỏi và công
nhân, kỹ thuật lành nghề. Để đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn tới đòi hỏi lãnh đạo địa phương phải có
phương án cụ thế để phải khẩn trương đào tạo mới và đào tạo lại một đội ngũ lao
động kỹ thuật trong tỉnh.
- Cơ sở hạ tầng
Hệ thống giao thông:
Tổng chiều dài hệ thống đường bộ của tỉnh gần 10.000km, trong đó: 5 tuyến
quốc lộ với chiều dài qua tỉnh là 262 km, 31 tuyến đường tỉnh với chiều dài 730 km,
94 tuyến đường huyện dài 628 km, đường đô thị 95 km và đường liên xã, liên thôn
dài 7.245 km và đường chuyên dùng 278 km, 100% số xã có đường ôtô vào đến
trung tâm, 320km đường sông và gần 100km đường sắt.

Nhìn chung mạng lưới giao thông của tỉnh (đường bộ, đường sắt, đường
thủy) được phân bố tương đối đều và hợp lý, thuận tiện cho việc lưu thông hàng
hóa, hành khách nội, ngoại tỉnh. Tuy nhiên chất lượng đường bộ còn thấp, công
trình thoát nước chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được tốc độ lưu thông cao và
phương tiện vận tải lớn.

10


Tình hình phát triển thông tin liên lạc:
Hạ tầng thông tin liên lạc của tỉnh phát triển tương đối nhanh, đến 2005 đạt
8,2 máy điện thoại/100 dân, so với năm 2000 tăng gần 5 lần, dịch vụ Internet, hộp
thư thoại... được triển khai rộng khắp trên địa bàn. Chất lượng thông tin liên lạc
ngày càng tốt hơn, đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Hết năm 2004 đã
phủ sóng mạng điện thoại di động đến tất cả các trung tâm huyện. 100% các cơ
quan, doanh nghiệp ở tỉnh và huyện được trang bị máy tính, một số cơ quan tổng
hợp đã được nối mạng nội bộ.
Hệ thống điện, nước
Đối với phát triển công nghiệp nói chung và công nghiệp địa phương nói
riêng, điện nước là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu. Phú Thọ đã và
đang đảm bảo tương đối tốt vấn đề này. Hiện tại hệ thống đường dây trung thế, hạ
thế, trạm biến áp các loại đang từng bước được cải tạo, nâng cấp, thay thế và xây
dựng mới. Đến năm 2004 đã có 100% xã có điện lưới quốc gia, điện năng cung cấp
đạt trên 500KWh/người/năm, tăng 31,9% so với năm 2000. Tuy nhiên lưới điện
nông thôn nhiều xã chưa đảm bảo kỹ thuật, tiêu hao điện năng còn cao, đã ảnh
hưởng đến việc cấp điện vì thường xuyên xảy ra sự cố mất điện làm cho giá điện
sinh hoạt ở nông thôn còn cao
- Hệ thống chính sách phát triển kinh tế công nghiệp địa phương của Đảng,
Nhà nước và chính quyền tỉnh
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nên

việc phát triển công nghiệp địa phương luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Từ những năm 50-60 của thế kỉ XX, Đảng ta đã xác định: “Công nghiệp địa phương
ngày càng giữ một vai trò quan trọng, cần được củng cố và phát triển một cách rộng
rãi” (Chỉ thị của Ban Bí thý số 191-CT/TW, ngày 3-3-1960 về việc xây dựng và
phát triển công nghiệp địa phýõng )Với tinh thần đó, trong gần nửa thế kỉ qua, Đảng
và Nhà nước đã không ngừng đưa ra nhiều chính sách quan trọng, tạo điều kiện cho
công nghiệp địa phương phát triển.
Khi nói tới các nguồn lực phát triển công nghiệp địa phương của Phú Thọ
không thể không nhắc đến vai trò của Đảng bộ tỉnh cùng những chủ trương, hệ
thống chính sách phát triển công nghiệp thông thoáng và rộng mở của chính quyền

11


tỉnh. Đảng bộ Phú Thọ có tiền thân từ Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú ra đời từ rất sớm,
từng bước trưởng thành trong chiến đấu và xây dựng đất nước. Trải qua mấy chục
năm, Đảng bộ tỉnh đã tích lũy được những kinh nghiệm quý báu trong lãnh đạo xây
dựng và bảo vệ tỉnh. Từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới của Trung ương
Đảng, Tỉnh ủy, chính quyền và nhân dân tỉnh đã xác định phát triển kinh tế là nhiệm
vụ hàng đầu hiện nay. Trong đó, việc phát triển công nghiệp địa phương luôn được
coi là trọng tâm của chính sách kinh tế. Ủy ban nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
bộ tỉnh đã, đang và sẽ tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung, từng bước hoàn thiện hệ
thống các chính sách, quy chế, đặc biệt là các chính sách về kinh tế, tài chính, đất
đai, tạo môi trường pháp luật về đầu tư thực sự hiệu quả và thông thoáng cho các
nhà đầu tư.
Trước Cách mạng tháng Tám, Phú Thọ chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Từ
sau hoà bình lập lại, nhất là sau khi thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần I (19611965), Phú Thọ đã trở thành một tỉnh có cơ cấu kinh tế nông- công- lâm nghiệp khá
rõ ràng. Các khu công nghiệp lớn lần lượt được ra đời: khu công nghiệp Việt Trì
(một trong những khu công nghiệp đầu tiên phục vụ cho công cuộc xây dựng cơ sở
vật chất của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và phục vụ sự nghiệp chống Mĩ cứu nước),

công nghiệp hoá chất Lâm Thao, giấy Bãi Bằng… đã tạo cho Phú Thọ một diện
mạo mới, là điều kiện giúp cho tỉnh phát triển nhanh về kinh tế- xã hội.
Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tỉnh đã ban hành hệ
thống chính sách ưu đãi đầu tư, đồng thời quy định rõ việc thực hiện cơ chế một cửa,
giải quyết các vấn đề liên quan; thực hiện đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, thu hút cán bộ có trình độ chuyên môn cao về làm việc tại Phú
Thọ… đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp trong tỉnh. Trong những năm gần đây,
xuất phát từ việc nhận thức vai trò của các ngành nghề thủ công truyền thống và
thực hiện chủ trương của Trung ương, Đảng bộ tỉnh đã đưa ra nhiều biện pháp
nhằm khôi phục lại các làng nghề, phát triển tiểu thủ công nghiệp, góp phần làm
thay đổi cơ cấu ngành công nghiệp địa phương.
Tóm lại, với vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên tương đối đầy đủ, nguồn
nhân lực dồi dào, hệ thống cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng đang dần được hoàn
thiện… Phú Thọ có được những điều kiện thuận lợi để phát triển một nền công

12


nghiệp hiện đại. Nhiệm vụ của Đảng bộ tỉnh là làm thế nào để lãnh đạo phát triển
công nghiệp địa phương cho tương xứng với tiềm năng hiện có, nhanh chóng hội
nhập vào cơ chế thị trường, vươn lên ngang tầm với cả nước và khu vực.
1.2. Tình hình phát triển công nghiệp địa phương Vĩnh Phú trước năm 1997
Từ ngày 26/1/1968, Ủy ban thường vụ Quốc hội ra Quyết định số 504 hợp
nhất hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ thành Vĩnh Phú. Công nghiệp địa phương của
các vùng thuộc tỉnh Phú Thọ, từ đây, được sự lãnh đạo của Đảng bộ Vĩnh Phú.
1.2.1. Công nghiệp địa phương Vĩnh Phú trước 1986
Vĩnh Phú là một địa phương có công nghiệp phát triển tương đối sớm so với
các tỉnh miền núi – trung du phía Bắc: từ những năm 60 của thế kỷ XX đã hình
thành khu công nghiệp Việt Trì với các nhà máy xay xát, bê tông, điện đường, giấy,
hoá chất, thuốc trừ sâu cùng các cụm công nghiệp hoá chất- Supe Phốt phát Lâm

Thao, nhà máy chè Thanh Ba…
Cùng với sự ra đời các nhà máy, xí nghiệp do Trung ương quản lí, các xí
nghiệp công nghiệp địa phương lần lượt được xây dựng và phát triển.
Bước sang thời kỳ 1975-1985 là thời kỳ đất nước thống nhất, thị trường dân
tộc được thống nhất, Đảng bộ tỉnh lại bước vào một giai đoạn lãnh đạo mới với
những nhiệm vụ mới. Sản xuất công nghiệp cũng được sắp xếp lại cho phù hợp với
tình hình mới. Từ 1981- 1985, nhờ những biện pháp và chủ trương tích cực của
đảng bộ địa phương cùng với sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân, công nghiệp tỉnh
đã phát triển ổn định cả về quy mô lẫn số lượng các đơn vị sản xuất.
Sau hai năm khôi phục và phát triển kinh tế (1973-1974), khu công nghiệp
Việt Trì đã cơ bản hoàn thành việc khôi phục, sửa chữa các nhà máy, xí nghiệp để
đưa vào sản xuất, đồng thời xây dựng, mở thêm một số nhà máy mới: nhà máy dệt
Vĩnh Phú, xi măng Thanh Ba, nhà máy giấy Lửa Việt… Việc xây dựng các nhà máy,
xí nghiệp quan trọng của Trung ương trên địa bàn tỉnh đã hỗ trợ, thúc đẩy công
nghiệp địa phương từng bước phát triển. Các xí nghiệp công nghiệp địa phương như
cơ khí Phú Thọ, xẻ gỗ Việt Trì… đã sản xuất được các máy đùn gạch, các nông cụ
phục vụ sản xuất nông nghiệp... Các ngành công nghiệp thuộc các công ty nông
nghiệp, y tế, giao thông, thuỷ lợi… đều sản xuất các sản phẩm đáp ứng yêu cầu của
ngành mình, giảm bớt việc bao cấp từ Trung ương, nâng cao tính chủ động, độc lập

13


trong sản xuất công nghiệp và xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế ở địa phương.
Các xí nghiệp công nghiệp địa phương từng bước phát triển, sản xuất kinh doanh có
lãi. Giá trị sản lượng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn năm 1974 đạt
105% chỉ tiêu kế hoạch [45, tr.72], góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động,
ổn định đời sống nhân dân.
Bên cạnh đó, thực hiện Nghị quyết 134-CP của Hội đồng Chính phủ về việc
sắp xếp, điều chỉnh lực lượng lao động theo hướng chuyên môn hoá nâng cao năng

suất lao động và chất lượng sản phẩm, tháng 10 năm 1977, Tỉnh đã tổ chức Hội
nghị chuyên đề bàn về nhiệm vụ phát triển công nghiệp địa phương, thực hiện chỉ
đạo sát sao các nhà máy, xí nghiệp do tỉnh quản lý. Do đó, nhiều nhà máy, xí nghiệp
đã chú ý thay đổi, cải tiến công tác quản lý, đi sâu vào định mức kinh tế- kỹ thuật,
lo chạy nguyên-vật liệu ổn định kế hoạch sản xuất, bước đầu áp dụng phương thức
khoán sản phẩm và tiền thưởng để khuyến khích sản xuất, tiết kiệm vật tư, nguyên
liệu, chú trọng đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao tay nghề cho
công nhân.
Năm 1976, trong tỉnh đã hình thành 6 khu công nghiệp tập trung, lớn nhất là
khu công nghiệp Việt Trì. Ngoài công nghiệp nhẹ, công nghiệp hoá chất, công
nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng đều có sự phát triển. Giá trị sản lượng công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng 34 % so với năm 1973, chất lượng hàng hoá đã
được cải tiến rõ rệt [45,74].
Năm 1977, trên địa bàn Phú Thọ có 57 nhà máy, xí nghiệp Trung ương và địa
phương, trong đó có 35 xí nghiệp quốc doanh do địa phương quản lý, chiếm 61,4%
tổng số xí nghiệp trên địa bàn tỉnh. Các cơ sở sản xuất công nghiệp của tỉnh chủ yếu
là các ngành chế biến nông- lâm sản, thực phẩm sử dụng nguyên liệu tại địa phương.
Ngoài ra còn có những cơ sở công nghiệp hoá chất, cơ khí phục vụ nông nghiệp và
khu công nghiệp nhẹ, các xí nghiệp công nghiệp khai thác, sản xuất vật liệu xây
dựng… Còn lại, các mặt hàng có sản phẩm lớn, kỹ thuật cao đều do các xí nghiệp
Trung ương phụ trách như chế biến chè, đường, sản xuất phân bón, hoá chất…
Thực hiện Nghi quyết Trung ương 6 (khoá VI), dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ
tỉnh việc kết hợp giữa công nghiệp Trung ương và công nghiệp địa phương, giữa
công nghiệp quốc doanh và thủ công nghiệp chuyên nghiệp, thủ công nghiệp trong

14


nông nghiệp có nhiều chuyển biến. Việc tìm nguyên liệu bổ sung, tận dụng phế liệu,
phế phẩm và làm thêm mặt hàng mới ngày càng tiến bộ, đưa giá trị tổng sản lượng

công nghiệp trên toàn tỉnh năm 1980 đạt 200 triệu đồng, trong đó, công nghiệp địa
phương đạt 81.1 triệu đồng [45, tr.86].
Được xác định là vùng công nghiệp trọng điểm với khu công nghiệp Việt Trì,
cụm công nghiệp Thanh Ba, Lâm Thao… Vĩnh Phú luôn được Trung ương đầu tư
xây dựng về cả vốn và các nhà máy, xí nghiệp quan trọng. Đặc biệt, Đảng bộ địa
phương xác định Việt Trì là trung tâm kinh tế, trọng điểm công nghiệp giúp tỉnh có
sự đầu tư đúng hướng, đầu tư có trọng điểm và thực sự hiệu quả. Đây là một điểm
thuận lợi rất cao cho việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương, tạo ra sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong tỉnh. Phần lớn sản phẩm làm ra có chất lượng tốt,
tiêu thụ kịp thời, tăng nguồn thu ngân sách cho tỉnh và Trung ương. Đặc biệt công
tác liên doanh, liên kết giữa các xí nghiệp Trung ương và địa phương trên địa bàn
tỉnh được thực hiện khá tốt. Từ năm 1980 đã có 10 đơn vị sản xuất công- nông- lâm
nghiệp địa phương và liên kết với 13 xí nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn. Do
đó, sản xuất công nghiệp địa phương có những chuyển biến rõ nét, các xí nghiệp
quốc doanh địa phương đã tận dụng được công suất máy móc thiết bị khoa học kỹ
thuật tăng thêm hàng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Từ năm 1981, khi Tỉnh ủy chỉ đạo ngành công nghiệp vận dụng cách khoán
trong nông nghiệp vào công nghiệp, sản xuất ở một số đơn vị đã bước đầu đem lại
kết quả tốt hơn: giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng nhanh.
Trong đó, sản xuất công nghiệp địa phương đạt 109% và thủ công nghiệp đạt
104.3% kế hoạch [45, tr.119].
Từ năm 1982, thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 xoá bỏ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, Tỉnh có nhiều nghị quyết, quyết định chỉ đạo phát triển công nghiệp trong
tỉnh, nhất là việc chỉ đạo các đơn vị và soát lại năng lực sản xuất, tổ chức lại sản
xuất, gắn thu nhập của người lao động với sản phẩm cuối cùng. Do đó, đã gắn
người lao động với sản xuất, kích thích sản xuất phát triển, công suất sử dụng thiết
bị máy móc tăng 5-8%, giá trị ngày công tăng 2-3% [45, 132]. Công tác liên kết
kinh tế giữa công nghiệp Trung ương, địa phương và các tỉnh bạn được đẩy mạnh.


15


Sản xuất công nghiệp địa phương khối quốc doanh bước đầu chuyển dịch
theo hướng tích cực: các cơ sở tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là cải tiến nông cụ
phục vụ nông nghiệp đồng thời đẩy mạnh khai thác, chế biến nông- lâm sản tại chỗ;
giữ vững các mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của tỉnh như: chè, hàng may mặc, sơn
mài… Giá trị tổng sản công nghiệp địa phương đạt 72.71 triệu đồng (bằng 104.7%
kế hoạch năm), tăng 7.2% so với năm 1984. Trong đó, công nghiệp quốc doanh địa
phương đạt 36.4 triệu đồng bằng 105.7% kế hoạch [3, 4].
Điều đáng chú ý trong tổ chức quản lý công nghiệp ở địa phương là việc cải
tiến công tác quản lý. Nhà máy giấy Lửa Việt là đơn vị đột phá thực hiện thí điểm
bù giá vào lương, xóa bỏ bao cấp nhà nước. Các đơn vị khác như xí nghiệp ép dầu
Ngoại Trạch, nhà máy rượu Đồng Xuân cũng tiếp tục thực hiện đạt hiệu quả rõ
rệt…Đặc biệt, nhà máy rượu Đồng Xuân thuộc ty công nghiệp quản lý là lá cờ đầu
của ngành công nghiệp địa phương, nhiều năm liên tục hoàn thành và vượt chỉ tiêu
kế hoạch nhà nước giao….
Không hề chậm trễ Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Phú đã đi cùng hướng đi chung
của đất nước. Công nghiệp chế biến trên địa bàn tỉnh được chú trọng đầu tư để tạo
nguồn hàng xuất khẩu. Năm 1985, tổng ngoại tệ giao hàng xuất khẩu trên toàn tỉnh là
7.4 triệu rúp- đô-la. Riêng hàng xuất khẩu địa phương đạt 2.61 triệu đô-la. Một số
mặt hàng xuất khẩu chủ lực giao đạt và vượt kế hoạch là: sơn, đay tơ, chè… Do đó
tích luỹ được 340 triệu đồng cho ngân sách, vượt kế hoạch được giao [3, 11].
Sau hơn 25 năm phát triển nhất là trải qua 10 năm phát triển trong điều kiện
hoà bình, thống nhất, công nghiệp Vĩnh Phú đã phát triển khá toàn diện về cả cơ cấu
ngành nghề và giá trị sản lượng. Công nghiệp Trung ương phân bố trên địa bàn tỉnh
đã hỗ trợ đắc lực cho công nghiệp địa phương, góp phần tăng cường cơ sở vật chất,
năng lực sản xuất cho công nghiệp địa phương, tạo nên động lực thúc đẩy các ngành
kinh tế khác trong tỉnh cùng phát triển, góp phần tạo nên một cơ cấu kinh tế nôngcông- lâm nghiệp tương đối phù hợp, cân đối, góp phần tăng nguồn thu ngân sách,
tích luỹ cho tỉnh, giải quyết việc làm, ổn định, nâng cao đời sống nhân dân. Đây

chính là nền tảng quan trọng để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh thực hiện
thành công sự nghiệp đổi mới kinh tế ở giai đoạn sau.

16


1.2.2. Công nghiệp địa phương Vĩnh Phú từ năm 1986 đến năm 1997
Nhằm chuẩn bị cho Đại hội VI của Đảng, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phú lần thứ VI đã được tổ chức từ ngày 23-28/10/1986 tại thành phố Việt Trì. Đại
hội đã tiến hành tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu tỉnh Vĩnh Phú
lần thứ V (1983-1985) đồng thời đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng
bộ nhiệm kỳ 1986-1990.
Đại hội đã thông qua phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong kế hoạch 19861990 là “đẩy mạnh phát triển sản xuất nông- lâm nghiệp, công nghiệp trong đó tập
trung cho việc sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”
[45, tr.155]. Đại hội chỉ rõ phải tập trung phát triển công nghiệp một cách toàn diện,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng ưu tiên phát triển các ngành công
nghiệp quan trọng trên địa bàn là chế biến nông- lâm sản thực phẩm, sản xuất vật
liệu xây dựng, hàng tiêu dùng; Khôi phục và phát triển những khu công nghiệp hiện
có ở Việt Trì, Lâm Thao, Thanh Ba. Đồng thời, đẩy mạnh phát triển các ngành
công nghiệp phục vụ nông nghiệp sản xuất công cụ, máy móc… thúc đẩy kinh tế
nông- lâm nghiệp phát triển, ổn định đời sống nhân dân.
Quán triệt đường lối đổi mới của Trung ương Đảng, Nghị quyết của đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ VI về nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, Tỉnh uỷ Vĩnh Phú đã
tăng cường chỉ đạo sát sao việc thực hiện 3 chương trình kinh tế trọng điểm: lương
thực- thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; thực hiện đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế theo hướng tăng tính chủ động trong việc lập kế hoạch, hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa ở các nhà máy, xí nghiệp. Nhờ vậy, sức sản xuất được giải
phóng, sản xuất nông- công nghiệp có bước phát triển rõ rệt, nông nghiệp phát triển
nhanh, ổn định tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp. Năm 1986, giá trị tổng sản
lượng công nghiệp Trung ương tăng 9.6%, công nghiệp địa phương tăng 8.3% so

với năm 1985. Trong đó, công nghiệp quốc doanh đạt 389.7 tỉ đồng, tăng 4.3% so
với năm 1985, có 27/59 loại sản phẩm chủ yếu của công nghiệp địa phương đạt và
vượt kế hoạch [4]. Những con số này đã thể hiện bước tiến của công nghiệp địa
phương trong việc phục vụ nông nghiệp và xây dựng. Nhiều xí nghiệp, hợp tác xã
đã thực hiện việc sắp xếp lại tổ chức, bố trí lại dây chuyền sản xuất, tinh giảm biên
chế lao động gián tiếp, chú ý tới hiệu quả thiết thực của sản xuất kinh doanh [6].

17


Đồng thời, Tỉnh uỷ chỉ đạo sát sao duy trì, tổ chức thực hiện việc liên kết sản
xuất với các xí nghiệp Trung ương tại địa phương một cách hiệu quả. Năm 1986,
tỉnh Vĩnh Phú đã tiến hành liên kết sản xuất với 9 xí nghiệp Trung ương, 3 xí
nghiệp quốc phòng. Tổng giá trị hàng hoá liên kết đạt 761.589 triệu đồng, tăng
212% so với năm 1985. Liên kết kinh tế đã giúp các nhà máy tận dụng thiết bị, sử
dụng hợp lý sức lao động, tăng sản phẩm xã hội, tích luỹ cho ngân sách tỉnh, tăng
thu nhập cho người lao động. Quan trọng nhất, liên kết kinh tế đã tạo ra sự ổn định
cho sản xuất công nghiệp. Lợi ích giữa Trung ương -địa phương và các xí nghiệp
được giải quyết hài hoà; hiệu quả liên kết các xí nghiệp Trung ương và các xí
nghiệp địa phương đã đem lại tích luỹ cho tỉnh khoảng 200 triệu đồng.
Sang năm 1987, công nghiệp địa phương phát triển chậm lại do mất cân đối
về vật tư, năng lượng; thiếu nguyên –nhiên liệu, sản xuất không đồng bộ… Cơ chế
cũ còn bị ràng buộc chưa bị xoá bỏ, cơ chế mới chưa được cụ thể hoá... Trong khi
công nghiệp quốc doanh Trung ương có sự giảm sút: chỉ đạt 91.7% kế hoạch năm,
giảm 0.5% so với năm 1986, thì sản xuất công nghiệp địa phương vẫn giữ được sự
phát triển ổn định. Một số xí nghiệp quốc doanh đã chuyển hướng sản xuất, gắn sản
xuất với vùng nguyên liệu. Nhiều nhà máy, xí nghiệp đã nhanh chóng nắm bắt cơ
chế quản lý kinh tế mới, phấn đấu duy trì, phát triển sản xuất, kinh doanh có lãi đảm
bảo việc làm cho người lao động [11, tr.3].
Phát huy tính chủ động trong việc liên doanh, liên kết giữa các xí nghiệp

Trung ương và địa phương nhằm tăng cường sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế,
năm 1987 Tỉnh ủy đã yêu cầu tiến hành liên kết sản xuất và liên kết trao đổi với 10
xí nghiệp Trung ương, 4 xí nghiệp cuả các tỉnh và 2 xí nghiệp quốc phòng. Liên kết
đã đem lại tích luỹ cho ngân sách tỉnh là 622 triệu đồng [7], góp phần giải quyết nhu
cầu trao đổi vật liệu, công nghệ sản xuất của các nhà máy, xí nghiệp trong tỉnh.
Tuy nhiên, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong tỉnh gặp nhiều khó
khăn, lúng túng: chưa tạo được các mặt hàng mũi nhọn, chủ lực, chưa tạo được
nguồn hàng phong phú phục vụ cho nhu cầu đời sống nhân dân. Các mặt hàng thiết
yếu vừa kém về chất lượng, vừa đơn điệu về mẫu mã, giá thành cao.
Nguyên nhân của tình trạng này chính là do tư tưởng bao cấp và khuynh
hướng tập trung quy mô sản xuất vẫn hết sức nặng nề, chưa coi trọng đúng mức các

18


thành phần kinh tế; cơ chế tập trung quan liêu trong sản xuất vẫn còn khá nặng, các
chính sách kinh tế còn chưa đồng bộ. Nhận thức của các ngành quản lý, đặc biệt là
các ngành tổng hợp như tài chính, vật giá… còn chưa được đổi mới. Đội ngũ cán bộ
lãnh đạo và quản lý còn lúng túng, năng lực trình độ còn yếu kém; phần nhiều sử
dụng còn trái ngành nghề, chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao.
Trước tình hình đó, để giải quyết nhu cầu về hàng tiêu dùng của nhân dân, Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú đã ra Nghị quyết số 07-NQ/TU (14/11/1987) về
“Chương trình sản xuất hàng tiêu dùng đến năm 1990”. Với thuận lợi là có 53 xí
nghiệp công nghiệp quốc doanh địa phương, 29 xí nghiệp Trung ương, 65 hợp tác xã
thủ công chuyên nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật được trang bị khá, năng lực sản xuất
còn rất lớn nhưng chưa được khai thác hết. Bên cạnh đó cơ sở hạ tầng, giao thông,
điện… đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh. Nguồn nguyên liệu từ nông- lâm
nghiệp rất phong phú, rất thuận lợi cho tỉnh phát triển ngành công nghiệp chế biến.
Từ những thuận lợi cơ bản đó, Nghị quyết đã đề ra phương hướng sản xuất
hàng tiêu dùng cho đến năm 1990 là: Gắn bó chặt chẽ với chương trình lương thực

và chương trình xuất khẩu để tạo thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Đẩy nhanh sản xuất
những mặt hàng có thế mạnh tạo điều kiện trao đổi với tỉnh bạn và xuất khẩu nhằm
tập trung phục vụ nhu cầu ăn mặc, đi lại, học hành… của nhân dân, sử dụng hợp lý
cơ cấu thành phần kinh tế… cố gắng tạo ra một số mặt hàng mũi nhọn có khối
lượng khá, chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh được với thị trường trong nước
và một số mặt hàng xuất khẩu có giá trị ổn định. Thực hiện đa dạng hoá mặt hàng
để khai thác hết tiềm năng lao động, nguyên liệu và cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra
nhiều chủng loại hàng hoá phong phú đáp ứng nhu cầu của thị trường và nâng cao
hiệu quả kinh doanh của xí nghiệp.
Thực hiện các nghị quyết của tỉnh, công tác tổ chức quản lý lại sản xuất bước
đầu có chuyển biến, đem lại kết quả khá quan trọng. Giá trị sản lượng công nghiệp
năm 1988 đạt 950 triệu đồng bằng 102% kế hoạch năm, tăng 9.6% so với năm 1987.
Thực hiện nhiệm vụ phát triển sản xuất công nghiệp địa phương theo tinh thần chỉ
đạo của quyết đinh 217-QĐ/HĐBT; Nghị định 27, 28, 29 và Chỉ thị 118 của Hội
đồng Bộ trưởng mà trọng tâm là công tác đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, nâng cao
sự chủ động, hạch toán kinh doanh của các nhà máy, xí nghiệp, Đảng bộ tỉnh đã

19


nhanh chóng đề ra biện pháp lãnh đạo thích hợp. Dưới sự lãnh đạo đó, các nhà máy,
xí nghiệp công nghiệp trong tỉnh đã bước đầu đổi mới cơ chế quản lý, sắp xếp, bố
trí lại lao động, giảm các phòng ban chức năng, giảm tỉ lệ lao động gián tiếp từ 12%
xuống còn 10%; thực hiện chế độ hợp đồng lao động nhằm nâng cao tinh thần, trách
nhiệm của người sản xuất. Nhờ đó, thu nhập của công nhân đã được ổn định từ 1330 nghìn đồng/người/tháng, đồng thời đã thành lập thêm được 100 tổ hợp mới, giải
quyết vật liệu cho 1000 lao động. Hầu hết các ngành sản xuất đều đi vào ổn định,
từng bước có sự tăng trưởng.
Trong sản xuất, các xí nghiệp đã bước đầu chú ý tới vấn đề thị trường, tiêu
thụ sản phẩm; sản xuất theo nhu cầu của thị trường và thực hiện dịch vụ đưa sản
phẩm đến tay người tiêu dùng. Một số xí nghiệp còn tiến hành bảo hành đối với sản

phẩm của mình (xi măng Vĩnh Phú) nhằm kích thích người tiêu dùng, giải quyết
hàng ứ đọng.
Thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Trung ương, Tỉnh ủy đã chỉ đạo
lãnh đạo ngành lên kế hoạch cụ thể, phù hợp với điều kiện, năng lực sản xuất nhằm
hoàn thành đúng kế hoạch, mục tiêu được giao.
Phục vụ cho chương trình lương thực- thực phẩm, công nghiệp địa phương
đã tăng cường sản xuất nông cụ, phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các sản
phẩm công nghiệp chính đều tăng, như: công cụ cầm tay, máy tưới nước…[14].
Mạng lưới dịch vụ ở nông thôn được mở rộng, phục vụ có hiệu quả.
Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng được chú trọng, tập trung vào các mặt
hàng mũi nhọn, chủ đạo của tỉnh. Giá trị hàng công nghiệp xuất khẩu địa phương
năm 1988 đạt 63.9 triệu đồng (tăng 30.5% so với năm 1987). Trong đó khối lượng
tiểu thủ công nghiệp tăng 34.9% [14]. Các mặt hàng xuất khẩu chủ đạo bao gồm:
chè, giày dép, hàng lương thực- thực phẩm… Tuy nhiên các mặt hàng còn ít về số
lượng, kém về chất lượng, giá trị không cao.
Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng được tỉnh chú trọng đầu tư, quan tâm
chỉ đạo sát sao nên có bước tiến đáng kể. Giá trị hàng tiêu dùng phục vụ đời sống
năm 1988 đạt 532 triệu đồng, tăng 2.9% so với năm 1987. Trong đó, 3 ngành chủ
yếu: chế biến lương thực- thực phẩm, dệt, sản xuất đồ dùng bằng kim loại đều tăng.
Thực hiện Quyết định 217 và Chỉ thị 118 của Hội đồng Bộ trưởng, các xí
nghiệp quốc doanh được phát huy quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh, việc
20


đầu tư trang thiết bị theo chiều sâu, gắn với nhu cầu của thị trường được chú ý như:
phân xưởng sản xuất mũ của nhà máy giấy Lửa Việt có công suất 50000 cái/năm,
dây chuyền sản xuất bia của nhà máy đường Việt Trì công suất 1triệu lít/năm, dây
chuyền bánh kẹo, nước giải khát…
Nhờ có sự điều chỉnh về công tác quản lý kinh tế nhất là công tác chỉ đạo,
điều hành sản xuất, phát huy tính độc lập tự chủ của các xí nghiệp, việc giải quyết

vật tư, lo vật liệu, nguồn vốn, thực hiện liên kết liên doanh đã được các nhà máy, xí
nghiệp chú ý đẩy mạnh… Do đó, tăng sức sản xuất hơn so với năm 1987. Tuy nhiên,
việc đổi mới cơ chế quản lý mới được thực hiện bước đầu, công tác chỉ đạo còn
thiếu đồng bộ nên các nhà máy xí nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, nhất là về vốn và
vật tư. Bên cạnh đó, chức năng quản lý kinh tế đối với các ngành, huyện chưa có
nhiều chuyển biến rõ rệt. Do vậy, công nghiệp địa phương phát triển nhưng chưa
vững chắc, giá thành cao, hiệu quả kinh tế còn thấp, nhất là ở những xí nghiệp mới
bắt đầu thực hiện theo Quyết định 217 và Chỉ thị 118 của Hội đồng Bộ trưởng.
Năm 1989, kinh tế Vĩnh Phú gặp nhiều khó khăn do nguồn vốn, vật tư,
nguyên liệu thiếu, kinh tế quốc doanh hầu như không đạt kế hoạch. Việc khôi phục
sản xuất và kinh doanh còn chậm. Sản xuất công nghiệp địa phương của tất cả các
thành phần kinh tế giảm 10%, trong đó, các xí nghiệp quốc doanh giảm 15%
[38,167]. Nhiều xí nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn như xí nghiệp chế biến thực
phẩm Phú Thọ, Nhà máy giấy Lửa Việt… Nhiều xí nghiệp sản xuất cầm chừng
hoặc cho công nghiệp nghỉ hưởng 70% lương.
Khối công nghiệp địa phương (chủ yếu là các ngành công nghiệp nhóm Bcông nghiệp nhẹ) cũng phát triển nhanh hơn khối công nghiệp Trung ương: 28,2%
so với -8,9% (năm 1988), trong sản xuất công nghiệp địa phương công nghiệp
nhóm B cũng phát triển nhanh hơn nhóm A với các ngành công nghiệp chế biến
nông- lâm sản, công nghiệp gia công, dệt, may mặc… là những mặt hàng mà tỉnh có
nguồn nguyên liệu phong phú cộng với nhân lực đông đảo. Các ngành công nghiệp
nhóm A như cơ khí chế tạo máy, hoá chất, luyện kim chưa được đầu tư. Chính vì
vậy, trong nhiều năm, công nghiệp tỉnh còn mất cân đối trong cơ cấu ngành, sự
chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra còn chậm, ít hiệu quả.
Mặt khác, sự chuyển dịch trong khối công nghiệp Trung ương và địa phương
còn chưa được đẩy mạnh, thiếu sự gắn kết phối hợp chặt chẽ, công nghiệp địa
21


phương quy mô còn nhỏ bé, phân tán, chưa trở thành động lực thúc đẩy sự phát
triển của các ngành kinh tế khác. Cơ cấu thành phần kinh tế còn chưa hợp lý: thành

phần kinh tế quốc doanh tập thể chiếm gần như tuyệt đối cả về cơ cấu giá trị và sản
lượng. Các thành phần kinh tế khác chưa được đầu tư, khuyến khích phát triển. Do
đó, việc khai thác, tận dụng nguồn vốn, nguyên liệu, lao động trong dân cư còn thấp.
Chính vì vậy, dù đã tiến hành đổi mới trong cơ chế quản lý, tổ chức sản xuất từ năm
1986, nhưng qua 5 năm, công nghiệp tỉnh tuy đã có bước phát triển nhưng còn
chậm, thiếu cân đối, hiệu quả khai thác chưa tương xứng với tiềm năng, cơ sở vật
chất, nguồn nhân lực hiện có. Công nghiệp tỉnh vẫn còn nhiều tồn tại, vướng mắc,
còn thiếu những chính sách cụ thể, mở đường làm động lực phát triển.
Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế- xã hội Vĩnh Phú
nói chung và kinh tế công nghiệp nói riêng tuy đã đạt được những thành tựu bước
đầu nhưng vẫn đang đứng trước những khó khăn và thử thách mới. Trong bối cảnh
chung của đất nước còn ở trong tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội, đời sống
nhân dân còn gặp nhiều khó khăn; tình hình quốc tế lại có những diễn biến hết sức
phức tạp: những biến động chính trị xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã ảnh hưởng rất
lớn tới nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã tổng kết
việc thực hiện nghị quyết Đại hội VI, rút ra những bài học trong quá trình đổi mới,
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
và chiến lược ổn định phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000. Đại hội khẳng định
tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN,
hoàn thiện thêm một bước quá trình đổi mới kinh tế- xã hội được đề ra từ năm 1986.
Trong tình hình mới, Đại hội Đảng bộ tỉnh khoá VII đã họp tổng kết, rút ra
những bài học kinh nghiệm của quá trình đổi mới, đề ra phương hướng, mục tiêu
phát triển kinh tế- xã hội của Tỉnh trong 5 năm 1991- 1995 mà trọng tâm là: “giữ
vững ổn định chính trị, ổn định và phát triển một bước kinh tế -xã hội, đảm bảo
lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân, tăng nhanh nguồn
hàng xuất khẩu. Giải quyết việc làm cho người lao động” [45,189]. Đây chính là
hướng đi quan trọng, định hướng cho sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh trong
những năm tới, trong đó, bao gồm cả công nghiệp địa phương.
Thực hiện chủ trương, quyết định của Chính phủ, Tỉnh đã chỉ đạo việc sắp
xếp lại doanh nghiệp nhà nước theo quyết định 315 và 330 của Chính phủ, tiến hành

22


việc thành lập doanh nghiệp nhà nước theo Quyết định 338 của Hội đồng Bộ trưởng
nhằm ổn định việc tổ chức sản xuất ở các doanh nghiệp. Đồng thời, tranh thủ mọi
nguồn vốn và các hình thức hợp tác, liên doanh sản xuất, kể cả nguồn vốn nước
ngoài có thể huy động được để đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ, tăng năng
lực sản xuất, hướng đầu tư trong mỗi xí nghiệp; giảm mạnh đầu tư cho các công
trình kiến trúc, nhà xưởng; tăng thiết bị, vốn lưu động để quay vòng vốn, nâng cao
hiệu quả sản xuất. Trong đầu tư phát triển công nghiệp, đảm bảo đúng theo bốn mục
tiêu mũi nhọn đã được xác định để sớm tạo ra sức bật mới cho công nghiệp địa
phương, phấn đấu để thực hiện xóa bỏ bao cấp cho các xí nghiệp quốc doanh dưới
mọi hình thức.
Nhằm đảm bảo cho sản xuất ổn định trước những biến động của tình hình
trong nước và thế giới, Tỉnh đã chú trọng chỉ đạo việc tổ chức thực hiện các quan hệ
liên kết kinh tế và dịch vụ đầu vào, đầu ra cho các xí nghiệp trên cơ sở đảm bảo
hiệu quả, lợi ích chung, bình đẳng, tạo nên sự phát triển thống nhất theo ngành,
nhóm sản phẩm, bổ sung, hỗ trợ cho nhau để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi
thế có sẵn của mỗi bên. Đồng thời, Tỉnh cũng đã tạo điều kiện, môi trường thuận lợi
để khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát huy hết khả năng
của mình, góp phần giải quyết việc làm, tăng nguồn thu ngân sách.
Nhờ có sự điều chỉnh kịp thời về công tác tổ chức quản lý cùng với sự chỉ
đạo sát sao, kịp thời của lãnh đạo tỉnh đối với sản xuất công nghiệp địa phương, nên
mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do tác động của thị trường nhưng công nghiệp tỉnh
Vĩnh Phú vẫn duy trì được ổn định và có bước phát triển tương đối. Tính đến
1/7/1993, toàn tỉnh có 13.135 cơ sở sản xuất công nghiệp, trong đó, có 46 cơ sở
quốc doanh và 13.089 cơ sở ngoài quốc doanh, thu hút 36.497 lao động [18]. Giá trị
tổng sản lượng công nghiệp trong toàn tỉnh đạt 282,3 tỉ đồng (1991); 302,4 tỉ đồng
(1992) (giá 1989) [36], nhịp độ tăng trưởng bình quân đạt 4,3%.
Tính chung ba năm 1991- 1993, tốc độ phát triển công nghiệp bình quân đạt

8%/năm. Mặc dù thời kỳ 1991-1993, sản xuất trong nước gặp nhiều khó khăn do
chúng ta mất đi thị trường truyền thống Liên Xô và Đông Âu, nhưng sản xuất công
nghiệp địa phương vẫn đạt được những kết quả tích cực do sự chuyển dịch mạnh
mẽ về cơ cấu ngành và cơ cấu giá trị của các thành phần kinh tế. Đáng chú ý là sự

23


×