ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------
NGUYỄN THỊ THU THỦY
ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NGÃI LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.03.15
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGÔ ĐĂNG TRI
Hà Nội-2014
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------
NGUYỄN THỊ THU THỦY
ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NGÃI LÃNH ĐẠO XÂY
DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.03.15
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Đăng Tri
Hà Nội-2014
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Ngô Đăng Tri.
Các số liệu, tài liệu nêu ra trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính
khách quan, khoa học, các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 24 tháng 04 năm 2014
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thu Thủy
3
MỞ ĐẦU,
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đoàn kết là nhân tố tạo nên sức mạnh to lớn cho một chính đảng, một
dân tộc, một quốc gia. Đại đoàn kết toàn dân tộc là cội nguồn sức mạnh đảm
bảo sự trường tồn và đi tới mọi thắng lợi trong công cuộc dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam, trở thành truyền thống xuyên suốt lịch sử Việt
Nam.
Truyền thống đoàn kết dân tộc đã được Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo giữ gìn, phát huy cao độ trong việc thành lập các đoàn thể nhân dân, tập
hợp toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam. Từ cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với nhiều tên gọi khác
nhau đã tập hợp được mọi giai cấp, tầng lớp, dân tộc, đứng lên đấu tranh
giành chính quyền, thống nhất và xây dựng đất nước, đưa Việt Nam có vị trí
ngày càng cao trên trường quốc tế.
Hiện nay, khi đất nước chuyển mạnh sang thời kỳ đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vấn đề tăng cường đoàn kết
trong nước, đoàn kết quốc tế để phát huy sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại
càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn
kết dân tộc trở thành một chủ trương lớn của Đảng, một chính sách trọng yếu
của Nhà nước ta hướng tới mục tiêu bảo đảm sự thống nhất cao độ giữa lợi
ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân, gia đình để tạo nên
sức mạnh tổng hợp phát triển bền vững đất nước. Đó là sự nghiệp của dân tộc,
của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Sự lãnh đạo của Đảng thông qua đường lối, chủ trương phản ánh đúng
nguyện vọng, quyền lợi của quần chúng, tuyên truyền vận động, giáo dục
4
quần chúng để mọi người nhận thức được và tự giác tham gia vào khối đại
đoàn kết.
Nằm trong sự phát triển chung của cả nước, tỉnh Quảng Ngãi ngày
càng thay đổi. Từ một vùng đất nghèo, luôn gặp thiên tai khắc nghiệt cũng
như những khó khăn sau ngày tách tỉnh (1989), dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh, nhân dân Quảng Ngãi đã nêu cao tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường,
vượt lên bao thăng trầm, xây dựng quê hương ngày càng văn minh, giàu đẹp,
góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên
bên cạnh những mặt tích cực, Quảng Ngãi vẫn đang tồn tại những thách thức,
tác động đến việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc của khu vực
nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.
Để Quảng Ngãi không ngừng phát triển một cách bền vững, việc xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Quảng Ngãi đã và đang đòi hỏi phải có
sự quan tâm với những chủ trương, biện pháp mới của Đảng bộ và sự thực thi
hiệu quả của cả hệ thống chính trị cũng như sự hưởng ứng sâu rộng của toàn
dân.
Nhằm góp phần nhỏ vào nhiệm vụ chung đó, việc nghiên cứu, tổng
kết sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc của
Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi thời gian qua, nhất là mười năm gần đây nhằm
nhận rõ hơn những thành tựu để phát huy, hạn chế để khắc phục và rút ra
những kinh nghiệm vận dụng vào hiện tại là rất quan trọng, có ý nghĩa thiết
thực cả về mặt khoa học lịch sử Đảng và cả về ứng dụng thực tiễn đối với địa
phương.
Với mong muốn đó, là một học viên cao học chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, công tác tại Quảng Ngãi, tôi quyết định chọn
nghiên cứu vấn đề « Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lãnh đạo xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc từ năm 2001 đến năm 2010 » làm đề tài cho bản luận
văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
5
Đại đoàn kết là vấn đề cực kỳ có ý nghĩa nên đã có nhiều cơ quan,
nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về xây
dựng khối đại đoàn kết ở tỉnh Quảng Ngãi còn rất khiêm tốn. Mặc dù chưa có
một công trình nghiên cứu về « Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lãnh đạo xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ năm 2001 đến năm 2010 », nhưng đã có
nhiều công trình nghiên cứu liên quan gián tiếp, hoặc trực tiếp trên một số
khía cạnh, được công bố với nhiều góc độ và phạm vi khác nhau.
- Những công trình chung về địa phương Quảng Ngãi trong đó có đề
cập tới vấn đề đại đoàn kết:
Văn hiến Quảng Ngãi truyền thống và hiện đại của Trung tâm nghiên
cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc do GS Hoàng Chương Chủ biên
(2006), NXB văn hóa dân tộc; Quảng Ngãi 10 năm đầu thế kỷ XXI của Công
ty CP truyền thông quốc tế Phương Đông xanh, NXB Thông tấn xã Việt
Nam ; Quảng Ngãi 30 năm xây dựng và phát triển 1975-2005, của Ủy ban
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2005), Sở văn hóa thông tin tỉnh Quảng Ngãi ;
Quảng Ngãi 10 năm đổi mới, của Tỉnh ủy Quảng Ngãi- Ban tuyên giáo tỉnh
ủy (2000),…
Các tài liệu này chủ yếu tiếp cận ở góc độ về văn hóa, dân cư.
Hoặc: Lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam tỉnh Quảng
Ngãi 1930-2000 của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Quảng Ngãi (2004),
Quảng Ngãi. Cuốn sách này chủ yếu đề cập đến lịch sử Mặt trận, có đề cập
đến xây dựng khối đại đoàn kết nhưng từ năm 1930-2000.
- Các công trình có liên quan:
Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, của Hồ Chí Minh
(2003), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; Tư tưởng Hồ Chí Minh và con
đường cách mạng Việt Nam, của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Chủ biên)
(2000), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, của Phạm Hồng Chương (2003),
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; Góp phần nghiên cứu Lịch sử Đảng Cộng
6
sản Việt Nam, của PGS, TS. Trương Minh Dục (2009), NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội; Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam quá khứ và hiện tại, của
PGS.TS.Trần Hậu (2011) Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội; Đại đoàn
kết dân tộc phát huy nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế thực hiện
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, của Vũ Oanh (1998), NXB.Chính trị
quốc gia, Hà Nội ; Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam những chặng đường
vẻ vang, của Ủy ban Trung ương.Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2011), NXB
Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội ; „„Sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân” của GS,TS.Nguyễn Phú Trọng (2005), trong sách: “Đảng
Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước, Nxb.Chính trị Quốc
gia, Hà Nội…
Các công trình này đã làm sáng tỏ hơn lý luận về xây dựng khối đại
đoàn kết ở Việt Nam, khẳng định tầm quan trọng và vai trò của khối đại đoàn
kết dân tộc đối với cách mạng Việt Nam ở những thời kỳ lịch sử khác nhau.
Đây là những công trình mang tính lý luận chung.
- Các Luận án Tiến sĩ, Luận văn thạc sĩ:
Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh được thực hiện trong kháng
chiến chống Pháp xâm lược (1945-1954), của Khuất Thị Hoa (2000) Luận án
Tiến sĩ; Đảng lãnh đạo xây dựng khối Đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), của Lê Thị Hòa Luận án Tiến sĩ Lịch sử;
Đảng lãnh đạo tổ chức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ năm 1993
đến năm 2007 của Lê Mậu Nhiệm (2008), Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử;
Đảng xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc từ 1986 đến nay, của Phạm Văn
Búa (2004), Luận văn Thạc sĩ Lịch sử; Đảng bộ Đắc Lắc lãnh đạo xây dựng
khối đoàn kết dân tộc thời kỳ 1954-1975, của Bùi Ngọc Trung (1999), Luận
văn thạc sĩ lịch sử; Đảng bộ tỉnh Sơn La lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc (1996-2006), của Phạm Xuân Thu (2009), Luận văn Thạc sĩ lịch sử...
Đây là những công trình thể hiện một cách nhìn tổng thể về công tác
lãnh đạo, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng qua các thời kỳ lịch
7
sử. Tác giả luận văn này có thể học hỏi được cách thức tiếp cận, xử lý các
nguồn tư liệu để nghiên cứu về khối đại đoàn kết dân tộc.
Các công trình nghiên cứu về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở
các tỉnh miền núi có nhiều dân tộc sinh sống giúp học viên hiểu rõ thêm cách
thức tiếp cận, nghiên cứu, xử lý tài liệu đối với một địa phương cụ thể khi
nghiên cứu về vấn đề đại đoàn kết dân tộc ở vùng cao.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên là nguồn tài liệu quan
trọng để người viết tham khảo, kế thừa khi nghiên cứu đề tài của mình. Tuy
nhiên đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề
« Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
từ 2001 đến 2010 ». Việc nghiên cứu, làm sáng tỏ, bổ sung tư liệu về khối đại
đoàn kết ở tỉnh Quảng Ngãi là rất cần thiết, nhất là về các vấn đề sau :
+ Tập hợp và hệ thống hóa tư liệu chủ trương, biện pháp của Đảng bộ
tỉnh Quảng Ngãi trong lĩnh vực xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ
năm 2001 đến năm 2010.
+ Phục dựng quá trình Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thời gian trên.
+ Xác định những thành công và hạn chế và nguyên nhân của Đảng bộ
tỉnh Quảng Ngãi trong lĩnh vực công tác xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc ở địa phương trong 10 năm từ năm 2001 đến năm 2010.
+ Đúc kết một số kinh nghiệm trong xác định chủ trương, trong chỉ
đạo thực hiện xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng bộ tỉnh
Quảng Ngãi nhằm phục vụ thực tiễn hiện tại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
-Mục đích:
Nghiên cứu làm sáng rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lãnh đạo
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ năm 2001 đến năm 2010; từ đó,
rút ra những nhận xét, những kinh nghiệm chủ yếu phục vụ cho quá trình xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở tỉnh Quảng Ngãi hiện nay.
8
- Nhiệm vụ:
+ Tập hợp và hệ thống hóa các tư liệu lịch sử có liên quan đến đề tài
+ Phục dựng quá trình lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lãnh đạo xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ năm 2001 đến năm 2010.
+ Nhận xét, đánh giá sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng
Ngãi về vấn đề trên.
+ Tổng kết kinh nghiệm lịch sử về vấn đề nghiên cứu để phục vụ thực
tiễn của địa phương.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là sự lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi, từ năm
2001 đến năm 2010 cùng những phong trào quần chúng do Đảng bộ tỉnh
Quảng Ngãi lãnh đạo có liên quan đến vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung : sự lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi
+ Về thời gian : Từ năm 2001 đến năm 2010
+ Về không gian: trong phạm vi tỉnh Quảng Ngãi
5. Cơ sở lý luận, tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu :
- Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc
- Nguồn tài liệu
+ Chủ yếu là các Văn kiện Đại hội, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương của Đảng, các Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi, các Báo cáo
của Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể của tỉnh Quảng Ngãi;
9
+ Các công trình nghiên cứu khoa học của các ngành, các địa phương,
các nhà khoa học, luận án, luận văn liên quan đã được công bố.
+ Tài liệu khảo sát thực tế của tác giả luận văn có có liên quan đến
phạm vi của đề tài.
-Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, kết
hợp với phương pháp lôgic đồng thời vận dụng các phương pháp khác như:
phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê… để nghiên cứu đề tài.
Phương pháp lịch sử chủ yếu dùng ở chương 1 và chương 2, để phục
dựng lại sự kiện lịch sử « Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lãnh đạo xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc từ năm 2001 đến năm 2010 »
Phương pháp Lôgíc chủ yếu dùng ở Mở đầu, chương 3 và kết luận để
tổng quan vấn đề nghiên cứu, để đánh giá, nhận xét, đúc rút kinh nghiệm về
sự kiện lịch sử đã mô tả.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm sáng tỏ quá trình lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi.
- Nêu lên những đánh giá, nhận xét và sự đúc rút kinh nghiệm của tác
giả về quá trình lãnh đạo, chỉ đạo đó của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi nhằm
phục vụ thực tiễn.
- Góp phần bổ sung thêm các tư liệu để làm nguồn tài liệu tham khảo
cho những công trình nghiên cứu tiếp theo về vấn đề xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc ở Quảng Ngãi.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm 3 chương 6 tiết
Chương 1: Chủ trương và sự chỉ đạo về xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2001 đến năm 2005
10
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ năm 2005 đến năm 2010
Chương 3: Nhận xét chung và các kinh nghiệm chủ yếu
11
Chƣơng 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO VỀ XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN
KẾT TOÀN DÂN TỘC CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH QUẢNG NGÃI TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
1.1. Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi về xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc từ năm 2001 đến năm 2005
1.1.1. Tình hình khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Quảng Ngãi đến
năm 2001
- Những nhân tố tác động
Về điều kiện tự nhiên, tỉnh Quảng Ngãi nằm trong vùng duyên hải
miền Trung Việt Nam, ở vị trí 14o 32’-15o 25’ vĩ độ Bắc, 108o 06’-109o 04’ độ
kinh Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía Nam giáp tỉnh Bình Định,
phía Tây giáp tỉnh Kon Tum, phía Tây Nam giáp tỉnh Gia Lai, phía Đông giáp
Biển đông với đường bờ biển dài 130 km, ngư trường rộng lớn với tiềm năng
nuôi trồng, chế biến thủy sản rất lớn.
Tỉnh Quảng Ngãi có diện tích tự nhiên 5.137,50 km2 bằng 1,7% diện
tích tự nhiên của đất nước, với gần 2/3 diện tích núi rừng và đồi trọc. Địa hình
nghiêng từ Tây sang Đông, chia làm 4 khu vực: đồng bằng, trung du, miền
núi, hải đảo, đồng bằng có độ cao 8 độ so với mực nước biển… Với vị trí địa
lý trên, Quảng Ngãi có đầy đủ sông, biển, núi, đồi thấp.
Tỉnh Quảng Ngãi có vịnh Dung Quất được Chính phủ quyết định xây
dựng cảng biển nước sâu và khi công nghiệp trọng điểm của cả miền Trung.
Cách đất liền 18 hải lý, Quảng Ngãi có đảo Lý Sơn rộng khoảng 11 km2, dân
số khoảng 18.000 người. Ngay từ năm 1604, đời vua Lê Kính Tông những cư
dân đầu tiên của làng An Hải (Bình Châu, huyên Bình Sơn) và An Vĩnh (Tịnh
Kỳ, huyện Sơn Tịnh) đã ra đảo lập nghiệp và canh giữ vùng đất thiêng của Tổ
quốc. Đến đầu triều Nguyễn, Lý Sơn đã được biết đến như một hòn đảo tiền
tiêu, có vị trí trọng yếu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
12
Nơi đây còn nhiều vùng đất của những chứng tích lâu đời như khu di
chỉ văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chăm; có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như
Ba Tơ, Sơn Mỹ, Vạn Tường; nhiều cảnh đẹp như Thiên Ấn, bãi biển Mỹ Khê.
Về con người và đời sống văn hóa, xã hội, từ trong buổi bình minh của
lịch sử, vùng đất Quảng Ngãi đã có con người thời đại đá cũ sinh sống. Qua
các nghiên cứu của các nhà khảo cổ học cho thấy cách nay từ 30 vạn năm đến
15 vạn năm, cư dân thời đại đá cũ đã sinh sống trên địa bàn Quảng Ngãi. Đây
là bước khởi đầu văn minh của người nguyên thủy để từ đó phát triển lên thời
đại đá mới.
Tỉnh Quảng Ngãi xưa là đất Việt thường thị, đời Tấn thuộc Tượng
Lâm quận, đời Hán là bờ cõi quận Nhật Nam, đời Đường thuộc Lâm Ấp, đời
Tống là đất Cổ Lũy của Chiêm Thành.
Năm 1402, Hồ Quý Ly chinh phạt Chiêm Thành, vua Chiêm dâng
vùng đất Quảng Ngãi là Cổ Lũy động. Năm 1471, vua Lê Thánh Tôn lấy đất
Đại Chiêm (Quảng Nam) và đất Cổ Lũy lập đạo Quảng Nam, có 3 phủ, 9
huyện. Quảng Ngãi thành một phủ, phủ Quảng Nghĩa. Dưới triều Minh Mạng
thứ 13 (năm 1832), đã đổi trấn thành tỉnh. Trấn Quảng Nghĩa dưới thời Gia
Long được đổi thành tỉnh Quảng Nghĩa gồm có một phủ Tư Nghĩa kiêm lý
huyện Chương Nghĩa và thống hạt hai huyện Bình Sơn và Mộ Hoa. Năm
1832, lần đầu tiên Quảng Ngãi mang danh xưng hành chính là tỉnh.
Từ ngày 10/11/1975 đến ngày 30/6/1989, tỉnh Quảng Ngãi hợp nhất
với tỉnh Bình Định thành tỉnh Nghĩa Bình. Ngày 1/7/1989, tỉnh Nghĩa Bình
tách ra thành tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Bình Định như cũ.
Tính đến nay, Quảng Ngãi có 14 đơn vị hành chính cấp huyện, thành
phố, gồm 1 thành phố (Quảng Ngãi) (thành lập 26.8.2005), 6 huyện miền núi,
6 huyện đồng bằng và một huyện đảo.
Về dân cư, theo Địa chí Quảng Ngãi : người Kinh hiện diện ở tỉnh
Quảng Ngãi bắt đầu chủ yếu từ thế kỷ XV trở đi, đa số là những nông dân ở
13
vùng đồng bằng Bắc bộ, vùng Thanh- Nghệ di cư vào khẩn hoang đất đai, lập
thành làng mạc.
Vùng đồng bằng tỉnh Quảng Ngãi, ngoài dân tộc Việt là đáng kể nhất,
không có cộng đồng nào khác. Ở miền núi có các dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong
sinh sống. Họ là cư dân bản địa lâu đời, sống theo từng khu vực và có sự đan
xen nhất định, có sự giao lưu, buôn bán với nhau và với người Việt ở miền
xuôi lên buôn bán, khai khẩn. Từ sau năm 1975, có một ít người các dân tộc
thiểu số ở miền núi phía Bắc vào, song chỉ là đơn lẻ và hòa nhập vào các cộng
đồng địa phương [9].
Theo Địa chí Quảng Ngãi, nếu tính về dân tộc, ở tỉnh Quảng Ngãi có
đến 17 dân tộc, nhưng thực chất có 4 dân tộc có số lượng cư dân đáng kể. Đến
năm 2005, dân tộc Kinh chiếm 88,8%, Ca dong 0,7%, Hrê 8,58%, Cor 1,8%,
số người thuộc 13 dân tộc thiểu số khác chỉ chiếm 0,12% dân số. Đồng bào
các dân tộc thiểu số Quảng Ngãi nổi tiếng chăm chỉ làm ăn. Với các tộc người
khác, đồng bào rất mến khách, coi trọng đại nghĩa, không gây chiến ai, uy
hiếp ai. Nhưng khi lợi ích, tính mạng bị xâm phạm, quê hương đất nước bị
lâm nạn, các dân tộc luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, chống quân xâm lược.
Đối với dân tộc Kinh (Việt), có thể nói cư dân Việt đầu tiên ở Quảng
Ngãi vào đầu thế kỷ XV. Năm 1402, qua cuộc xung đột giữa phong kiến Đại
Việt và phong kiến Chăm pa, vua Chăm- pa nhượng hai châu Chiêm Động và
Cỗ Lũy Động cho nhà Hồ. Hồ Quý Ly đổi đặt thành 4 châu Thăng, Hoa
(Quảng Nam), Tư, Nghĩa (Quảng Ngãi). Hồ Quý Ly ra lệnh cho dân có của
cải mà không có ruộng đất ở vùng Nghệ An, Thanh Hóa đem vợ con di cư
vào vùng đất mới để khai khẩn; việc di dân này phần nào có tính bắt buộc.
Những người không có của cải, phương tiện canh tác thì nhà Hồ cấp phát trâu
cho họ. Nhà nước vận động dân chúng: ai có trâu đem hiến nộp sẽ được cấp
phẩm tước. Hồ Quý Ly bắt buộc những người nông dân di cư không được
quay về bản quán, sau khi đã thích dấu hiệu lên cánh tay của họ. Các sử sách
14
chép rằng: chữ Châu được thích lên cánh tay những người lưu dân. Đây là
cuộc di dân lần đầu tiên của người Kinh đến vùng đất Quảng Ngãi.
Vùng cư trú hiện này của người Kinh tập trung chủ yếu ở vùng đồng
bằng và các thị tứ, thị trấn ở miền núi tỉnh Quảng Ngãi; một số sinh sống đan
xen với người dân tộc thiểu số ở miền núi.
Hrê là tộc người có số dân đứng thứ hai trong tỉnh Quảng Ngãi sau
dân tộc Kinh. Họ sống tập trung ở các huyện miền núi: huyện Ba Tơ, huyện
Minh Long, huyện Sơn Hà. Ngoài ra, người Hrê sống đan xen với người Kinh
ở vùng tây các huyện Nghĩa hành, huyện Tư Nghĩa. Ở vùng phía đông của
huyện Sơn Tây, phía nam của huyện Trà Bồng.
Nhìn chung, xã hội Hrê vẫn mang tính cộng đồng, đoàn kết gắn bó
giữa các thành viên. Điều này thể hiện ở các hình thức vẫn đổi công, tương
trợ, tục chia sẻ trong ăn uống, lễ tết, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Sự liên kết
giữa các gia đình cũng như sự gắn bó của mỗi thành viên với làng dựa trên
quan hệ thân tộc hoặc quan hệ láng giềng. Vùng cư trú của người Hrê nằm ở
vị trí thông thương với Tây Nguyên xuống và đồng bằng lên nên rất thuận lợi
trong trao đổi buôn bán.
Dân tộc Cor là dân tộc có số dân đông thứ ba trong tỉnh Quảng Ngãi.
Địa bàn cư trú của dân tộc Cor ở các huyện miền núi: Trà Bồng và Tây Trà
của tỉnh Quảng Ngãi. Người Cor có ý thức tự giác tộc người cao, có ý bản địa
và tự hào về truyền thống của tổ tiên. Người Cor có ngôn ngữ thuộc ngữ hệ
Môn- Khơ me và thuộc nhóm ngôn ngữ Bahnaric phía Bắc.
Đặc trưng sinh hoạt kinh tế của người Cor là lấy kinh tế nương rẫy
làm nguồn thu nhập chính. Đồng bào có nhiều giống lúa rẫy. Vùng người Cor
nổi tiếng về giống trầu không và quế.
Cadong là tộc người có số dân đứng thứ tư trong tỉnh Quảng Ngãi, cư
trú ở huyện Sơn Tây (tỉnh Quảng Ngãi). Tộc người Cadong là một nhóm địa
phương của dân tộc Xơ Đăng, thuộc ngữ hệ Môn- Khơme và thuộc nhóm
ngôn ngữ Bahnaric.
15
Kinh tế truyền thống của tộc người Cadong chủ yếu là nông nghiệp
rẫy. Ngoài ra còn có khai thác lâm thổ sản, thủy sản, dệt vải.
Nhìn chung, người dân tộc Cadong bình đẳng, cố kết nhau trong một
khối cộng đồng là làng thống nhất được quy định bởi luật tục.
Từ thời tiền sử, trên vùng đất Quảng Ngãi phần nào đã có sự hợp
chủng hòa huyết giữa các nhóm Nam Đảo và nhóm Nam Á. Từ thế kỷ XV trở
đi, trên vùng đất Quảng Ngãi đã có sự hợp huyết nhất định giữa người Chăm
bản địa và người Kinh từ miền Bắc di cư vào, giữa người thiểu số miền núi và
người Kinh đồng bằng, giữa người Kinh và nhóm người Hoa di cư từ Nam
Trung Hoa đến. Giữa các dân tộc anh em đã có sự giao lưu, trao đổi từ lâu đời
với nhau.
Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tinh thần đoàn kết các dân
tộc trên đất Quảng Ngãi càng được phát huy mạnh mẽ.
Các dân tộc thiểu số Quảng Ngãi cùng nằm trong một khu vực lịch sử
- dân tộc học, có chung một vận mệnh lịch sử lâu đời, đã cùng nhau tham gia
vào những cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột của các triều đại phong kiến
và những cuộc đấu tranh chống xâm lược. Đặc biệt, sống trong vùng thiên
nhiên phong phú, đa dạng nhưng vô cùng khắc nghiệt, đồng bào các dân tộc
miền núi đã xây dựng nên truyền thống đoàn kết, gắn bó cùng nhau để sinh
tồn. Các mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc đã
có từ lâu đời. Nhưng mỗi tộc người đều có những phong tục tập quán và đặc
điểm riêng.
Về kinh tế, quan hệ mua bán, trao đổi giữa các dân tộc thực hiện bằng
nhiều hình thức, đã được xác lập từ lâu đời. Đồng bào trao đổi với nhau các
công cụ lao động như dao, rựa, những sản vật từ săn bắt, hái lượm được hoặc
những đặc sản như quế, trầu, cau, chè… Mối quan hệ giao lưu kinh tế đó diễn
ra không chỉ trong nội bộ tộc người mà còn diễn ra giữa các tộc cận cư, đặc
biệt với người Kinh để trao đổi, mua bán các sản phẩm nông, lâm nghiệp và
các nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống của đồng bào.
16
Về mặt ngôn ngữ, mỗi dân tộc ở miền núi tỉnh Quảng Ngãi không chỉ
nói ngôn ngữ mẹ đẻ, mà còn biết tiếng nói các dân tộc láng giềng. Vì cùng
chung hệ ngôn ngữ Môn- Khơ me nên các dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong rất dễ
dàng hiểu tiếng nói của nhau.
Cho đến nay, sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc thiểu số đã đến
mức trong các hình thức sinh hoạt văn hóa của từng tộc người thật khó khăn
phân biệt rạch ròi đâu là yếu tố bản sắc riêng của tộc người, đâu là yếu tố vay
mượn. Các mối quan hệ giữa các dân tộc miền núi Quảng Ngãi ngày càng
được củng cố và phát triển về mọi mặt, phù hợp với xu thế thời đại và phù
hợp với nguyện vọng chính đáng của bà con các dân tộc miền núi trên con
đường hội nhập đi lên xã hội chủ nghĩa.
Về vấn đề giai cấp, những năm đầu thế kỷ XX cơ cấu xã hội, giai cấp
đã bắt đầu có sự biến đổi sâu sắc. Bên cạnh các giai cấp và tầng lớp trong xã
hội phong kiến như địa chủ phong kiến, nông dân đã xuất hiện các giai cấp
mới gắn liền với chính sách khai thác thuộc địa của Pháp như công nhân, tư
sản, tiểu tư sản thành thị, trí thức Tây học v.v…
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo, chiếm hơn 90% dân số. Họ
là giai cấp bị thực dân, đế quốc cấu kết với bọn quan lại, phong kiến áp bức,
bóc lột nặng nề nhất.
Giai cấp địa chủ phong kiến ở Quảng Ngãi có số lượng không nhiều,
phần lớn là địa chủ vừa và nhỏ, ruộng đất không tập trung, bóc lột nông dân
chủ yếu bằng hình thức tô tức. Phần đông giai cấp địa chủ phong kiến Quảng
Ngãi có lòng yêu nước căm thù giặc, ý thức trước cảnh quê hương bị giày
xéo. Do đó nhiều người đã sớm hòa mình vào quần chúng, tham gia tích cực,
đóng góp sức người, sức của cho các phong trào yêu nước chống Pháp.
Giai cấp công nhân ở Quảng Ngãi còn ít về số lượng, do các cơ sở
công nghiệp chưa phát triển.
Giai cấp tư sản Quảng Ngãi yếu và ít do công nghiệp, thương nghiệp
kém phát triển. Tầng lớp trí thức, tiểu tư sản, ngoài một số ít đỗ đạt cao, làm
17
quan to trong triều đình, trở thành tay sai của thực dân, phong kiến, còn phần
lớn đứng về phía nhân dân lao động. Họ trở thành lực lượng châm ngòi nổ
cho các phong trào yêu nước.
Về vấn đề tôn giáo, Phật giáo là tôn giáo tồn tại lâu đời ở Việt Nam.
Trong số các dân di cư vào khai khẩn ở vùng đất Quảng Ngãi từ thế kỷ XV,
XVI có không ít người là đệ tử hay tín đồ Phật giáo. Thời Pháp thuộc, các
tăng ni phật tử Quảng Ngãi cũng chịu chung số phận nô lệ như người dân
trong nước. Do vậy, trước năm 1945, theo kêu gọi của Mặt trận Việt Minh,
giới đệ tử Phật giáo đã thành lập Hội Phật giáo Cứu quốc. Giới phật tử ở
Quảng Ngãi thành lập Chi hội Phật giáo Cứu quốc. Lực lượng này đã góp
phần cùng nhân dân Quảng Ngãi giành chính quyền thắng lợi trong Cách
mạng tháng Tám 1945. Từ năm 1975, đất nước độc lập, thống nhất đã tạo
thuận lợi cho Phật giáo thống nhất các hệ phái. Năm 1981, các hệ phái Phật
giáo trong cả nước đã tổ chức đại hội, thống nhất làm một và lấy tên là “Giáo
hội Phật giáo Việt Nam”. Đại hội đã thông qua hiến chương, chương trình
hành động và bầu ra các cơ quan lãnh đạo.
Hiện nay, các tín đồ Phật giáo ở Quảng Ngãi tiếp tục phát huy truyền
thống yêu nước, gắn bó trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hăng hái thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và tham gia các phong
trào quần chúng, theo phương châm “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”.
Đạo Thiên Chúa hay Công giáo từ phương Tây truyền vào Việt Nam
vào khoảng thời gian đất nước ta bị chia cắt thành Đàng Ngoài - Đàng Trong
vào thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Cũng vào thời gian này, Thiên Chúa giáo
đã du nhập tới Quảng Ngãi.
Từ thập niên hai mươi đến thập niên sáu mươi của thế kỷ XX, Thiên
Chúa giáo ở Quảng Ngãi phát triển khá mạnh. Đến thời Ngô Đình Diệm,
chính quyền Sài Gòn lại tìm cách mua chuộc, lợi dụng Công giáo, như tăng
uy thế chính trị, thế lực kinh tế và cơ sở vật chất. Số lượng tín đồ Công giáo
18
cũng tăng dần. Theo Địa phương chí tỉnh Quảng Ngãi, đến năm 1968, toàn
tỉnh có 36.387 tín đồ Công giáo.
Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, ở thị xã Quảng Ngãi, các
nhà thờ lớn như nhà thờ Trần Hưng Đạo, nhà thờ Phú Hòa ở huyện Sơn Tịnh
rất nhiều nhà thờ khác trong tỉnh Quảng Ngãi vẫn được tôn trọng, được hành
đạo bình thường. Tuy nhiên, do vấn đề lịch sử để lại (chính sách chia rẽ
lương, giáo của thực dân Pháp…), nên giáo dân ở Quảng Ngãi có một số
người chưa hòa nhập vào chế độ mới, ở một số vùng lại có người nhạt đạo.
Năm 1980, các giám mục cả nước đã tổ chức hội nghị để thống nhất đường
lối của Giáo hội. Giáo dân Công giáo Quảng Ngãi sống hòa hợp với cộng
đồng với phương châm “sống phúc âm trong lòng dân tộc để phục vụ hạnh
phúc đồng bào”, tích cực tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Đến năm 1995, tại Quảng Ngãi có
5.446 tín đồ, 6 linh mục, 13 nơi thờ tự, 41 họ đạo. Những năm đầu thế kỷ
XXI số lượng tín đồ có chiều hướng tăng. Nhìn chung, đồng bào Công giáo
đang tích cực cải thiện đời sống, phấn khởi trước công cuộc đổi mới và chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Các hoạt động xã hội nhân đạo, phong
trào an ninh trật tự, phòng chống các tệ nạn xã hội được giáo dân hưởng ứng
theo tinh thần “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa, yêu nước”. Những dịp lễ lớn
như Giáng sinh, Phục sinh thực sự là những ngày hội lớn của cộng đồng.
Từ buổi ban đầu du nhập vào Quảng Ngãi (tháng 4/1928) đến năm
1954, đạo Tin Lành ở đây chủ yếu là hệ phái Hội thánh Tin Lành Việt Nam,
xây dựng được 3 cơ sở Hội thánh (tỉnh lỵ Mộ Đức, Đức Phổ) và phát triển
khoảng 100 tín đồ, hoạt động theo nguyên tắc điều lệ Hội. Đạo Tin Lành chủ
trương trung dung, chỉ tham gia một số hoạt động từ thiện, nhân đạo, tạo lập
cơ sở để truyền đạo lâu dài. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp,
các nhà thờ bị chiến tranh tàn phá, các Hội thánh thiếu mục sư nên việc truyền
đạo cũng bị thu hẹp, khủng hoảng.
19
Đầu những năm bảy mươi thế kỷ XX, Tổng hội Tin Lành cũng đã
điều phối nhiều mục sư, kể cả giáo sĩ người nước ngoài tham gia trực tiếp chỉ
đạo phát triển đạo Tin Lành ở Quảng Ngãi. Một số tín đồ, mục sư, truyền đạo
tham gia quân đội Sài Gòn, chống lại cách mạng. Tuy vậy, tín đồ Tin Lành
hầu hết là người lao động; họ đào tạo vì nhiều nguyên nhân khác nhau: đức
tin, sự thu hút qua các hoạt động xã hội, động cơ kinh tế, nhưng trước sự tàn
bạo, tham nhũng, mị dân của chính quyền Sài Gòn, có nhiều gia đình tín hữu
đã tham gia cách mạng.
Hiện nay, các hệ phái Tin Lành đã gia tăng, mở rộng việc truyền đạo
và khôi phục đạo.
Đạo Cao Đài là đạo khởi phát ở Nam Bộ Việt Nam từ năm 1926 dưới
thời Pháp thuộc, thể hiện sự dung hợp của nhiều tôn giáo khác nhau. Đạo Cao
Đài vào Quảng Ngãi rất sớm (khoảng từ 1926-1934). Sau năm 1975, văn
phòng Tỉnh đạo và các thánh thất vẫn hoạt động bình thường.
Đến năm 2005, đạo Cao Đài ở Quảng Ngãi có 36 thánh thất với hơn
6.000 tín đồ.
Ngoài 4 tôn giáo kể trên, ở tỉnh Quảng Ngãi cũng có khoảng 140
người theo đạo Bah’ai, 50 người theo đạo Hòa Hảo.
Có thể nói, các tôn giáo tồn tại như là một sự tất yếu trong cư dân tỉnh
Quảng Ngãi. Ngày nay, khi Nhà nước ta thực hiện quyền tự do tín ngưỡng và
tự do không tín ngưỡng, các tôn giáo đều được đối xử bình đẳng, tôn trọng và
đoàn kết với nhau. Các tôn giáo ở tỉnh Quảng Ngãi đều có đại diện là thành
viên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, tập trung vào mục tiêu
“tốt đời, đẹp đạo”.
Nhìn chung khối cộng đồng dân cư Quảng Ngãi phát triển theo tiến
trình của lịch sử, cùng đoàn kết, chung sức chung lòng trong công cuộc chống
phong kiến- đế quốc, xây dựng quê hương giàu đẹp.
- Thực trạng của khối đại đoàn kết dân tộc ở Quảng Ngãi đến năm 2001
20
Truyền thống yêu nước và đoàn kết đấu tranh của nhân dân Quảng
Ngãi trước khi có Đảng và Mặt trận dân tộc thống nhất: Sống trên vùng đất
vốn không được thiên nhiên ưu đãi, lại từng là nạn nhân của sự áp bức bóc lột
và các cuộc chiến tranh kéo dài giữa các tập đoàn phong kiến, nhân dân
Quảng Ngãi đã sớm ý thức được tinh thần yêu nước và đoàn kết trong đấu
tranh xây dựng và bảo vệ quê hương.
Từ cuối thế kỷ XVII, nhân dân Quảng Ngãi đã tích cực tham gia và có
nhiều đóng góp trong phong trào chống các thế lực phong kiến. Trong phong
trào khởi nghĩa của quân Tây Sơn, Quảng Ngãi đã trở thành “tả đạo”, là căn
cứ của phong trào nông dân Tây Sơn lật đổ ách thống trị của các tập đoàn
phong kiến cát cứ, thống nhất đất nước và đập tan các cuộc chiến tranh xâm
lược, giữ vững độc lập dân tộc. Cống hiến quan trọng của Quảng Ngãi trong
phong trào nông dân Tây Sơn không chỉ ở sức người, sức của của nhân dân
mà còn ở nhiều danh tướng tài ba như Đại đô đốc Trần Quang Diệu, Đại tư
mã Nguyễn Văn Danh, Tư Hầu Đức Trương Đăng Đồ, Lại bộ Thị Lang
Huỳnh Văn Thuận, Thái Bảo Nguyễn Văn Huấn, Đô đốc, Nguyễn Tăng Long
và Phạm Quang Nghị- người đã từng thay Quang Trung đi sứ Trung Quốc.
Đóng góp to lớn của đồng bào các dân tộc tỉnh Quảng Ngãi trong
phong trào khởi nghĩa Tây Sơn đã chứng tỏ nhân dân tỉnh Quảng Ngãi không
chỉ có truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động, chinh phục tự nhiên mà
còn có truyền thống ngoan cường, anh dũng trong chiến đấu chống áp bức,
bất công, chống ngoại xâm.
Truyền thống đó càng được phát huy khi nhân dân Quảng Ngãi cùng
với nhân dân trên mọi miền đất nước theo lời hiệu triệu của Hịch Cần Vương
đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. “Nghĩa hội Cần Vương” được các
nhà trí thức nho học Lê Trung Đình và Nguyễn Tự Tân lập ra như một tổ
chức để đoàn kết các văn thân, sỹ phu yêu nước ở Quảng Ngãi tập hợp nhân
dân phò Vua Hàm Nghi giúp nước chống Pháp. Phong trào đã khơi dậy tinh
21
thần dân tộc sâu sắc, mang tính nhân dân khá rõ nét các tác dụng cổ vũ, dẫn
dắt phong trào yêu nước và tinh thần đoàn kết của các thế hệ kế tiếp.
Sang đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh tình hình chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội đã có nhiều biến đổi sâu sắc, phong trào yêu nước của nhân dân
Quảng Ngãi không thể duy trì phong trào theo lối “Phò vua” trước đây mà
chuyển sang xây dựng và phát động các phong trào mang màu sắc dân chủ tư
sản. Như phong trào Duy Tân, phong trào “Việt Nam Quang phục hội”,
phong trào “Chấn hưng công nghiệp”, “Cải lương hương chín”, “Tương tế ái
hữu”, “Hội đồng canh”.
Nhìn chung, các phong trào đã đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của
nhân dân. Các phong trào đã lôi cuốn được các tầng lớp nhân dân tham gia và
trở thành phong trào quần chúng khá đậm nét. Tuy nhiên, do chưa có đường
lối đúng đắn, phù hợp với thực tiễn ở trong nước và quốc tế, chưa có một giai
cấp lãnh đạo tiền phong, chưa có một hệ tư tưởng tiên tiến dẫn đường nên các
phong trào thất bại.
Khối đại đoàn kết dân tộc từ khi có Đảng lãnh đạo: Sau sự kiện thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 3-2-1930), Chi bộ Cộng sản đầu tiên của
Đảng bộ Quảng Ngãi được thành lập (tháng 3-1930). Sự kiện chính trị trọng
đại này phản ánh sự phát triển tất yếu của phong trào cách mạng của nhân dân
Quảng Ngãi, quyết định toàn bộ quá trình vận động, phát triển của phong trào
cách mạng ở Quảng Ngãi được tập hợp đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống
nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ, các giới công, nông, thanh,
phụ, trí, phú, địa hào kể cả những người làm việc trong bộ máy tay sai của
địch cũng đều tham gia với những mức độ khác nhau vào quá trình chống bọn
Pháp, Nhật và bè lũ tay sai để giành độc lập cho dân tộc. Đồng bào các dân
tộc thiểu số, tín đồ các tôn giáo đã góp phần thiết thực vào công cuộc giải
phóng dân tộc tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của dân tộc, tôn giáo của mình.
22
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Quảng Ngãi là
thắng lợi của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Đó là thắng lợi của đạo quân chủ lực là công nhân và nông dân và các lực
lượng yêu nước được tập hợp dưới lá cờ hiệu triệu của Mặt trận Việt Minh,
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Cùng với thắng lợi của nhân dân cả nước kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược (1945-1954), vai trò và sức mạnh của nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng được tập hợp trong Mặt trận suốt 9 năm kháng chiến ở Quảng
Ngãi là một trong những minh chứng điển hình của thắng lợi vang dội địa cầu.
Trải qua 21 năm (1954-1975), tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh
chống đế quốc Mỹ xâm lược đầy gian khổ, hy sinh, dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi, tối ngày 24-3-1975, toàn bộ tỉnh Quảng Ngãi được
giải phóng. Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi bước vào kỷ nguyên mới- Kỷ nguyên
độc lập, tự do và quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Bài học xuyên suốt qua tất cả các thời kỳ của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, đó là không ngừng tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân- giai cấp nông dân,
và coi trọng công tác vận động trí thức, đồng bào các dân tộc, đồng thời, ra
sức tranh thủ tầng lớp, các nhân sĩ yêu nước, các tôn giáo, những công chức,
sỹ quan, binh lính trong hàng ngũ địch, chú ý phân hóa, cô lập kẻ thù, hình
thành thế trận chiến tranh nhân dân để đánh đế quốc Mỹ, thắng đế quốc Mỹ.
Đảng ta đã nhìn rõ kẻ thù cơ bản, kẻ thù cụ thể từng lúc mà có sách lược tranh
thủ, phân hóa, vận động tập hợp lực lượng để cô lập kẻ thù chính.
Trong thời gian ngắn trước ngày nhập tỉnh, nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
dưới sự lãnh đạo của Đảnh bộ tỉnh Quảng Ngãi đã lập được nhiều thành tích
xuất sắc. Những thành tựu đạt được từ ngày giải phóng đến thời điểm hợp
nhất Quảng Ngãi và Bình Định thành tỉnh Nghĩa Bình (tháng 11-1975) có ý
23
nghĩa rất quan trọng, là cơ sở thuận lợi để tiếp tục xây dựng và phát triển kinh
tế- xã hội từ năm 1976 đến năm 1989.
Bên cạnh những thuận lợi, thực tiễn tình hình đặt ra những khó khăn.
Đó là hậu quả, tàn tích của cuộc chiến tranh còn nhiều. Nạn thất nghiệp, nguy
cơ thiếu đói, bệnh tật còn đang đe dọa. Việc lo cái ăn, cái mặc, chỗ ở, nông cụ
sản xuất, học hành, chữa bệnh cho hơn 80 vạn dân Quảng Ngãi là một thách
thức lớn trong nhiệm vụ cách mạng lúc này.
Trong khi đó, vấn đề an ninh chính trị và một số vấn đề xã hội khác
vẫn còn rất phức tạp. Lực lượng ngụy quân, ngụy quyền tan rã tại chỗ đã được
đi cải tạo; trừ số sĩ quan chức sắc ngụy quyền và bọn phản động có nợ máu bị
giam giữ, tiếp tục cải tạo, còn đa số binh lính, nhân viên ngụy quyền chỉ được
giáo dục, cải tạo một thời gian ngắn rồi trả về với gia đình, song vẫn còn mặc
cảm với lỗi lầm, chưa hòa nhập được với cộng đồng; tình trạng định kiến,
phân biệt đối xử còn diễn ra một số nơi ở cơ sở gây trở ngại cho việc thực
hiện hòa hợp, củng cố khối đại đoàn kết. Vẫn còn nhiều tổ chức phản động
gây rối trật tự trị an, chống phá cách mạng, làm tình hình an ninh chính trị
thêm phức tạp.
Trong tình hình mới, để mở rộng tăng cường sức mạnh khối Đại đoàn
kết toàn dân, đòi hỏi Đảng bộ, Chính quyền, Mặt trận, các tổ chức đoàn thể
phải tiếp tục phát triển theo hướng mở rộng và củng cố, nâng cao vai trò, vị
trí, chức năng của mình nhằm đoàn kết nhân dân trong nước, đồng bào sống ở
nước ngoài cùng đồng tâm hiệp lực, hành động thống nhất vì sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong 13 năm hợp nhất tỉnh Nghĩa Bình, Đảng bộ và nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng
và bản chất dũng cảm, kiên cường, sáng tạo của mình nên nhiều sự kiện lịch
sử, đạt được nhiều thành tích rất đáng tự hào trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
24
Tuy nhiên, nằm trong tình hình chung của lịch sử, những năm trước
thời kỳ đổi mới do những sai lầm, thiếu sót dẫn đến đời sống người dân còn
nhiều khó khăn.
1.1.2. Chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng
bộ tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2001 đến năm 2005
- Cơ sở lý luận
Đoàn kết là một hiện tượng nhiều người liên kết thành một khối thống
nhất cùng hoạt động vì mục đích chung. Đoàn kết theo Đại từ điển Tiếng Việt
đó là kết thành một khối, thống nhất ý chí, không mâu thuẫn, không đối nhau.
Đoàn kết hiểu theo nghĩa chung nhất là sự đồng tâm, hợp lực của một cộng
đồng người cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, gian khổ nhằm đạt tới mục
đích chung nhất.
«
Tất cả những gì mà con người đấu tranh để giành lấy, đều xứng
đáng với lợi ích của họ. Lợi ích của họ chính là động lực chủ yếu để tập hợp
quần chúng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Chính lợi ích là cái liên kết
các thành viên của xã hội thị dân với nhau. Do vậy, muốn xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc thì phải kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân và lợi ích giai cấp, lợi
ích dân tộc » [67].
«
Những tư tưởng cao cả nhất cũng không đáng một xu nhỏ, chừng nào
người ta không biết kết hợp chặt chẽ những lý tưởng đó với lợi ích của chính
ngay những người lao động tham gia cuộc đấu tranh kinh tế, chừng nào mà
người ta không biết kết hợp những lý tưởng đó với những vấn đề chật hẹp và
nhỏ nhất trong cuộc sống hàng ngày của giai cấp như vấn đề trả công lao
động một cách công bằng. Như vậy, phải lấy lợi ích, thiết thực của người lao
động làm cơ sở xây dựng kinh tế, gắn liền với đấu tranh. Lợi ích là cái gắn bó
mọi người lại với nhau, là động lực của đấu tranh. Do đó, muốn đoàn kết toàn
dân phải quan tâm đến lợi ích thiết thân của mỗi thành viên trong từng cộng
đồng » [67].
25