Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Đảng bộ thị xã móng cái lãnh đạo phát triển kinh tế xã hội từ năm 1991 đến năm 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐàO TạO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

**************************

Lê Hồ Hiếu

Đảng bộ Thị xã Móng Cái
lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội
từ năm 1991 đến năm 2006

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà NộI – 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐàO TạO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

**************************

Lê Hồ Hiếu

Đảng bộ Thị xã Móng Cái
lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội
từ năm 1991 đến năm 2006
Chuyên ngành

: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

Mã số



: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học : PGS,TS. Trình Mưu

Hà NộI – 2008


Quy ước chữ viết tắt
Cnxh

: Chủ nghĩa xã hội

Cnh,hđh

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Dnnn

: Doanh nghiệp nhà nước

Fdi

: đầu tư trực tiếp

Htx

: Hợp tác xã


Gdp

: Tổng sản phẩm trong nước

Tnhh

: Trách nhiệm hữu hạn

NQ

: Nghị quyết

NQTW

: Nghị quyết Trung ương

NXB CTQG

: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia

ĐHKHXH&NV

: Đại học Khoa học xã hội và nhân văn

BCT

: Bộ chính trị

BBT


: Ban bí thư

BCH

: Ban chấp hành

BCHTW

: Ban chấp hành Trung ương

UBND

: ủy ban Nhân dân


Mục lục

Trang
Mở đầu……………………………………………………

1

Chương 1. Đặc điểm tình hình thị xã Móng Cái và những yêu cầu
đặt ra với sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Móng Cái …

7

1.1. Đặc điểm tình hình thị xã Móng Cái………………………


7

1.2. Những yêu cầu đặt ra đối với thị xã móng cái trong quá
trình lãnh đạo phát triển kinh tế xã hội……………………

17

Chương 2. Chủ trương và quá trình tổ chức thực hiện phát triển
kinh tế – xã hội của đảng bộ thị xã Móng Cái từ 1991 –

26

2006
2.1. Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển kinh tế – xã
hội trong những năm 1991 – 1996…………………………

26

2.2. Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển kinh tế – xã
hội theo hướng CNH, HĐH (1996 – 2006)…………………

38

Chương 3. Kết quả và kinh nghiệm về sự lãnh đạo phát triển kinh
tế xã hội của Đảng bộ Thị xã Móng Cái………………
3.1. Thành tựu và hạn chế chủ yếu …………………………

81
81


3.2. Một số kinh nghiệm của Đảng bộ thị xã Móng Cái trong
lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội…………………………

93

Kết luận …………………………………………………

99

Danh mục tài liệu tham khảo ……………………………

101

Phụ lục …………………………………………………

107


Mở đầu
1.

Lý do chọn đề tài

Trong báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định: “Hai mươi
năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công
cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, có sự thay đổi cơ
bản và toàn diện, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được

đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối
đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị – xã hội ổn định.
Quốc phòng và an ninh ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc
tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp quốc gia đã tăng lên rất nhiều,
tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp ”
[8,tr.67-68].
Đó là thắng lợi mang tính bước ngoặt lịch sử trong quá trình phát triển
của đất nước trên con đường đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi đó
thể hiện trên thực tế sự đóng góp tích cực của tất cả các Đảng bộ và nhân dân
các địa phương trong cả nước, đã vận dụng đường lối đổi mới của Đảng một
cách linh hoạt sáng tạo, góp phần đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng.
Hơn nữa, sự nghiệp đổi mới do Đảng đề xướng lại xuất phát từ sự đòi
hỏi bức thiết ở cơ sở, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Vì lẽ đó mà
khi đường lối đổi mới của Đảng ra đời đã được tất cả các địa phương, cơ sở
chấp nhận một cách nhanh chóng, chỉ trong một thời gian ngắn đã phát huy
hiệu quả và đi vào cuộc sống, tạo thành một phong trào cách mạng rộng lớn,
sâu sắc.


Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, chúng ta còn nhiều khó
khăn, phức tạp, đất nước còn trong tình trạng một nước nghèo, kinh tế, khoa
học kỹ thuật kém phát triển. ở nhiều địa phương đời sống của nhân dân còn
rất thấp. Cơ chế, trình độ quản lý kinh tế – xã hội còn lỏng lẻo, những tiềm
năng, thế mạnh của địa phương chưa được phát huy, đã ảnh hưởng trực tiếp
đến công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Việc nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm lịch sử ở các Đảng bộ huyện,
thị trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng trên lĩnh vực kinh tế –
xã hội giai đoạn 1986 – 2006 có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
Đó là: khẳng định sự đúng đắn đường lối đổi mới của Đảng và những bài học
kinh nghiệm quý báu của các Đảng bộ trong việc tổ chức, lãnh đạo phong trào

cách mạng ở địa phương. Do đó, việc thực hiện đề tài “Đảng bộ Thị xã Móng
Cái lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội từ năm 1991 đến năm 2006” là rất
cần thiết, xét trên cả phương diện khoa học cũng như phương diện thực tiễn
góp phần nhìn nhận một cách có hệ thống chính sách phát triển kinh tế trong
thời kỳ mở cửa hội nhập quốc tế của địa phương, trên cơ sở đó đưa ra những
giải pháp góp phần thúc đẩy việc phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
Tác giả luận văn mong muốn việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp một
phần nhỏ vào ý nghĩa đó.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế – xã hội
trong thời kỳ đổi mới trên phạm vi cả nước hoặc của Đảng bộ các tỉnh, thành
được đề cập đến khá nhiều trong các công trình khoa học, ngoài các bài nói,
bài viết của các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước có tính chất định
hướng còn có thể kể đến một số công trình như: TS. Vũ Hồng Tiến(2005),
Một số vấn đề kinh tế – xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội; Phạm Xuân Nam(2001),


“Đổi mới kinh tế – xã hội ở Việt Nam (1986-2000) – Một cái nhìn tổng
quan”, Tạp chí Kinh tế và dự báo(11), tr.25; TS. Nguyễn Mạnh Hùng(2004),
Kinh tế – xã hội Việt Nam hướng tới chất lượng tăng trưởng, Nxb Thống Kê,
Hà Nội; Nguyễn Xuân Oánh(2001), Đổi mới - Vài nét lớn của một chính sách
kinh tế Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh; Phạm Xuân Nam(1991), Đổi
mới kinh tế – xã hội: thành tựu, vấn đề và giải pháp, Nxb Khoa học xã hội…
Đây là các công trình đề cập tập trung, trực tiếp đến các vấn đề phát triển kinh
tế – xã hội trên cả nước với nhiều cách tiếp cận khác nhau như vấn đề chuyển
dịch cơ chế quản lý, chuyển dịch cơ cấu, các vấn đề xã hội nhằm thúc đẩy

nhanh sự phát triển kinh tế, khẳng định trong thực tế chủ trương của Đảng
trong đổi mới là hoàn toàn đúng đắn.
Ngoài ra, đã có không ít các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ đã bảo vệ
đề cập đến sự phát triển kinh tế – xã hội dưới góc độ khoa học kinh tế hoặc
Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội dưới góc độ chuyên ngành Lịch sử
Đảng ở phạm vi cả nước hoặc ở một địa phương cụ thể, như: Đào Trọng
Độ(2007), “Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp
(1986-2000)”, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà
Nội; Nguyễn Thị Anh(2006), “Đảng bộ huyện An Dương (Hải Phòng) lãnh
đạo phát triển kinh tế thời kỳ 1986 – 2005”, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử,
Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội; Lương Thị Yên(2005), “Đảng bộ
Lục Yên (Yên Bái) lãnh đạo phát triển kinh tế thời kỳ đổi mới 1986 – 2004”,
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội; Ngô Thị
Lan Phương(2007), “Quan hệ thương mại Việt – Trung trên địa bàn Quảng
Ninh giai đoạn 1991 – 2005”, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường
ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội.


Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào tổng kết một cách có hệ
thống và toàn diện quá trình Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển
kinh tế – xã hội trên địa bàn thị xã.
Trong tình hình đó, luận văn sẽ là sự đóng góp nhỏ của tác giả nhằm
làm rõ thêm, sáng tỏ hơn những chuyển biến trong việc hoạch định chính sách
phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới của tỉnh Quảng Ninh nói chung
và Thị xã Móng Cái nói riêng.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích: Trình bày quá trình Đảng bộ Thị xã Móng Cái lãnh đạo phát

triển kinh tế – xã hội giai đoạn 1991 – 2006, đánh giá những kết quả đạt được,
những bài học kinh nghiệm và những phương án giải pháp phát triển thị xã
trong chặng đường mới. Nghiên cứu sự vận dụng sáng tạo của Đảng bộ thị xã
Móng Cái trong việc thực hiện đường lối đổi mới của Trung ương, của tỉnh
vào tình hình cụ thể của thị xã Móng Cái thời kỳ đổi mới.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết ba
nhiệm vụ sau:
+ Tình hình trong nước và thế giới tác động đến chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội của Quảng Ninh nói chung và Móng Cái nói riêng.
+ Làm sáng tỏ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Thị xã Móng Cái trong
phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 1991 – 2006.
+ Tổng kết những bài học kinh nghiệm, đề xuất những phương án và
giải pháp phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn tới.
4.

Đối tượng và phạm vi của đề tài

Đối tượng: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ
Thị xã Móng Cái trong lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế xã hội của địa
phương giai đoạn 1991 – 2006.


Phạm vi nghiên cứu: Đảng bộ thị xã Móng Cái lãnh đạo phát triển
kinh tế – xã hội là đề tài rộng nên luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo
của Đảng bộ thị xã trong việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo đường lối đổi mới
của Đảng để phát triển kinh tế địa phương, thực hiện chính sách xóa đói giảm
nghèo, chính sách với người có công, chính sách giáo dục đào tạo … giai
đoạn 1991 – 2006.

5.


Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu, nguồn tài liệu

* Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
phát triển kinh tế – xã hội, CNH,HĐH đất nước trong thời kỳ đổi mới.
* Phương pháp nghiên cứu
- Trên cơ sở phương pháp luận sử học mac – xit, phương pháp nghiên
cứu chủ yếu của luận văn là phương pháp lịch sử, logic để làm rõ quá trình
Đảng bộ địa phương lãnh đạo trên lĩnh vực kinh tế – xã hội .
- Luận văn có sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, lập bảng để
trình bày kết quả nghiên cứu làm rõ nội dung trên.
* Nguồn tư liệu
- Nguồn tài liệu thành văn:
+ Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội IX.
+ Văn kiện của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh từ 1991 – 2006.
+ Văn kiện của Đảng bộ Thị xã Móng Cái từ 1991 – 2006.
+ Các báo cáo của HĐND và UBND Thị xã Móng Cái.
+ Niên giám thống kê hàng năm của TƯ và địa phương
+ Báo cáo của các cơ quan ban ngành trong tỉnh
+ Kết quả nghiên cứu của những công trình liên quan


- Nguồn tài liệu khảo sát thực tế: bao gồm kết quả đã thu được qua điều
tra xã hội học và điền dã thực tế.
6.

Đóng góp của luận văn


- Về khoa học: Luận văn đã hệ thống hóa quá trình nhận thức và tổ
chức thực hiện chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Đảng bộ Thị xã
Móng Cái trong giai đoạn 1991 – 2006. Chỉ ra những nguyên nhân, bài học
kinh nghiệm và một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại
trong thời gian qua để đẩy nhanh quá trình phát triển trong những năm tiếp
theo.
- Về thực tiễn:
+ Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo khi nghiên cứu về quá trình phát
triển kinh tế – xã hội địa phương, góp phần cung cấp luận cứ khoa học để xây
dựng các phương án phát triển kinh tế – xã hội của Đảng bộ Thị xã.
+ Khẳng định vai trò của Đảng bộ cơ sở trong khi quán triệt đường lối
chủ trương, chính sách của Đảng thông qua việc làm sáng tỏ quá trình lãnh
đạo phát triển kinh tế – xã hội của Đảng bộ Thị xã đã tác động đến sự phát
triển xã hội.
+ Những kinh nghiệm được rút ra góp phần quan trọng vào phương
hướng phát triển kinh tế – xã hội của Thị xã Móng Cái trong giai đoạn tiếp
theo.
+ Làm tư liệu tham khảo biên soạn lịch sử Đảng bộ Thị xã Móng Cái
nói riêng và lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh nói chung.
+ Làm tư liệu tham khảo giảng dạy môn lịch sử trong vấn đề liên hệ
lịch sử địa phương.
7.

Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


Chương 1: Đặc điểm tình hình thị xã Móng Cái và những yêu cầu đặt

ra với sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Móng Cái.
Chương 2: Chủ trương và quá trình tổ chức thực hiện phát triển kinh tế
– xã hội của đảng bộ thị xã Móng Cái từ 1991 – 2006.
Chương 3: Kết quả và kinh nghiệm về sự lãnh đạo phát triển kinh tế
xã hội của Đảng bộ Thị xã Móng Cái.


Chương 1
Đặc điểm tình hình thị xã Móng Cái và những yêu cầu
đặt ra với sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Móng Cái.
1.1.

Đặc điểm tình hình thị xã Móng Cái.

Múng Cỏi là thị xó địa đầu phớa Đông Bắc của tỉnh Quảng Ninh, cũng
là địa đầu phớa Đông Bắc Việt Nam, cú 70 km đường biờn giới trờn bộ tiếp
giỏp với tỉnh Quảng Tõy, Trung Quốc. Phớa Đông giỏp Vịnh Bắc Bộ, phớa
Tõy giỏp huyện Hải Hà, phớa Nam giỏp huyện Cụ Tụ và phớa Bắc giỏp biờn
giới Việt Nam – Trung Quốc.
Thị xó Múng Cỏi hiện nay cú diện tớch đất tự nhiờn là 518,278 km2,
trải rộng từ 107o10’ đến 108o05’ kinh độ Đông và từ 21o10’ đến 21o40’ vĩ độ
Bắc. 85% diện tớch của thị xó là đất liền, trong đó 71% diện tớch tự nhiờn là
đồi và nỳi xen kẽ giữa cỏc thung lũng, sụng suối, bói biển, thấp dần từ bắc tới
nam. Xó vựng cao Hải Sơn cú dóy Pan Nai với đỉnh cao nhất là 710 m. 15%
diện tớch của thị xó là đảo đó tạo thành nhiều cửa đầm, vũng, bói, thuận lợi
cho việc nuụi trồng và đánh bắt hải sản. Đảo Vĩnh Thực (3500 ha) là một dóy
nỳi chạy dài gần 20 km từ đông sang tõy, cỏch đất liền trờn 2km tạo thành
vịnh lớn, đỉnh cao nhất là 170m. Tổng dõn số thị xó năm 2006 là gần 8 vạn
người gồm 5 dõn tộc anh em: Kinh, Dao, Tày, Sỏn Chay và Hoa. Mật độ dân
số trung bỡnh đạt 154 người/km2.

Về địa lý hành chớnh, theo sách “Khâm định Việt sử thông giám
Cương mục” thỡ Múng Cỏi xa xưa được gọi là trấn Triều Dương. Đến đời Lý
Thái Tổ năm Thuận Thiên thứ 14 được gọi là châu Vĩnh An. Đời hậu Lê năm
Thuận Thiờn thứ 1 (1426) gọi là Yờn Bang. Thế kỷ thứ XVII gọi là chõu Vạn
Ninh và thế kỷ thứ XVIII gọi là chõu Mang Nhai.
Đến đầu thế kỷ XIX, thị xó Múng Cỏi bõy giờ gồm tổng Vạn Ninh,
tổng Bỏt Trang và một phần tổng Hà Mụn thuộc chõu Vạn Ninh, phủ Hải


Đụng, trấn An Quảng. Thỏng 6 – 1888, chõu Vạn Ninh chia thành ba chõu
(Múng Cỏi, Hà Cối, Tiờn Yờn) của phủ Hải Ninh thuộc tỉnh Quảng Yờn.
Thỏng 6 – 1906, thực dõn Phỏp tỏch phủ Hải Ninh khỏi tỉnh Quảng Yờn,
thành lập tỉnh Hải Ninh gồm 3 chõu: Múng Cỏi, Hà Cối, Tiờn Yờn.
Sau Cỏch mạng Thỏng Tỏm 1945, để phự hợp với việc lónh đạo, chỉ
đạo của Trung ương Đảng và Chớnh phủ đối với cỏc địa phương, thỏng 10 –
1945 Chớnh phủ Việt Nam Dõn chủ Cộng hũa quyết định thành lập cỏc chiến
khu. Theo đó, tỉnh Hải Ninh (gồm cả Múng Cỏi) là một trong bảy tỉnh thuộc
Chiến khu 3 [27,tr.85]. Ngày 19-7-1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ra Nghị định
tạm lập lại tỉnh Quảng Yờn và khu đặc biệt Hũn Gai [2,tr.160]. Khoảng cuối
năm 1946, việc phõn định địa giới cỏc chiến khu được điều chỉnh lại: Tỉnh
Quảng Yờn, tỉnh Hải Ninh và Đặc khu Hũn Gai tỏch khỏi Chiến khu 3 trực
thuộc Chiến khu 12; cỏc Liờn khu ủy lónh đạo các chiến khu và các tỉnh, tổ
chức Đảng Đặc khu Hũn Gai và hai tỉnh Quảng Yờn, Hải Ninh do Liờn khu
ủy 12 lónh đạo.Đến thỏng 1 – 1950, cỏc tỉnh Quảng Yên, Hải Ninh và Đặc
khu Hũn Gai thuộc Liờn khu Việt Bắc; tỉnh Hải Ninh lỳc này gồm 7 huyện:
Múng Cỏi, Hà Cối, Đầm Hà, Tiên Yên, Bỡnh Liờu, Đỡnh Lập và Hải Chi.
Trong khỏng chiến chống Phỏp, Múng Cỏi nằm trong vựng địch chiếm đóng,
là thủ phủ của “xứ Nựng tự trị”.
Hũa bỡnh lập lại, “ngày 01-02-1955, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị
định số 449-TTg về tái lập thị xó Múng Cỏi trực thuộc tỉnh Hải Ninh”

[1,tr.56]. “Ngày 30-10-1963, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hũa
khúa II, kỳ họp thứ 7 đó phờ chuẩn việc hợp nhất tỉnh Hải Ninh và khu Hồng
Quảng thành một đơn vị hành chính mới lấy tên là tỉnh Quảng Ninh”
[1,tr.160]. Ngày 2-7-1964, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 106-CP đổi
thị xó Múng Cỏi thành thị trấn Múng Cỏi thuộc huyện Múng Cỏi.


“Ngày 18-01-1979, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 22-CP đổi
tên huyện Móng Cái thành huyện Hải Ninh” [1,tr.257]. Ngày 28-5-1991, Bộ
trưởng – Trưởng ban Ban tổ chức Chính phủ ra Quyết định số 284/TCCP đổi
tên thị trấn Hải Ninh thành thị trấn Móng Cái, thị trấn Móng Cái là huyện lỵ
huyện Hải Ninh. Ngày 20-7-1998, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số
52/1998/NĐ-CP tái lập thị xó Múng Cỏi (trờn cơ sở toàn bộ diện tích và dân
số của huyện Hải Ninh cũ) thuộc tỉnh Quảng Ninh bao gồm 5 phường: Hũa
Lạc, Trần Phỳ, Ka Long, Ninh Dương, Trà Cổ và 11 xó: Quảng Nghĩa, Hải
Tiến, Hải Đông, Hải Yên, Hải Hũa, Hải Xuõn, Vạn Ninh, Hải Sơn, Bỡnh
Ngọc, Vĩnh Trung và Vĩnh Thực.
Là một vùng đất biên giới nơi địa đầu của Tổ quốc, gắn với những
trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam trong việc đấu tranh bảo vệ chủ
quyền lónh thổ nờn Múng Cỏi cú bề dày truyền thống chống giặc ngoại xõm.
Thị xó Múng Cỏi là địa bàn có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế,
chính trị và an ninh, quốc phũng. Trải qua cỏc thời kỳ lịch sử của dõn tộc, tất
cả lực lượng xâm lược nước ta đều coi Móng Cái là một trong những mục tiêu
quan trọng hàng đầu.
Với vị trớ cửa ngừ tuyến đầu vùng Đông Bắc Tổ quốc, thị xó Múng Cỏi
đó từng ghi dấu ấn nhiều chiến cụng giữ nước oanh liệt của dân tộc. Vào thế
kỷ XI, Lý Thường Kiệt từ Móng Cái chủ động tiến công diệt giặc Tống ở
châu Khâm, châu Liêm, người dân nơi đây đó tham gia vào đạo quân diệt giặc
Tống. Thế kỷ thứ XIII, vào năm 1287 cánh quân thủy của quân Nguyên –
Mông từ Khâm Châu tiến theo đường biển vào xâm lược nước ta khi đi qua

cửa Vạn Ninh (Móng Cái) bị quan quân nhà Trần do Nhân đức hầu Trần Toàn
chỉ huy, phục kích chặn đánh chiến thuyền của Ô Mó Nhi gõy cho địch thiệt
hại nặng. Móng Cái cũn là căn cứ của nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại áp bức
bóc lột của triều đỡnh phong kiến. Thế kỷ XVII, triều đỡnh Món Thanh cho


quõn sang xõm lược nước ta, nhân dân các dân tộc Móng Cái đó nổi dậy tham
gia phong trào Quang Lónh, Quang Khỏnh chiến đấu anh dũng, chống giặc
ngoại xâm.
Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, ngay từ những ngày đầu nhân
dân các dân tộc Móng Cái đó anh dũng đứng lên đánh Pháp. Các nhà yêu
nước như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền đó gõy dựng ở Múng Cỏi
một cơ sở của Việt Nam Quang phục hội.
Múng Cỏi cũn là cửa ngừ ra nước ngoài hoạt động của nhiều chiến sĩ
cách mạng. Ngày 17-7-1926, đồng chí Trần Phú cùng chín đồng chí khác đến
Móng Cái và qua biên giới để liên lạc với tổ chức Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên. Ngoài ra, cũn nhiều đồng chí khác trong ban lónh đạo Tâm tâm
xó và Hội Việt Nam cỏch mạng Thanh niên như Lê Hồng Phong, Hồ Tùng
Mậu… cũng được các cơ sở cách mạng của Móng Cái đưa đón ra nước ngoài
tỡm đường cứu nước.
Là thị xó được thiên nhiên ưu đói cú cả đồi núi và biển nên khí hậu của
Móng Cái rất ôn hũa và dễ chịu. Múng Cỏi là vựng cú lượng mưa lớn so với
bỡnh quõn cả nước, bỡnh quõn đạt 2.788mm, cao nhất là 4.110mm, mưa phần
lớn tập trung vào tháng 7-8 hàng năm. Nhiệt độ trung bỡnh trong năm là 22 oC.
Hệ thống sụng ngũi, hồ đập của Móng Cái rất phong phú.
Móng Cái xưa vốn là nơi buôn bán trao đổi hàng hóa giữa người Trung
Quốc với Việt Nam. Ngay từ đầu Công nguyên, con đường biển đi từ Khâm
Châu (Quảng Tây – Trung Quốc) theo hướng Tây Nam vào Việt Nam xuyên
qua tuyến đảo Quảng Ninh, từ châu Vĩnh An (Móng Cái) qua Vân Đồn, vịnh
Hạ Long, vào cửa Bạch Đằng, lặng sóng kín gió, yên tĩnh như một con kênh

trong đất liền nên sử cũ mệnh danh là Đông Kênh, là con đường giao thông
ven biển lý tưởng. Lúc thuận gió đi một mạch từ Khâm Châu đến Vân Đồn
chỉ mất 3 ngày. Đây chính là con đường mà thuyền buôn Trung Quốc mỗi khi


vào nước ta buôn bán thường đi qua, cũng chính là con đường mà các đạo
thủy quân phương Bắc như Nam Hán, Tống và Nguyên Mông đó tiến vào
xõm lược nước ta những năm 938, 981, 1288. Di chỉ Thoi Giếng (xó Vạn
Ninh) là một trong những di tích nổi tiếng thương cảng thời Trần. Vào thế kỷ
XII, sau khi thành lập thương cảng Vân Đồn, vua Lý Anh Tụng lập bến Vạn
Ninh (thuộc thôn Đông xó Vạn Ninh ngày nay). Bến này nhỏ hơn bến Vân
Đồn nhưng là bến cảng đầu cầu, thuyền buôn nước ngoài (chủ yếu là Trung
Quốc) muốn vào Vân Đồn phải ghé qua Vạn Ninh. Vỡ vậy, Vạn Ninh sớm trở
thành phố chợ đông vui, trên bến dưới thuyền. Từ đó, một số ngành nghề
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cũng khá phát triển và rất đa dạng. Xưa có
nghề gốm với 16 lũ bỏt, 2 lũ chum. Cỏc mặt hàng gốm sứ Múng Cỏi nổi tiếng
một thời, buụn bỏn khắp miền Bắc. Nghề dệt lụa thủ công và dệt vải khổ rộng
(vải cạp xá), dệt màn, cơ khí, làm muối… Nghề đóng, sửa chữa tàu thuyền
cánh dơi đi biển với đội thuyền vận tải hàng nghỡn tấn phương tiện đi khắp
mọi miền đất nước. Trong kháng chiến chống Mỹ là một trong những lực
lượng tham gia vận chuyển vũ khí đạn dược cho chiến trường miền Nam.
Với hệ thống đường giao thụng thủy bộ đa dạng. Về đường thủy, với
50km bờ biển, Móng Cái có cảng Vạn Gia có thể đón tàu trên 1 vạn tấn. Các
cảng Thọ Xuân, Núi Dỏ, Cồn Rắn, bến Mũi Ngọc, Dân Tiến và hệ thống các
cảng thủy nội địa dọc sông Ka Long đủ điều kiện để bốc xếp, vận chuyển
hàng hóa. Tuyến tàu cao tốc cánh ngầm Móng Cái – Hạ Long, Móng Cái –
Hải Phũng thuận tiện cho việc đi lại và vận chuyển hàng hóa nhanh chóng. Về
đường bộ, quốc lộ 18A từ thành phố Hạ Long ra Móng Cái đó được trải nhựa.
Hiện nay, Chính phủ phê duyệt dự án xây dựng đường cao tốc ven biển đoạn
Vân Đồn – Móng Cái; quốc lộ 18A từ Hạ Long ra Móng Cái được tỉnh đầu tư

mở rộng. Trong tương lai không xa, Móng Cái có đường sắt nối sang tỉnh
Quảng Tây – Trung Quốc. Vỡ vậy, Múng Cỏi là cửa ngừ giao thụng thủy bộ


rất thuận lợi với cỏc tỉnh trong nước và khu vực, tạo ra thế mạnh của thị xó
vựng biờn giới Đông Bắc Tổ quốc.
Vị trớ thuận lợi nổi bật của Múng Cỏi là cú cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu
tiểu ngạch Ka Long và các điểm thông quan Lục Lằm, Pũ Hốn… Múng Cỏi
trở thành một cửa khẩu buụn bỏn hàng đầu của nước ta với thị trường Trung
Quốc, giữ vai trũ quan trọng trong chiến lược hợp tác kinh tế khu vực, là đầu
mối cung cấp các sản phẩm nguyên, nhiên liệu quan trọng như cao su, than
đá… sang Trung Quốc. Móng Cái tiếp cận trực tiếp với thị trường rộng lớn
phía Đông Nam Trung Quốc. Đây là một thị trường đông dân, có nhu cầu đa
dạng và có nhiều trung tâm kinh tế lớn đang phát triển sôi động với nhịp độ
rất nhanh. Chính sách mở cửa đó tạo cho Múng Cỏi trở thành một cửa khẩu
quốc tế quan trọng của nước ta, đồng thời là cửa khẩu trung chuyển hàng hóa
giữa nước ta, các nước ASEAN với Trung Quốc.
Việc thông thương giữa Móng Cái với các tỉnh trong cả nước cũng như
với các tỉnh duyên hải Nam Trung Quốc ngoài hệ thống đường bộ cũn cú
đường biển và cảng biển, đây là một lợi thế mà các cửa khẩu biên giới phía
Bắc không có. Đặc biệt cảng Vạn Gia nằm ở vị trí sát đường biên giới trên
biển với Trung Quốc đó tạo ra thế thuận lợi lớn cho việc giao lưu buôn bán
xuất nhập khẩu hàng hóa qua đường biển. Với tính chất đặc thù đó, từ khi mở
cửa biên giới, Móng Cái thực sự trở thành đầu mối giao lưu quan trọng giữa
nước ta với Trung Quốc và các nước trong khu vực nói chung, cũng như giữa
tỉnh Quảng Ninh với tỉnh Quảng Tõy núi riờng.
Vị trí đầu mối này có ý nghĩa chiến lược quan trọng, không chỉ tạo ra
những điều kiện thuận lợi để mở mang phỏt triển kinh tế, phỏt triển quan hệ
hợp tỏc giữa hai tỉnh và hai Nhà nước mà cũn là khu vực cạnh tranh kinh tế
và cú vị trớ rất quan trọng về quốc phũng an ninh.



Không những thế ngoài tiềm năng lớn về phát triển thương mại, Móng
Cái cũn nhiều tiềm năng đa dạng có thể khai thác như: kinh tế biển, khai thác
đất đai, tài nguyên khoáng sản để phát triển nông lâm nghiệp, công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp.
Về tài nguyên biển, Móng Cái có vùng ven biển rộng, nhiều ngư
trường, bờ biển dài 50km có diện tích bói triều lớn, rất thuận lợi cho việc phỏt
triển nghề khai thỏc và nuụi trồng thủy hải sản. Trữ lượng có khả năng khai
thác từ 6 – 7 ngàn tấn/năm, nhưng hiện nay mức độ khai thỏc cũn thấp. Nếu
được đầu tư phương tiện đánh bắt ngoài khơi và tổ chức nuôi thâm canh sản
lượng thủy hải sản của Móng Cái có thể tăng lên gấp nhiều lần để cung cấp
cho tiêu dùng và xuất khẩu.
Về đất đai, thị xó Múng Cỏi cú nhiều tiềm năng về đất đai, khí hậu,
nhân dân cần cù lao động với tổng diện tích đất trồng trọt trên địa bàn thị xó
đạt 7000 ha với hơn 13.000 hộ nông nghiệp, gần 60.000 nhân khẩu chiếm
75% dân số. Với diện tớch 520Km2, dân số trên 8 vạn người, mật độ dân số
trung bỡnh đạt 154 người/km2 thỡ tiềm năng về đất sản xuất cũn rất lớn. Thị
xó Múng Cỏi cú địa hỡnh phớa bắc là đồi núi trung du, phía đông là đồng
bằng và có địa hỡnh thoải dần ra biển, cú hệ thống hồ nước ngọt với trữ lượng
nước rất lớn. Là một vùng đất gần biển, khí hậu khá ôn hoà so với các địa
phương khác, Móng Cái là khu vực ít chịu ảnh hưởng của thiên tai. Đây là
những yếu tố rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế
trang trại. Với tiềm năng về đất đai, khí hậu chúng ta có thể trồng nhiều loại
cây có giá trị và cho năng suất cao, giúp nhân dân thoát khỏi đói nghèo và
vươn lên làm giàu. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của lĩnh vực
thương mại – du lịch – dịch vụ, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp cũng không
ngừng được quan tâm, tạo được sự chuyển biến tích cực về cơ cấu sản xuất và
giá trị sản phẩm nông nghiệp.



Về lõm nghiệp, thị xó Móng Cái là vùng núi biên giới nên được hưởng
nhiều cơ chế tài chính hỗ trợ trồng rừng của các tổ chức phi Chính phủ (dự án
661, Việt Đức, dự án trồng rừng ngập mặn JAICA...). Trong những năm qua,
do có các nguồn vốn hỗ trợ trên, Móng Cái đó trồng được hàng ngàn ha rừng
phũng hộ đầu nguồn, rừng ngập mặn góp phần bảo vệ môi sinh, môi trường
và tạo nên các vùng có cảnh quan đẹp có thể khai thác vào mục đích du lịch.
Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách giao đất giao rừng cho nhân dân đang
phát huy rất hiệu quả việc phỏt triển kinh tế trang trại.
Về nuôi trồng thủy sản, đây là một trong những tiềm năng, thế mạnh và
đang được đầu tư toàn diện để nhanh chóng trở thành một trong những ngành
kinh tế mũi nhọn của Thị xó. Thị xó Múng Cỏi cú 6 xó, phường tiếp giáp biển
và vùng cửa sông với diện tích đất ngập nước hàng ngàn ha có tiềm năng, thế
mạnh trong nuôi trồng thuỷ sản rất lớn, rất thích hợp cho việc nuôi các loài
thuỷ sản giá trị kinh tế cao.
Móng Cái có hệ thống sông Ka Long và sông Bắc Luân đổ ra biển theo
2 cửa sông khác nhau; có sự điều hoà giữa nước ngọt và nước mặn đó tạo một
vựng nước lợ rất lớn. Đây là điều kiện lý tưởng để nuôi các loại thuỷ sản nước
lợ mà không phải tạo hồ điều tiết nước ngọt như nhiều địa phương khác nên
giảm chi phí đầu vào cho nhân dân. Trên vùng đất triều có diện tích rất lớn
rừng ngập mặn lâu niên và diện tích rừng ngập mặn đang tiếp tục được trồng
bổ sung và bảo vệ; hệ sinh thái vùng cửa sông ven biển rất phong phú, đa
dạng và đặc trưng rất phù hợp cho việc nuôi các loài thuỷ sản giá trị cao: tôm,
cua, cá song... Bên cạnh đó nhiều vùng ven biển rất thích hợp nuôi các loại cá
lồng có giá trị cao (khu vực đảo Vĩnh Trung, Vĩnh Thực) song chưa khai thác
được. Môi trường nước cũn tương đối sạch, chưa bị ô nhiễm nên việc nuôi
trồng thuỷ sản cũng cú nhiều thuận lợi.


Nhu cầu thị trường sản phẩm thuỷ sản trong và ngoài nước lớn, đặc biệt

là trong tiến trỡnh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay. Đây là thời cơ vận hội
kích cầu nền sản xuất ngư nghiệp của Thị xó Múng Cỏi phỏt triển. Bên cạnh
đó, Móng Cái tiếp giáp với vùng biển có rất nhiều tiềm năng về thuỷ sản, rất
thuận lợi để phát triển nghề đánh bắt xa bờ.
Trước tiềm năng, thế mạnh trong sản xuất ngư nghiệp, nhu cầu của thị
trường tại chỗ và thị trường xuất khẩu, trong những năm gần đây phong trào
nuụi trồng thuỷ sản trong nhõn dõn phỏt triển mạnh mẽ cả về quy mụ và
chủng loại nuụi.
Về khoáng sản, tuy trữ lượng không lớn nhưng có nhiều loại như: Đất
sét, cao lanh làm sành sứ, gạch ngói, đá hoa cương ở Lộc Phủ, Titan ở Bỡnh
Ngọc, Trà Cổ, cỏt đá sỏi phân bố ở nhiều nơi có khả năng khai thác phục vụ
phát triển một số ngành công nghiệp.
Về du lịch và nhân văn, Móng Cái được thiên nhiên ưu đói với nhiều
danh lam, thắng cảnh nổi tiếng, cú bề dày lịch sử và nền văn hoá đặc thù của
địa phương, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là những điều kiện hết sức thuận lợi
cho ngành du lịch, dịch vụ du lịch của Móng Cái phát triển: khu du lịch Trà
Cổ - Bỡnh Ngọc, bói cỏt trắng rộng, thoải, mụi trường trong lành, hệ sinh thái
đa dạng cũn khỏ hoang sơ rất thích hợp để phỏt triển du lịch biển. Hiện nay
bói tắm Trà Cổ được đánh giá là một bói tắm đẹp trong cả nước; có đảo Vĩnh
Trung - Vĩnh Thực với tiềm năng du lịch biển chưa được khai thác; có diện
tích rất lớn hệ thống rừng ngập mặn, rừng phũng hộ đầu nguồn, các hồ, đập
có cảnh quan rất đẹp như: Tràng Vinh, Quất Đông... rất thích hợp để phát
triển du lịch sinh thái. Trên địa bàn Thị xó cũn nhiều chựa triền: ở phường Trà
Cổ cũn cú ngụi đỡnh lớn khởi dựng năm 1550, một công trỡnh kiến trỳc và
điêu khắc tiêu biểu cho nghệ thuật thời Lờ cũn khỏ nguyờn vẹn, đỡnh Trà Cổ
đó được Bộ văn hoá xếp hạng (Quyết định số 15 VH/ ngày 13/3/1974). éầu


năm 1999, Móng Cái có thêm hai kiến trúc nghệ thuật được xếp hạng (Quyết
định số 02- Qé/ BVHTT ngày 26/1/1999) đó là: chùa Nam Thọ cũng ở

phường Trà Cổ xây dựng vào thế kỷ 17, trong chùa có hơn 60 pho tượng do
nhiều chùa dồn lại, trong đó có nhiều pho tượng có mang đậm phong cách
dân gian của các thời kỳ lịch sử, có giá trị như một sưu tập các tác phẩm điêu
khắc; Chùa Xuân Lan ở xó Hải Xuõn được xây dựng cách đây trên 400 năm.
Chùa có cột xó bằng đá phiên và một quả chuông đúc thời Quang Trung. Ở
phường Trà Cổ cũn cú nhà thờ cụng giỏo với thỏp chuụng và giỏo đường uy
nghi xây dựng năm 1914, mới được tu bổ năm 1997, các danh thắng với
những nét đặc trưng riêng tạo nên một quần thể du lịch độc đáo, đa dạng mà ít
nơi có thể sánh kịp, làm tăng thêm sự chú ý đối với du khách.
Thiên nhiên ban tặng cho Móng Cái nhiều phong cảnh đẹp, ở địa đầu
của Tổ quốc, có nhiều di tích lịch sử, văn hoá lại nằm trong địa bàn trọng
điểm phát triển du lịch của cả nước. Nhân dân Móng Cái đa dạng về thành
phần dân tộc mang đậm nét văn hoá đặc sắc, có đức tính cần cù, đoàn kết,
mến khách. Múng Cỏi cú nhiều truyền thuyết và cỏc bài hỏt dõn gian. Ở xó
ven biển, nhất là ở Vạn Ninh xưa có hát tơ, hát ví, hát đôi trong đám cưới.
Vùng đồng bào Dao có hát “sán Cô”. Nay nhiều xó cú đông đảo dân các tỉnh
đồng bằng ra các vùng kinh tế mới mang theo truyền thống hát chèo và các
điệu dân ca của vùng Bắc Bộ. Lễ hội lớn nhất ở Móng Cái là hội làng Trà Cổ
tổ chức vào tuần đầu tháng sáu âm lịch. Bên cạnh phần tế lễ, rước chân nhang
từ miếu éụi về đỡnh, cú tục “ đóng cây ca đám”, tục thi lợn to, thi cỗ chay, cỗ
mặn. Điều này đó làm phong phỳ tài nguyờn du lịch và nhõn văn của nơi địa
đầu tổ quốc biên cương này.


1.2.

Những yêu cầu đặt ra đối với Đảng bộ thị xã Móng Cái trong

quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội .
Trước thập kỷ 90, thị xó Múng Cỏi cũn là một huyện miền nỳi biờn

giới kinh tế nụng nghiệp mang tớnh tự tỳc tự cấp, cơ sở hạ tầng thấp kém, cơ
cấu kinh tế nông lâm – ngư nghiệp là chủ yếu (85%), công nghiệp – tiểu thủ
công nghiệp nhỏ bé, manh mún; Tổng thu ngân sách hàng năm chỉ vài tỉ
đồng, thu không đủ chi, phần lớn dựa vào sự bao cấp của Trung ương và của
Tỉnh, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn…
Trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, và nhất là từ khi thực
hiện chủ trương mở cửa biên giới (tháng 2/1989) đến nay, Đảng bộ, quân và
dân thị xó Múng Cỏi từng bước vượt lên khó khăn, chớp đúng thời cơ, tập
trung sức mạnh, khai thác được tiềm năng thế mạnh về địa lý và vận dụng
triệt để các cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là từ khi được áp
dụng thí điểm một số chính sách tại khu vực cửa khẩu theo Quyết định
675/TTg ngày 18/9/1996 và chính thức theo Quyết định 53/2001/QĐ-TTg
ngày 19/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ, Móng Cái có những bước phát
triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế – xó hội, quốc phũng, an ninh.
Thị xó Múng Cỏi từ một địa phương nghèo nay trở thành một vùng kinh tế
phát triển năng động với cơ cấu kinh tế được thay đổi cơ bản từ chỗ nông –
lâm – ngư nghiệp chiếm tới 80% tỷ trọng trong GDP trước năm 1989, chuyển
dịch sang thương mại - du lịch - dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp, trong
đó tỷ trọng thương mại – du lịch – dịch vụ chiếm trên 70%. Tốc độ tăng
trưởng duy trỡ cao, bỡnh quõn hàng năm trên 16%. Hoạt động lĩnh vực
thương mại luôn được duy trỡ tốc độ tăng trưởng. Tổng kim ngạch hàng hoá
qua cửa khẩu tăng bỡnh quõn hàng năm, năm cao nhất là 52,4%. Giá trị XNK
năm 2001 - 2005 đạt 3.698,4 triệu USD, năm 2005 so với năm 2000 bằng
274,3% và trong năm 2006 đạt hơn 2,11 tỷ USD.


Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu và kinh tế khu vực sẽ mở ra
nhiều cơ hội cho sự phát triển của các ngành kinh tế, đặc biệt là ngành
Thương mại. Việt Nam tham gia hiệp định ưu đói thuế quan (AFTA) và Diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thỏi Bỡnh Dương (APEC), gia nhập WTO đó mở

ra nhiều cơ hội thu hút đầu tư và thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển.
Đặc biệt, Móng Cái hiện nay đó trở thành một trong 2 trung tâm kinh tế lớn
của tỉnh Quảng Ninh, có vị trí quan trọng trong trục kinh tế trọng điểm Hà
Nội - Hải Phũng - Quảng Ninh; là cửa ngừ quan trọng trong tiến trỡnh hội
nhập kinh tế giữa cỏc nước trong khu vực - cửa ngừ quan trọng của tự do hoỏ
mậu dịch ASEAN - Trung Quốc. Trong quan hệ hợp tác Việt Nam - Trung
Quốc, Móng Cái có vị trí đặc biệt quan trọng, đóng vai trũ trung tõm trong 2
hành lang kinh tế (Lào Cai - Hà Nội - Hải Phũng - Quảng Ninh và Cụn Minh
(Trung Quốc)), hành lang kinh tế Hà Nội - Hải Phũng - Quảng Ninh và Quảng
Tây (Trung Quốc) và 1 vành đai kinh tế quanh vịnh Bắc Bộ (bao gồm: Quảng
Đông, Quảng Tây - Trung Quốc và Móng Cái - Hạ Long - Đồ Sơn).
Đi đôi với chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế là chiến lược đầu tư
toàn diện, có chiều sâu về mọi mặt từ cơ sở hạ tầng đến nguồn nhân lực để
đáp ứng tiến trỡnh hội nhập. Từ đó sẽ giảm bớt chi phí cho các doanh nghiệp
đầu tư sản xuất, kinh doanh trên địa bàn Thị xó Múng Cỏi.
Bên cạnh tiềm năng do xu hướng phát triển mang lại, cơ chế chính sách
của Trung ương và của Tỉnh, Móng Cái cũn cú nhiều lợi thế do đặc thù khu
vực, tự nhiên mang lại. Cụ thể:
Móng Cái là khu kinh tế cửa khẩu, là một trong số ít địa phương tiếp
giáp với Trung Quốc, một thị trường rộng lớn và năng động, đặc biệt là từ khi
Trung Quốc gia nhập WTO. Trong những năm qua Móng Cái được xác định
là một trong những cửa ngừ giao lưu, trung chuyển hàng hoá giữa hai thị
trường Đông Nam Á và Đông Bắc Á.


Cú hệ thống giao thụng thuỷ bộ thuận tiện, cú cửa khẩu Quốc tế và cửa
khẩu tiểu ngạch, cú cảng biển mang tầm cỡ quốc gia và khu vực, có nhiều
cảng thuỷ nội địa phục vụ đắc lực cho hoạt động thương mại. Ngoài cơ chế ưu
đói, Thị xó đó quan tõm đầu tư xây dựng nhiều công trỡnh lớn phục vụ cho
hoạt động thương mại tại khu kinh tế cửa khẩu. Tính đến nay đó cú nhiều

doanh nghiệp trong và ngoài nước đến đầu tư với giá trị đầu tư đó đạt con số
hàng ngàn tỷ đồng.
Trong những năm qua, cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động thị trường
nội địa được quan tâm đầu tư mạnh mẽ, có chiều sâu đó tạo một sức hỳt lớn
đối với các thương nhân trong và ngoài nước, đặc biệt là các thương nhân
Trung Quốc.
Cơ sở hạ tầng cho phát triển thương mại dịch vụ tiếp tục được đầu tư
toàn diện, đặc biệt là việc triển khai dự án xây dựng nâng cấp cảng biển Vạn
Gia, cầu cảng Dõn Tiến và chủ trương xây dựng cầu Bắc Luân 2 sẽ là động
lực mang tính chất đũn bẩy thu hỳt cỏc doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất
nhập khẩu.
Hoạt động thương mại thúc đẩy dịch vụ phát triển và ngược lại. Do
nắm bắt được quy luật phát triển của thị trường, trong những năm qua Móng
Cái đó, đang và sẽ tiếp tục được đầu tư, khuyến khích nhằm phát triển các
khu, cụm công nghiệp, dịch vụ tập trung (bốc xếp dỡ hàng hoá, kho, cảng...)
để hỗ trợ các hoạt động thương mại xuất nhập khẩu. Nắm bắt được thời cơ và
nhu cầu thị trường Trung Quốc, nhiều doanh nghiệp trong và ngoài Tỉnh đó
đến Thị xó Múng Cỏi đầu tư kho ngoại quan để kinh doanh dịch vụ xuất nhập
khẩu; nhiều doanh nghiệp đó đầu tư sản xuất các dự án gia công, sơ chế các
mặt hàng để xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc hoặc hàng hóa từ Trung
Quốc đi vào thị trường Việt Nam và các nước ASEAN. Năm 2006 trên địa
bàn thị xó cú 4.899 hộ kinh doanh cỏ thể; 258 doanh nghiệp và thu hỳt được


25 dự án đầu tư nước ngoài đó được cấp phép với tổng số vốn là 181,19 triệu
USD, trong đó một số liên doanh lớn như công ty liên doanh Hải Ninh-Lợi
Lai, Vĩnh Thuận, tập đoàn Vinh Cơ, Hồng Vận…
Về thị trường nội địa: Toàn Thị xó cú 15 chợ với tổng diện tớch sử
dụng 39.560 m2, vốn đầu tư 207.346 triệu đồng. Trong đó chợ trung tâm
Móng Cái trên 83.000 triệu đồng. Tổng số hộ kinh doanh là 3.763 hộ, trong

đó 734 hộ là người nước ngoài (Trung Quốc). Từ khi các chợ được xây dựng
và đưa vào sử dụng đó tạo được nguồn thu đáng kể cho ngân sách địa
phương. Giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động.
Lĩnh vực sản xuất cụng nghiệp – tiểu thủ cụng nghiệp ngày càng phỏt
triển. Thị xó đó tiến hành quy hoạch cỏc khu cụng nghiệp tập trung như Hải
Yên, Hải Hũa, Ninh Dương. Toàn thị xó cú trờn 320 cơ sở sản xuất, chế biến,
giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động có thu nhập ổn định. Giá
trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp các năm tăng mạnh, giai đoạn
2000 – 2005 tăng bỡnh quõn 48,6%/năm.
Cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng phát triển nhanh. 100% các xó,
phường có trụ sở, trạm xá, trường học kiên cố, cao tầng; đường nhựa đó tới
trung tõm cỏc xó, điện lưới quốc gia đó tới xó đảo Vĩnh Trung, Vĩnh Thực và
xó miền nỳi Hải Sơn, Bắc Sơn, hơn 98% dân số của thị xó được sử dụng điện.
Các khu đô thị mới, hiện đại như Phượng Hoàng, Tây Ka Long, Hải Yên đang
dần được xây dựng, làm cho bộ mặt của thị xó Múng Cỏi ngày càng thay đổi.
Bưu chính viễn thông được đầu tư hiện đại, phát triển với tốc độ nhanh
và mạnh, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt trong nước và quốc tế, số máy
điện thoại đạt tỷ lệ 39 máy/100 dõn.
Hệ thống ngân hàng với sự tham gia đầy đủ của các ngân hàng lớn
trong nước đó cú nhiều đổi mới theo hướng hiện đại hóa và đa dạng các dịch


×