Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của đảng bộ tình vĩnh phúc tu nam 1997 den nam 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 151 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------

NGUYỄN THỊ THU HẰNG

QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA
ĐÓI, GIẢM NGHÈO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH
PHÚC TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU HẰNG

QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI,
GIẢM NGHÈO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn: PGS.TS. Hồ Khang



HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT...........................................................3
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ.....................................................................4
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 9
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu .................... 10
6. Đóng góp của luận văn.............................................................................. 10
7. Bố cục luận văn............................................................................................9
Chương 1: QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH
ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO
TRONG NHỮNG NĂM 1997 - 2005 ........................................................... 12
1.1. Cơ sở hình thành chủ trương xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Phúc (1997 – 2005) ....................................................................... 12
1.1.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xoá đói, giảm
nghèo (1997 – 2005) ....................................................................................... 12
1.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc và việc
thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo của tỉnh trước năm 1997 ........ 22
1.2. Quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc vận dụng chủ trương xoá đói,
giảm nghèo của Đảng vào thực tiễn thực hiện chính sách xoá đói,
giảm nghèo ở địa phương (1997 – 2005) ..................................................... 28
1.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về xoá đói, giảm nghèo
(1997 – 2005) .................................................................................................. 28

1.2.2. Quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc chỉ đạo thực hiện chính sách
xóa đói, giảm nghèo (1997 – 2005) ............................................................... 34

1


Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO GIAI ĐOẠN 2006 –
2010 ................................................................................................................. 58
2.1. Những thuận lợi và khó khăn đối với việc thực hiện chính sách
giảm nghèo ở Vĩnh Phúc và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
về giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010........................................................... 58
2.1.1. Những thuận lợi và khó khăn đối với việc thực hiện chính sách
giảm nghèo ở Vĩnh Phúc (2006 – 2010) ....................................................... 58
2.1.2. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện giảm
nghèo giai đoạn 2006 – 2010 ......................................................................... 60
2.2. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo đẩy mạnh thực hiện chính sách
giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010 ............................................................... 62
2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về thực hiện giảm
nghèo giai đoạn 2006 – 2010 ......................................................................... 62
2.2.2. Quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện
chính sách giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 ............................................. 65
Chương 3: NHẬN XÉT CHUNG VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM ........... 80
CHỦ YẾU....................................................................................................... 80
3.1. Nhận xét chung ....................................................................................... 80
3.1.1. Những thành tựu cơ bản ..................................................................... 80
3.1.2. Một số tồn tại, hạn chế ......................................................................... 97
3.2. Những kinh nghiệm chủ yếu và một số vấn đề đặt ra ...................... 102
3.2.1. Những kinh nghiệm chủ yếu ............................................................. 102
3.2.2. Một số vấn đề đặt ra ........................................................................... 110

KẾT LUẬN .................................................................................................. 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 118
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 126

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCĐ

: Ban chỉ đạo

BCH

: Ban chấp hành

BHYT

: Bảo hiểm y tế

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNH – HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
CPTM

: Cổ phần thương mại

CCB


: Cựu chiến binh

ĐBKK

: Đặc biệt khó khăn

GD - ĐT

: Giáo dục - Đào tạo

HĐND

: Hội đồng nhân dân

KHHGĐ

: Kế hoạch hóa gia đình

KHKT

: Khoa học kỹ thuật

KHXH & NV : Khoa học xã hội và nhân văn
LHPN

: Liên hiệp phụ nữ

MTTQ


: Mặt trận Tổ quốc

NN & PTNT : Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
TB&XH

: Thương binh và xã hội

TMCP

: Thương mại cổ phần

UBND

: UBND

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

3


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Kết quả xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 1997 - 2000.....................85
Biểu đồ 2: Kết quả xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005.....................86
Biểu đồ 3: Kết quả giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010...................................87
Bảng 3.1: Thực tế hộ nghèo của Vĩnh Phúc năm 2006.................................100

4



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài ngƣời, cùng với sự
phát triển liên tục của lực lƣợng sản xuất, loài ngƣời đã lần lƣợt đi qua các xã
hội khác nhau với những trình độ phân hoá giàu nghèo khác nhau. Đến xã hội
đƣơng đại, phân biệt giàu nghèo không còn là giữa những ngƣời cầm roi vọt
đứng trƣớc vài ngàn nô lệ trƣớc đây, mà là những nhà tƣ bản kếch xù, những
trùm tài phiệt có khi không hề biết đến đám dân đen nghèo khổ mà họ đang
bóc lột cụ thể là ai. Tác động của nền kinh tế thị trƣờng khiến cho sự phân
biệt đó ngày càng lớn. Trong xã hội hiện nay, nghèo đói đã và đang tồn tại
nhƣ là một thách thức lớn, một trở lực lớn đối với sự phát triển của kinh tế và
xã hội loài ngƣời. Trong khi các nền kinh tế siêu cƣờng vẫn liên tục phát triển
với tốc độ cao thì một phần tƣ dân số thế giới vẫn đang phải sống trong sự
cùng cực của nghèo khổ, không đủ khả năng đáp ứng những nhu cầu cơ bản
của con ngƣời; hàng triệu ngƣời khác cũng có cuộc sống ngấp nghé ranh giới
của sự tồn tại tình trạng nghèo đói. Nghèo đói là một vấn đề xã hội nhƣng giải
quyết nghèo đói lại mang ý nghĩa kinh tế xã hội sâu sắc, liên quan đến con
ngƣời và sự phát triển của con ngƣời. Giải quyết vấn đề nghèo đói xét đến
cùng chính là giải quyết mối quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế và công bằng
xã hội. Chính vì vậy, xóa đói giảm nghèo đã và đang trở thành một chiến dịch
lớn “tấn công vào nghèo đói” trên toàn cầu; đƣợc coi là một trong những
“cuộc chiến thiên niên kỷ”, diễn ra với những quy mô, mức độ, hình thức
khác nhau ở nhiều quốc gia, khu vực.
Ở Việt Nam, nhận thức rõ hậu quả của vấn đề đói nghèo đối với sự phát
triển nền kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nƣớc ta đã luôn việc thực hiện xóa
đói, giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của quốc gia, dân tộc,
đặc biệt là từ khi đất nƣớc bƣớc vào thời kì chuyển đổi nền kinh tế. Đây chính
là sự thể hiện quan điểm, đƣờng lối của Đảng ta về phát triển kinh tế thị


5


trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa trong thời kì đổi mới: gắn tăng trƣởng
kinh tế với tiến bộ xã hội, coi phát triển kinh tế là cơ sở, tiền đề để thực hiện
chính sách xã hội; thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế. Chính sách xóa đói, giảm nghèo là một phần quan trọng trong
chính sách phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói, giảm nghèo là một mục tiêu
của chƣơng trình, chính sách phát triển kinh tế. Bởi vậy, đến năm 1998, Đảng
và Nhà nƣớc ta đã xác định xóa đói, giảm nghèo là một nhiệm vụ trọng tâm,
là quốc sách, là một chƣơng trình mục tiêu quốc gia quan trọng, đƣợc đƣa
vào kế hoạch định kỳ 5 năm của Chính phủ và các địa phƣơng, đến nay đã
qua 3 giai đoạn (1998 - 2000; 2001 - 2005; 2006 - 2010). Chƣơng trình đã và
đang thực sự phát triển thành một phong trào mạnh mẽ ở tất cả các tỉnh, thành
phố trong cả nƣớc, đạt đƣợc nhiều thành tựu to lớn, đƣợc cộng đồng quốc tế
đánh giá là “điểm sáng về giảm nghèo” trong hơn một thập kỷ qua.
Vĩnh Phúc đƣợc coi là một trong những địa phƣơng đi đầu trong lĩnh
vực xóa đói, giảm nghèo của đất nƣớc. Là một tỉnh mới đƣợc tái lập vào
tháng 1 năm 1997, nền kinh tế xuất phát điểm thấp, nghèo đói trở thành một
vấn đề nan giải, một thách thức vô cùng lớn đối với Đảng bộ và nhân dân
Vĩnh Phúc. Ý thức đƣợc tầm quan trọng của vấn đề xóa đói, giảm nghèo,
quán triệt chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc, ngay từ đầu, mặc dù còn bộn bề
công việc trong điều kiện một tỉnh mới tái lập, nhƣng Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
đã sớm xác định mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, coi đó là một trong những
nhiệm vụ quan trọng và chỉ đạo cho các cấp ngành, đoàn thể xây dựng
chƣơng trình, kế hoạch hành động, triển khai đến mọi cơ sở và nhân dân trong
tỉnh. Trong hơn 10 năm kể từ khi tái lập tỉnh (1997 - 2010), dƣới sự lãnh đạo
của Đảng bộ Vĩnh Phúc, việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo đã
đƣợc triển khai rộng khắp và đạt đƣợc những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, cũng không thể tránh khỏi những tồn tại, hạn chế. Vì vậy, việc

nghiên cứu, đánh giá, tổng kết lại quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo

6


thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo là một việc làm có ý nghĩa thiết
thực, nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu và từ đó đƣa ra đƣợc
những giải pháp ngày càng hiệu quả hơn cho giai đoạn tiếp theo.
Với mong muốn tìm hiểu về vấn đề đói nghèo, về chủ trƣơng, chính
sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng và Nhà nƣớc, cũng nhƣ mong muốn có
một đóng góp nhỏ thể hiện tấm lòng tri ân với quê hƣơng, sau một thời gian
khảo sát thực tế tại địa phƣơng, tôi quyết định chọn đề tài “Quá trình thực
hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm
1997 đến năm 2010” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử
Đảng của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề xóa đói, giảm nghèo là một vấn đề mang tính toàn cầu nên
trong vòng khoảng 20 năm trở lại đây, trên thế giới đã có không ít các cuộc
hội thảo, hội nghị bàn về vấn đề này, ví dụ nhƣ: Hội nghị chống đói nghèo
khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng (ESCAP) tổ chức tại Băng Cốc (Thái
Lan) vào tháng 9 - 1993; Hội nghị về phát triển xã hội do Liên Hợp Quốc tổ
chức tại Coopenhaghen (Đan Mạch); Hội nghị Thƣợng đỉnh thiên niên kỷ của
Liên Hợp Quốc vào năm 2000;…Các hội nghị đã đƣa ra các khái niệm về đói
nghèo, các quan điểm về chuẩn mực đói nghèo và một số giải pháp chung về
xóa đói, giảm nghèo trên toàn thế giới.
Ở Việt Nam, trong vòng hơn một thập kỷ trở lại đây cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu về đề tài này, tiêu biểu nhƣ: tác phẩm Vấn đề xóa đói,
giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay của Nguyễn Thị Hằng (1997)
nghiên cứu vấn đề đói nghèo ở các chế độ xã hội ở nƣớc ta, nghiên cứu quan
điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về mục tiêu lý

tƣởng của chế độ XHCN, nêu lên thực trạng đói nghèo và một số phƣơng
hƣớng, biện pháp xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn nƣớc ta hiện nay; tác
phẩm Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo của TS. Lê Xuân Bá, TS. Chu Tiến

7


Quang, TS. Lê Xuân Đình (NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 2001) nêu lên các vấn
đề lý luận và thực tiễn về nghèo đói, nguyên nhân của tình trạng nghèo đói và
đánh giá tầm quan trọng của vấn đề xóa đói giảm nghèo đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của một quốc gia; các tác phẩm Tăng trưởng kinh tế, công
bằng xã hội và vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam của Vũ Thị Ngọc
Phùng (1999), Toàn cầu hóa, tăng trưởng và nghèo đói – xây dựng một nền
kinh tế hội nhập (Nhiều tác giả, NXB Văn hóa thông tin, 2002) nêu lên lý
luận về mối quan hệ biện chứng giữa tăng trƣởng kinh tế, công bằng xã hội
với vấn đề xóa đói, giảm nghèo, nêu lên thực trạng đói nghèo và một số giải
pháp xóa đói, giảm nghèo bền vững ở Việt Nam, đƣa nền kinh tế hội nhập với
thế giới…Bên cạnh đó, cũng đã có nhiều bài viết mang tính chuyên khảo
đƣợc đăng trên các tạp chí nhƣ Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Lịch sử Đảng, Tạp
chí Lao động & Xã hội, báo Nhân dân…Ngoài ra, ở góc độ khoa học Lịch sử
cũng có một số luận văn thạc sĩ và khóa luận cử nhân chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu về sự lãnh đạo của một số Đảng bộ địa
phƣơng với việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở địa phƣơng đó.
Cho đến nay chƣa có một công trình lịch sử chuyên khảo nào nghiên
cứu về vấn đề Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói,
giảm nghèo trong những năm 1997 - 2010. Vấn đề này mới chỉ là các bản báo
cáo hàng năm và giai đoạn của một số cơ quan chức năng hay một số bài viết
ngắn gọn, lẻ tẻ đăng trên một số báo, tạp chí ở địa phƣơng nhƣ: Tạp chí Ban
Tuyên giáo tỉnh, tạp chí Dân vận tỉnh, tạp chí Thông tin các mặt trận... Các
công trình nghiên cứu này là cơ sở quan trọng để tác giả kế thừa, tiếp cận các

sự kiện lịch sử và cũng cung cấp những gợi ý cần thiết để phân tích và so sánh
trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Với đề tài đã chọn, luận văn nhằm làm sáng tỏ
một cách khách quan và toàn diện nhất quá trình lãnh đạo và chỉ đạo của

8


Đảng bộ Vĩnh Phúc trong thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo (1997 2010); khẳng định những thành tựu, chỉ ra những hạn chế trong quá trình lãnh
đạo, chỉ đạo thực tiễn; đúc kết những kinh nghiệm trên cơ sở đó bƣớc đầu đƣa
ra một số kiến nghị, giải pháp góp phần thực hiện có hiệu quả hơn việc tổ
chức thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh trong những
giai đoạn tiếp theo.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn có nhiệm vụ trình bày một cách có hệ thống quá trình Đảng
bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo (1997 2010).
- Đánh giá bƣớc đầu những tựu và hạn chế của quá trình thực hiện
chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Vĩnh Phúc trong những năm 1997 - 2010.
- Tổng kết những kinh nghiệm chủ yếu và trên cơ sở đó bƣớc đầu đƣa
ra một số kiến nghị, giải pháp thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở
Vĩnh Phúc cho giai đoạn tiếp theo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
- Những chủ trƣơng, chính sách và quá trình triển khai thực hiện chính
sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ Vĩnh Phúc (1997 – 2010).
- Thực tiễn quá trình thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo của
Vĩnh Phúc (1997 - 2010).
- Những kinh nghiệm lịch sử của Đảng bộ Vĩnh Phúc qua thực tiễn lãnh
đạo thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo trong những năm 1997 - 2010.

Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung: Luận văn tập trung tìm hiểu những chủ trƣơng,
chính sách, biện pháp của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong quá trình thực hiện
chính sách xóa đói, giảm nghèo; trên cơ sở những thành tựu đạt đƣợc và

9


những mặt hạn chế, bƣớc đầu đƣa ra một số kiến nghị, giải pháp về thực hiện
chính sách xóa đói, giảm nghèo cho giai đoạn tiếp theo.
- Về mặt thời gian: Luận văn tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc trong thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo (1997 – 2010).
- Về mặt không gian: Luận văn nghiên cứu vấn đề Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phúc lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh.
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
Cơ sở lý luận: Lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh; những chủ trƣơng, đƣờng lối về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
vấn đề xóa đói, giảm nghèo nói riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam là cơ sở
để tôi tham khảo và học tập trong quá trình hoàn thành luận văn.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng chủ yếu phƣơng pháp
lịch sử, ngoài ra còn có những phƣơng pháp khác nhƣ: phƣơng pháp lôgic,
phƣơng pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, đối chiếu, so sánh, phƣơng pháp
lập biểu đồ, … các phƣơng pháp này đƣợc kết hợp sử dụng để làm sáng tỏ
vấn đề nghiên cứu của luận văn.
Nguồn tư liệu: Luận văn chủ yếu dựa vào Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X của Đảng; văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc lần thứ XII, XIII, XIV; các Chỉ thị, Nghị quyết, Thông tƣ của
Đảng, Nhà nƣớc và Đảng bộ Vĩnh Phúc về xóa đói, giảm nghèo trong những
năm 1997 - 2010; Báo cáo tổng kết của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, sở, ban,
ngành, đoàn thể tỉnh Vĩnh Phúc; các công trình nghiên cứu về xóa đói, giảm

nghèo và các bài viết trên wedside của tỉnh Vĩnh Phúc, Báo Vĩnh Phúc.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn đã tập hợp đƣợc một khối lƣợng tƣ liệu khá phong phú, đầy
đủ về việc lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm 1997 – 2010

10


- Có những đánh giá mang tính khái quát, tổng hợp, đồng thời bƣớc
đầu rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu về quá trình thực hiện chính sách xóa
đói, giảm nghèo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong hơn 10 năm tái lập tỉnh
(1997 – 2010). Đây sẽ là nguồn tƣ liệu có ý nghĩa giúp cho việc đề ra những
chủ trƣơng, biện pháp thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ
tỉnh trong những giai đoạn tiếp theo.
- Kết quả của luận văn có thể làm nguồn tƣ liệu tham khảo cho những
bài viết liên quan đến đề tài.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
khóa luận đƣợc chia thành 3 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo thực hiện
chính sách xóa đói, giảm nghèo trong những năm 1997- 2005
Chƣơng 2: Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo đẩy mạnh thực hiện
chính sách giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010
Chƣơng 3: Nhận xét chung và những kinh nghiệm chủ yếu

11


Chƣơng 1: QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÖC LÃNH ĐẠO

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO
TRONG NHỮNG NĂM 1997 - 2005
1.1. Cơ sở hình thành chủ trƣơng xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Phúc (1997 – 2005)
1.1.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xoá đói, giảm
nghèo (1997 – 2005)
* Quan niệm về nghèo đói và nhận dạng nghèo đói
Có nhiều quan niệm khác nhau về nghèo đói, song, có thể nói, về cơ
bản, nó đƣợc coi là tình trạng không đƣợc hƣởng những nhu cầu cơ bản tối
thiểu nào đó. Nói cách khác, đó là “sự thiếu hụt” - xét trên ba khía cạnh: 1.
Không đƣợc hƣởng thụ những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con
ngƣời; 2. Có mức sống thấp hơn mức sống tối thiểu dành cho con ngƣời; 3.
Thiếu cơ hội đƣợc lựa chọn tham gia vào các quá trình phát triển cộng đồng.
Liên Hiệp Quốc đã đƣa ra hai khái niệm chính về nghèo đói: Nghèo
tuyệt đối, là tình trạng không đƣợc hƣởng những nhu cầu cơ bản tối thiểu để
duy trì cuộc sống. Nghèo tương đối, là tình trạng không đƣợc hƣởng những
nhu cầu cơ bản tối thiểu nhƣ ăn, ở, mặc, vệ sinh, y tế và giáo dục. Nghèo
tƣơng đối đƣợc xem nhƣ là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất
và phi vật chất cho những ngƣời thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so
với sự sung túc của xã hội đó.
Ở Việt Nam, khái nghiệm nghèo, đói đƣợc tách riêng. Nghèo là tình
trạng chỉ đƣợc thỏa mãn một phần các nhu cầu cơ bản tối thiểu của cuộc sống
và có mức sống thấp hơn so với mức sống trung bình của cộng đồng xét trên
mọi phƣơng diện. Đói là tình trạng có mức sống dƣới mức sống tối thiểu và
thu nhập không đủ bảo đảm nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Những
hộ đói thƣờng thiếu ăn, đứt bữa từ 1 - 2 tháng/năm.

12



Còn đối với ngƣời dân thì quan niệm của họ rất đơn giản và thực tế:
“Nghèo đói là gì ư? Là hôm nay con tôi ăn khoai, ngày mai không biết con tôi
ăn gì? Bạn nhìn nhà ở của tôi thì biết, ngồi trong nhà cũng thấy mặt trời, khi
mưa thì trong nhà cũng như ngoài sân”[38, 17].
Nhƣ vậy, có thể hiểu và đƣa ra một khái niệm chung về nghèo đói nhƣ
sau: Nghèo đói là một phạm trù chỉ mức sống của một cộng đồng hay một
nhóm dân cư là thấp, không đảm bảo những nhu cầu tối thiểu của con người
mà những nhu cầu này theo một tiêu chuẩn xã hội đã được thừa nhận.
Chuẩn nghèo (hay ngƣỡng nghèo, tiêu chí nghèo) là công cụ để phân
biệt ngƣời nghèo và ngƣời không nghèo, là chuẩn mực tối thiểu cho một cá
nhân đáp ứng đƣợc nhu cầu cơ bản của họ về lƣơng thực thực phẩm và yếu tố
phi lƣơng thực thực phẩm. Những ngƣời đƣợc coi là ngƣời nghèo khi mức
sống của họ đƣợc đo qua thu nhập thấp hơn một mức sống tối thiểu chấp nhận
đƣợc, tức là thấp hơn chuẩn nghèo. Những ngƣời có thu nhập ở trên chuẩn
này là ngƣời không nghèo hoặc đã vƣợt nghèo, thoát nghèo.
Chuẩn nghèo là một khái niệm “động”, thay đổi theo không gian và
thời gian. Ở mỗi quốc gia khác nhau, mỗi giai đoạn khác nhau thì chuẩn
nghèo lại khác nhau. Ở Việt Nam, do xuất phát từ một nƣớc nông nghiệp, nên
chuẩn nghèo đói ở Việt Nam, thời gian từ năm 1996 về trƣớc tính theo mức
chi tiêu bằng lƣơng thực (quy gạo) là chính, về sau mới đƣợc tính theo giá trị
bằng tiền. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực tế, Bộ Lao động - TB&XH đã
công bố chuẩn nghèo đói quốc gia nhƣ sau:
Thời kỳ trƣớc năm 1997: Hộ đói là hộ có mức thu nhập bình quân đầu
ngƣời trong một hộ trong một tháng quy ra gạo là dƣới 13kg, tính cho mọi
vùng. Hộ nghèo là hộ có thu nhập dƣới 15kg/ngƣời/tháng đối với vùng nông
thôn, miền núi, hải đảo; dƣới 20kg/ngƣời/tháng đối với nông thôn vùng đồng
bằng trung du; dƣới 25kg/ngƣời/tháng đối với thành thị.

13



Giai đoạn 1997 - 2000: Bộ Lao động - TB&XH đã ra công văn số
1751/LĐTB&XH ngày 20/5/1997 quy định lại chuẩn nghèo:
- Hộ đói: dƣới 13kg gạo/ngƣời/tháng tƣơng đƣơng với 45.000đ
- Hộ nghèo: là hộ có thu nhập dƣới 15kg gạo/ngƣời/tháng tƣơng
đƣơng với 55.000đ đối với vùng nông thôn miền núi và hải đảo; dƣới 20kg
gạo/ngƣời/tháng tƣơng đƣơng với 70.000đ đối với nông thôn đồng bằng
trung du; dƣới 25kg gạo/ngƣời/tháng tƣơng đƣơng với 90.000đ đối với
vùng thành thị.
Giai đoạn 2001 - 2005: Theo Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH
của Bộ Lao động - TB&XH về việc điều chỉnh chuẩn hộ nghèo giai đoạn
2001 - 2005 thì chuẩn nghèo đƣợc tính theo mức thu nhập bình quân đầu
ngƣời trong hộ cho từng vùng. Cụ thể:
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000đ/ngƣời/tháng (960.000đ/năm)
- Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000đ/ngƣời/tháng (1.200.0000đ/năm).
- Vùng thành thị: 150.000đ/ngƣời/tháng (1.800.000đ/năm).
Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu ngƣời dƣới mức quy định
trên đƣợc xác định là hộ nghèo.
Giai đoạn 2006 – 2010, chuẩn nghèo đƣợc quy định nhƣ sau:
- Vùng nông thôn: 400.000 đồng/ngƣời/tháng.
- Vùng thành thị: 500.000 đồng/ngƣời/tháng.
Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ đói nghèo trên 40%, không có hoặc còn thiếu
các hạng mục cơ sở hạ tầng nhƣ trạm y tế, trƣờng tiểu học, điện sinh hoạt,
đƣờng ô tô tới trung tâm xã, chợ xã hoặc liên xã, nƣớc sạch sinh hoạt.
Xã ĐBKK là xã có 5 tiêu chí sau đây:
- Địa bàn cƣ trú gồm các xã vùng sâu, vùng xa, vùng cao hẻo lánh,
vùng biên giới, hải đảo. Khoảng cách từ các xã đến các khu động lực phát
triển lớn hơn 20 km.
- Cơ sở hạ tầng chƣa đƣợc xây dựng hoặc còn tạm bợ.


14


- Các yếu tố xã hội chƣa đạt mức tối thiểu, dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ và
thất học trên 60%, tập tục lạc hậu,..
- Điều kiện sản xuất khó khăn, thiếu thốn, sản xuất mang tính tự nhiên,
hái lƣợm, chủ yếu là phát rừng làm nƣơng rẫy, du canh du cƣ
- Số hộ nghèo đói trên 60% số hộ của xã. Đời sống khó khăn, nạn đói
thƣờng xuyên xảy ra.
Mức quy định xã nghèo và xã ĐBKK áp dụng chung cho các giai đoạn
từ 1997 đến nay.
Nhƣ vậy, theo từng giai đoạn, chuẩn nghèo ở nƣớc ta đã đƣợc điều
chỉnh sao cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc
trong từng giai đoạn đó. Chuẩn nghèo tăng theo từng giai đoạn chứng tỏ nền
kinh tế - xã hội đất nƣớc ngày một phát triển và đã bƣớc đầu phát triển với tốc
độ tăng trƣởng cao, đồng thời cũng chứng tỏ những thành công rất lớn của
nƣớc ta trong công tác xóa đói giảm nghèo sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới
đất nƣớc.
* Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xóa đói, giảm nghèo
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, sự phân hóa giàu nghèo bị
chi phối bởi chính các qui luật phổ biến của quá trình trao đổi hàng hóa, trong
đó có vai trò quyết định là qui luật giá trị. Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định:
với sự mở rộng thƣơng mại, với tiền và cho vay nặng lãi,.., sự tập trung của
cải vào tay giai cấp ít ngƣời đã diễn ra nhanh chóng, cùng một lúc sự bần
cùng hóa ngày càng tăng của quần chúng và sự tăng thêm của đám đông dân
nghèo. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Lênin đã nhấn mạnh
cần phải xóa bỏ sự chênh lệch ấy, bởi lẽ cuộc sống độc lập, tự do và không bị
đói nghèo, dốt nát là những quyền cơ bản nhất của con ngƣời: Hãy xóa bỏ nạn
ngƣời bóc lột ngƣời, nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ.
Quan điểm trên đây đồng thời cũng là niềm trăn trở suốt đời của Chủ

tịch Hồ Chí Minh – ngƣời học trò xuất sắc của Lênin. Cả cuộc đời của mình,

15


Ngƣời “chỉ có một ham muốn tột bậc là làm cho đất nước ta được hoàn toàn
độc lập, nhân dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành” [27, tr. 161]. Tại Hội nghị sản xuất cứu đói đƣợc tổ
chức vào tháng 7 năm 1955, Ngƣời đã từng nói: Dân dĩ thực vi tiên (nghĩa là
dân lấy ăn làm trời), Có thực mới vực được đạo (nghĩa là không có ăn thì
chẳng làm đƣợc gì cả). Ngƣời nhấn mạnh: “Chính sách của Đảng và Chính
phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng
và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi”[29, 572].
Ngƣời cho rằng, chính sách của Đảng và Chính phủ là phải: “Làm cho người
nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm” [28,
tr. 62], bởi vì: Nước lấy dân làm gốc….Gốc có vững, cây mới bền. Thiết thực
nhất của việc bồi dƣỡng “cái gốc” ấy chính là việc thƣờng xuyên chăm lo đời
sống cho dân, chăm lo lợi ích chính đáng của dân Chính vì vậy, ngay từ
những ngày đầu giành độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh
nhiệm vụ cấp bách lúc bấy giờ là diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.
Ngƣời coi “giặc đói” cũng nguy hiểm chẳng khác nào “giặc ngoại xâm”, phát
động phong trào toàn dân tham gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để kiến
quốc mà trƣớc hết là diệt “giặc đói” và “giặc dốt”. Và theo Ngƣời, xã hội
ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng phải đi liền với tinh thần ngày càng
tốt, bên cạnh xóa đói, giảm nghèo về vật chất phải chú ý đến xóa đói, giảm
nghèo về tinh thần.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh, xuất phát từ đặc điểm thực tiễn của nền kinh tế - xã hội đất nƣớc, trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nƣớc ta - từ những ngày đầu mới giành
đƣợc độc lập, thống nhất cũng nhƣ trong thời kì đất nƣớc bƣớc vào công cuộc

đổi mới, đẩy mạnh phát triển nền kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn
quan tâm đến chính sách an sinh xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói giảm
nghèo, nâng cao đời sống nhân dân.Việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm

16


nghèo thực chất chính là quá trình đƣa các chủ trƣơng, chính sách của Đảng
và Nhà nƣớc vào việc nâng cao chất lƣợng cuộc sống cho ngƣời dân, đặc biệt
là xã nghèo, hộ nghèo trên cả nƣớc, nhằm tiến tới thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Luôn quán triệt đƣờng lối: cùng với quá trình tăng trƣởng kinh tế phải
tiến hành xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, tránh sự phân hóa
giàu nghèo vƣợt quá giới hạn cho phép, ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của Đảng (tháng 12 - 1986), vấn đề xóa đói, giảm nghèo đã đƣợc
đề cập đến và tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6 1991), xóa đói, giảm nghèo đã đƣợc đƣa lên thành một trong những nhiệm vụ
quan trọng trong quá trình trình phát triển kinh tế - xã hội nƣớc ta trong giai
đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Đại hội nhấn mạnh nhiệm vụ “xóa nạn đói,
giảm số người nghèo khổ…cải thiện đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần
của nhân dân” [9, tr. 340]. Trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, Đảng ta nêu rõ “khuyến khích làm giàu đi đôi với giảm
số người nghèo, nâng cao phúc lợi xã hội phù hợp với phát triển kinh tế” [6,
tr. 9]; đồng thời “thực hiện chính sách toàn dân đóng góp để đền ơn trả nghĩa
với thương binh,..chính sách cứu hộ những vùng gặp thiên tai, rủi ro và
những gia đình quá nghèo khổ” [6, tr. 34-35]. Đặc biệt, trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH - HĐH đất nƣớc (1996 - 2000), khi nền kinh tế đất nƣớc bắt đầu
có bƣớc phát triển, đồng thời cũng bắt đầu bộc lộ những mặt trái của nền kinh
tế thị trƣờng thì vấn đề xóa đói, giảm nghèo ngày càng đƣợc Đảng và Nhà
nƣớc ta quan tâm hơn. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
(tháng 6 -1996), vấn đề xóa đói, giảm nghèo đã đƣợc Đảng đƣa lên thành một
trong 11 chƣơng trình trọng điểm của kế hoạch 5 năm (1996 - 2000): “khuyến

khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp đi đôi với tích cực xóa
đói, giảm nghèo”[9, tr.496]. Nghị quyết Đại hội VIII đã đề ra những mục tiêu,
định hƣớng cụ thể cho nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 1996 - 2000:

17


“Thực hiện tốt chương trình xóa đói, giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ
cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và phát triển quỹ xóa
đói, giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước, quản lý chặt chẽ,
đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả” [9, 497- 498] để “giảm tỷ lệ nghèo đói,
trong tổng số hộ của cả nước từ 20 - 25% hiện nay xuống còn khoảng 10%
vào năm 2000, bình quân giảm 300.000 hộ/năm. Trong 2 - 3 năm đầu của kế
hoạch 5 năm, tập trung xóa về cơ bản nạn đói kinh niên” [9, tr. 591].
Ngày 23/11/1997, Bộ Chính trị BCH Trung ƣơng Đảng ra Chỉ thị số
23-CT/TW về lãnh đạo thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo và xác định:
xóa đói, giảm nghèo phải gắn liền với sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng từ
Trung ƣơng đến cơ sở.
Để triển khai Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, sau khi có Chỉ thị số
23-CT/TW của Bộ Chính trị, Thủ tƣớng Chính phủ cũng nhƣ Bộ trƣởng các
Bộ, ngành có liên quan đã ký nhiều quyết định, thông tƣ liên tịch chỉ đạo,
hƣớng dẫn thực hiện chƣơng trình xóa đói, giảm nghèo. Ngày 23/7/1998, Thủ
tƣớng Chính phủ đã ký Quyết định số 133/1998/QĐ-TTg phê duyệt chƣơng
trình xóa đói, giảm nghèo trở thành một Chƣơng trình mục tiêu quốc gia. Từ
đây Đảng ta đã xác định xóa đói, giảm nghèo là nhiệm vụ quan trọng của toàn
thể quốc gia, dân tộc, trong đó mục tiêu cơ bản của chƣơng trình là đẩy nhanh
tốc độ giảm nghèo – nâng cao chất lƣợng cuộc sống hộ nghèo – hạn chế gia
tăng khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền
núi, hộ giàu và hộ nghèo. Tiếp đó, Ngày 31/7/1998, Thủ tƣớng Chính phủ ra
Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg việc phê duyệt Chƣơng trình phát triển kinh

tế - xã hội các xã ĐBKK miền núi và vùng sâu, vùng xa. Ngày 15/3/1999, liên
Bộ Kế hoạch và đầu tƣ - Tài chính - LĐ - TB&XH có Thông tƣ hƣớng dẫn kế
hoạch hóa việc lồng ghép các chƣơng trình, dự án tham gia thực hiện xóa đói,
giảm nghèo. Nhƣ vậy, từ đây, chính sách xóa đói, giảm nghèo từ một phong
trào đã thực sự trở thành một Chƣơng trình mục tiêu quốc gia (gọi tắt là

18


Chƣơng trình 133). Sự ra đời của chƣơng trình mục tiêu quốc gia xóa đói,
giảm nghèo một mặt là sự vận dụng sáng tạo các quan điểm của Chủ nghĩa
Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đƣờng đi lên CNXH.
Đồng thời, đó cũng là sự đòi hỏi khách quan từ thực tiễn xã hội nƣớc ta, là sự
tiếp nối thực hiện và phát triển ở mức cao hơn những thành quả đã đạt đƣợc
trong phong trào xóa đói, giảm nghèo những thập kỷ trƣớc. Đây thực sự là
một bƣớc tiến quan trọng, thể hiện sự quyết tâm của Đảng và Nhà nƣớc ta
trong cuộc chiến đấu chống đói nghèo và là bƣớc đột phá quan trọng trong sự
phát triển của công cuộc xóa đói, giảm nghèo trong cả nƣớc cũng nhƣ tại các
địa phƣơng.
Sau 5 năm thực hiện chủ trƣơng xóa đói, giảm nghèo theo Nghị quyết
Đại hội VIII của Đảng, 10 năm thực hiện chiến lƣợc ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội 1991 – 2000, đặc biệt là sau 2 năm thực hiện chƣơng trình
mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo, việc thực hiện chính sách xóa đói,
giảm nghèo của nƣớc ta đã đạt đƣợc nhiều kết quả tích cực, song, đó mới chỉ
là những thành tựu bƣớc đầu. Bƣớc vào thiên niên kỷ mới, đói nghèo vẫn là
một trong những thách thức to lớn của toàn Đảng, toàn dân ta cũng nhƣ của
toàn nhân loại. Tại Hội nghị thiên niên kỷ cuối năm 2000 của Liên Hiệp Quốc
tổ chức tại Oa - sinh - tơn (Mỹ), Chủ tịch nƣớc Trần Đức Lƣơng - trƣởng
đoàn đại biểu Việt Nam, đã đề nghị lấy thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI làm
thập niên dành ƣu tiên cho xóa đói, giảm nghèo trên phạm vi toàn thế giới và

đã đƣợc hội nghị đồng tình cao. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 4 năm 2001), trên cơ sở những kết quả đã
đạt đƣợc từ giai đoạn trƣớc Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội thời kỳ 2001 - 2010, trong đó xóa đói, giảm nghèo đƣợc coi là một bộ
phận cấu thành của chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội đất nƣớc trong thời
kỳ này. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh:

19


Thực hiện chƣơng trình xóa đói, giảm nghèo thông qua những biện
pháp cụ thể, sát với tình hình từng địa phƣơng, sớm đạt mục tiêu không còn
hộ đói, giảm mạnh các hộ nghèo. Tiếp tục tăng tổng nguồn vốn xóa đói, giảm
nghèo, mở rộng các hình thức tín dụng trợ giúp ngƣời nghèo sản xuất, kinh
doanh. Có hình thức trợ giá nông sản, phát triển việc làm và nghề phụ nhằm
tăng thu nhập của các hộ nông dân...[9, tr.652].
Đại hội cũng đã đề ra mục tiêu cụ thể: “Phấn đấu đến 2010 về cơ bản
không còn hộ nghèo. Thường xuyên củng cố thành quả xóa đói, giảm nghèo”,
“cơ bản xóa đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 10% vào 2005” [9, tr. 741].
Để cụ thể hóa hơn nữa các biện pháp xóa đói, giảm nghèo, Nghị quyết chỉ rõ:
“Bằng nguồn lực của Nhà nước và toàn xã hội, tăng đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao
công nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm đối với những vùng nghèo, xã nghèo và
nhóm dân cư nghèo. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi
người vươn lên làm giàu chính đáng và giúp đỡ người nghèo” [9, tr.740-741].
Đây là định hƣớng cho việc thực hiện chƣơng trình xóa đói, giảm nghèo giai
đoạn 2001 - 2005; từ đây, xóa đói, giảm nghèo thực sự trở thành một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân ta,
trong đó tập trung chỉ đạo, đầu tƣ trƣớc hết cho các địa bàn nông thôn - nơi
chiếm 90% số hộ đói nghèo, xã ĐBKK.

Để cụ thể hóa những chủ trƣơng, chính sách của Đảng vấn đề xóa đói,
giảm nghèo trong giai đoạn 2001 - 2005, Nhà nƣớc đã ban hành các văn bản
pháp lý về chƣơng trình xóa đói, giảm nghèo. Ngày 4/5/2001, Thủ tƣớng
Chính phủ ra Quyết định số 71/2001/QĐ-TTg về các Chƣơng trình mục tiêu
quốc gia giai đoạn 2001 - 2005, trong đó chƣơng trình mục tiêu quốc gia
chính sách xóa đói, giảm nghèo và việc làm đƣợc đặt ở danh mục đầu tiên
trong 6 chƣơng trình mục tiêu quốc gia. Ngày 27/9/2001, Thủ tƣớng Chính
phủ ban hành Quyết định số 143/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình

20


mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001 - 2005. Đặc
biệt, ngày 21/5/2002, Thủ tƣớng Chính phủ ra Công văn số 2685/VPCP,
QHQT phê duyệt Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm
nghèo. Có thể nói, đây là một minh chứng nổi bật và đầy thuyết phục về bƣớc
phát triển tƣ duy mới, toàn diện của Đảng và Nhà nƣớc ta về xóa đói, giảm
nghèo: từ một “chƣơng trình mục tiêu quốc gia” đã phát triển lên thành một
“chiến lƣợc phát triển”, gắn chặt với chiến lƣợc phát triển đất nƣớc. Từ đây,
xóa đói, giảm nghèo không chỉ là một công việc nhất thời, trƣớc mắt nữa mà
là một nhiệm vụ chiến lƣợc lâu dài. Trƣớc là mắt là xóa sổ hộ đói, giảm hộ
nghèo; lâu dài là xóa nghèo nói chung, giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn
đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Nhƣ vậy,
xóa đói, giảm nghèo có mục tiêu kép là: vừa xóa đói, giảm nghèo cho bản
thân ngƣời nghèo, hộ nghèo; vừa xóa đói, giảm nghèo cho cả nƣớc nói chung.
Ngoài những văn bản pháp lý trên, Nhà nƣớc còn ban hành nhiều văn
bản pháp lý khác quy định một cách cụ thể các chính sách hỗ trợ đối với
ngƣời nghèo nhƣ: Nghị định số 78/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày
4/10/2002 về tín dụng đối với ngƣời nghèo và các đối tƣợng chính sách khác;
Quyết định số 199/2001/QĐ - TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về việc miễn,

giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp;… Các Bộ, Ban, Ngành có liên quan cũng
ra các thông tƣ nhằm hƣớng dẫn việc triển khai thực hiện chƣơng trình xóa
đói, giảm nghèo: Thông tƣ liên tịch số 14/2002/TTLT/BYT - BTC ngày
16/2/2002 của Bộ Y tế - Bộ Tài chính về việc hƣớng dẫn tổ chức khám, chữa
và lập, quản lý sử dụng thanh quyết toán Quỹ khám, chữa bệnh cho ngƣời
nghèo; Thông tƣ số 56/2003/TT - BNN ngày 9/4/2003 của Bộ NN & PTNT
về việc hƣớng dẫn thực hiện các dự án thuộc chƣơng trình xóa đói, giảm
nghèo và việc làm;…
Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng, xóa đói, giảm nghèo là một chủ
trƣơng lớn, một quyết sách lớn của Đảng và Nhà nƣớc ta. Xóa đói, giảm

21


nghèo vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện đề phát triển kinh tế - xã hội của đất
nƣớc. Bƣớc sang giai đoạn mới (2001- 2005), xóa đói, giảm nghèo đã thực sự
trở thành một cuộc cách mạng xã hội sâu sắc, một phong trào sâu rộng của
quần chúng trên khắp các địa phƣơng trên cả nƣớc, góp phần thực hiện thắng
lợi công cuộc đổi mới đất nƣớc, tiến tới một xã hội “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc và việc
thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo của tỉnh trước năm 1997
* Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc
Sau gần 29 năm hợp nhất với tỉnh Phú Thọ, ngày 1-1-1997, tỉnh Vĩnh
Phúc chính thức đƣợc tái lập trở lại. Với tổng diện tích tự nhiên là 1.372,73
km2, Vĩnh Phúc bao gồm 9 đơn vị hành chính (với tổng cộng 137 xã, phƣờng,
thị trấn) là: Thành phố Vĩnh Yên là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của
tỉnh, thị xã Phúc Yên và 7 huyện là Bình Xuyên, Yên Lạc, Vĩnh Tƣờng, Tam
Dƣơng, Tam Đảo, Lập Thạch và Sông Lô.
Điều kiện tự nhiên

Vị trí địa lý và địa hình: Vĩnh Phúc là một tỉnh thuộc đồng bằng sông
Hồng, thuộc khoảng giữa miền Bắc Việt Nam, là một trong 8 tỉnh, thành phố
thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ; tiếp giáp với 5 tỉnh: phía Bắc giáp tỉnh
Thái Nguyên và Tuyên Quang, phía Nam giáp tỉnh Hà Tây, phía Tây giáp tỉnh
Phú Thọ, phía Đông giáp Thủ đô Hà Nội. Là khu vực chuyển tiếp giữa miền
núi và đồng bằng,Vĩnh Phúc có đầy đủ cả 3 vùng sinh thái: đồng bằng, trung
du và miền núi; trong đó vùng đồng bằng có diện tích là 389,49 km2, vùng
trung du là 433,05 km2, vùng núi là 558,97 km2.
Điều kiện khí hậu và sông ngòi: Cũng nhƣ các tỉnh khác thuộc Bắc Bộ,
Vĩnh Phúc nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm. Khí hậu trong năm
chia thành 4 mùa, trong đó có hai mùa rõ rệt là mùa mƣa và mùa khô. Nhiệt
độ trung bình hàng năm là 24°C, lƣợng mƣa trung bình hàng năm 1400 mm,

22


độ ẩm trung bình là 84%. Chảy qua đất Vĩnh Phúc có bốn dòng chính: sông
Hồng, sông Lô, sông Phó Ðáy và sông Cà Lồ.
Tài nguyên thiên nhiên: Về Tài nguyên đất, theo số liệu năm 2002, tỉnh
Vĩnh Phúc có 219.200 ha diện tích đất tự nhiên, trong đó: diện tích đất nông
nghiệp là 66.781 ha, chiếm 48,69%; diện tích đất lâm nghiệp là 30.433 ha,
chiếm 22,18%; diện tích đất chuyên dùng là 18.693 ha, chiếm 13,63%; diện
tích đất ở là 5.158 ha, chiếm 3,76%; diện tích đất chƣa sử dụng và sông suối
đá là 16.071 ha, chiếm 11,71%. Tài nguyên rừng: Toàn tỉnh có 30.439 ha
rừng, trong đó: diện tích rừng tự nhiên là 9.592 ha, diện tích rừng trồng là
20.847 ha. Tài nguyên khoáng sản: Vĩnh Phúc là một tỉnh nghèo về các loại
khoáng sản, chủ yếu là nguyên vật liệu xây dựng (đất sét, đá xây dựng) và
nguyên vật liệu làm sứ (đá cao lanh). Ngoài ra, Vĩnh Phúc là một tỉnh có tiềm
năng du lịch lớn với nhiều khu du lịch nổi tiếng đã và đang đƣợc khai thác
nhƣ Tam Ðảo; hồ Ðại Lải; chùa Tây Thiên;…

Tình hình kinh tế - xã hội
Về kinh tế: Vĩnh Phúc khi mới tái lập là một tỉnh nghèo, kinh tế tăng
trƣởng thấp, quy mô nền kinh tế còn nhỏ bé, nông nghiệp vẫn là ngành sản
xuất chính. Tuy nhiên, với sự quyết tâm cao độ của Đảng bộ và nhân dân
Vĩnh Phúc, ngay sau khi tái lập tỉnh, vận dụng đúng đắn chủ trƣơng của Đảng
và chính sách pháp luật của Nhà nƣớc, Đảng bộ Vĩnh Phúc đã tập trung lãnh
đạo nhân dân từng bƣớc khắc phục khó khăn, phát huy tiềm năng thế mạnh
của mình. Đến 2010, sau gần 15 năm tái lập tỉnh, nền kinh tế Vĩnh Phúc đã có
nhiều khởi sắc và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Giai đoạn 1997 - 2000 tổng
sản phẩm (GDP) tăng bình quân 17,8%, giai đoạn 2001 - 2005 là 15,3%, giai
đoạn 2006 – 2010 là 17,4%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tƣơng đối mạnh và
đúng hƣớng, từ một tỉnh thuần nông đã chuyển theo hƣớng công nghiệp - dịch
vụ - nông nghiệp. Ngân sách địa bàn tỉnh tăng nhanh, ngay tử những năm đầu
thế kỷ XXI, Vĩnh Phúc đã trở thành một trong những địa phƣơng nằm trong

23


×