Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

đảng bộ tỉnh phú yên xây dựng đội ngũ cán bô cấp cơ sở từ nam 2000 den 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------

LÊ THỊ HỢI

ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ YÊN
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ
TỪ NĂM 2000 ĐẾN 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------

LÊ THỊ HỢI

ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ YÊN
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ
TỪ NĂM 2000 ĐẾN 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số : 60 22 56


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THỊ THU HƢƠNG

Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều trung thực và có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 8 tháng 9 năm 2015
Tác giả luận văn

Lê Thị Hợi


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCH: Ban Chấp hành
BTV: Ban Thường vụ
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
HĐND: Hội đồng nhân dân
Nxb: Nhà xuất bản
UBND: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 6
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu ........................ 6
6. Đóng góp khoa học của đề tài .................................................................... 7
7. Bố cục luận văn .......................................................................................... 8
Chƣơng 1. CHỦ TRƢƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN B Ộ CẤP CƠ SỞ CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ YÊN TỪ
NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005 ........................................................................... 9
1.1.Vai trò và thực trạng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở (cấp xã, phƣờng) ở
Phú Yên trƣớc năm 2000 ............................................................................. 9
1.1.1. Vai trò của cán bộ cấ p cơ sở đố i với công cuộc đổ i mới đấ t nươ
..........
́c 9
1.1.2. Những yế u tố tác động đế n quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ cấ p
cơ sở ở Phú Yên. ..................................................................... …………..13
1.1.3. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở Phú Yên
trước năm 2000 ......................................................................................... 16
1.2. Chủ trƣơng của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh Phú Yên về xây
dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ năm 2000 đến năm 2005 ............................ 20
1.2.1. Chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở những
năm đầu thế kỷ XXI ................................................................................... 20
1.2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Phú Yên về xây dựng đội ngũ cán bộ
nói chung, cán bộ cấp cơ sở nói riêng ...................................................... 23
1.2.3. Quá trình chỉ đạo thực hiện công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp
cơ sở của Đảng bộ tỉnh Phú Yên (từ năm 2000 đến năm 2005) ............... 27
TIỂU KẾT .................................................................................................... 40


Chƣơng 2. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ CỦA ĐẢNG

BỘ TỈNH PHÚ YẾN ĐÁP Ƣ́NG YÊU CẦU MỚI TỪ NĂM 2006 ĐẾN
NĂM 2010 ...................................................................................................... 42
2.1. Yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở của Đảng bộ tỉnh Phú
Yên trƣớc tình hình mới ............................................................................ 42
2.1.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở đáp ứng nhiệm vụ đẩy mạnh công
cuộc đổi mới toàn diện ............................................................................... 42
2.1.2. Chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ
năm 2006 đến năm 2010. .......................................................................... 45
2.2. Đảng bộ tỉnh Phú Yên quán triêṭ quan điể m của Đảng
, đẩy mạnh công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ năm 2006 đến năm 2010 ........... 48
2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh về xây dựng đội ngũ cán bộ cấ p cơ sơ
.....̉ 48
2.2.2. Sự chỉ đạo của Đảng bộ Tỉnh Phú Yên về xây dựng đội ngũ cán bộ
cấ p cơ sở từ năm 2006 đến năm 2010 ...................................................... 52
TIỂU KẾT .................................................................................................... 66
Chƣơng 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ........................... 68
3.1. Nhận xét ............................................................................................... 68
3.1.1 Về những thành tựu và nguyên nhân ............................................... 68
3.1.2 Về những hạn chế và nguyên nhân .................................................. 73
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu .............................................................. 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 87
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 95


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là
gốc của mọi công việc” [39; tr.269], “Công việc thành công hoặc thất bại đều

do cán bộ tốt hay kém” [39; tr.240], trong suốt hơn 80 năm xây dựng và phát
triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi cán bộ là khâu quyết định sự thành
hay bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng. Do vậy, xây dựng
đội ngũ cán bộ đồng bộ, toàn diện, đặc biệt tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở coi đây là vấn đề mấu chốt, quan trọng trong sự nghiệp cách mạng
của dân tộc, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng. Cấp chính quyền cơ sở xã, phường là nơi đường lối, chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước được trực tiếp đưa vào cuộc sống, đây là
nơi người cán bộ của Đảng sống gần dân nhất. Những tâm tư, tình cảm,
những nguyện vọng của quần chúng nhân dân được Đảng nắm bắt trước hết là
từ cán bộ cấp cơ sở. “Cán bộ là người mang chính sách của Chính phủ, của
Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì dù chính sách hay cũng
không thể thực hiện được” [39; tr.54]. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở giữ một vị trí quan trọng trong chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ
của Đảng.
Ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước cần phải có một đội ngũ cán bộ
thích ứng, có phẩm chất năng lực đáp ứng đòi hỏi, nhiệm vụ của từng giai
đoạn. Trong giai đoạn hiện nay, để đưa sự nghiệp CNH, HĐH của đất nước
đến thành công đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng
lực ngày càng cao hơn, vì thế nhiệm vụ xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ của Đảng mà trước hết là cán bộ cấp cơ sở là rất quan trọng.
Phú Yên là một tỉnh nằm ở vùng duyên hải Nam Trung bộ, có lợi thế về
vị trí địa lý, tài nguyên, đất đai, giao thông, du lịch,…Tỉnh có Quốc lộ 1A đi

1


ngang qua và quốc lộ 25 nối với các tỉnh Tây Nguyên. Phú Yên có những
đồng bằng lớn được bồi đắp bởi phù xa của sông Ba, nơi đây là một trong
những vựa lúa lớn của miền trung. Với đường bờ biển kéo dài rất thuận lợi

cho việc nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản. Là vùng đất giàu truyền thống
văn hóa và cách mạng. Sau hơn 20 năm tái lập tỉnh, cùng với sự phát triển
chung của đất nước, Phú Yên đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các
lĩnh vực.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ và công tác cán bộ, nhận thức đúng về tầm quan trọng của đội
ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH; quán triệt quan điểm đổi mới
cán bộ và công tác cán bộ của Đảng nên trong quá trình lãnh đạo nhân dân
thực hiện đường lối đổi mới, cùng với quá trình lãnh đạo đổi mới về kinh tế,
chính trị, văn hóa thì công tác xây dựng Đảng đặc biệt là xây dựng đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở cũng được Đảng bộ tỉnh Phú Yên xác định là một trong
những nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc đổi mới toàn diện của tỉnh và là
nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng.
Để tái hiện một cách có hệ thống quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ cấp
cơ sở của Đảng bộ tỉnh Phú Yên trong giai đoạn hiện nay, nhằm góp phần
tổng kết những kinh nghiệm trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ
sở, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH của địa phương, tôi quyết định
chọn nghiên cứu vấn đề “Đảng bộ tỉnh Phú Yên xây dựng đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở từ năm 2000 đến 2010” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ, chuyên
ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cán bộ là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách
mạng của Đảng ta, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, thì vấn đề cán bộ và
công tác cán bộ càng trở nên quan trọng. Do vị trí quan trọng của công tác cán

2


bộ nhất là cán bộ cấp cơ sở nên lâu nay đã có rất nhiều bài viết, nhiều công
trình nghiên cứu của các nhà khoa học về vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nói

chung và cán bộ cấp cơ sở nói riêng đã được công bố dưới nhiều góc độ khác
nhau. Có thể chia làm các nhóm sau:
Nhóm các công trình nghiên cứu về cán bộ và công tác cán bộ nói chung:
Các sách đã xất bản có: Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ của
Đức Vượng, (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995); Tư tưởng Hồ Chí Minh
với việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay của tác giả Hoàng Trang
và Phạm Ngọc Anh, (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); Cơ sở lý luận và
thực tiễn Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của tác giả Thang Văn Phúc và
Nguyễn Minh Phương, (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005); Tư tưởng Hồ
Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ của tác giả Bùi Đình Phong, (Nxb Lao
Động, Hà Nội, 2006); Giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên theo đạo đức
cách mạng, phong cách tư duy khoa học Hồ Chí Minh của PGS.TS Ngô Đăng
Tri, (Nxb KHXH, Hà Nội, 2005); Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy CNH, HĐH đất nước của tác giả
Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm, (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003); Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo phường hiện nay của tác giả Nguyễn Duy Hùng, (Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2008), ...
Liên quan đến đề tài còn có các bài viết về công tác cán bộ đăng trên
các tạp chí tiêu biểu như: Đào tạo, bồi dưỡng phục vụ công tác quy hoạch cán
bộ của tác giả Tô Huy Rứa đăng trên Tạp chí Cộng sản số 21/1998; Quy
hoạch đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn của tác giả Phí Văn Chỉ đăng trên
Tạp chí Cộng sản số 24/1998; Qui hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý cơ sở của
tác giả Vĩnh Trọng đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng, số 1và 2/2004; Quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội

3


ngũ cán bộ cơ sở trong giai đoạn mới của tác giả Nguyễn Phương Hồng đăng

trên Tạp chí Thông tin và các vấn đề lý luận số 16/2004; Đổi mới công tác
cán bộ của tác giả Trần Hậu Thành đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng số
8/2006; Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước của tác giả Hồ Xuân Quang đăng trên Tạp chí
Lịch sử Đảng, số 6/2007; Tư cách người cán bộ trong tác phẩm Sửa đổi lối
làm việc của Hồ Chí Minh của tác giả Ngô Đăng Tri đăng trên Tạp chí Dân
vận, số 5- 2009...
Liên quan đến đề tài còn có một số luận văn, luận án đã công bố của
các học viên cao học, nghiên cứu sinh lấy xây dựng đội ngũ cán bộ làm đề
tài nghiên cứu như:
- Luận án phó tiến sĩ khoa học lịch sử của tác giả Nguyễn Mậu Dựng:
“Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ các cấp ở Tây
Nguyên hiện nay” (1996).
- Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Hiệp: “Nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ chính trị phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai
đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” (2000);
- Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở từ năm 1997 đến năm 2006 của tác giả Bùi Ngọc Hà (Luận văn
thạc sỹ Lịch sử Đảng, 2007)....
Trong các bài viết, các công trình nghiên cứu vừa kể trên, các tác giả đã
đề cập đến vai trò quan trọng của công tác cán bộ cấp cơ sở, sự cần thiết phải
đổi mới công tác cán bộ, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở, đề
xuất một số giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến về cán bộ và công tác
cán bộ ở tỉnh Phú Yên
Có thể kể đến công trình Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Yên (1975-2000),
Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Phú Yên (2007); Phú Yên thế và lực trong thế kỷ XXI,

4



của Công ty cổ phần Thông tin kinh tế đối ngoại. (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2006); Địa chí Phú Yên, của Ủy Ban nhân dân tỉnh Phú Yên, (Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2003).
Phú Yên 10 năm xây dựng và phát triển, vững bước tiến vào thế kỷ mới
của tác giả Nguyễn Văn Trúc đăng trên Tạp chí Cộng sản số 18/1999;
Các công trình trên chủ yếu nghiên cứu Phú Yên qua các thời kỳ lịch sử
trên nhiều phương diện, trong đó có đề cập đến những vấn đề có liên quan tới
đề tài. Chẳng hạn đặc điểm về điều kiện tự nhiên, về kinh tế - xã hội... tác
động đến công tác cán bộ cơ sở; về thực trạng đội ngũ cán bộ cơ sở ở từng
giai đoạn cách mạng ở tỉnh Phú Yên.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên
cứu một cách hệ thống về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở Phú
Yên từ năm 2000 đến năm 2010 dưới góc độ lịch sử Đảng. Mặc dù vậy, các
ấn phẩm của các tác giả nêu trên là nguồn tư liệu tham khảo quý giá để luận
văn kế thừa, tiếp tục giải quyết mục đích và nhiệm vụ đặt ra của đề tài
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn: Nghiên cứu quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở trong những năm 2000 – 2010 của Đảng bộ tỉnh Phú Yên, để góp
phần làm sáng tỏ hơn vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ cơ sở trong sự
nghiệp cách mạng, đồng thời qua đó rút ra kinh nghiệm phục vụ yêu cầu tiếp
tục xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở Phú Yên đáp ứng với nhiệm vụ của
địa phương trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
- Làm rõ tầm quan trọng và yếu tố tác động tới công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở của tỉnh Phú Yên trong thập niên đầu thế kỷ XXI.

5



- Hệ thống, khái quát hóa quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Yên vận dụng
đường lối, chủ trương của Đảng để lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ
sở của tỉnh từ năm 2000 đến năm 2010 (chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện)
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế của Đảng bộ Phú Yên trong qúa
trình xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ năm 2000 đến năm 2010.
- Rút ra một số kinh nghiệm về lãnh đạo công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ cấp xã phường ở Phú Yên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn:
- Hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Yên đối với công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở (cấp xã, phường) của tỉnh trong 10 năm từ
2000 đến năm 2010.
- Thực tiễn công tác chỉ đạo thực hiện công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở của tỉnh Phú Yên từ năm 2000 đến năm 2010.
Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Nghiên cứu quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
của Đảng bộ tỉnh Phú Yên.
Về không gian: Địa bàn tỉnh Phú Yên.
Về thời gian: Nghiên cứu hoạt động xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
từ năm 2000 đến năm 2010, của Đảng bộ tỉnh Phú Yên.
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
Cơ sở lý luận:
Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tử tưởng
và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Chính vì vậy những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ và công tác cán bộ là cơ sở lý luận và
phương pháp luận để giải quyết đề tài luận văn.

6



Phương pháp nghiên cứu: là phương pháp lịch sử kết hợp với phương
pháp logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê,
phương pháp điều tra thực tế, ….
Nguồn tài liệu:
Nguồn tài liệu là điều kiện tiên quyết đảm bảo tính khả thi của một luận
văn. Luận văn được thực hiện trên cơ sở các nguồn tài liệu chủ yếu sau:
Các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ. Các văn
kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới liên
quan đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ. Đặc biệt là các văn kiện đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ XII, XIII, XIV, XV. Các nghị quyết,
chỉ thị, báo cáo tổng kết hàng năm của Tỉnh ủy Phú Yên về công tác cán bộ
từ năm 2000 đến năm 2010, và một số bài viết có liên quan về Phú Yên. Đây
là nguồn tư liệu cơ bản để thực hiện đề tài và được khai thác từ nhiều nguồn
khác nhau, nhưng chủ yếu là tại Trung tâm Lưu trữ của Tỉnh ủy Phú Yên,
UBND tỉnh Phú Yên, Thư viện tỉnh Phú Yên...
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các công trình nghiên cứu khoa học, các
chuyên luận, luận văn, luận án, các bài báo của các nhà khoa học có liên quan
đến luận văn của các tác giả đã được công bố
6. Đóng góp khoa học của đề tài
- Góp phần tổng kết thực tiễn một nội dung quan trọng trong quá trình
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Yên trong công cuộc đổi mới.
- Làm sáng rõ hơn vai trò của cán bộ cấp cơ sở nói chung, trên địa bàn
tỉnh Phú Yên nói riêng đối với sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn cách
mạng hiện nay.
- Những kinh nghiệm được đúc kết góp thêm cơ sở lịch sử cho quá
trình bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách về xây dựng cán bộ cấp cơ
sở nói chung, ở tỉnh Phúa Yên nói riêng.

7



7. Bố cục luận văn
Bố cục luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài
liệu tham khảo luận văn chia thành 3 chương 6 tiết.

8


Chƣơng 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ YÊN
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005
1.1.Vai trò và thực trạng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở (cấp xã, phƣờng)
ở Phú Yên trƣớc năm 2000
1.1.1. Vai trò của cán bộ cấp cơ sở đối với công cuộc
đổ i mới đấ t nước
Đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ luôn có một vị trí và tầm quan trọng
đặc biệt trong sự nghiệp cách mạng của quần chúng nhân dân. Nhìn vào lịch
sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, ở bất cứ thời kỳ nào chúng ta
cũng thấy các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đều đề cao vai trò của
cán bộ.
C.Mác và Ăngghen là những người đặt nền móng cho vấn đề cán bộ
của giai cấp vô sản. Theo hai ông vấn đề cán bộ hoàn toàn xuất phát từ thực tế
khách quan do lịch sử đòi hỏi, mỗi thời đại xã hội muốn phát triển được đều
phải có đội ngũ cán bộ tương ứng cho thời kỳ lịch sử của mình. Nghĩa là công
tác cán bộ cũng phải vận động và phát triển theo sự vận động của cách mạng.
Hai ông đã chỉ cho cách mạng vô sản thấy rằng; để cách mạng vô sản thành
công thì Đảng cộng sản phải quan tâm đến công tác cán bộ, hai ông cho rằng;
“Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư

tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [38; tr.181].
Bước lên vũ đài chính trị trong hoàn cảnh mới từ cuộc đấu tranh giai
cấp của giai cấp vô sản, cộng với cuộc đời hoạt động sôi nổi không mệt mỏi
của mình. V.I.Lênin là minh chứng hùng hồn cho vai trò của cán bộ và công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Lênin đã chỉ ra một cách sâu sắc và khoa học
về tầm quan trọng của vấn đề cán bộ trong việc thực hiện mục tiêu có tính
cương lĩnh của Đảng. Ngay từ khi thành lập Đảng kiểu mới của giai cấp công

9


nhân V.I.Lênin đã rất chú ý đến vấn đề cán bộ. Người khẳng định “Trong lịch
sử chưa hề có giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo
ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên
phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”[45; tr.473]. Từ việc
phân tích sâu sắc những bài học lịch sử, Lênin chỉ ra rằng: vấn đề cán bộ, lựa
chọn bố trí vào cương vị lãnh đạo là nhiệm vụ quan trọng nhất của Đảng,
Lênin gọi đó là “cái chốt” của tình hình.
Như vậy, qua tư tưởng của những nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng và yêu cầu khách quan của
nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và nó phải thường xuyên được
đổi mới nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ phù hợp với yêu cầu trong từng
giai đoạn cách mạng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm đến vai trò to lớn của cán bộ, công tác cán bộ và xây dựng đội
ngũ cán bộ có đủ phẩm chất năng lực và trình độ. Người cho rằng: “Cán bộ là
gốc của mọi công việc” [39; tr.269], “Công việc thành công hay thất bại đều
do cán bộ tốt hay kém” [39; tr.240]. Người lý giải một cách cặn kẽ vai trò
“cái gốc” của cán bộ thông qua những bài nói, bài viết và việc làm của Người.
Như vậy, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, cán bộ không chỉ là người vạch
ra đường lối chính sách mà còn có vai trò quyết định trong việc tổ chức thực

hiện đường lối đó, Người nói “Cán bộ là người mang chính sách của Chính
phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì dù chính sách
hay cũng không thể thực hiện được” “Cán bộ là một dây chuyền của bộ máy,
nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ
máy cũng tê liệt” [39; tr.54]. Điều này, khẳng định chất lượng đội ngũ cán bộ
là nhân tố quyết định việc cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng vào đời
sống xã hội. Người cho rằng: Cán bộ phải sâu sát với quần chúng, nắm bắt và

10


phản ánh kịp thời tình hình đời sống, tâm tư tình cảm, nguyện vọng của nhân
dân với Đảng và Nhà nước để đề ra chính sách phù hợp với thực tiễn khách
quan, hợp với lòng dân. Người viết: “Cán bộ là những người đem chính sách
của Đảng của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng
thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng cho Chính phủ hiểu rõ,
để đặt chính sách cho đúng”[39; tr.269]. Như vậy, cán bộ là cầu nối giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân, là người truyền đạt và tổ chức nhân dân thực
thi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời nắm
bắt và phản ánh thông tin từ phía nhân dân để Đảng và nhà nước có căn cứ
hoạch định, điều chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách. Đối với cán bộ cơ
sở vai trò này là rất quan trọng, bởi đây là đội ngũ cán bộ gần gủi nhân dân
nhất, hàng ngày tiếp xúc với dân, thường xuyên nắm bắt tâm tư nguyện vọng
của dân.
Và trong Di chúc, Người căn dặn toàn Đảng: “Đảng là Đảng cầm
quyền, mỗi đảng viên, cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải giữ gìn Đảng thật sự trong
sáng, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân”.
Quán triệt và thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh về tiêu chuẩn cán bộ và công tác cán bộ. Từ khi thành lập đến nay,
Đảng ta luôn xác định vấn đề cán bộ là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược
đối với cách mạng Việt Nam. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã xác định: “Đổi
mới đội ngũ cán bộ có nghĩa là đánh giá, lựa chọn, bố trí lại đi đôi với đào
tạo, bồi dưỡng để có được một đội ngũ cán bộ có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất
và năng lực lãnh đạo, quản lý ngang tầm nhiệm vụ” [16; tr.132].
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Nghị quyết Hội nghị
lần thứ ba BCH Trung ương khóa VIII xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết

11


định sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ là khâu then chốt trong xây dựng Đảng” [19; tr.166].
Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008, tại điểm 3 điều 4 xác định:
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ
chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu phát triển của tỉnh, thì vai trò
của đội ngũ cán bộ cơ sở của tỉnh Phú Yên lại càng có vị trí quan trọng, thể
hiện trên các phương diện:
- Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở giữ vai trò quyết định trong việc triển khai
tổ chức thực hiện và đưa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước vào đời sống xã hội tại cơ sở, là những người giữ vai trò trung tâm tại cơ
sở. Do tính chất công việc của cấp xã, họ vừa giải quyết công việc hàng ngày,
vừa phải quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, lại phải nắm tình hình
thực tiễn địa phương để từ đó đề ra kế hoạch, chủ trương, biện pháp đúng đắn,

thiết thực, phù hợp.
- Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở là những người trực tiếp, gắn bó với nhân
dân, có mối quan hệ chặt chẽ với nhân dân. Họ là người thường xuyên, trực
tiếp triển khai, hướng dẫn và vận động nhân dân thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Nhiệm vụ của họ rất nặng nề, vai trò
của họ có tính then chốt xét cả trong quan hệ giữa Đảng với dân, giữa công
dân với Nhà nước. Thực tế đã chứng minh, đội ngũ cán bộ cơ sở có vai trò
quan trọng trong việc phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị, tạo dựng các
phong trào cách mạng của quần chúng, góp phần thực hiện thắng lợi các mục

12


tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Như vậy, đường lối
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước có đi vào đời sống
xã hội và trở thành hiện thực trên địa bàn tỉnh Phú Yên hay không là tùy
thuộc vào sự vận động, tuyên truyền nhân dân thực hiện của đội ngũ cán bộ
cơ sở.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của cơ sở và cán bộ cơ sở, việc xây
dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở vững mạnh, có đầy đủ phẩm chất, năng lực,
nhất là năng lực trong thực tiễn là vấn đề quan trọng. Đúng như Lênin đã
khẳng định “Cần đề bạt một cách có hệ thống những người đã được thử thách
thông qua thực tiễn” [46; tr.178]. Thực tiễn nước ta khi đề cập đến vấn đề
này, Chủ tich Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ công chức ở cơ sở không
những là cái khâu liên hệ mà còn là cái kho dồi dào cho Đảng lấy thêm lực
lượng mới, nếu đội ngũ này phát triển và cũng cố thì Đảng sẽ phát triển và
cũng cố bằng không Đảng sẽ khô héo” [42; tr.237].
Như vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cở sở ở Tỉnh Phú Yên vững
mạnh là đòi hỏi khách quan vừa là cở sở thực hiện chiến lược cán bộ của thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Phú Yên hiện nay, góp phần thúc đẩy tỉnh

Phú Yên hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, an ninh,
quốc phòng một cách bền vững và ổn định.
1.1.2. Những yế u tố tác đôṇ g đế n quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ
cấ p cơ sở ở Phú Yên.
Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh Phú Yên
Phú Yên là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung bộ. Sau khi đất
nước hoàn toàn thống nhất, ngày 03/11/1975, tỉnh Phú Yên sáp nhập với tỉnh
Khánh Hòa thành tỉnh Phú Khánh. Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 5, Quốc hội
khóa VII, tỉnh Phú Khánh được chia tách thành tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh
Hòa. Ngày 1 tháng 7 năm 1989, tỉnh Phú Yên được tái lập. Địa giới hành chính

13


của tỉnh: phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Nam giáp tỉnh Khánh Hòa, phía
Tây giáp tỉnh Gia Lai và Đắk Lắk, phía Đông giáp biển Đông. Tỉnh Phú Yên
nằm trong vùng trọng điểm kinh tế của khu vực duyên hải Nam Trung Bộ.
Phú Yên là tỉnh có địa hình khá đa dạng: núi, đồi, cao nguyên, đồng
bằng và biển khơi. Địa hình Phú Yên thấp dần từ tây sang đông. Trong đó
đồng bằng lớn nhất thuộc hạ lưu sông Ba với diện tích 500 km2. Đây là đồng
bằng màu mỡ nhất do nằm ở hạ lưu sông Ba chảy từ các vùng đồi bazan ở
thượng lưu đã mang về lượng phù sa màu mỡ, thuận lợi cho việc phát triển
nông nghiệp.
- Điều kiện kinh tế - xã hội
Qua những lần thay đổi địa giới hành chính và thiết lập các đơn vị hành
chính mới, đến nay, tỉnh Phú Yên có 1 thành phố tỉnh lỵ là thành phố Tuy Hòa
và 8 đơn vị hành chính cấp huyện (1 thị xã và 7 huyện), với 112 đơn vị cấp xã
(gồm 16 phường, 8 thị trấn và 88 xã). Với dân số 861.993 người, mật độ dân
số là 170 người/km2 (số liệu thống kê năm 2010). Phú Yên có hơn 20 dân tộc
sống chung với nhau, đông nhất là dân tộc Kinh (chiếm khoảng 94%), ngoài

ra còn có các dân tộc thiểu số khác, như Chăm, Êđê, Ba Na, Hrê, Hoa,
Mnông, Raglai là những tộc người đã sống lâu đời trên đất Phú Yên. Nguồn
lao động dồi dào, số người trong độ tuổi lao động chiếm hơn 71,5 % dân số.
Tỷ lệ lao động lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 64,9%, công nghiệp xây dựng chiếm 13,4%, dịch vụ chiếm 21,7% dân số.
Phú Yên khi mới tái lập là một tỉnh nghèo, kinh tế tăng trưởng thấp, quy
mô nền kinh tế còn nhỏ bé, nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính. Nhưng
bằng sự đồng thuận và ý chí quyết tâm cao, với chiến lược phát triển đúng đắn
cùng những bước đi phù hợp, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Phú
Yên từng bước khắc phục khó khăn, phát huy tiềm năng thế mạnh của mình
đã đạt được những bước tiến tích cực trên lĩnh vực kinh tế.

14


Giáo dục và Đào tạo: dù còn nhiều khó khăn về kinh tế nhưng lãnh đạo
và nhân dân tỉnh vẫn luôn dồn hết tâm sức và tạo mọi điều kiện tốt nhất để
cho con em mình trau dồi tri thức. Nguồn ngân sách đầu tư cho ngành giáo
dục - đào tạo tăng đều qua các năm, bình quân chiếm khoảng 10% ngân sách
của tỉnh.
Công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân được quan tâm đúng mức,
cơ sở vật chất ngày một được cải thiện, trình độ của y bác sĩ ngày càng được
nâng cao. Ngành Y tế Phú Yên không ngừng phấn đấu nhằm đáp ứng nhu cầu
chăm sóc sức khỏe, khám, chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân, đảm bảo
người dân được chăm sóc sức khỏe với chất lượng tốt nhất.
Trong sản xuất nông nghiệp, cơ cấu cây trồng, vật nuôi từng bước được
chuyển đổi tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa, góp phần đảm bảo an ninh
lương thực; bước đầu hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp; Cơ
cấu kinh tế thủy sản chuyển dịch mạnh mẽ .
Trên lĩnh vực công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, Phú Yên đã quy hoạch
và đầu tư xây dựng ba khu công nghiệp tập trung: Hòa Hiệp, An Phú, Đông

Bắc Sông Cầu và một số cụm điểm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tại các
huyện, thành phố, thu hút trên 3000 cơ sở sản xuất chủ yếu hoạt động trong
lĩnh vực chế biến nông - lâm - thủy sản, giày da, may mặc, sản xuất vật liệu
xây dựng, khai thác khoáng sản, cơ khí, lắp ráp điện tử...
Hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển, công tác đầu tư hạ tầng du
lịch, đa dạng hóa và nâng cao cao chất lượng sản phẩm du lịch đang được chú
trọng với nhiều dự án đầu tư du lịch được cấp phép hoạt động. Thông qua
chương trình liên kết phát triển du lịch với các tỉnh duyên hải miền Trung và
thành phố Hồ Chí Minh, tham gia chương trình du lịch “Con đường di sản thế
giới qua miền Trung”, du lịch Phú Yên bước đầu khởi sắc.
Đánh giá về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Yên

15


Nhìn chung trong những năm qua tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh có
sự phát triển đáng kể, có sự chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế nhất là ngành
công nghiệp và dịch vụ; đời sống nhân dân được ổn định, chất lượng cuộc
sống ngày một được cải thiện, công tác xã hội ngày một được đẩy mạnh, an
ninh quốc phòng được cũng cố vững chắc. Những kết quả này có liên quan
trực tiếp đến sự lãnh đạo, tổ chức hoạt động của đội ngũ cán bộ và công tác
cán bộ của Tỉnh.
Bên cạnh những thuận lợi, vẫn còn rất nhiều khó khăn, thách thức đặt ra
cho Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Yên trong quá trình phát triển như: Phú
Yên còn thiếu nhiều cán bộ có trình độ cao, tỉ lệ cán bộ viên chức lao động có
trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học của Phú Yên còn thấp.
Vì thế, trong những năm qua, Phú Yên chưa thực hiện đầu tư được
nhiều công trình trọng điểm và các dự án lớn mang tính đột phá cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, cũng như nâng cao đời sống của nhân dân địa phương.
Chính vì vậy, để thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay và trong giai
đoạn tới, thì công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh, nhất là đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở là hết sức quan trọng. Vì vậy, đòi hỏi công tác cán bộ cần phải
có những chiến lược lâu dài và những bước đi, biện pháp phù hợp.
1.1.3. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở Phú
Yên trước năm 2000
Tỉnh Phú Yên sau khi tái lập đứng trước nhiều khó khăn to lớn, xuất
phát điểm của nền kinh tế - xã hội thấp, kết cấu hạ tầng kỹ thuật yếu kém, lại
nằm trong vùng kinh tế chậm phát triển, bất lợi cho việc thu hút nguồn vốn
đầu tư nước ngoài, hầu hết các cơ sở giáo dục lại nằm ở tỉnh Khánh Hòa, lao
động chưa có việc làm và thiếu việc làm chiếm tỉ lệ cao, hàng năm thiên tai
thường xảy ra gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến đời sống của

16


nhân dân. Đặc biệt là khó khăn về đội ngũ cán bộ do số lượng cán bộ về công
tác tại Phú Yên chỉ chiếm 24,5% số cán bộ tỉnh Phú Khánh cũ; một số sở,
ban, ngành và nhiều lĩnh vực công tác thiếu cán bộ.
Tuy còn gặp nhiều khó khăn, thử thách về nhiều mặt, nhưng dưới sự
lãnh đạo của Tỉnh uỷ, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã tập trung mọi nguồn
lực nhằm khắc phục khó khăn, phát huy thuận lợi, tiềm năng và nguồn lực
hiện có của tỉnh, để xây dựng đội ngũ cán bộ, phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh và đã đạt được những thành tựu nhất định trên các lĩnh vực.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của công tác cán bộ, nên
ngay sau ngày tái lập tỉnh các cấp ủy và tổ chức Đảng đã quan tâm nhiều đến
công tác cán bộ, thấy rõ sự cần thiết và bức bách của công tác cán bộ. Vì vậy,
Đảng bộ tỉnh đã chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,
nhờ vậy, đến năm 1995, tỉnh đã có một số lượng lớn cán bộ cấp cơ sở được
đào tạo bồi dưỡng, “số cán bộ có trình độ trung cấp và đại học chiếm 28,6%,

trung cấp chính trị 38,9%, qua bồi dưỡng quản lý nhà nước 19,3%” [12; tr.
20]
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn nhiều khó
khăn thử thách, đánh giá tình hình 5 năm (1991-1995) của tỉnh. Báo cáo chính
trị của BCH Đảng bộ tỉnh cũng nhấn mạnh những yếu kém tồn tại trong công
tác xây dựng Đảng nói chung và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói riêng.
Điều này đòi hỏi tỉnh phải có sự đột phá trong công tác cán bộ, nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ cấp cơ sở
ngang tầm nhiệm vụ trong điều kiện mới.
Trước thực trạng đó, quán triệt tinh thần của Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VII của Đảng, vấn đề cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ đã được
Đảng bộ Phú Yên rất quan tâm. Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XII
(5/1996), đã đề ra nhiệm vụ trong công tác cán bộ “Thực hiện đúng đường lối,

17


chính sách, chế độ công tác cán bộ của Đảng đã quy định, đảm bảo Đảng trực
tiếp thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, quản lý đội ngũ cán bộ.
Gắn việc chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng các cấp với thực hiện từng
bước bố trí, sắp sếp, phân công công tác đúng người, đúng việc, phát huy sở
trường và năng lực cán bộ. Đề bạt, bổ nhiệm cán bộ đúng lúc, giao việc đúng
tầm theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị. Xây dựng, quy hoạch cán bộ đến năm
2010, trước hết là quy hoạch cán bộ chủ chốt các cấp, gắn công tác quy hoạch
với đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chính sách cán bộ” [12; tr.57]. Đồng thời
Đại hội cũng đề ra yêu cầu về xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn mới
“Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác cán bộ, thực hiện có hiệu quả công
tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, trước hết là cán bộ chủ
chốt. Tạo sự chuyển biến quan trọng và đồng bộ về nâng cao trình độ kiến
thức, năng lực công tác, phẩm chất đạo đức của cán bộ đủ sức đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới” [12; tr.136]. Thực hiện Nghị quyết của
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, công tác cán bộ của tỉnh đã có những
chuyển biến tích cực và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là từ khi
thực hiện Nghị quyết TW3, Nghị quyết TW7 khóa VIII của Trung ương về
công tác tổ chức và cán bộ, và Nghị quyết số 02-NQ/TU (khóa XII), của Tỉnh
ủy. Tình hình kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh ổn định và có
bước phát triển, công tác tổ chức và công tác cán bộ của Đảng bộ tỉnh từ tỉnh
đến cơ sở từng bước được đổi mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tổ chức và cán
bộ vẫn còn tồn tại một số khuyết điểm, yếu kém: Công tác đào tạo, bồi dưỡng,
đánh giá, quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng, bố trí sắp xếp cán bộ ở các cấp, các
ngành còn bất cập. Đây là khâu yếu nhưng lại chậm được khắc phục “Chưa
làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, luân chuyển cán bộ, nhất là cán bộ lãnh
đạo và quản lý; việc bố trí cán bộ còn tình trạng chắp vá, bị động” [63; tr

18


365]. Mặt khác các chính sách đối với cán bộ cơ sở chưa phù hợp, chậm đổi
mới, chưa động viên được sự nổ lực khắc phục khó khăn, phấn đấu vươn lên
hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ cơ sở.
Trong đội ngũ cán bộ vẫn còn một số cán bộ trình độ, năng lực thấp. Số
cán bộ am hiểu về khoa học kỹ thuật, các ngành kinh tế nông nghiệp, ngư
nghiệp thiếu. Đến năm 1998 vẫn còn 24,6% cán bộ chuyên trách có trình độ
văn hóa phổ thông cơ sở, 51,2% cán bộ cấp cơ sở chưa qua đào tạo về chuyên
môn, nghiệp vụ, 39,4 % cán bộ chưa được đào tạo về trình độ lý luận chính trị
và 58,5% cán bộ công chức cấp cơ sở chưa được bồi dưỡng về quản lý nhà
nước, số cán bộ chuyên trách 46 tuổi trở lên chiếm tỉ lệ 53%. Riêng ở khu vực
3 huyện miền núi Đồng Xuân, Sơn Hòa và Sông Hinh chất lượng cán bộ,
công chức chuyên trách còn nhiều bất cập. Số cán bộ chuyên trách tuổi từ 46

trở lên chiếm tỉ lệ 56%, chưa qua đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ chiếm tỉ lệ
lên tới 64%.
Cán bộ chủ chốt ở nhiều xã, phường, thị trấn còn hạn chế nhiều mặt,
không đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp phát sinh ở cơ sở. Phẩm chất,
đạo đức, lối sống của một số cán bộ chưa trong sạch, một số cán bộ còn thiếu
trách nhiệm trong công tác, thiếu thực tiễn, thực hiện chưa tốt công tác vận
động quần chúng.
Ở một số địa phương, một số cán bộ cấp xã hoạt động chưa thực sự dựa
vào pháp luật, đôi khi còn giải quyết công việc theo ý muốn chủ quan, việc
ứng xử với nhân dân, với cộng đồng còn nặng về tập quán, thói quen, tình
cảm, một số cán bộ cấp cơ sở tư tưởng dao động, không dám làm việc trong
những thời điểm “nóng”,… một số ít cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm với
nhân dân, chưa thật sự tâm huyết với công việc, một số ít có biểu hiện suy
thoái đạo đức, mất đoàn kết, cơ hội, bè phái, cục bộ gia đình, dòng họ đã làm
giảm lòng tin của cán bộ và nhân dân.

19


×