Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.66 KB, 8 trang )

Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội

Những vấn đề cơ bản về bảo
hiểm xã hội
Bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Tính tất yếu khách quan của bảo hiểm xã hội
Sự ra đời của BHXH cũng giống như các chính sách xã hội khác luôn bắt nguồn từ yêu
cầu thực tiễn của cuộc sống đặt ra.Từ thời xa xưa, con người để chống lại những rủi ro,
thiên tai của cuộc sống đã biết đoàn kết tương trợ lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Nhưng sự
giúp đỡ này chỉ mang tính tự phát và với quy mô nhỏ, thường là trong một nhóm người
chung quan hệ huyết thống.
Khi xã hội càng ngày càng tiến bộ, đặc biệt là khi chuyển sang giai đoạn có sự phân
công lao động xã hội, nền sản xuất xã hội lúc này đã phát triển. Cùng với nó là quan hệ
xã hội giữa các cá nhân, giữa các cộng đồng cũng phát triển hơn. Khi đó tôn giáo bắt
đầu xuất hiện, nó không chỉ với ý nghĩa giáo dục con người hướng thiện mà còn có các
trại bảo dưỡng, hội cứu tế với mục đích từ thiện, trợ giúp nhau trong cuộc sống. Như
vậy xét về bản chất thì hình thức tương trợ trong thời kì này đã mang tính có tổ chức và
quy mô rộng rãi hơn.
Từ thế kỉ thứ XVI ở Châu Âu đã xuất hiện ngành công nghiệp, những người nông dân
không có đất phải di cư ra thành phố làm thuê cho các nhà máy ngày càng nhiều và dần
trở thành công nhân. Đặc biệt đến thời kì cách mạng công nghiệp thì lực lượng ngày
càng đông đảo và trở thành giai cấp công nhân. Nhìn chung họ sống không ổn định, cuộc
sống chỉ dựa vào công việc với đồng lương ít ỏi, mất việc làm, ốm đau, tai nạn lao động
... đều có thể đe doạ cuộc sống của họ. Tình đoàn kết tương thân tương ái giữa họ đã nảy
nở, cùng với đó là sự ra đời của các nghiệp đoàn, các hiệp hội giúp đỡ các thành viên
khi bị ốm đau bệnh tật trong quá trình sản xuất. Bên cạnh Hội tương tế còn có Quỹ tiết
kiệm được Nhà nước khuyến khích thành lập. Tiếp đó những quy định bắt buộc người
sử dụng lao động phải chu cấp cho người lao động thuộc quyền quản lí khi họ gặp phải
ốm đau, tai nạn lao động, mất việc... Giai cấp công nhân càng đông đảo thì sức ép đối


với những đòi hỏi đảm bảo cuộc sống cho họ ngày càng ảnh hưởng đến đời sống chính
trị của mỗi nước. Trước tình cảnh đó Chính Phủ mỗi nước không thể không quan tâm
đến tình cảnh của người lao động. Những yêu cầu giảm giờ làm, cải thiện điều kiện lao

1/8


Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội

động, đảm bảo cuộc sống của người lao động dần được quy định thành các chính sách
bắt buộc đối với mỗi nước.
Điển hình là vào năm 1850, dưới thời Thủ tướng Bismark của Đức đã giúp các địa
phương thành lập quỹ do người công nhân đóng góp để được trợ cấp lúc rủi ro. Nguyên
tắc bảo hiểm bắt buộc bắt nguồn từ đây, người được bảo hiểm phải tham gia đóng phí.
Sau đó sáng kiến này được áp dụng rộng rãi trên khắp thế giới. BHXH ngày càng được
hoàn thiện, thực hiện rộng khắp các nước và được Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO)
thông qua trong Công ước số 102 vào tháng 4 năm 1952. BHXH ở nước ta đã manh nha
hình thành từ thời thực dân Pháp thống trị. Sau cách mạng tháng Tám, Chính phủ nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã ban hành sắc lệnh 29/ SL ngày 12/3/1947 về việc thực
hiện bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao động, hưu trí. Đây là những viên gạch đầu tiên xây
dựng nên hệ thống BHXH Việt Nam như hiện nay.

Khái niệm bảo hiểm xã hội
Qua quá trình hình thành chúng ta có thể nhận thấy, lúc khởi đầu, BHXH chỉ mang tính
chất tự phát, phạm vi hoạt động nhỏ hẹp, trước nhu cầu của thực tiễn thì chính sách
BHXH đã nhanh chóng ra đời và từng bước phát triển rộng khắp. BHXH đã được từ
điển bách khoa Việt Nam định nghĩa như sau:
“ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi
họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề
nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng

góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo
đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm
an toàn xã hội.”
Qua khái niệm trên, có thể rút ra một số điểm cơ bản sau:
• Đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập của người lao động bị biến động,
giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động do các biến cố như đã
nêu trên từ đó để giúp ổ định cuộc sống của bản thân người lao động và gia
đình họ. Chính vì yếu tố này mà BHXH được coi là một chính sách lớn của mỗi
quốc gia và được Nhà nước quan tâm quản lí chặt chẽ. Cũng tùy vào điều kiện
kinh tế của mỗi nước mà các quy định về đối tượng này là có sự khác nhau
nhưng cùng bảo đảm ổn đình đời sống của người lao động.
• Đối tượng tham gia BHXH là gồm người lao động và cả người sử dụng lao
động. Sở dĩ người lao động phải đóng phí vì chính họ là đối tượng được hưởng
BHXH khi gặp rủi ro. Người sử dụng lao động đóng phí là thể hiện sự quan
tâm, trách nhiệm của họ đối với người lao động. Và sự đóng góp trên là bắt
buộc, ngoài ra còn có sự hỗ trợ của Nhà nước.

2/8


Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội

• Để điều hoà mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động, để gắn
bó lợi ích giữa họ, Nhà nước đã đứng ra yêu cầu cả hai bên cùng đóng góp và
đây cũng là chính sách xã hội được thực hiện góp phần ổn định cuộc sống một
cách hiệu quả nhất.
Dựa vào bản chất và chức năng của BHXH mà Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO) cũng
đã đưa ra một định nghĩa khác như sau:
“ BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt
các biện pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của Chính phủ) để chống lại tình

trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm mất thu nhập gây ra bởi ốm
đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và chết. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ
cho việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết.”
Từ định nghĩa trên chúng ta thấy mục tiêu của BHXH là hướng tới sự phát triển của mỗi
cá nhân và toàn xã hội. BHXH thể hiện sự đảm bảo lợi ích của xã hội đối với mỗi thành
viên từ đó gắn kết mỗi cá nhân với xã hội đó.

Bản chất và chức năng của bào hiểm xã hội
Bản chất của bảo hiểm xã hội
Có thể hiểu BHXH là sự bù đắp một phần thu nhập bị mất của người lao động khi gặp
phải những biến cố như ốm đau, tai nan lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc tuổi già làm
mất, giảm khả năng lao động, từ đó giúp ổn định cuộc sống của bản thân người lao động
và gia đình họ. BHXH hiện nay được coi là một chính sách xã hội lớn của mỗi quốc gia,
được nhà nước quan tâm và quản lí chặt chẽ. BHXH xét về bản chất bao gồm những nội
dung sau đây:
BHXH là sự cần thiết tất yếu khách quan gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế. Đặc
biệt đối với nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ giữa
người lao động và người sử dụng lao động ngày càng phát triển. Do vậy trình độ phát
triển của nền kinh tế quyết định đến sự đa dạng và tính hoàn thiện của BHXH. Vì vậy
có thể nói kinh tế là yếu tố quan trọng quyết định tới hệ thống BHXH của mỗi nước.
BHXH, bên tham gia BHXH, bên được BHXH là ba chủ thể trong mối quan hệ của
BHXH. Bên tham gia BHXH gồm người lao động và người sử dụng lao động (bên đóng
góp), bên BHXH là bên nhận nhiệm vụ BHXH, thông thường thì do cơ quan chuyên
trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ, bên được BHXH chính là người lao động và gia
đình họ khi có đủ điều kiện cần thiết. Từ đó họ được đảm bảo những nhu cầu thiết yếu,
giúp họ ổn định cuộc sống, góp phần ổn đình xã hội.

3/8



Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội

Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động của người lao động có thể là
những rủi ro ngẫu nhiên( tai nạn, ốm đau, bệnh nghề nghiệp...), cũng có thể là các rủi ro
không hoàn toàn ngẫu nhiên( tuổi già, thai sản, ...). Đồng thời các biến cố này có thể xảy
ra trong quá trình lao động hoặc ngoài lao động. Phần thu nhập của người lao động bị
giảm hay mất đi từ các rủi ro trên sẽ được thay thế hoặc bù đắp từ nguồn quỹ tập trung
được tồn tích lại do bên tham gia BHXH đóng góp và có thêm sự hỗ trợ của NSNN.
Chức năng của bảo hiểm xã hội
Chức năng cơ bản nhất của BHXH là thay thế, bù đắp phần thu nhập của người lao động
khi họ gặp những rủi ro làm mất thu nhập do mất khả năng lao động hay mất việc làm.
Rủi ro này có thể làm mất khả năng lao động tam thời hay dài hạn thì mức trợ cấp sẽ
được quy định cho từng trường hợp. Chức năng này quyết định nhiệm vụ, tính chất và
cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH có cả người lao động và người sử dụng lao động và cùng
phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho người lao động khi gặp
phải rủi ro, số người này thường chiếm số ít. BHXH thực hiện cả phân phối lại thu nhập
theo chiều dọc và chiều ngang, giữa người lao động khoẻ mạnh với người lao động ốm
đau, già yếu..., giữa những người có thu nhập cao phải đóng nhiều với người có thu nhập
thấp phải đóng ít. Như vậy thực hiện chức năng này BHXH còn có ý nghĩa góp phần
thực hiện công bằng xã hội, một mục tiêu quan trọng trong chính sách kinh tế -xã hội
của mỗi quốc gia.
Nhờ có BHXH mà người lao động luôn yên tâm lao động, gắn bó với công việc, nâng
cao năng suất lao động. Từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội, tạo ra của
cải vật chất ngày càng nhiều hơn, nâng cao đời sống toàn xã hội. Nếu trước đây, sự trợ
giúp là mang tính tự phát, thì hiện nay khi xã hội đã phát triển, việc trợ giúp đã được cụ
thể hoá bằng các chính sách, quy định của Nhà nước. Sự bảo đảm này giúp gắn bó mối
quan hệ giữa người lao động và xã hội và càng thúc đẩy hơn nghĩa vụ của họ đối với xã
hội.
Trong thực tế giữa người lao động và người sử dụng lao động có những mâu thuẫn nội

tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động... BHXH đã gắn bó lợi ích
giữa họ, đã điều hoà được những mâu thuẫn giữa họ, làm cho họ hiểu nhau hơn. Đây
cũng là mối quan hệ biện chứng hai bên đều có lợi, người lao động thì được đảm bảo
cuộc sống, người sử dụng thì sẽ có một đội ngũ công nhân hăng hái, tích cực trong sản
xuất. Đối với Nhà nước thì BHXH là cách chi ít nhất song hiệu quả nhất vì đã giải quyết
những khó khăn về đời sống của người lao động và góp phần ổn định sản suất, ổn định
kinh tế - xã hội.

4/8


Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội

Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm xã hội
Nhìn chung hệ thống BHXH được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau:
Thứ nhất là nguyên tắc đóng hưởng chia sẻ rủi ro; lấy số đông bù số ít, lấy của người
đang làm việc bù đắp cho người nghỉ hưởng chế độ BHXH. Đây là nguyên tắc hoạt động
chung của ngành bảo hiểm là quỹ góp chung của số đông bù cho số ít là những người
thiếu may mắn gặp phải những rủi ro trong cuộc sống, trong lao động sản xuất. Phần thể
hiện tính chính sách của Nhà nước là việc rủi ro trong BHXH không chỉ là những rủi ro
thuần tuý như trong bảo hiểm thương mại mà còn có cả những rủi ro không mang tính
ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản,...
Thứ hai là mức hưởng phải thấp hơn tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, nhưng phải
đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người hưởng khoản trợ cấp đó. Việc quy định trên
là hoàn toàn hợp lí và cũng là quy định chung cho tất cả các nước, song thấp bao nhiêu
còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước trong mỗi thời kì
khác nhau.
Thứ ba là phải tự chủ về tài chính, đây là nguyên tắc quan trọng trong chính sách BHXH
của các nước. Nếu chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào Ngân sách Nhà nước (NSNN) giống như
giai đoạn trước cải cách năm 1995 của nước ta thì đây thực sự là một gánh nặng lớn của

đất nước. Việc thành lập quỹ BHXH do các bên tham gia BHXH đóng góp và có sự hỗ
trợ của Nhà nước là hoàn toàn phù hợp. Quỹ này có thể quản lí theo các cách thức khác
nhau song độc lập với NSNN , NSNN chỉ bù thiếu hoặc tài trợ một phần tuỳ thuộc vào
quy định của mỗi nước khác nhau.

Các chế độ của bảo hiểm xã hội
Đối với mỗi nước có những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau nên BHXH
được tổ chức thực hiện theo những quy định riêng khác nhau. BHXH được xây dựng
dựa vào các nguyên tắc trên một cách thống nhất trên toàn thế giới và phải tuân thủ các
quy định sau của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về hệ thống chính sách BHXH. Trong
Công ước 102 được ILO thông qua ngày 4/6/1952 có quy định những quy phạm tối thiểu
về an toàn xã hội đã đưa ra 9 chế độ sau:









Chăm sóc y tế.
Trợ cấp ốm đau.
Trợ cấp thất nghiệp.
Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Trợ cấp tuổi già.
Trợ cấp thai sản.
Trợ cấp tàn tật.
Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.
5/8



Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội

Các thành viên tham gia Công ước phải thực hiện ít nhất là 3 trong 9 chế độ nói trên,
trong đó phải có nhất thiết 1 trong năm chế độ sau đây:






Trợ cấp tuổi già.
Trợ cấp thất nghiệp.
Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Trợ cấp tàn tật.
Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.

Mỗi chế độ trong hệ thống BHXH khi xây dựng phải dựa trên các cơ sở điều kiện kinh
tế, thu nhập, tiền lương, ... Đồng thời, tuỳ từng chế độ mà còn phải tính đến các yếu tố
sinh học, tuổi thọ bình quân, nhu cầu dinh dưỡng, ... để quy định các mức đóng, mức
hưởng, thời gian hưởng và đối tượng hưởng cho hợp lí. Các chế độ BHXH có những
đặc điểm chủ yếu sau đây:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
+ Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia
BHXH.
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kì.
+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán.
+ Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.

+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và
an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
+ Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kì để phản ánh hết sự thay đổi của
điều kiện kinh tế -xã hội.

Quỹ bảo hiểm xã hội và phân loại quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH.
Như chúng ta đã tìm hiểu trong phần 1 ở trên thì sự ra đời của quỹ BHXH là một bước
ngoặt lớn đối với ngành BHXH trên toàn thế giới. Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc
lập, tập chung nằm ngoài NSNN và được hình thành từ các nguồn sau đây:
• Người sử dụng lao động đóng góp,
• Người lao động đóng góp,
6/8


Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội

• Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm,
• Các nguồn khác (như cá nhân và tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi từ các hoạt động
đầu tư quỹ nhàn rỗi).
Trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người
lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải
sự chia sẻ rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Sự đóng góp một phần quỹ của người sử
dụng lao động cho người lao động sẽ tránh được những thiệt hại kinh tế do phải chi ra
một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn.
Đồng thời, nó còn góp phần giảm bớt mâu thuẫn, kiến tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa chủthợ. Về phía người lao động, sự đóng góp của họ vừa thể hiện sự tự gánh chịu chính
những rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách
chặt chẽ.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên.
Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có

khác nhau tuỳ thuộc quy định của mỗi nước. Hiện nay mức đóng góp BHXH của người
lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất
cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương cơ quan, doanh nghiệp.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao
động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, mỗi nước lại có những quy định khác nhau. Một số nước
quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động,
Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và
người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Trong đó, một số
nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi quản
lí BHXH ....
Quỹ BHXH được sử dụng để chi trả chủ yếu cho hai mục đích sau: thứ nhất là chi trả
và trợ cấp cho các chế độ BHXH như đã nêu ở mục 5, còn lại là chi trả cho chi phí sự
nghiệp quản lí BHXH. Trong hai khoản chi đó thì khoản chi thứ nhất là quan trọng và
chiếm phần lớn trong quỹ BHXH. Các khoản trợ cấp này cũng được quy định về mức
trợ cấp và thời gian hưởng một cách cụ thể và có sự khác biệt đối với từng chế độ. Tại
những nước khác nhau thì các khoản trợ cấp này cũng được quy định khác nhau.
Phân loại quỹ BHXH:
Tuỳ theo mục đích và cách tổ chức của những hệ thống BHXH trên thế giới mà quỹ
BHXH được phân loại khác nhau:
• Phân loại theo các chế độ bao gồm: Quỹ hưu trí, tử tuất; Quỹ tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp; Quỹ thất nghiệp; Quỹ ốm đau thai sản.

7/8


Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội

• Phân loại theo tính chất sử dụng bao gồm: Quỹ ngắn hạn để chi trả cho các chế
độ ngắn hạn như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm mất khả năng lao động

tạm thời; Quỹ dài hạn để chi trả trợ cấp cho các chế độ như hưu trí, tử tuất.
• Phân loại theo đối tượng tham gia bao gồm: Quỹ cho công chức Nhà nước, quỹ
cho lực lượng vũ trang, quỹ cho lao động trong các doanh nghiệp, quỹ cho các
đối tượng còn lại.
Việc phân loại quỹ như trên cần được thực hiện và cân nhắc tránh những tình trạng phân
nhỏ quỹ dễ gây ra tình trạng mất tập trung, không có sự bổ xung và hỗ trợ lẫn nhau. Việc
phân chia quỹ không hợp lí sẽ dẫn tới những ảnh hưởng xấu đến việc chi trả cho các đối
tượng, đặc biệt là vấn đề quản lí quỹ một cách hợp lí. Dựa trên các cách tổ chức thực
hiện các chế độ mà mỗi nước lại có những quy định khác nhau về các quỹ thành phần.
Các quỹ thành phần phải thực sự phù hợp với hệ thống BHXH đó.

8/8



×