ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------
NGÔ THỊ NGÀ
ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH
LỊCH SỬ VĂN HÓA TỪ NĂM 2001 ĐẾN 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ ĐẢNG
HÀ NỘI - 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGÔ THỊ NGÀ
ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ
VĂN HÓA TỪ NĂM 2001 ĐẾN 2010
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56
Người hướng dẫn khoa học: TS Chu Đức Tính
HÀ NỘI - 2013
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 4
Chương 1
CÔNG TÁC BẢO TỒN, TÔN TẠO VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
LỊCH SỬ VĂN HÓA Ở TỈNH THÁI NGUYÊN TRƯỚC NĂM 2001 ....... 12
1.1.Cơ sở lý luận chung về di tích lịch sử văn hóa ....................................... 12
1.1.1. Khái niệm .......................................................................................... 12
1.1.2. Phân loại di tích ................................................................................ 15
1.1.3. Đặc điểm di tích ................................................................................ 18
1.2. Công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa ở tỉnh
Thái Nguyên trước năm 2001 ...................................................................... 21
1.2.1.Khái quát về vùng đất và con người Thái Nguyên ............................... 21
1.2.2. Một số hoạt động bảo tồn, tôn tạo di tích lịch sử văn hóa ở tỉnh Thái
Nguyên trước năm 2001 .............................................................................. 29
Chương 2
ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN VỚI CÔNG TÁC BẢO TỒN, TÔN TẠO
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA TỪ NĂM
2001 - 2010 ................................................................................................. 47
2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về công tác bảo tồn, tôn tạo
và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa từ năm 2001 - 2010 ..................... 47
2.1.1. Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (1 - 2001) với công tác bảo
tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa ................................. 47
2.1.2. Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII (11 - 2005) với công tác
bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa .......................... 50
2.1.3. Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII (10 - 2010) với công tác
bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa .......................... 53
2.2. Quá trình thực hiện công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích
lịch sử văn hóa ở tỉnh Thái Nguyên (2001 - 2010) ....................................... 56
2
2.2.1. Công tác bảo tồn, tôn tạo di tích lịch sử văn hóa ở tỉnh Thái Nguyên
(2001 - 2010) ............................................................................................... 56
2.2.2. Công tác phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa ở tỉnh Thái Nguyên
(2001 - 2010) ............................................................................................... 69
Chương 3
MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU .............................. 82
3.1. Một số nhận xét về công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích
lịch sử văn hóa ở tỉnh Thái Nguyên (2001 - 2010) ....................................... 82
3.1.1. Những thành tựu cơ bản .................................................................... 82
3.1.2. Một số hạn chế .................................................................................. 85
3.2. Một số kinh nghiệm và vấn đề đặt ra .................................................... 87
3.2.1. Một số kinh nghiệm chủ yếu ............................................................... 87
3.2.2. Một số vấn đề đặt ra .......................................................................... 91
KẾT LUẬN ............................................................................................... 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 105
PHỤ LỤC ................................................................................................. 113
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luật Di sản văn hóa năm 2001 được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6
năm 2001 có viết: “Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân
loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân
dân ta” [53, tr. 29]. Vì vậy, để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa,
đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, việc nghiên
cứu bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử là công việc cần
thiết, cấp bách.
Từ thời cổ đại xa xưa cho đến hàng trăm năm gần đây, loài người đã
nhận thức được rằng không thể thiếu di sản văn hóa trong việc phát triển
tri thức. Lênin đã dạy: “Phải tiếp thu toàn bộ nền văn hóa do chế độ tư
bản để lại và dùng những nền văn hóa đó để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Phải tiếp thu toàn bộ nền khoa học kỹ thuật, tất cả những kiến thức, tất cả
nghệ thuật, không có cái đó chúng ta không thể xây dựng cuộc sống xã
hội cộng sản được” [12, tr.9-10].
Di sản văn hóa của bất cứ quốc gia nào cũng được cấu thành bởi di sản
văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể là những sản phẩm tinh thần,
vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Trong di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể, di tích lịch
sử văn hóa (gọi tắt là di tích) là bộ phận cấu thành quan trọng nhất, là
bằng chứng cụ thể, sinh động về phát triển lịch sử, văn hóa, khoa học lâu
đời của mỗi dân tộc, là tài sản vô cùng quý giá của quốc gia.
4
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã để lại
hàng nghìn di tích có giá trị. Tuy nhiên, các di tích đang bị xuống cấp
nghiêm trọng và có nguy cơ bị mai một vì nhiều nguyên nhân khác nhau
như: Sự tàn phá của chiến tranh, thiên tai, con người chưa có nhận thức
đầy đủ về giá trị các di tích,… Những di tích này không những là bằng
chứng chắc chắn cho việc nghiên cứu lịch sử và nền văn hóa lâu đời của
dân tộc ta, mà còn là cơ sở cần thiết cho việc xây dựng nền văn hóa mới,
tiến hành giáo dục chủ nghĩa yêu nước sâu hơn nữa trong quần chúng
nhân dân. Do đó, nếu để hư hại hoặc làm mất đi một di tích là một tổn thất
rất đáng tiếc, thậm chí không bao giờ lấy lại được. Bởi vậy, việc bảo vệ
các di tích lịch sử văn hóa là trách nhiệm của toàn thể cán bộ và nhân dân
ta đối với lịch sử và với thế hệ sau này.
Ở Thái Nguyên trong những năm qua, việc bảo tồn và phát huy giá trị di
tích lịch sử văn hóa ngày càng được quan tâm, nhất là từ khi có Nghị quyết
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đặc biệt
hiện nay, dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, việc bảo tồn và phát
huy những giá trị di tích lịch sử văn hóa ở Thái Nguyên được coi trọng
hơn bao giờ hết, với mong muốn góp phần làm cho văn hóa thấm sâu vào
đời sống xã hội, mở ra những triển vọng to lớn phát triển nền văn hóa đa
dân tộc, phong phú, đặc sắc trên quê hương Thái Nguyên.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “ Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh
đạo bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa từ năm 2001
đến năm 2010” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa là một vấn đề
nhận được sự quan tâm từ nhiều ngành, nhiều nhà khoa học, trong đó có
một số cuốn sách, bài báo đăng trên tạp chí và luận văn, luận án nghiên
cứu dưới nhiều góc độ như:
+ Các bài đăng trên tạp chí có:
- Trịnh Thị Hòa (2004), “Vài suy nghĩ về vấn đề bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hóa ở Việt Nam trong gần 6 thế kỷ qua”, Tạp chí di sản văn
hóa.
- Nguyễn Quốc Hùng (2004), “Tầm nhìn tương lai đối với di sản văn
hóa và hệ thống bảo vệ di tích ở nước ta”, Tạp chí di sản văn hóa.
- Trịnh Đắc Tâm (2005), “Bảo tồn Di tích lịch sử văn hóa ở Thổ Hà những sai lầm cần tránh”, Tạp chí Xưa và Nay.
- Hà Văn Tấn (2005), “Bảo vệ di tích lịch sử văn hóa trong bối cảnh
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam.
- Đặng Văn Bài (2006), “Tu bổ và tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa là
hoạt động có tính đặc thù chuyên ngành”, Tạp chí Di sản văn hóa.
+ Về sách có:
- Nguyễn Đăng Duy, Trịnh Minh Đức (1993), Bảo tồn di tích lịch sử
văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
- Đảng bộ tỉnh Bắc Thái (1996), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc
Thái lần thứ VII.
- Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XV.
- Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XVI.
6
- Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XVII.
- Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XVIII.
- Hoàng Vinh (1996), Một số lý luận văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Hoàng Vinh (1997), Một số vấn đề bảo tồn và phát triển di sản văn
hóa dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Khoa Điềm (2002), Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Văn hóa - Thông tin.
- Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb
Văn học, Hà Nội.
- Bộ Văn hóa Thông tin (2005), Một con đường tiếp cận di sản văn hóa,
Hà Nội.
- Trịnh Thị Minh Đức (chủ biên) (2008), Bảo tồn di tích lịch sử văn hóa
(giáo trình dành cho sinh viên Đại học và Cao đẳng ngành Bảo tàng), Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
+ Luận văn, luận án có:
- Trần Văn Thắng (1995), Đánh giá khả năng khai thác các di tích lịch
sử văn hóa tỉnh Thừa Thiên Huế phục vụ mục đích du lịch, Luận án Phó
Tiến sĩ Khoa học Địa lý địa chất.
- Từ Mạnh Lương (2003), Một số chính sách và giải pháp kinh tế - xã
hội chủ yếu nhằm bảo tồn, tôn tạo và nâng cao hiệu quả khai thác di tích
lịch sử văn hóa của dân tộc giai đoạn phát triển mới của đất nước, Luận
án Tiến sĩ Kinh tế.
- Doãn Thị Mai Thủy (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và sự vận dụng vào
7
xây dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sỹ khoa học
chính trị, Học viện chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Những bài báo, cuốn sách và luận văn, luận án trên có điểm chung đều
đề cập đến vấn đề di sản văn hóa, các lý luận chung đối với công tác bảo
tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa. Nhưng để có một
công trình nghiên cứu cụ thể về công tác bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị
di tích lịch sử dưới sự lãnh đạo của một Đảng bộ tỉnh nhất định thì chưa
có. Kế thừa quan điểm chung cùng một số lý luận và kinh nghiệm của tác
giả đi trước, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài: Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh
đạo công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa.
Trên cơ sở tiếp thu một phần lý luận chung về di tích, các nguyên tắc
bảo tồn, tôn tạo di tích của các tác giả đã nghiên cứu trước đây, tác giả
luận văn sẽ đi sâu vào nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên đối với công tác bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị các di tích lịch
sử trong mười năm từ 2001 đến 2010.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Từ những vấn đề cơ bản của công tác bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị di
tích lịch sử văn hóa và qua thực tiễn, đánh giá thực trạng hoạt động bảo
tồn, phát huy giá trị và nguyên nhân tồn tại, khó khăn của các di tích lịch
sử văn hóa ở tỉnh Thái Nguyên. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng
cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa
trên địa bàn, qua đó thấy rõ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên
với vấn đề trên từ năm 2001 - 2010.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Nêu lên thực trạng công tác bảo tồn, tôn tạo di tích lịch sử văn hóa ở
tỉnh Thái Nguyên trước năm 2001.
8
- Hệ thống hóa chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về việc bảo
tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa từ năm 2001 2010.
- Đánh giá khách quan, toàn diện về công tác bảo tồn, tôn tạo và phát
huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa của tỉnh Thái Nguyên từ năm 2001 2010.
3.3. Đối tƣợng của luận văn
Luận văn tập trung tìm hiểu chủ trương và công tác chỉ đạo thực hiện
của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên với công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy
giá trị các di tích lịch sử văn hóa từ năm 2001 - 2010.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Khóa luận nghiên cứu trong mười năm, từ năm 2001 2010. Tháng 1 năm 2001, diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên lần thứ XVI. Tháng 12 năm 2010, diễn ra Đại hội Đại biểu Đảng
bộ tỉnh lần thứ XVIII. Thông qua các Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh, luận
văn muốn đề cập đến chủ trương của Đảng bộ tỉnh đối với công tác bảo
tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa từ năm 2001 2010.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu công tác bảo tồn, tôn tạo và phát
huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa từ năm 2001 - 2010 trên địa bàn toàn
tỉnh. Nhưng do hạn chế về thời gian khảo sát, tư liệu, trình độ nên đề tài
không đề cập đến toàn bộ các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh, mà
chỉ tập trung tìm hiểu thực tế ở một số di tích tiêu biểu, lấy đó làm dẫn
chứng phục vụ mục đích nghiên cứu đề tài.
- Về nội dung: Tìm hiểu những vấn đề liên quan đến công tác bảo tồn,
tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh từ năm 2001 - 2010.
9
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tƣ liệu
- Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề văn hóa.
- Một số Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên và Báo cáo tổng kết
của các ban, ngành trong tỉnh có liên quan đến vấn đề văn hóa cùng một số
công trình của các tác giả có liên quan đến đề tài luận văn.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chủ
yếu. Bên cạnh đó có sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, khảo sát
điền dã (chụp ảnh) để đối chiếu, đảm bảo độ chính xác, tin cậy của các dữ
liệu làm cơ sở cho việc nhận định, khái quát vấn đề trong luận văn.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Thực trạng công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các
di tích lịch sử văn hóa ở tỉnh Thái Nguyên trước năm 2001.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên với công tác bảo tồn, tôn tạo và
phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa từ năm 2001 - 2010.
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm chủ yếu về công tác bảo tồn,
tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa từ năm 2001 - 2010.
Để hoàn thành bài luận văn này tôi đã nhận được sự giúp đỡ từ rất nhiều
cá nhân, cơ quan, đoàn thể tỉnh Thái Nguyên. Vì vậy, tôi xin được gửi lời
cảm ơn chân thành nhất tới các cán bộ Phòng Di sản (Sở Văn hóa - Thể
thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên); Văn phòng Tỉnh ủy Thái Nguyên; cán
bộ lãnh đạo Khu Di tích Lịch sử ATK Định Hóa - Thái Nguyên; Bảo tàng
- Thư viện tỉnh Thái Nguyên.
10
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Thầy
giáo, Tiến sỹ Chu Đức Tính - Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh, người đã
trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình tôi trong suốt thời gian qua để tôi có
thể hoàn thành bài luận văn này.
Và cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các thầy cô
giáo khoa Lịch sử - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Hà
Nội), những người đã có công dạy dỗ, tư vấn và giúp đỡ tôi trong quá trình
hoàn thành bài luận văn của mình.
11
Chƣơng 1
CÔNG TÁC BẢO TỒN, TÔN TẠO VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
LỊCH SỬ VĂN HÓA Ở TỈNH THÁI NGUYÊN TRƢỚC NĂM 2001
1.1. Cơ sở lý luận chung về di tích lịch sử văn hóa
1.1.1. Khái niệm
Di tích lịch sử văn hóa là tài sản văn hóa quý giá của mỗi địa phương, dân
tộc, đất nước và cả nhân loại. Chúng là những bằng chứng trung thành, xác
thực, cụ thể nhất về đặc điểm văn hóa của mỗi quốc gia, ở đó chứa đựng tất cả
những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp, về kỹ năng, kỹ xảo và tâm linh con
người.
Theo quy định trong Hiến chương Venise (vơnije) - Italia năm 1964, khái
niệm di tích lịch sử văn hóa bao gồm những công trình xây dựng lẻ loi, những
khu di tích ở đô thị hay ở nông thôn là bằng chứng của một nền văn minh
riêng biệt, của một sự tiến hóa có ý nghĩa hay là một biến cố về lịch sử.
Ở nước ta, theo Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và
danh lam thắng cảnh công bố ngày 4 tháng 4 năm 1984 thì di tích lịch sử văn
hóa là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và các tác phẩm
có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật cũng như có giá trị văn hóa khác, hoặc
liên quan đến các sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hóa xã hội.
Diễn giải cụ thể ra thì: Di tích lịch sử văn hóa là những nơi ẩn dấu một bộ
phận giá trị văn hóa khảo cổ, những địa điểm; khung cảnh ghi dấu về dân tộc
học; những nơi diễn ra sự kiện quan trọng có ý nghĩa thúc đẩy lịch sử đất
nước, lịch sử địa phương phát triển (kể cả những nơi do đế quốc, phong kiến
gây ra tội ác nhằm phá hoại, kìm hãm lịch sử); những địa điểm ghi dấu chiến
công chống xâm lược; chống áp bức; những nơi ghi dấu sự vinh quang lao
động, những nơi ghi dấu giá trị lưu niệm về nhân vật lịch sử, anh hùng dân
tộc, danh nhân văn hóa khoa học; những công trình nghệ thuật có giá trị toàn
12
quốc hoặc khu vực,… Những quy định trên bao gồm cả những di vật được
sản sinh ra trong quá trình hoạt động hình thành di tích và những giá trị tưởng
niệm do các lớp người đời sau tạo dựng nên ở di tích.
Như vậy: Di tích lịch sử văn hóa là những không gian vật chất cụ thể,
khách quan, trong đó chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử; do tập thể hoặc
cá nhân con người hoạt động sáng tạo ra trong lịch sử để lại.
Từ định nghĩa mang tính khoa học trên, ta thấy di tích là không gian vật
chất cụ thể, khách quan vì không gian đó ngoài ý muốn của chúng ta, không
do chúng ta quy định mà do quá trình hoạt động hình thành nên di tích quy
định. Di tích lịch sử cần phải được bảo vệ, khai thác sử dụng tại chỗ, gắn liền
với khung cảnh của nó.
Bảo tồn là những hoạt động nhằm bảo vệ, bảo quản, tu bổ, phục hồi các
yếu tố gốc của di tích. Điều đó nói lên rằng những người hoạt động bảo tồn di
tích không tạo ra di tích mà chỉ có thể hoạt động bảo tồn sao cho hợp lý, cho
đúng với đối tượng khách quan đó. Việc tự tạo ra di tích là đánh lừa cảm giác
đối với khách thăm quan.
Khi di tích được xác định bảo tồn nghĩa là di tích đó phải có những giá trị
điển hình (trong sự so sánh với dấu tích lịch sử khác): Điển hình về sự kiện
chính trị, quân sự đối với cả nước hoặc địa phương; điển hình về giá trị lưu
niệm nhân vật lịch sử anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa khoa học, điển
hình về kiến trúc nghệ thuật. Nếu không có những giá trị điển hình tiêu biểu
thì không được xếp hạng, không được công nhận là di tích.
Tôn tạo là quá trình thực hiện những thiết kế bổ sung vào di tích hiện có và
xây dựng mới các công trình, bổ sung phương tiện kỹ thuật nhằm mục đích
tôn vinh thêm giá trị của di tích.
13
Phát huy giá trị (hay khai thác di tích) là những hoạt động nhằm giới thiệu
các giá trị vật chất và tinh thần chứa đựng trong di tích, phục vụ sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương.
Mục đích của việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa là giữ gìn,
bảo quản, bảo vệ chúng một cách thích đáng nhất về mặt pháp lý và khoa học
nhằm giữ lại các di tích đó cho thế hệ chúng ta và mai sau, sử dụng chúng vào
việc nghiên cứu khoa học, giáo dục tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ và truyền
thống, góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa dân tộc.
Với mục đích trên, khi bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị di tích lịch sử văn
hóa cần đảm bảo các nguyên tắc:
- Phải tiến hành nghiên cứu khoa học toàn diện và cụ thể về di tích, mọi
quy trình phải được tiến hành dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học.
- Cố gắng giữ lại nguyên vẹn các yếu tố gốc của di tích, không làm thay đổi
hiện trạng di tích, không gây biến dạng di tích.
- Giữ gìn đến mức tối đa cảnh quan vốn có của di tích. Mọi việc tu sửa
hoặc tôn tạo di tích phải đảm bảo hài hòa giữa di tích và cảnh quan.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tác dụng của di tích, song
không làm ảnh hưởng đến việc bảo vệ, bảo quản di tích, không gây lấn át,
biến dạng di tích.
- Bảo tồn, tôn tạo và phát huy tác dụng di tích phải gắn liền với phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương có di tích.
Di tích lịch sử văn hóa bao gồm các thuộc tính như: Môi trường, cảnh quan
thiên nhiên xen kẽ hoặc bao quanh di tích; những công trình kiến trúc đã
chứng kiến sự kiện lịch sử; hoặc bản thân kiến trúc hoặc những tác phẩm mỹ
thuật chứa đựng trong đó là những tiếng nói về di tích; những hiện trạng
chứng kiến sự kiện lịch sử vừa kết thúc hoặc nhân vật lịch sử, danh nhân văn
hóa vừa mới ngừng hoạt động ở di tích; và bộ phận hữu cơ nữa là những di
14
vật lịch sử được sản sinh ra trong quá trình hoạt động hình thành di tích. Tùy
theo mỗi loại di tích mà một trong những thuộc tính trên đây tạo thành sự
hoàn chỉnh các di tích.
Theo quy định tại Điều 28 Luật Di sản văn hóa năm 2009, di tích lịch sử
văn hóa phải có một trong các tiêu chí sau đây:
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử, văn hóa tiêu biểu
của quốc gia hoặc của địa phương.
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh
hùng dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng tích cực đến sự phát
triển của quốc gia hoặc của địa phương trong các thời kỳ lịch sử.
- Địa điểm khảo cổ có giá trị tiêu biểu.
- Công trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô
thị và địa điểm cư trú có giá trị tiêu biểu cho một hoặc nhiều giai đoạn phát
triển kiến trúc, nghệ thuật.
Như vậy, di tích lịch sử văn hóa là sản phẩm của lịch sử và được lịch sử
khẳng định, vì thuộc về lịch sử nên di tích bao giờ cũng tồn tại theo một
không gian nhất định, khẳng định một thời gian nhất định và chứa đựng một
nội dung lịch sử, giá trị văn hóa nhất định. Hoạt động bảo vệ, tôn tạo và phát
huy giá trị di tích lịch sử văn hóa trên cơ sở nội dung, đặc điểm lịch sử dân
tộc, đất nước được ghi dấu lại ở mỗi di tích.
1.1.2. Phân loại di tích
Việc phân loại di tích có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các
chính sách và giải pháp phù hợp để bảo tồn, tôn tạo và khai thác di tích một
cách hiệu quả nhất. Theo Luật Di sản văn hóa năm 2009, di tích được phân
loại như sau:
Thứ nhất, căn cứ vào giá trị tiêu biểu nhất mà di tích chứa đựng thì di
tích được phân thành 4 loại, gồm:
15
Loại hình di tích lịch sử, bao gồm: Những công trình, địa điểm gắn với
sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình dựng nước và giữ nước; gắn với thân
thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân đất nước; gắn với sự kiện
lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng chiến1.
Di tích kiến trúc nghệ thuật, bao gồm: Quần thể các công trình kiến trúc
hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật
của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử như di tích đền, nghè, miếu, phủ, đình
làng2,…
Di tích khảo cổ học là những địa điểm ẩn dấu một bộ phận giá trị văn
hóa về thời kỳ lịch sử xã hội loài người chưa có văn tự và thời gian nào đó
trong thời kỳ lịch sử cổ đại3.
Di tích danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có
sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị thẩm
mỹ tiêu biểu hoặc địa điểm ghi dấu hoạt động của con người trong lịch sử để
lại, có giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học 4.
Thứ hai, theo đầu mối quản lý và giá trị của di tích gồm có 3 loại là:
Di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc
gia. Các di tích này được địa phương lập hồ sơ xếp hạng và trên cơ sở đề nghị
của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin 5, Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp
hạng di tích quốc gia đặc biệt và quyết định đề nghị các tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc xem xét đưa di tích tiêu biểu của
Việt Nam vào Danh mục Di sản thế giới.
1
Ở Thái Nguyên có tất cả 15 di tích lịch sử thuộc loại hình di tích này: Nơi thành lập cơ sở Đảng Cộng sản
đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên năm 1936, xã La Bằng, huyện Đại Từ hay di tích nhà tù chợ Chu, thị
trấn chợ Chu, huyện Định Hóa,…
2
Ở Thái Nguyên có di tích đình Phương Độ, xã Xuân Phương, huyện Phú Bình.
3
Ở Thái Nguyên có di tích khảo cổ học thời đại đồ đá cũ ở xã Thần Sa, huyện Võ Nhai (bao gồm hang
Phiêng Tung, mái đá Ngườm và một số hang khác).
4
Ở Thái Nguyên có hang Phượng Hoàng, suối Mỏ Gà thuộc xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai và thắng cảnh
chùa Hang thuộc thị trấn chùa Hang, huyện Đồng Hỷ là hai danh lam thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh.
5
Từ ngày 1/1/2007 là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch.
16
Di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia. Các di tích
này được địa phương lập hồ sơ, trên cơ sở đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin ra Quyết định xếp hạng di tích
quốc gia.
Di tích cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương. Địa phương
lập hồ sơ, trên cơ sở đề nghị của Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin, chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xếp hạng di tích cấp
tỉnh.
Thứ ba, dựa vào hình thức quản lý, di tích được chia thành 3 loại:
Di tích do Nhà nước trực tiếp quản lý: Là các di tích quốc gia đặc biệt và
di tích quốc gia do các ban quản lý di tích được Nhà nước thành lập trực tiếp
quản lý.
Di tích do cộng đồng dân cư (tập thể) trực tiếp quản lý: Là các di tích
quốc gia, di tích địa phương cấp tỉnh được giao cho tổ chức nhân dân trực tiếp
quản lý như đình làng, các chùa, đền thờ,…
Di tích do các nhân, gia đình trực tiếp quản lý như nhà thờ dòng họ, nhà
ở dân cư trong các khu phố cổ.
Thứ tư, theo điều kiện khai thác của di tích, di tích được phân làm hai
loại:
Di tích có khả năng khai thác: Là các di tích có điều kiện thuận lợi khách
quan1 hấp dẫn khách thăm quan, có nguồn thu tại di tích và có khả năng huy
động các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước cho hoạt động bảo tồn, tôn tạo
và khai thác như di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích gắn với tín ngưỡng của
nhân dân nằm ở những khu vực có điều kiện giao thông đi lại thuận lợi, thuộc
các tuyến thăm quan du lịch.
1
Do bản chất của di tích quy định, không phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người.
17
Di tích chưa có khả năng khai thác: Là các di tích chưa có điều kiện
thuận lợi khách quan về hấp dẫn khách thăm quan, không có nguồn thu tại di
tích và rất khó huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước cho hoạt
động bảo tồn, tôn tạo, khai thác di tích như các di tích cách mạng, di tích khảo
cổ học, di tích lưu niệm danh nhân nằm ở những khu vực không có điều kiện
giao thông đi lại thuận lợi, không thuộc các tuyến thăm quan du lịch.
Như vậy, bên cạnh việc có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng các chính
sách và giải pháp phù hợp để bảo tồn, tôn tạo và khai thác di tích một cách
hiệu quả thì việc phân loại di tích còn có tầm quan trọng đặc biệt trong việc
bảo tồn di tích. Phân loại là để xếp loại và gọi tên cho di tích đúng nhất, từ đó
xác định đúng nội dung giá trị chứa đựng ở di tích. Mặt khác việc phân loại
cũng cho thấy tính đa dạng, phong phú chứa đựng ở di tích, trên cơ sở đó các
nhà quản lý cần có chính sách chính xác giúp cho hoạt động bảo tồn, tôn tạo,
khai thác di tích một cách hiệu quả.
1.1.3. Đặc điểm di tích
a. Đặc điểm chung các di tích ở Việt Nam
Thứ nhất, các di tích được hình thành từ hoạt động lao động sáng tạo của
con người trong quá trình dựng nước và giữ nước, tồn tại dưới dạng vật chất
cụ thể, với các loại hình phong phú và đa dạng.
Sự phong phú về các sản phẩm do lao động của con người trong quá khứ
sáng tạo ra phản ánh sự đa dạng về các loại hình di tích. Có di tích phản ánh
sự gửi gắm, lòng tin ước nguyện của con người về những vị thần thánh, luôn
cứu giúp con người trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, với cái ác như các
đình, chùa, đền, miếu thờ. Và lại có những di tích phản ánh lòng yêu nước, ý
chí kiên cường của con người trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược
như nhà tù, địa đạo,…
18
Thứ hai, di tích phản ánh trung thực quá trình phát triển lịch sử, kinh tế xã hội của mỗi dân tộc, mỗi địa phương.
Di tích là sản phẩm do lao động của con người trong quá khứ để lại và
khi được xem xét là di tích thì chúng không bị ràng buộc về thời gian. Có
những di tích đã có từ hàng trăm năm như đình Tây Đằng (Hà Tây) tồn tại
cách ngày nay hơn 500 năm nhưng cũng có di tích chỉ mới có trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, Mỹ của dân tộc như ATK chiến khu Việt Bắc, đồi
A1, địa đạo Củ Chi,…
Thứ ba, di tích là bằng chứng vật chất sinh động phản ánh trung thực quá
trình ra đời trong lịch sử của sản phẩm đó trên các phương diện như: Nó được
tạo ra trong hoàn cảnh nào, với mục đích gì, do ai tạo ra,… nghiên cứu điều
đó sẽ phát hiện ra thời kỳ lịch sử của sản phẩm đó ra đời. Ví dụ: Cố đô Huế ra
đời cách đây hơn 300 năm nhằm phục vụ sự cai trị đất nước và hưởng thụ của
các vua quan triều Nguyễn, nó phản ánh quá trình lịch sử sự phát triển của chế
độ phong kiến Việt Nam, cũng như trình độ khoa học, kỹ thuật, hội họa, điêu
khắc của người Việt Nam thời kỳ đó.
Thứ tư, di tích phản ánh tính đa dạng về văn hóa của các dân tộc.
Mỗi quốc gia thường có nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống. Mỗi
dân tộc có lịch sử, văn hóa, khoa học phát triển khác nhau. Nghiên cứu các di
tích do các dân tộc khác nhau sáng tạo ra trong quá khứ không những thấy
được sự phát triển về lịch sử, văn hóa, khoa học của từng dân tộc mà còn thấy
được tính đa dạng về văn hóa của mỗi quốc gia. Ví dụ: Tháp Chàm là bằng
chứng về sự phát triển văn hóa của dân tộc Chăm.
Thứ năm, các di tích đều bao gồm hai mặt giá trị tiêu biểu là giá trị văn
hóa vật thể và phi vật thể hay còn gọi là vật chất và tinh thần.
Giá trị vật chất của di tích là cái mà chúng ta nhìn thấy, nó tồn tại trong
một không gian vật chất nhất định như đình, chùa, lăng tẩm, tượng,…
19
Giá trị văn hóa tinh thần của di tích là cái mà chúng ta chỉ nhận thấy
thông qua các hoạt động tái hiện nó của con người như lễ, hội, ca, múa, nhạc
hay sự ghi chép của con người về bản thân di tích đó.
Thứ sáu, ngoài giá trị về vật chất di tích còn chứa đựng giá trị tinh thần,
nên không thể dùng thước đo hao phí thời gian lao động xã hội cần thiết để
đánh giá giá trị của di tích.
Giá trị vật chất của di tích được hình thành trên cơ sở hao phí thời gian
lao động xã hội cần thiết của con người trong quá khứ khi sáng tạo ra nó, bản
thân nó chứa đựng giá trị lao động xã hội của con người. Tuy nhiên, không
thể lấy thước đo thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết để đánh giá giá trị
của nó. Bởi, khi sản phẩm lao động của con người trong quá khứ được công
nhận là di tích, thì bản thân nó không chỉ chứa đựng giá trị lao động xã hội
của con người tạo ra nó, mà còn chứa đựng những giá trị tiêu biểu của xã hội
về lịch sử, văn hóa, khoa học. Do đó, di tích là tài sản vô giá của quốc gia. Ví
dụ di tích văn Miếu - Hà Nội, để xây dựng nó cần có các vật liệu xây dựng
như gạch, ngói, gỗ kết hợp sức lao động của con người. Nhưng khi xem xét
giá trị của chúng không thể chỉ tính giá trị lao động xã hội và chi phí cho lao
động của con người để tạo ra nó mà phải xem di tích này là tài sản của quốc
gia, có giá trị quý báu vì nó chứa đựng những giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa
học, phản ánh sự phát triển về giáo dục của người Việt Nam trong quá khứ.
b. Đặc điểm riêng các di tích của Việt Nam
Đa số các di tích của Việt Nam có quy mô nhỏ, phân bố rộng khắp cả
nước, được xây dựng bằng các vật liệu có tuổi thọ thấp, trải qua thời gian do
sự hủy hoại của thiên nhiên và con người, các di tích đang trong tình trạng
xuống cấp.
Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam là lịch sử mang đậm dấu ấn
cuộc chiến tranh giữ nước, giành độc lập dân tộc và nền kinh tế kém phát
20
triển. Dưới sự đô hộ của phong kiến Trung Quốc, thực dân Pháp, phát xít
Nhật, đế quốc Mỹ các công trình được xây dựng hầu hết với quy mô nhỏ, vật
liệu không bền vững. Không những thế, các thế lực ngoại bang còn phá hoại
nhiều công trình văn hóa của Việt Nam. Dưới các triều đại phong kiến Việt
Nam trước đây, một mặt do các cuộc nội chiến, triều đại trước không muốn để
lại cho triều đại sau những công trình của mình đã xây dựng, hoặc khi các
triều đại phong kiến thay đổi nhau thường có hiện tượng triều đại sau phá bỏ
các công trình của triều đại trước.
Việt Nam có 54 dân tộc anh em sinh sống, các di tích đều do lao động
sáng tạo của các dân tộc Việt Nam trong quá khứ và các cuộc chiến tranh
chống giặc ngoại xâm, hình thành nên một hệ thống di tích vừa đa dạng về
văn hóa của các dân tộc anh em, vừa phong phú về loại hình như di tích đình
làng, miếu thờ thường phân bố ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, di tích tháp Chăm
ở miền Trung và di tích kháng chiến ở khắp cả nước.
Phần lớn các di tích của Việt Nam được nhân dân xây dựng và bảo tồn.
Thực tế cho thấy, các di tích là đình làng, miếu thờ, đặc biệt là các di tích có
gắn với tín ngưỡng đều do nhân dân quyên góp tiền xây dựng và thực hiện
bảo tồn, tôn tạo. Chỉ một số ít di tích được xây dựng, bảo tồn, tôn tạo bằng
nguồn ngân sách của các triều đại phong kiến hay Nhà nước như di tích thành
quách, lăng mộ, cung đình, cách mạng, kháng chiến… nhưng suy cho cùng
cũng là tiền của, công sức do nhân dân đóng góp. Đặc điểm này cho thấy sự
gắn bó chặt chẽ của các di tích đối với đời sống văn hóa, tinh thần của nhân
dân, được nhân dân chăm lo bảo tồn, tôn tạo là chính.
1.2. Công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử văn
hóa ở tỉnh Thái Nguyên trƣớc năm 2001
1.2.1. Khái quát về vùng đất và con người Thái Nguyên
* Điều kiện tự nhiên
21
Thái Nguyên là tỉnh trung du miền núi phía Bắc Việt Nam với diện tích đất
tự nhiên 3.541 km2; theo niên giám thống kê 2010, dân số tỉnh Thái Nguyên
là 1.131.300 người với 8 dân tộc chính cùng sinh sống là: Kinh, Tày, Nùng,
Dao, Sán Dìu, Sán Chay, Hoa, H’Mông. Năm 1997, tỉnh được tách ra từ tỉnh
Bắc Thái, bao gồm 7 huyện, 1 thành phố, 1 thị xã là: Thành phố Thái Nguyên,
thị xã Sông Công, các huyện Đồng Hỷ, Phú Lương, Võ Nhai, Định Hóa, Đại
Từ, Phú Bình, Phổ Yên.
Tỉnh có vị trí tiếp giáp:
- Phía Đông giáp tỉnh Bắc Giang, Lạng Sơn.
- Phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
- Phía Nam giáp thủ đô Hà Nội.
- Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Kạn.
Cực Bắc của tỉnh là thượng nguồn suối Khuôn Tát, xã Phú Đình, huyện
Định Hóa. Cực Nam là cầu Đa Phúc, huyện Phổ Yên. Cực Tây là vùng núi
phía Bắc đèo Khế, xã Yên Lãng, huyện Đại Từ. Cực Đông là vùng núi đá vôi,
xã Phương Giao, huyện Võ Nhai. Với vị trí này, Thái Nguyên trở thành đầu
ngõ, đầu mối giao thông trung chuyển thông thương đi các tỉnh miền núi phía
Bắc, là cầu nối các tỉnh Việt Bắc với thủ đô Hà Nội.
Về địa hình: Thái Nguyên vừa có vùng núi cao, vừa có trung du với hệ
thống sông, hồ phong phú như sông Cầu, sông Công, hồ Núi Cốc, hồ Bảo
Linh, hồ Suối Lạnh. Với 2/3 diện tích của tỉnh là rừng núi hùng vĩ, nhiều hang
động, thác ghềnh, khe suối và những thắng cảnh thiên nhiên tươi đẹp, tạo nên
sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người nơi đây.
Về khí hậu: Thái Nguyên có khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng của miền
Bắc nước ta. Thời tiết trong năm được chia thành hai mùa rõ rệt: Mùa mưa
nhiều, kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10 trong năm; mùa khô bắt đầu từ tháng
11 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm vào mùa hè là 23 oC,
22
khi nóng nhất lên đến 39 0 C. Vào mùa đông, do ảnh hưởng của các đợt không
khí lạnh từ phía Bắc nên thời tiết của Thái Nguyên khá lạnh, hình thành
sương muối vào các tháng 12 và tháng 1.
Khí hậu nhiệt đới gió mùa, ẩm và mát cộng với địa hình núi non hùng vĩ,
nhiều hang, động, sông, hồ,… rất thuận lợi cho Thái Nguyên phát triển kinh
tế nông nghiệp cũng như phát triển du lịch sinh thái của tỉnh.
* Kinh tế - xã hội
Thành phố Thái Nguyên là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của toàn
tỉnh và là thành phố vệ tinh của thủ đô Hà Nội, cách Hà Nội 80 km theo quốc
lộ 3. Từ Thái Nguyên có nhiều tuyến đường giao thông nối liền các trục kinh
tế như:
- Tuyến đường 18 nối trục kinh tế công nghiệp Thái Nguyên - Kép - Phả
Lại - Uông Bí - Cái Lân ra biển.
- Trục kinh tế phía Bắc Hà Nội - Nội Bài - Sông Công và khu chế xuất Sóc
Sơn sầm uất.
Ngoài ra Thái Nguyên còn là đầu mối giao thông sang các tỉnh lân cận,
thông sang cửa khẩu các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng nên rất thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế thương mại, xuất nhập khẩu hàng hóa, giao lưu kinh tế giữa
Thái Nguyên với vùng Đông Bắc của Tổ quốc.
Từng là thủ phủ của khu tự trị Việt Bắc, Thái Nguyên tự hào là nơi ra đời
khu công nghiệp gang thép đầu tiên trong cả nước, chuyên sản xuất thép cung
cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu sang các nước châu Á. Đồng thời,
Thái Nguyên còn là tỉnh có nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp lớn của Trung
ương như: Khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên, nhà máy cơ khí Sông
Công, Phổ Yên, các ngành công nghiệp khai thác mỏ, công nghiệp chế biến,
gia công, sản xuất vật liệu xây dựng, các nhà máy quốc phòng,…Bên cạnh đó,
Thái Nguyên còn phát triển công nghiệp cơ khí, khai thác khoáng sản, quặng,
23
sắt, đá làm vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến chè với đặc sản chè Tân
Cương nổi tiếng.
Là trung tâm của vùng miền núi phía Bắc, Thái Nguyên là một trong ba
trung tâm giáo dục lớn nhất cả nước sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Cả tỉnh có 5 trường Đại học và nhiều trường Cao đẳng, Trung cấp, dạy nghề
với chức năng đào tạo văn hóa, khoa học, giáo dục, nghệ thuật và nguồn nhân
lực cho các tỉnh vùng Đông Bắc và một số tỉnh miền Trung.
Với vị thế là trung tâm vùng Việt Bắc nằm sát vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ, có hệ thống đường giao thông thuận lợi, kết cấu hạ tầng được xây dựng
tương đối đồng bộ, bao gồm mạng lưới giao thông nông thôn và đô thị, điện
lưới quốc gia, hệ thống thủy lợi, nước sinh hoạt đô thị, các công trình phúc lợi
công cộng về văn hóa, xã hội như: Trường học, bệnh viện, công sở làm việc
của các cấp hành chính từ tỉnh đến cơ sở.
Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội thuận lợi, Thái
Nguyên có đủ điều kiện phát triển để trở thành một tỉnh giàu mạnh trong hiện
tại và tương lai.
* Truyền thống văn hóa lịch sử
Xưa nay, Thái Nguyên vẫn thường được xem như một nét gạch nối giữa
vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng đại ngàn Việt Bắc. Chính vị trí
địa lý ấy đã góp phần quan trọng bồi đắp nên bề dày truyền thống lịch sử cho
miền đất này. Đây là nơi giao lưu hội tụ bản sắc văn hóa của 8 thành phần dân
tộc anh em. Trong suốt chiều dài lịch sử, các dân tộc trong tỉnh đã cùng sinh
sống đan xen, mở mang đất đai, sinh cơ lập nghiệp, cùng đồng bào cả nước
giữ gìn giang sơn bờ cõi, chiến đấu kiên cường trong các cuộc kháng chiến
trường kỳ của dân tộc. Mảnh đất địa linh nhân kiệt ấy đã sản sinh ra những
người com ưu tú, những anh hùng, danh nhân mà tên tuổi của họ đã đi vào
lịch sử dân tộc. Trong đó phải kể đến anh hùng phò mã lang Dương Tự Minh,
24