Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

đảng bộ tỉnh quảng ninh lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tu nam 1997 den nam 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.93 KB, 138 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------

CAO THỊ HUỆ

ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
………………………………

CAO THỊ HUỆ

ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Văn Thịnh

HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1

Chương 1. BƯỚC ĐẦU LÃNH ĐẠO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2000 ................................................................... 10

1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và thực trạng kinh tế nông
nghiệp tỉnh Nam Định trước năm 1997 ................................................. 10
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ............................................. 10
1.1.2. Thực trạng kinh tế nông nghiệp tỉnh Nam Định và nhu cầu chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ........................................................... 18
1.2. Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp từ năm 1997 đến năm 2000 ........................................................ 26
1.2.1. Đường lối chung của Đảng và chủ trương của Đảng bộ .............. 26
1.2.2. Quá trình tổ chức thực hiện ......................................................... 34
Chương 2. LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 ................................................................... 46

2.1. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ năm 2001
đến năm 2005 .......................................................................................... 46
2.1.1. Chủ trương chung của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ vào thực
tiễn Nam Định ...................................................................................... 46
2.1.2. Quá trình tổ chức thực hiện ......................................................... 53
2.2. Tăng cường lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ
năm 2006 đến năm 2010 ......................................................................... 70

2.2.1. Chủ trương chung của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ Nam
Định ..................................................................................................... 70
2.2.2. Quá trình tổ chức thực hiện ......................................................... 77


Chương 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ......................... 95
3.1. Một số nhận xét ................................................................................ 95
3.1.1. Ưu điểm ...................................................................................... 95
3.1.2. Hạn chế..................................................................................... 102
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu ......................................................... 106
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 114
PHỤ LỤC .................................................................................................................... 125


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCH

: Ban chấp hành

CC

: Cơ cấu

CNX

: Chủ nghĩa xã hội

CNH,


: Công nghiệp hóa, hiện

H

HĐH

đại hóa

HTX

: Hợp tác xã

NTTS

: Nuôi trồng thủy sản

PTNT

: Phát triển nông thôn

UBN

: Ủy ban nhân dân

TNH

: Trách nhiện hữu hạn

D


H


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp với xuất phát điểm thấp nhưng ngành
nông nghiệp lại chính là thế mạnh của đất nước nếu được đi đúng hướng. Trong
bối cảnh hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức, xu thế
toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi dân tộc, quốc gia. Để
nhanh chóng hội nhập với xu hướng phát triển của thế giới, Đại hội VI (1986)
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt quan
trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo đất nước thực hiện
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phấn đấu đến năm 2020
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa. Vì thế, thực
hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn luôn
là nhiệm vụ trọng tâm, được Đảng, nhà nước đặc biệt quan tâm và đã dành
nhiều công sức, trí tuệ để lãnh đạo, chỉ đạo. Đảng cũng chỉ rõ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH là vấn đề trọng điểm trong
quá trình phát triển của nền kinh tế đất nước, nhằm đưa đất nước đi lên, rút
ngắn khoảng cách với các nước phát triển trên thế giới.
Tỉnh Nam Định từng là trung tâm kinh tế của khu vực đồng bằng Bắc bộ
đầu thế kỷ XX. Trước đây tỉnh được sát nhập với Hà Nam và Ninh Bình
thành tỉnh Hà Nam Ninh và được tái lập năm 1997. Nam Định là tỉnh có vị trí
địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh,
toàn diện.

ặc dù quyết tâm bứt phá bằng công nghiệp và dịch vụ nhưng

nông nghiệp của tỉnh vẫn có vị trí chiến lược quan trọng và là ngành cần được

đầu tư phát triển. Đó là hướng đi đúng đắn, phù hợp với một tỉnh có 81

dân

số sống bằng nghề nông như Nam Định.
Phát huy những yếu tố thuận lợi về điều kiện tự nhiên – xã hội, đ y
mạnh thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngành nông

1


nghiệp Nam Định đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Cơ cấu kinh tế nông
nghiệp đã và đang từng bước chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, hướng tới
nền nông nghiệp hàng hóa, phát triển bền vững. Thúc đ y cơ cấu kinh tế nông
thôn Nam Định thay đổi tích cực theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp tăng
tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, nhờ đó mà đời sống nông dân đã được cải
thiện rõ cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, góp phần vào sự nghiệp ổn định và
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn cả nước
nói chung ở Nam Định nói riêng dù đạt được nhiều thành tựu nhưng vẫn còn
nhiều bất cập. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh diễn ra còn
chậm, trình độ kinh tế vẫn ở mức thấp. Tiềm năng trong nông nghiệp, nông
thôn chưa được khai thác một cách có hiệu quả, do đó đời sống một số bộ
phận nông dân hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn. Hiện nay, trong quá trình
CNH, HĐH làm cho làn sóng đô thị hoá diễn ra nhanh chóng thêm vào đó là
việc quy hoạch các khu, cụm công nghiệp tràn lan ảnh hưởng đến đời sống và
sự ổn định của nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh đó là biến động của giá cả,
thị trường tiêu thụ, thiên tai, dịch bệnh…làm cho đời sống của người nông
dân càng gặp nhiều khó khăn hơn.


ặt khác, hệ thống dịch vụ công, hệ thống

kết cấu hạ tầng nông thôn còn yếu, thiếu đồng bộ chưa phục vụ đắc lực cho
sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Vì những thành tựu cũng như bất cập trên mà sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp hiện nay đang là đề tài thu hút sự quan tâm của giới
nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn cho sự phát
triển đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Vì thế, việc nghiên cứu quá trình
Nam Định thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà Nước
để phát triển nông nghiệp trên địa bàn Tỉnh từ năm 1997 đến 2010, trở thành
là một yêu cầu cấp thiết nhằm lý giải những thành công cũng như hạn chế của

2


quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh thời gian qua. Từ
đó rút ra những bài học kinh nghiệm, góp phần đ y mạnh phát triển nông
nghiệp của tỉnh, với ý nghĩa đó nên tôi đã chọn vấn đề: "Đảng bộ tỉnh Nam
Định lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ 1997 đến 2010"
làm đề tài luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nông nghiệp có vị trí quan trọng trong quá trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) cũng như trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Chính vì vậy
đường lối, chủ trương của Đảng trên mặt trận nông nghiệp được các nhà lý
luận, các nhà lãnh đạo quan tâm nghiên cứu. Ngoài ra, trên phạm vi cả nước
đề tài nông nghiệp, nông thôn cũng thu hút giới nghiên cứu khoa học, các nhà
hoạt động thực tiễn. Trong công cuộc đổi mới đất nước, nhất là những năm
gần đây đã có nhiều công trình của các nhà khoa học đề cập đến vấn đề này ở
những góc độ khác nhau đã được công bố qua các cuộc hội thảo, sách chuyên

khảo, luận án, luận văn và các bài viết trên các tạp chí.
Những công trình chuyên khảo về nông nghiệp, nông thôn, nông dân, đã
được xuất bản như: Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (19862002) của PGS, TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống kê, Hà Nội năm 2003.
Đây là công trình nghiên cứu đã nêu bật được những thành công và những
hạn chế của nông nghiệp Việt Nam sau khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ
Chính trị và những tác động to lớn của nó đối với đời sống của xã hội nông
thôn cùng những thành tựu của nông nghiệp Việt Nam sau đổi mới. Chính
sách phát triển nông nghiệp và nông thôn sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị
do PGS, TS. Lê Đình Thắng (chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2002. Trong cuốn sách này, tác giả phân tích và xác định vị trí và tầm quan
trọng của sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn trong giai đoạn

3


công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ sau Nghị quyết 10, từ đó có những kiến nghị
phương hướng, giải pháp để tiếp tục đổi mới, phát triển nông nghiệp, nông
thôn trong thời gian tới. Cuốn “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn Việt Nam” của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương,
Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà
Nội (2002) trình bày rất hệ thống quan điểm phát triển nông nghiệp, nông
thôn của Đảng từ Đại hội III đến Đại hội IX. Ngoài ra còn rất nhiều tác ph m
khác như: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn Việt Nam
và Chương trình đẩy mạnh xuất khẩu nông sản của Nguyễn Hữu Khải, NXB
Thống kê, Hà Nội năm 2003; Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam của PGS Nguyễn Văn
Bích - KS. Chu Quang Tiến, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1996; Đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam” của tác giả Trương Thị
Tiến, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội (1998); Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp nông thôn- một số vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả

Hồng Vinh, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1998; Cuốn Huy động và sử
dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế nông thôn. Thực trạng và giải
pháp của tác giả Chu Tiến Quang, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội năm
2005; Chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển kinh tế của nông nghiệp
Việt Nam theo hướng CNH - HĐH từ thế kỷ XX đến thế kỷ XXI trong “thời
đại kinh tế tri thức” của tác giả Lê Quốc Sử, NXB Thống kê, TP.Hồ Chí
inh năm 2001…Những cuốn sách chuyên khảo này là nguồn tư liệu không
thể thiếu cho các thế hệ sau tiếp tục nghiên cứu và học tập để làm sáng tỏ các
vấn đề về nông nghiệp, nông thôn.
Những bài viết xoay quanh vấn đề nông nghiệp nói chung và vấn đề cơ
cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng đăng trên các tạp chí như: Quan điểm của
Đảng về phát triển nông nghiệp trong thời kỳ đổi mới của Đặng Kim Oanh

4


đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8/2009; Tiếp tục thực hiện mục tiêu CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn theo tinh thần Nghị quyết đại hội IX của Hà
Hùng đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng số 11 năm 2002; Vấn đề nông dân,
nông nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay của Đỗ Kim Chung đăng trên Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số1 năm 2010;
Hội nghị TW7 khóa X- Bước phát triển đường lối của Đảng về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn của Trần Anh Phương đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng,
số 11/2008; Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu trong tiến trình CNH, HĐH đất nước của Nguyễn Tấn
Dũng đăng trên Báo Nhân dân, số ra ngày 20/3/2002; Nông nghiệp Việt Nam
nửa đầu kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 của PGS, TS Nguyễn Sinh Cúc, đăng
trên Tạp chí Cộng sản số 6 năm 2004; Nông nghiệp trong phát triển bền vững
ở nước ta của Trần Văn Chử, đăng trên Tạp chí Lý luận Chính trị, năm
2003... Dễ thấy các bài đăng trên tạp chí rất phong phú đa dạng về cách tiếp

cận, khía cạnh nghiên cứu đã chỉ ra những thành tựu cũng như bất cập trong
phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế.
Tiếp đến phải kể đến rất nhiều luận án, luận văn của các nghiên cứu sinh,
học viên cao học lấy nông nghiệp làm đề tài nghiên cứu như: Luận án Đảng
bộ tỉnh Bạc Liêu lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1997 – 2006 của Đoàn
Thị Bích Hồng, Luận án Đổi mới và hoàn thiện một số chính sách nhằm đẩy
mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, 2002 của Nguyễn
Tiến Dũng. Luận văn Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa từ năm 1997
– 2004 của Vũ Quang Ánh, luận văn Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ năm 1997 đến năm 2010 của Nguyễn Thị
Nguyệt … Những luận văn, luận án này nghiên cứu về nông nghiệp dưới

5


nhiều phương diện, ở những vùng, miền, địa phương trong những giai đoạn
khác nhau. Điều này cho thấy thực trạng và những khía cạnh đáng quan tâm
về kinh tế nông nghiệp địa phương.
Với tỉnh Nam Định ngoài cuốn Lịch sử Đảng bộ tỉnh qua các thời kỳ,
một số sách tham khảo về lịch sử hình thành và phát triển về vùng đất Nam
Định cùng một số ít ỏi luận văn, khóa luận chuyên ngành kinh tế viết về nông
nghiệp tỉnh thì vẫn chưa có công trình nào đi sâu tái hiện và phân tích sự lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
trên địa bàn Nam Định trong thời gian từ sau khi tỉnh được tái lập (1997 –
2010). Chính vì vậy, tác giả luận văn mong muốn được tập hợp nhiều nguồn
tài liệu và kế thừa những kết quả đã có, để tiếp cận và nghiên cứu đề tài
“Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
(1997 -2010)” một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ hơn, nhằm lý giải

những thành công cũng như những hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp trong địa bàn tỉnh Nam Định, để từ đó rút ra được những
bài học kinh nghiệm. Đó cũng là lý do để tác giả luận văn chọn đề tài “Đảng
bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp (1997 2010)” làm luận văn thạc sĩ sử học, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng Sản
Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích:
Góp phần làm rõ đường lối, quan điểm của Đảng về nông nghiệp và quá
trình Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp trên địa bàn tỉnh. Từ đó, rút ra một số kinh nghiệm, nhằm phát huy tốt
hơn nữa việc chuyển dịch đúng hướng cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh
Nam Định.

6


- Nhiệm vụ:
+ Tập hợp nguồn tài liệu liên quan đến đề tài.
+ Trình bày hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Nam Định vận dụng quan
điểm, đường lối của Đảng để lãnh đạo thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp từ 1997 đến 2010.
+ Phân tích, làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, kết quả
của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ 1997 đến 2010 ở
Nam Định.
+ Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm, đề xuất một số kiến nghị, giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định trong
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo đường lối của Đảng trong
những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chủ trương, chính sách và quá
trình chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh Nam
Định trên địa bàn tỉnh từ năm 1997 đến năm 2010.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về thời gian: Luận văn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Nam Định từ năm 1997 – 2010. Và
trong chừng mực nhất định, lụân văn mở rộng thời gian về trước năm 1997,
nhằm khắc hoạ rõ nét hơn quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
tỉnh Nam Định từ 1997 - 2010.
+ Về không gian: Luận văn chọn phạm vi không gian nghiên cứu là địa
bàn tỉnh Nam Định hiện nay.
+ Về nội dung: Tập trung làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh với
chuyển dịch cơ cấu kinh kế nông nghiệp qua các thời kỳ thể hiện ở sự chuyển

7


dịch cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thành phần.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
- Nguồn tư liệu: Những tài liệu được sử dụng trong luận văn gồm nhiều
nguồn khác nhau:
+ Các văn kiện của Đảng và của Đảng bộ tỉnh Nam Định từ năm 1986
đến năm 2010
+ Các Nghị quyết chuyên đề, các chỉ thị, các chương trình kinh tế…của
Tỉnh ủy, UBND tỉnh Nam Định.
+ Các kết quả thống kê, báo cáo hàng năm, hàng tháng, quý của Sở
Nông nghiệp Phát triển nông thôn, của UBND tỉnh hiện đang lưu giữ tại Chi
cục thống kê tỉnh Nam Định.
+ Các sách chuyên khảo, các luận văn, luận án, các bài viết xoay quanh,

liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn lấy Chủ nghĩa

ác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

inh và các quan

điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển nông nghiệp, nông thôn là
phương pháp luận để tác giả nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài.
Trong quá trình thực hiện đề tài, phương pháp lịch sử và phương pháp
Logic là hai phương pháp chính mà tác giả luôn vận dụng. Qua kết hợp hai
phương pháp này, vấn đề phát triển nông nghiệp ở Nam Định trong bối cảnh
phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh được xem xét trên các giai đoạn phát
triển kế tiếp nhau với những tính chất, trạng thái cụ thể. Nhờ so sánh trạng
thái phát triển về chất ở mỗi giai đoạn mà tác giả thấy được những thay đổi
nội tại của ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh theo dòng chảy thời gian, từ
đó làm rõ được sự phát triển của nó.

8


Phương pháp Phân tích và Tổng hợp cũng được vận dụng trong đề tài.
Qua phân tích để thấy được cái đặc thù, thuận lợi, khó khăn của tỉnh, những
nguyên nhân của mặt được và chưa được của sự phát triển nông nghiệp ở
Nam Định. Qua tổng hợp để thấy cái toàn cục, sự nổi trội như điểm sáng của
Nam Định về tốc độ tăng trưởng kinh tế- xã hội nói chung, về nông nghiệp
nói riêng.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp khảo sát thực tế, phương
pháp so sánh, thống kê, đánh giá...

6. Đóng góp của luận văn
- Trình bày một cách tương đối hệ thống và toàn diện quá trình Đảng bộ
tỉnh Nam Định lãnh đạo thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp 1997 đến 2010.
- Chỉ rõ thành tựu, hạn chế của quá trình đó, bước đầu rút ra một số kinh
nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
các ngành có liên quan, góp phần tổng kết thực tiễn gần 15 năm thực hiện đường
lối đổi mới của Đảng trên một địa bàn cụ thể, trong một lĩnh vực nhất định.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phần
phụ lục, luận văn chia làm 3 chương.
Chương 1: Bước đầu lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp từ năm 1997 đến năm 2000
Chương 2: Lãnh đạo đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm

9


Chương 1
BƯỚC ĐẦU LÃNH ĐẠO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2000
1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và thực trạng kinh tế nông
nghiệp tỉnh Nam Định trước năm 1997
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
Điều kiện tự nhiên:
Vị trí địa lý: Tỉnh Nam Định nằm ở phía Nam vùng đồng bằng sông
Hồng, có một vị trí địa lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Nam

Định trải rộng từ Vĩ độ: 19°54′ đến 20°40′ độ vĩ Bắc, Kinh độ: 105°55′ đến
106°45′ độ kinh Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Hà Nam, phía Đông giáp tỉnh Thái
Bình, phía Đông Nam và Nam giáp với biển Đông và phía Tây giáp tỉnh Ninh
Bình. Tỉnh có 9 huyện và 1 thành phố, 230 xã, phường, thị trấn, thành phố
Nam Định là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá của tỉnh, cách thủ đô Hà
Nội 90 km về phía Nam, Cảng Hải Phòng 100 Km về phía Đông.
Nam Định nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của Tam giác tăng
trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và tuyến hành lang kinh tế Côn
Minh – Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Hành lang Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà
Nội - Hải Phòng và Vành đai kinh tế ven vịnh Bắc Bộ, có mạng lưới giao
thông thuận lợi tạo điều kiện cho Nam Định phát triển sản xuất hàng hoá quy
mô lớn và mở rộng giao lưu kinh tế - xã hội với các tỉnh trong vùng, cả nước
và quốc tế. Song mặt khác cũng là một thách thức lớn đối với Nam Định
trong điều kiện cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Là mảnh đất nằm giữa hai con sông lớn: sông Hồng và sông Đáy tạo nên
địa giới tự nhiên giữa Nam Định với hai tỉnh Thái Bình, Ninh Bình. Sông Đào
phân chia Nam Định thành hai vùng Nam - Bắc. Sông Ninh Cơ, sông Sò là
giới hạn các huyện trong tỉnh. Nam Định có bờ biển dài 72 km, vùng kinh tế

10


giàu tiềm năng có khả năng triển khai, thực hiện nhiều đề án phát huy thế
mạnh kinh tế biển của tỉnh.
Địa hình: Địa hình chủ yếu là đồng bằng – ven biển và thấp dần từ Tây
Bắc xuống Đông Nam, Nam Định nằm giữa hai đứt gãy sâu là đứt gãy sông
Hồng chạy theo sông Đáy và đứt gãy sông Chảy đi xuống theo dòng sông
Hồng ra cửa Ba Lạt, dọc theo đó châu thổ bị sụt lún, khiến cho bề dày trầm
tích Đệ tam và Đệ tứ bên trên nền móng Nguyên sinh có chỗ dày đến 300m.
Tuy nhiên mức độ sụt võng và tuổi sụt võng cũng khác nhau giữa phần phía

Tây và phần phía Đông núi Gôi. Vị trí Đông Nam giáp biển và nằm giữa hai
sông Hồng sông Đáy cũng khiến cho Nam Định là bộ phận châu thổ trẻ của
đồng bằng sông Hồng, nơi còn chịu tác động của biển do ảnh hưởng của thủy
triều, nước mặn vẫn lan vào qua các cửa sông.
Sự phân hóa đó ảnh hưởng sâu sắc đến đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng và
thủy văn Nam Định. Tính chất châu thổ hiện đại của tự nhiên, khiến cho tại
đây sông Hồng phải phân ra nhiều chi lưu để có thể thoát nhanh ra biển, trong
đó quan trọng nhất là sông Nam Định, sau đó là sông Ninh Cơ, sông Sò. Như
thế tỉnh Nam Định chịu sức ép rất lớn của nước sông Hồng và của sóng, thủy
triều biển Đông. Điều này đã cắt nghĩa tầm quan trọng của hệ thống đê sông,
đê biển và các dòng sông nội đồng chi chít trong tỉnh. Nhìn chung, địa hình
Nam Định tương đối bằng phẳng, chia làm 3 vùng chính:
Vùng đồng bằng thấp trũng được phù sa sông Hồng, sông Đáy bồi đắp
nên miền đất này tương đối bằng phẳng, phì nhiêu gồm các huyện: Vụ Bản, Ý
Yên,

ỹ Lộc, Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường (huyện Vụ Bản, Ý Yên có

một số ít đồi núi thấp). Đây là vùng có nhiều khả năng thâm canh phát triển
nông nghiệp, công nghiệp dệt, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí và
các ngành nghề truyền thống.

11


Vùng đồng bằng ven biển gồm các huyện: Giao Thủy, Hải Hậu và Nghĩa
Hưng, có bờ biển dài 72 km, đất đai phì nhiêu, có tiềm năng phát triển kinh tế
tổng hợp ven biển, nhất là ngành nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản.
Vùng trung tâm công nghiệp – dịch vụ thành phố Nam Định: có các
ngành công nghiệp dệt may, công nghiệp cơ khí, công nghiệp chế biến, các

ngành nghề truyền thống, các phố nghề… cùng với các ngành dịch vụ tổng
hợp, dịch vụ chuyên ngành hình thành và phát triển từ lâu.
Khí hậu: Cũng như các tỉnh trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, Nam Định
mang khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng m. Hướng gió chính là Đông Nam và
Đông Bắc. Nhiệt độ trung bình trong năm từ 25 – 26 °C. Tháng lạnh nhất là
các tháng 12 và 1, với nhiệt độ trung bình từ 16 – 17 °C. Tháng 7 nóng nhất,
nhiệt độ khoảng trên 30 °C.
Lượng mưa trung bình trong năm từ 1.750 – 1.800 mm, chia làm 2 mùa
rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa ít mưa từ tháng 11 đến tháng 2
năm sau. Số giờ nắng trong năm: 1.650 – 1.700 giờ. Độ m tương đối trung
bình: 80 – 85 .

ặt khác, do nằm trong cùng vịnh Bắc Bộ nên hàng năm

Nam Định thường chịu ảnh hưởng của bão hoặc áp thấp nhiệt đới, bình quân
từ 4 – 6 cơn/năm. [116, tr.18]
Vị trí Đông Nam và giáp biển của Nam Định trong đồng bằng sông
Hồng còn giải thích sự giảm bớt tính khô lạnh của khí hậu trong tỉnh về mùa
đông và sự gia tăng ảnh hưởng của gió bão, sóng bão và mưa bão trong mùa
hè. Khí hậu của Nam Định còn chịu ảnh hưởng của dải đồi núi chạy theo rìa
Tây Bắc – Đông Nam của đồng bằng sông Hồng, đó là bức chắn đối với gió
mùa Tây Nam, làm tăng thời tiết mưa - m vào mùa đông và thời tiết nóng
khô vào mùa hè, nhất là mạn ven biển.

12


Khí hậu Nam Định nhìn chung rất thuận lợi cho môi trường sống con
người, sự phát triển của hệ sinh thái động, thực vật và du lịch, mùa đông cho
phép phát triển nhiều loại rau màu có giá trị kinh tế cao.

Tài nguyên đất, khoáng sản và tài nguyên rừng:
Tài nguyên đất ở Nam Định chủ yếu là đất phù sa sông bồi lắng, có độ
phì khá, có những nơi hàng năm còn được bồi đắp. Thành phần cơ giới từ thịt
nhẹ đến trung bình, khả năng giữ nước và giữ chất dinh dưỡng tốt thuận lợi
cho phát triển các loại cây trồng.
Nam Định có diện tích đất tự nhiên khoảng trên 165.000 ha, bao gồm
các loại: đất cát (ven sông và ven biển), đất mặn, đất phèn, đất phù sa, đất
feralít, đất sỏi đá và đất mới biến đổi. Năm 2000, diện tích đất nông nghiệp là
106.662 ha (chiếm 65

diện tích toàn vùng), trong đó diện tích đất cấy hàng

năm là 91.068 ha; đất chuyên dùng là 25.312 ha (15,4 ); đất thổ cư 9.399 ha
(5,8 ); đất lâm nghiệp 4.723 ha (2,9 ) và đất chưa sử dụng chiếm 10,8

với

17.644 ha [13]. Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người của tỉnh Nam
Định rất thấp (550 m2), trong khi bình quân chung của cả nước là 1.120 m2.
Tuy nhiên, đặc điểm nông hoá thổ nhưỡng tạo cho đất nông nghiệp của tỉnh
có khả năng thâm canh cao, nhất là cây lúa và các loại cây màu, cây công
nghiệp ngắn ngày. Vùng ven biển Giao Thuỷ, Nghĩa Hưng, đất đang được bồi
tụ ra biển với tốc độ nhanh, bình quân mỗi năm tiến ra biển được 80-120m và
cứ sau 5 năm thì diện tích đất có khả năng tăng thêm từ 1.500 – 2.000ha. Đất
nông nghiệp có tầng canh tác khá dầy, phì nhiêu màu mỡ, hàm lượng dinh
dưỡng khá cao, đồng thời còn nhiều khả năng mở rộng diện tích gieo trồng
bằng tăng vụ, lấn biển.
Tài nguyên khoáng sản của Nam Định không nhiều, theo tài liệu điều tra
khảo sát của Cục Địa chất – Khoáng sản, trên địa bàn có một số loại: Nhiên
liệu: gồm than nâu, dầu mỏ và khí đốt ở thềm lục địa Giao Thuỷ. Khoáng sản


13


kim loại: có các vành phân tán Inmenit, Ziarcon, mônazit, tại Hải Hậu và
Nghĩa Hưng, có quy mô nhỏ. Ngoài ra, còn có quặng titan, zicôn với trữ
lượng ít. Các nguyên liệu sét: bao gồm sét làm gốm sứ ở núi Phương Nhi đã
được khai thác phục vụ xí nghiệp gốm sứ Bảo Đài; sét gạch ngói nằm rải rác
ở các bãi ven sông như Đồng Côi (Nam Trực), trữ lượng 2 triệu tấn; Sa Cao
(Xuân Trường) trữ lượng 5 – 10 triệu tấn; Hoành Lâm (Giao Thuỷ)…, sét làm
bột màu có ở Nam Hồng (Nam Trực). [116, tr.29]
Tài nguyên rừng của tỉnh năm 2000 có diện tích 4.723 ha, chủ yếu là
trồng rừng phòng hộ ở các huyện ven biển để chắn sóng bảo vệ đê biển, ở các
đồi trọc thuộc huyện Ý Yên, Vụ Bản và các bãi bồi ven biển. [13]
Tài nguyên nước và nguồn thủy hải sản:
Nam Định nằm giữa hai con sông lớn của đồng bằng Bắc bộ là sông
Hồng và sông Đáy cùng với nhiều sông nhỏ khác giúp cho giao thông đường
thuỷ thuận lợi và bồi đắp phù sa, tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hệ
thống sông ngòi dày giúp Nam Định có lợi thế về nước tưới và hàng năm phù
sa được bồi đắp thêm đất đai, nhất là các huyện phía Nam tỉnh. Cạnh đó là hệ
thống thuỷ nông được đầu tư nhiều năm đã và đang phát huy tác dụng. Nước
ngầm vùng ven biển có trữ lượng và chất lượng tốt, đặc biệt là nguồn nước
chứa trong các sông, hồ, ao rất lớn, nước các sông có trữ lượng phù sa nhiều
phục vụ tốt cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt.
Bên cạnh tài nguyên nước, nguồn lợi thuỷ hải sản ở Nam Định cũng rất
phong phú và đa dạng (gồm thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn). Vùng
cửa sông còn có nhiều tảo và thực vật thuỷ sinh là thức ăn cho cá, ốc, tôm,
cua... Tổng diện tích mặt nước có thể phát triển nuôi trồng thuỷ sản có khoảng
22.000 ha, trong đó vùng mặn lợ khoảng 8.500 ha, vùng nước ngọt có khoảng
13.500 ha.


14


Bờ biển Nam Định dài 72 km, có 4 cửa sông là: cửa Ba Lạt (tức cửa
sông Hồng), cửa Sò (là một nhánh chảy ra từ cửa sông Hồng), cửa Lạch
Giang (cửa sông Ninh Cơ) và cửa Đáy (cửa sông Đáy). Với lượng hải sản lớn
và phong phú về chủng loại nên vùng ven biển Nam Định có lợi thế phát triển
kinh tế biển. Nam Định có ngư trường đánh bắt rộng lớn từ Quảng Ninh đến
vùng biển Nghệ Tĩnh có trữ lượng lớn, ước tính 644 tấn cá, 3.700 - 6.000 tấn
tôm. Trữ lượng cá biển Nam Định khoảng 157.500 tấn chiếm khoảng 20

trữ

lượng cá trong vịnh Bắc Bộ
Nguồn lợi hải sản vùng biển Nam Định còn có nguồn tôm, nhuyễn thể,
giáp xác... ở các bãi bồi, cồn ngầm tôm tập trung với mật độ khá dày. Theo
điều tra ban đầu, đến nay đã phát hiện được 45 loài thuộc họ tôm he, trong đó
có 9 loài có giá trị kinh tế, trữ lượng vào khoảng 3000 tấn, khả năng cho phép
hàng năm khoảng 1000 tấn. Có 20 loài mực, trong đó có 9 loài có giá trị kinh
tế cao. Trữ lượng mực khoảng 2000 tấn, hàng năm có thể khai thác tới 970
tấn. Các loại nhuyễn thể có vỏ cứng (sò, ngao, vạng...) tập trung ở các bãi
triều, cồn ngầm ở ven bờ. [39,tr.32-28]
Điều kiện kinh tế - xã hội:
Mạng lưới giao thông: Nam Định có đường sắt Bắc Nam đi qua với
chiều dài 45 km. Tổng chiều dài đường bộ các loại là 5.633 km (trong đó
đường tỉnh, huyện và xã quản lý là 3.973 km). Chất lượng các tuyến đường đã
được nâng cấp phục vụ tốt hơn việc đi lại và vận chuyển hàng hóa. Chiều dài
của 4 tuyến đường sông lớn trên địa bàn tỉnh là 217 km. Cảng biển Hải Thịnh
được xây dựng cùng với các công trình khác đã tạo thuận lợi cho phát triển và

khai thác tiềm năng các vùng kinh tế.
Nguồn nhân lực: Nam Định là tỉnh có dân số đông và lực lượng lao động
khá lớn, đứng thứ 6 trong toàn quốc. Năm 2006 dân số là 1.975.181 người,
trong đó dân số nông thôn chiếm 83,9 , thành thị chiếm 16,1 ; mật độ dân

15


số bình quân gần 1.197 người/km2, cao hơn mật độ bình quân của cả nước và
vùng đồng bằng sông Hồng. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên của tỉnh là
1,41 , và đến năm 2010 tỉnh có khoảng 2,3 triệu dân. [15] Quy mô dân số
thành thị những năm gần đây tăng nhanh hơn dân số vùng nông thôn. Đây là
chiều hướng phù hợp với quá trình đô thị hoá đang phát triển.
Số người trong độ tuổi lao động chiếm 50
nghìn người. Có 84,7
2,26

dân số, năm 2006 là 984,4

lao động làm việc trong các ngành kinh tế và khoảng

số lao động chưa có việc làm. Cùng với quá trình tăng trưởng dân số,

hàng năm dân số lao động được bổ sung vào lực lượng lao động xã hội, chủ
yếu là lao động trẻ khá cao. Trong cơ cấu lao động, lao động trong ngành
nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ lớn gần 80

[13]. Việc sử dụng lao động còn

một khoảng cách khá lớn so với tiềm năng sẵn có, đặc biệt là nguồn lực lao

động ở nông thôn. Tính chung trong toàn tỉnh còn dư thừa khoảng trên 30
năng lực sản xuất. Chính vì vậy sự di chuyển lao động có tính chất thời vụ ra
ngoài tỉnh khá lớn, mà chủ yếu ở khu vực nông thôn.
Lực lượng lao động dồi dào là một thế mạnh nổi bật của tỉnh và các giải
pháp để tạo việc làm cho người lao động được tỉnh đặc biệt quan tâm. Hiện
nay, với số dân trên 2,3 triệu người, vốn cần cù thông minh, giàu tiềm năng,
nhưng GDP bình quân đầu người vẫn thấp so với các tỉnh trong cả nước. Tỷ
trọng nông nghiệp trong GDP vẫn chiếm trên 40 . Trong thời gian tới, nông
nghiệp ở Nam Định vẫn đóng vai trò quan trọng trong tạo việc làm và quyết
định mức thu nhập của nhiều hộ gia đình nông dân.
Giáo dục: Tỉnh Nam Định là một tỉnh có truyền thống hiếu học của cả
nước, có 3 trường Đại học công lập, 1 trường Đại học dân lập, cùng trường
Cao đẳng Sư phạm Nam Định và một số trường cao đẳng khác...Nam Định có
trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, đây là một trường được xếp vào hàng
đầu của cả nước. Ngoài ra, cứ trung bình mỗi trung tâm cấp huyện hay thành

16


phố có 2 trường nằm trong tốp các trường dẫn đầu cả nước chiếm tỷ lệ xấp xỉ
50

các trường toàn tỉnh.
ặc dù là tỉnh có GDP bình quân ở mức trung bình so với mức bình

quân trong cả nước, nhưng Nam Định lại có chỉ số phát triển con người cao
(0,7) so với bình quân trong toàn quốc là 0,682. Đó là những thành tựu rất to
lớn trong chiến lược phát triển con người của Nam Định. Hệ thống giáo dục
phát triển mạnh đã đáp ứng yêu cầu học tập của các tầng lớp nhân dân.
Đời sống nhân dân: Nam Định là tỉnh có GDP bình quân ở mức trung

bình so với mức bình quân trong cả nước, nhưng lại có chỉ số phát triển con
người cao. Nam Định là tỉnh đã có đầu tư ngân sách cao so với GDP trong các
lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng và là một trong những
tỉnh có an ninh lương thực cao ở đồng bằng Bắc Bộ, luôn có mức tăng trưởng
mạnh từ 447 kg/người năm 1995 lên 506 kg /người năm 1999 [13]. Về cơ
bản nhu cầu lương thực được thoả mãn, mức sống của cư dân được cải thiện
không ngừng. Số hộ có nhà ở chiếm tỷ lệ cao và nhu cầu về nhà ở của người
dân Nam Định về cơ bản đã được đáp ứng. Năm 1999 có trên 99,6

số hộ gia

đình ở khu vực nông thôn có nhà ở riêng bao gồm nhà kiên cố và nhà bán
kiên cố, nhà khung gỗ và nhà đơn sơ, trong đó, nhà kiên cố và bán kiên cố
chiếm 89,2

tổng số nhà ở. Tỷ lệ dân số được tiếp cận nước sạch là 91,6

cao hơn nhiều tỉnh trong khu vực; điện thắp sáng đã về tới tất cả các thôn xã;
hệ thống giao thông nông thôn được củng cố và phát triển góp phần tích cực
cho phát triển sản xuất và nhu cầu đi lại của nhân dân; hệ thống y tế có ở tất
cả các xã, các huyện đều có trung tâm y tế và bệnh viện đa khoa. Số bác sĩ
trên 100.000 người dân là 41 người (1998), số trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm
chủng là 99,4

(BCG-1998) và 96,4

(sởi 1998) [13].

Như vậy, Nam Định có điều kiện tự nhiên – xã hội hết sức thuận lợi cho
phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, bền vững. Là vùng đất có 2 cửa sông


17


(sông Hồng, sông Đáy), một dải bờ biển, một vùng đồng bằng trù phú, một
nguồn nhân lực vô tận, nên ở nhiều thời điểm, Nam Định luôn là nơi đầu sóng
ngọn gió của các cuộc chiến tranh xâm lược, đồng thời cũng là nơi đóng góp
sức người, sức của to lớn cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Vì thế, người
Nam Định luôn tâm niệm rằng: Phi nông bất ổn, phi thương bất phú, phi
công bất cường, phi trí bất hưng".
1.1.2. Thực trạng kinh tế nông nghiệp tỉnh Nam Định và nhu cầu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Đảng bộ tỉnh Nam Định quán triệt chủ trương phát triển nông nghiệp
của Đảng:
Giai đoạn 1981 – 1985 do khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân
dân gặp nhiều khó khăn. Hầu hết các ngành sản xuất đều suy giảm. Cơ chế
quản lý kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp, hành chính mệnh lệnh đã làm suy
kiệt năng lực sáng tạo, triệt tiêu các nguồn lực kinh tế - xã hội. Chính tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội đã tạo cơ sở cho việc hình thành đường lối
đổi mới của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986)
đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước mà trước hết là đổi mới tư duy,
nhất là tư duy kinh tế. Đại hội nhấn mạnh:

uốn đưa nền kinh tế thoát khỏi

khủng hoảng thì phải sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý [18,
tr.47], Đại hội chỉ rõ: Nhiệm vụ trước mắt là thực hiện cho được 3 chương
trình mục tiêu về lương thực - thực ph m, hàng tiêu dùng và hàng xuất kh u
[18, tr.48]. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục được coi là mặt trận hàng đầu, làm
cho sản xuất nông nghiệp vận hành đúng quy luật khách quan, đưa nông

nghiệp từ tình trạng tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa. Nông nghiệp phải
được ưu tiên đáp ứng những nhu cầu về đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật, để có nhiều sản ph m cuối cùng.

18


Bước vào công cuộc đổi mới, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ VI, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV đề ra mục tiêu chủ yếu trong kế
hoạch 5 năm 1986 – 1990 của tỉnh là từng bước ổn định tình hình kinh tế - xã
hội, trên cơ sở đó phát triển sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp. Quán triệt
chương trình lương thực thực ph m – thực ph m, hàng tiêu dùng, hàng xuất
kh u của Đảng do Đại hội VI đề ra, tháng 4/1987 Tỉnh ủy ra đề án “chương
trình lương thực – thực ph m 5 năm (1986 – 1990)” có tác dụng hữu cơ đến
việc thực hiện chương trình hàng tiêu dùng, hàng xuất kh u, chương trình lao
động và dân số…Chương trình đề ra những chỉ tiêu chủ yếu là: 92 vạn tấn
lương thực (bình quân 5 năm), đến năm 1990 phấn đấu có 1 triệu tấn. 32.000
tấn thịt lợn, đến năm 1990 phấn đấu có 40.000 tấn, dành 3000 – 5000 tấn thịt
xuất kh u.[76]
Để đưa ngành nông phát triển đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới,
tháng 5/1986, Ban Thường vụ tỉnh ủy ra Nghị quyết số 41- NQ/TU về phát
triển cây công nghiệp phục vụ nguyên liệu chế biến công nghiệp và xuất
kh u. Phương hướng là: Lấy thâm canh tăng năng suất, nâng cao chất lượng
sản ph m để đạt hiệu quả kinh tế cao là chủ yếu, đồng thời tận dụng khả năng
đất đai cho phép mở rộng diện tích một số cây có điều kiện phát huy được thế
mạnh của 3 vùng kinh tế trong tỉnh, đáp ứng yêu cầu nguyên liệu cho chế biến
công nghiệp, cho xuất kh u, góp phần tích cực khắc phục những mất cân đối
trong kinh tế địa phương. Nghị quyết 41-NQ/TU cũng đề ra những mục tiêu
cần phải đạt về sản lượng các cây công nghiệp như: Lạc vỏ 8.000 – 9.000 tấn,
đay tơ 9.000 tấn qua chế biến, cói đạt 80 vạn m2 thảm, 2 triệu lá chiếu, tơ tằm

25 tấn qua chế biến. [78]
Nhằm khắc phục các nhược điểm, sai lầm trong quản lý nông nghiệp, và
để cụ thể hóa nội dung đổi mới trong nông nghiệp, ngày 05 - 4 -1988 Bộ
chính trị (khoá VI) ra Nghị quyết 10 - NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế

19


nông nghiệp. Quan điểm cơ bản của Đảng về quản lý nông nghiệp là coi HTX
như đơn vị kinh tế tự quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ, nhận
khoán với HTX.
Khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông
nghiệp, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã có thông báo số 62, chỉ đạo cơ bản về tinh
thần Nghị quyết 10. Tiếp đó Tỉnh ủy đã ra Nghị quyết 18 về “Đổi mới quản lý
kinh tế trong nông nghiệp”, tỉnh đã nhạy bén tiếp thu, vận dụng sáng tạo và
kh n trương triển khai tiến hành nhiều việc: Từ tổ chức lại sản xuất đến việc
đổi mới cơ chế quản lý trong các HTX, đến đổi mới quản lý ở các xí nghiệp
kinh doanh, các thành phần kinh tế khác trong nông thôn. Đồng thời Nghị
quyết cũng nêu lên một số vấn đề định hướng cho công tác đổi mới quản lý
kinh tế nông nghiệp về: Quy mô HTX nông nghiệp, vấn đề giao ruộng cho xã
viên, về dịch vụ phục vụ sản xuất, và về chính sách xã hội ở nông thôn. [75]
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991), Đại hội
vẫn tiếp tục xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Trong “Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” của Đại hội nêu rõ:
Phát triển nông- lâm- ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng
nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tếxã hội [19, tr.12]. Quán triệt Nghị quyết Đại hội VII, Đại hội Đảng bộ lần thứ
V đã đề ra mục tiêu là tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới trên mọi lĩnh vực
nhất là trong nông nghiệp. Năm 1992, UBND Tỉnh đã ra Quyết định số 115QĐ/UB thực hiện giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân. Công
tác thuỷ lợi được đặc biệt coi trọng, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật cho nông nghiệp, nông thôn. Đảng bộ cũng đặc biệt coi trọng chỉ đạo

đưa tiến bộ khoa học mới vào các khâu trọng yếu nhằm tạo ra năng suất cao.
Từ đó đưa sản xuất lúa của tỉnh từng bước tiếp cận thị trường và trở thành sản

20


×