Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Đầu tư bằng ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.73 KB, 26 trang )

Đầu tư bằng NSNN

Đề tài : Đầu tư bằng Ngân sách Nhà nước
Lớp : Kinh tế đầu tư (115)_1
Nhóm thực hiện :
Họ & tên
1. Vũ Thị Oanh (Nhóm trưởng)
2. Trần Trung Nghĩa
3. Nguyễn Tuấn Vũ
4. Hoàng Tiến Dũng
5. Phạm Thu Hiền
6. Trần Thị Mơ
7. Nguyễn Văn Hòa
8. Đinh Thị Hà Phương
9. Nguyễn Quang Minh

MSV
11123017
11122752
11124619
11120689
11121361
11132624
11135309
CQ533005
11122551

1


Đầu tư bằng NSNN



Mục lục:

2


Đầu tư bằng NSNN

Lời mở đầu
Đầu tư là một hoạt động kinh tế, là bộ phận không thể thiếu trong hoạt động sản
xuất kinh doanh ở mọi lĩnh vực. Đầu tư phát triển là một hình thức đầu tư có ảnh
hưởng trực tiếp tới tăng tiềm lực kinh tế nói chung và tiềm lực sản xuất kinh doanh
của từng cơ sở nói riêng,nó là điều kiện chủ đạo để tạo việc làm nâng cao đời sống của
mọi thành viên trong xã hội.
Đối với các nước đang phát triển như nước ta, khi cơ sở vật chất hạ tầng con thiếu
thốn, chưa đảm bảo,nhu cầu vốn sản xuất của các ngành rất lớn thì đầu tư là điều kiện
bắt buộc phải có trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đặc biệt đầu
tư càng cần thiết hơn trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay. Đầu tư bao gồm rất nhiều
bộ phận: đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài.Trong đầu tư trong nước bao gồm: đầu
tư từ NSNN, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, đầu tư từ vốn tự có của các
doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, .. Đầu tư nước ngoài như FDI,ODA,…
Trong nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dựa nhiều vào đầu tư, và qua số
liệu thống kê, Việt Nam đang dựa ngày càng nhiều vào đầu tư nước ngoài để chi trả
cho đầu tư trong nước. Mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư, nhất là dựa trên FDI tiềm
ẩn rủi ro cao, đặc biệt là khi FDI sụt giảm. Vì thế cần nâng cao hiệu quả từ đầu tư
NSNN, bên cạnh việc khuyến khích luồng vốn đầu tư tư nhân để đảm bảo tính bền
vững của tăng trưởng.
Đầu tư nhà nước có vai trò quan trọng trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã
hội, đặc biệt là các lĩnh vực cần cho quốc tế, dân sinh mà cơ chế thị trường ít phát huy
tác dụng hoặc tư nhân không đủ sức, ít quan tâm vì rủi ro và lợi nhuận thaaos. Nhưng

nếu nguồn tài lực không được quản lý, sử dụng hiệu quả thì không đạt được mục đích
mong muốn, còn có thế là nguyên nhân làm đất nước lâm cảnh nợ nần. Trước tầm
quan trọng của đầu tư NSNN, nhóm em xin được tìm hiểu về đề tài Đầu tư bằng
NSNN.

3


Đầu tư bằng NSNN
Lý thuyết chung :

1.

Khái niệm, đặc điểm, vai trò, cách thức huy động:
• Khái niệm:
1.1.

Đầu tư từ Ngân sách Nhà nước (NSNN) là hoạt động động đầu từ được tài trợ bằng
nguồn vốn là Ngân sách Nhà nước. Như vậy, để hiểu được đầu tư từ NSNN ta cần hiểu
thế nào là đầu tư và thế nào là vốn NSNN.
Về đầu tư

-

Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực có thể là tiền, là tài
nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Các kết quả đạt được có thể là sự tăng
thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực.
Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại

nhằm đêm lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Từ đây có khái niệm về đầu tư như sau: Đầu tư là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài
chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để sản xuất kinh doanh trong
một thời gian tương đối dài nhằm thu về lợi nhuận và lợi ích kinh tế xã hội.
Về nguồn vốn NSNN

-

Theo điều 1 Luật Ngân sách Nhà nước thì NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của
nhà nước được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong
vòng 1 năm nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng của nhà nước.


Đặc điểm :

- Đầu tư từ NSNN thường hướng đến những công trình dự án quan tâm đến hiệu quả
xã hội nhiều hơn là hiệu quả kinh tế. Nói cách khác mục đích của các dự án đầu tư từ
nguồn vốn NSNN hướng đến tối đa hoá phúc lợi xã hội nhiều hơn là chú ý đến tối đa
hoá lợi ích kinh tế. Và kết quả của hoạt động đầu tư khó nhận thấy được.
- Đầu tư từ nguồn vốn NSNN là sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường nhằm khắc
phục yếu kém, khuyết tật và sự thất bại của thị trường.
- Chi đầu tư từ nguồn vốn NSNN là khoản chi lớn của NSNN nhưng không có tính ổn
định, chi theo ngân sách hàng năm, bị ảnh hưởng bởi yếu tố nhiệm kỳ nên dễ xảy ra

4


Đầu tư bằng NSNN
dàn trải, manh mún, nợ công, quyết định đầu tư vội vàng, đầu tư sai, đầu tư hình thức,

đầu tư theo phongtrào, thiếu hiệu quả đích thực.
- Chi đầu tư từ nguồn vốn NSNN mang tính chất chi cho tích luỹ. Phạm vi và mức độ
chi luôn gắn liền với việc thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
Nhà nước trong từng thời kỳ.
- Đầu tư từ nguồn vốn NSNN ít có tính cạnh tranh trong việc thực hiện mà chủ yếu
cạnh tranh qua cấp phát, xin cho, vì vậy dễ dẫn đến chất lượng hiệu quả thấp kém, dễ
xảy ra tiêu cực, tham nhũng, thất thoát.
- Đầu tư từ nguồn vốn NSNN có chủ sở hữu tài sản là Nhà nước nhưng đơn vị thực
hiện, đơn vị sử dụng, hưởng lợi và chủ sở hữu thường không phải là một nên trách
nhiệm đối với việc đầu tư thường không chặt chẽ, mờ nhạt, chung chung.
- Việc quyết định chủ trương đầu tư từ nguồn vốn NSNN thường theo ý kiến đề xuất,
tham mưu của cơ quan kế hoạch, tài chính,...hoặc phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của người có quyền quyết định đầu tư mà không xuất phát từ thị trường, nhu cầu đích
thực nội tại của đầu tư nên người có thẩm quyền dễ có quyết định chủ quan, duy ý
chí, đầu tư sai, không có hiệu quả, gây lãng phí, vô trách nhiệm hoặc vụ lợi.
- Do cơ chế xin cho, cấp phát là chủ yếu trong phân bổ nguồn lực đầu tư từ nguồn vốn
NSNN nên dễ xảy ra tình trạng chia đều bình quân, dàn trải, manh mún, lợi dụng, ứng
trước vốn, thiếu quy hoạch hoặc điều chỉnh quy hoạch chủ quan dẫn đến thiếu hiệu
quả toàn diện.
- Sự phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương trong quyết định chủ trương đầu tư
tang thêm tính chủ động tích cực trong đầu tư, nhưng cũng tiềm ẩn tình trạng đầu tư
lộn xộn, chồng chéo, khó kiểm soát, thiếu quy hoạch chung.
- Quyết định đầu tư của Nhà nước thường do một hoặc một số cán bộ có chức có
quyền nhưng không phải là chủ sở hữu của tài sản đem ra đầu tư, việc giải ngân hàng
năm, cán bộ làm theo nhiệm kỳ, nên nếu ý thức trách nhiệm kém dễ dẫn đến chủ
trương đầu tư không đúng, vô trách nhiệm, thiếu quy hoạch, kế hoạch hoặc tự phá vỡ
quy hoạch, kế hoạch, nợ đọng, vay vốn tràn lan làm Nhà nước thâm nợ.


Vai trò:


- Đầu tư từ NSNN có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc đảm bảo duy trì sự tồn tại,
hoạt động và phát triển của bộ máy nhà nước.

5


Đầu tư bằng NSNN
- Đầu tư từ NSNN có vai trò thúc đẩy, định hướng, chi phối, dẫn dắt, điều chỉnh trong
hoạt động đầu tư nói chung của toàn bộ nền kinh tế.
- Đầu tư từ NSNN có vai trò to lớn trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội
của Nhà nước như đảm bảo nền kinh tế hoạt động có hiệu quả và đúng định hướng,
thực hiệncông bằng xã hội, mục tiêu tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.


Cách thức huy động:

Vốn NSNN bao gồm vốn ngân sách trung ương và vốn ngân sách địa phương. Vốn
NSNN được hình thành từ vốn tích lũy của nền kinh tế và được Nhà nước duy trì trong
kế hoạch ngân sách để cấp cho các đơn vị thực hiện các công trình thuộc cấp Nhà
nước. Đối với các cấp hành chính là huyện, thị xã thì việc nhận cốn ngân sách cho đầu
tư bao gồm đầu tư của Nhà nước cấp thông qua sở Tài chính và vốn ngân sách của
tỉnh.
Vốn NSNN là nguồn vốn được huy động chủ yếu từ nguồn thu thuế và các loại phí, lệ
phí. Đây là nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng mặc dù vốn ngân sách chỉ chiếm khoảng
13% tổng vốn đầu tư xã hội, song là nguồn vốn Nhà nước chủ động điều hành, đầu tư
các lĩnh vực cần ưu tiên phát triển then chốt của nền kinh tế những khu vực khó có khả
năng thu hồi vốn, những lĩnh vực mà tư nhân hoặc doanh nghiệp không muốn hoặc
không thể đầu tư.
Nguồn vốn ngân sách nói chung được tập hợp từ các nguồn vốn trên địa bàn như:

+ Vốn ngân sách Trung ương đầu tư qua các Bộ, ngành trên địa bàn.
+ Vốn ngân sách Trung ương cân đối hoặc uỷ quyền qua Ngân sách địa phương (Xây
dựng cơ bản tập trung, thiết bị nước ngoài ghi thu ghi chi, vốn chương trình quốc
gia ...)
+ Vốn ngân sách từ các nguồn thu của địa phương được giữ lại (cấp quyền sử dụng
đất, bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước, xổ số ...)
+ Vốn ngân sách sự nghiệp có tính chất XDCB.
Đối tượng đầu tư:
- Các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng.
- Hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự tham gia của
Nhà nước.
- Chi cho việc lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hộ
vùng, lãnh thổ quy hoạch xây dựng và phát triển nông thôn.
1.2.

6


Đầu tư bằng NSNN

2.

Thực tiễn đầu tư bằng NSNN ở Việt Nam hiện nay :

2.1. Tình hình đầu tư NSNN ở Việt Nam những năm gần đây:

Vốn đầu tư phát triển từ NSNN có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong toàn bộ giai
đoạn 2005-2012 từ 47% xuống còn khoảng 37%. Vốn đầu tư từ vốn ngoài NSNN giữ
nguyên tỷ trọng trong giai đoạn này. Khu vực FDI có sự gia tăng đóng góp cho vốn
ĐTPT được coi là một tín hiệu đáng mừng. Tỷ trọng đóng góp vốn ĐTPT của khu vực

này tăng từ 14,89% năm 2005 lên 23,2% năm 2012.
Trong tổng vốn, giá trị vốn đầu tư nhà nước từ 2005 - 2012, vốn đầu tư từ NSNN luôn
tăng và đứng đầu qua các năm. Điều này phản ánh thực tế gia tăng chi tiêu công của
Nhà nước cho phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua.
Trong thời gian 2005 - 2012, tỷ lệ giữa vốn đầu tư từ NSNN/tổng vốn đầu tư của Nhà
nước luôn chiếm tỷ trọng cao nhất tuy tăng giảm không đều (năm 2005 - 2010 chiếm
bình quân tới 55,6%, thậm chí năm 2008, 2009 là trên 60%, năm 2010 là 44,8%, năm
2011 là 52,1 và năm 2012 là 54,8%).
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó
đầu tư công mà đặc biệt là đầu tư từ NSNN bị giảm đi đáng kể trong tổng vốn đầu tư
toàn xã hội. Đầu tư từ NSNN có xu hướng giảm dần từ 25,6% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội năm 2005 xuống còn 18,9% năm 2013. Nếu tính theo tỷ lệ phần trăm (%) so với
GDP, vốn đầu tư từ NSNN giảm từ 8,5% năm 2010 xuống còn 6,1% năm 2013 và
3,9% theo dự toán 2014.

7


Đầu tư bằng NSNN

2.2.



Quy mô vốn đầu tư:

8 tháng đầu năm 2015:

Tổng cục Thống kê thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa công bố tình hình thu, chi
ngân sách và vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) trong tháng

8 và 8 tháng đầu năm 2015.
Theo đó, tổng thu NSNN từ đầu năm đến thời điểm ngày 15/8/2015 ước tính đạt
578,2 nghìn tỷ đồng, bằng 63,5% dự toán năm; trong đó, thu nội địa là 429,4 nghìn tỷ
đồng, bằng 67,2%; thu từ dầu thô là 44,8 nghìn tỷ đồng, bằng 48,2%; thu cân đối ngân
sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu là 101,5 nghìn tỷ đồng, bằng 58%.
Tổng chi NSNN từ đầu năm đến thời điểm ngày 15/8/2015 ước tính đạt 690,8
nghìn tỷ đồng, bằng 60,2% dự toán năm; trong đó, chi đầu tư phát triển là 106,7 nghìn
tỷ đồng, bằng 54,7% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản là 103,7 nghìn tỷ đồng, bằng
54,4%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà
nước, Đảng, đoàn thể ước tính là 477,9 nghìn tỷ đồng, bằng 62,3%; chi trả nợ và viện
trợ là 100,5 nghìn tỷ đồng, bằng 67%.
Tổng cục Thống kê cũng cho biết, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN tháng
8/2015 ước tính đạt 20.364 tỷ đồng, bao gồm: vốn trung ương là 3.968 tỷ đồng; vốn
địa phương là 16.396 tỷ đồng. Tính chung 8 tháng, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn

8


Đầu tư bằng NSNN
NSNN đạt 132,5 nghìn tỷ đồng, bằng 64,3% kế hoạch năm và tăng 3,4% so với cùng
kỳ năm 2014.Trong đó, vốn Trung ương quản lý đạt 26.000 tỷ đồng, bằng 63,9% kế
hoạch năm và giảm 1,3% so với cùng kỳ năm trước. Vốn địa phương quản lý đạt 106,5
nghìn tỷ đồng, bằng 64,4% kế hoạch năm và tăng 4,6% so với cùng kỳ năm 2014.


Năm 2014

Tổng chi ngân sách Nhà nước đạt 968,5 nghìn tỉ đồng, bằng 96,2% dự toán năm,
trong đó chi đầu tư phát triển 158 nghìn tỉ đồng; chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể ước tính đạt 690,5 nghìn

tỉ đồng; chi trả nợ và viện trợ 120 nghìn tỉ đồng
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện năm 2014 theo giá hiện hành ước tính đạt
1220,7 nghìn tỷ đồng, tăng 11,5% so với năm 2013 và bằng 31% GDP, bao gồm: Vốn
khu vực Nhà nước đạt 486,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,9% tổng vốn và tăng 10,1% so
với năm trước; vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 468,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,4% và
tăng 13,6%; vốn khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 265,4 nghìn tỷ đồng,
chiếm 21,7% và tăng 10,5%. Chi cả năm 2014 được đưa ra là 1.006,7 nghìn tỷ đồng.
Trong đó, chi đầu tư phát triển là 163 nghìn tỷ đồng, chi trả nợ và viện trợ là 120 nghìn
tỷ đồng, chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành
chính là 704,4 nghìn tỷ đồng, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 100 tỷ đồng và dự
phòng là 19,2 nghìn tỷ đồng. Bội chi NSNN cả năm 2014 do Bộ Tài chính đưa ra là
224 nghìn tỷ đồng, bằng 5,3% GDP..
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện năm
2014 ước tính đạt 207,7 nghìn tỷ đồng, bằng 102% kế hoạch năm và tăng 0,3% so với
năm 2013, chi thường xuyên chiếm 70% ,gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 41851 tỷ đồng, bằng 105,9% kế hoạch năm và tăng 0,5%
so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải là
5609 tỷ đồng, bằng 123,8% và giảm 11,4%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
3507 tỷ đồng, bằng 101% và giảm 8,4%; Bộ Xây dựng 2076 tỷ đồng, bằng 101,9% và
tăng 4,5%; Bộ Y tế 930 tỷ đồng, bằng 115,5% và tăng 7,5%; Bộ Tài nguyên và Môi
trường 740 tỷ đồng, bằng 100,2% và tăng 8,8%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 630 tỷ đồng,
bằng 100,8% và giảm 7,4%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 481 tỷ đồng, bằng
106,3% và giảm 3,2%; Bộ Công Thương 317 tỷ đồng, bằng 107,2% và giảm 6,1%; Bộ
Khoa học và Công nghệ 285 tỷ đồng, bằng 101,6% và tăng 16,3%; Bộ Thông tin và
Truyền thông 249 tỷ đồng, bằng 119,9% và giảm 6%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 165852 tỷ đồng, bằng 101% kế hoạch năm và tăng 0,2%
so với năm 2013. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 114905 tỷ đồng,

9



Đầu tư bằng NSNN
bằng 97,2% và giảm 0,4%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 40861 tỷ đồng,
bằng 108,6% và tăng 2,5%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 10085 tỷ đồng, bằng
120,5% và giảm 2,1%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một số
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 23931 tỷ đồng, bằng
102,1% kế hoạch năm và giảm 8,1% so với năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 18160
tỷ đồng, bằng 91,4% và tăng 4,6%; Đà Nẵng 4989 tỷ đồng, bằng 97,8% và giảm 7%;
Bình Dương 4439 tỷ đồng, bằng 99,4% và tăng 14,2%; Nghệ An 4245 tỷ đồng, bằng
92% và tăng 7,5%; Quảng Ninh 4087 tỷ đồng, bằng 98,3% và tăng 9%; Bà Rịa - Vũng
Tàu 3921 tỷ đồng, bằng 87,2% và tăng 5,4%.
Tốc độ phát triển vốn đầu tư phát triển toàn xã hội các năm 2012, 2013 và 2014
so với năm trước (Theo giá hiện hành) Đơn vị :%
Năm
Tổng số
Khu vực Nhà nước
Khu vực ngoài Nhà
nước
Khu vực có vốn đầu
tư trực tiếp nước
ngoài

2012
109,3
119,0
108,1

2013
108,4
108,7

107,1

2014
111,5
110,1
113,6

96,3

109,8

110,5

Nguồn:


Năm 2013:

Tổng chi NSNN năm 2013 ước tính đạt 986,2 nghìn tỷ đồng, bằng 100,8% dự toán
năm, trong đó chi đầu tư phát triển 201,6 nghìn tỷ đồng, bằng 115,1% (riêng chi đầu tư
xây dựng cơ bản 196,3 nghìn tỷ đồng, bằng 115,4%); chi phát triển sự nghiệp kinh tếxã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực
hiện cải cách tiền lương) ước tính đạt 679,6 nghìn tỷ đồng, bằng 100,8%; chi trả nợ và
viện trợ 105 nghìn tỷ đồng, bằng 100%.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện năm 2013 theo giá hiện hành ước tính đạt
1091,1 nghìn tỷ đồng, tăng 8% so với năm trước và bằng 30,4% GDP. Trong vốn đầu
tư toàn xã hội thực hiện năm 2013, vốn khu vực Nhà nước đạt 440,5 nghìn tỷ đồng,
chiếm 40,4% tổng vốn và tăng 8,4% so với năm trước; khu vực ngoài Nhà nước 410,5
nghìn tỷ đồng, chiếm 37,6% và tăng 6,6%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
240,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 22% và tăng 9,9%.


10


Đầu tư bằng NSNN
Trong vốn đầu tư thực hiện khu vực Nhà nước năm 2013, vốn từ ngân sách Nhà nước
ước tính đạt 205,7 nghìn tỷ đồng, bằng 101,5% kế hoạch năm và tăng 0,3% so với năm
2012, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 41 nghìn tỷ đồng, bằng 102,2% kế hoạch năm và giảm
18,3% so với năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải là
7687 tỷ đồng, bằng122,4% và giảm 1,2%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn4378 tỷ đồng, bằng 100,1% và giảm 8,7%; Bộ Xây dựng 1326 tỷ đồng, bằng
75,3% và giảm 27%; Bộ Y tế 769 tỷ đồng, bằng89,2% và giảm 28,5%; Bộ Giáo dục và
Đào tạo 644 tỷ đồng, bằng 92,4% và giảm 29,8%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
491 tỷ đồng, bằng 98,1% và giảm 19,9%; Bộ Công Thương 319 tỷ đồng, bằng 117,4%
và giảm 29,9%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 164,7 nghìn tỷ đồng, bằng 101,3% kế hoạch năm và tăng
6,3% so với năm 2012. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một số
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 26232 tỷ đồng, bằng
95,3% kế hoạch năm và tăng 26% so với năm 2012; thành phố Hồ Chí Minh 17023 tỷ
đồng, bằng 99,3% và tăng 10,3%; Đà Nẵng 5630 tỷ đồng, bằng 74,8% và giảm 29,6%;
Thanh Hóa 4014 tỷ đồng, bằng 128% và tăng 1,1%; Quảng Ninh 4010 tỷ đồng, bằng
102,9% và tăng 3,9%; Bình Dương 3878 tỷ đồng, bằng 99,8% và tăng 16,6%; Vĩnh
Phúc 3868 tỷ đồng, bằng 129,1% và giảm 3,1%.


Năm 2012:

Tổng chi NSNN là 891,9 nghìn tỷ đồng. Trong đó chi đầu tư phát là 268,8 nghìn tỷ
đồng ,chi thường xuyên là 542 nghìn tỷ đồng, chi trả nợ vay là 181,1 nghìn tỷ đồng.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện năm 2012 theo giá hiện hành ước tính đạt

989,3 nghìn tỷ đồng, tăng 7% so với năm trước và bằng 33,5% GDP, đây là năm có tỷ
trọng vốn đầu tư so với GDP đạt thấp nhất kể từ năm 2000 trở lại đây. Trong vốn đầu
tư toàn xã hội thực hiện năm 2012, vốn khu vực Nhà nước đạt 374,3 nghìn tỷ đồng,
chiếm 37,8% tổng vốn và tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà
nước 385 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,9% và tăng 8,1%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài 230 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,3% và tăng 1,4%.

11


Đầu tư bằng NSNN

.
Biểu đồ: Vốn thu được từ các nguồn vốn qua các năm 2005-2012 ( nghìn tỷ đồng)
Trong vốn đầu tư thực hiện khu vực Nhà nước năm nay,vốn từ ngân sách Nhà nước
ước tính đạt 205 nghìn tỷ đồng,bằng 98,8% kế hoạch năm và tăng 15% so với năm
2011.Gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 50,3 nghìn tỷ đồng, bằng 98,9%kế hoạch năm và tăng
15,4% so với năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải là
7525 tỷ đồng, bằng 100,8% và tăng 18%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn4658 tỷ đồng, bằng 96,4% và tăng 15,1%; Bộ Xây dựng 1788 tỷ đồng, bằng
98,2% và tăng 18,9%; Bộ Y tế 1086 tỷ đồng, bằng97,7% và tăng 15,3%; Bộ Giáo dục
và Đào tạo 932 tỷ đồng, bằng 100,3% và tăng 13,5%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
623 tỷ đồng, bằng 98,4% và tăng 12%; Bộ Công Thương 459 tỷ đồng, bằng 101,9% và
tăng 15,3%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 154,7 nghìn tỷ đồng, bằng 98,7% kế hoạch năm và tăng
14,9% so với năm 2011. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một
số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 21253 tỷ đồng, bằng
89,1% kế hoạch năm và tăng 35,5% so với năm 2011; thành phố Hồ Chí Minh 15322
tỷ đồng, bằng 95,4% và tăng 9,5%; Đà Nẵng 7019 tỷ đồng, bằng 101,8% và tăng

12,8%; Thanh Hóa 4090 tỷ đồng, bằng 109% và tăng 19,9%; Quảng Ninh 3673 tỷ
đồng, bằng 88,4% và giảm 19,8%; Lào Cai 3625 tỷ đồng, bằng 111,2% và tăng 38,8%;
Bình Dương 3537 tỷ đồng, bằng 95,7% và tăng 2,7%.

12


Đầu tư bằng NSNN


Năm 2011

Tổng chi đầu tư NSNN 725,6 nghìn tỷ đồng . Trong đó ;chi đầu tư phát triển: 152
nghìn tỷ đồng ; chi thường xuyên ;à 442,1 nghìn tỷ đồng; chi trả nợ và viện trợ ;à 86
nghìn tỷ đồng; chi khác :45,5 nghìn tỷ đồng.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện năm 2011 theo giá thực tế ước tính đạt
877,9 nghìn tỷ đồng, tăng 5,7% so với năm 2010 (Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì bằng
90,6% năm 2010) và bằng 34,6% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước 341,6 nghìn
tỷ đồng, chiếm 38,9% và tăng 8% so với năm trước; khu vực ngoài Nhà nước 309,4
nghìn tỷ đồng, chiếm 35,2% và tăng 3,3%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
226,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,9% và tăng 5,8%.
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện năm
2011 ước tính đạt 178 nghìn tỷ đồng, bằng 101,8% kế hoạch năm và tăng 6,7% so với
năm 2010, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 42 nghìn tỷ đồng, bằng 100,4% kế hoạch năm và tăng
7,1% so với năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Công thương là 4079 tỷ
đồng, bằng 100% và tăng 8%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 3882 tỷ đồng,
bằng 105,7% và tăng 7,8%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 945 tỷ đồng, bằng 105,1% và
tăng 5,7%; Bộ Y tế 922 tỷ đồng, bằng 102,5% và tăng 5,2%; Bộ Xây dựng 873 tỷ


13


Đầu tư bằng NSNN
đồng, bằng 89% và tăng 7,2%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 593 tỷ đồng, bằng
106,4% và tăng 3,9%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 136 nghìn tỷ đồng, bằng 102,3% kế hoạch năm và tăng
6,5% so với năm 2010. Một số địa phương có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn là:
Thành phố Hồ Chí Minh đạt 17862 tỷ đồng, bằng 97% kế hoạch năm và giảm 4,3% so
với năm 2010; Hà Nội 16859 tỷ đồng, bằng 80,6% và tăng 12,7%; Đà Nẵng 7697 tỷ
đồng, bằng 134,6% và tăng 3,3%; Quảng Ninh 5120 tỷ đồng, bằng 81,6% và tăng
3,3%; Thanh Hóa 4396 tỷ đồng, bằng 123,7% và tăng 4,3%.
Nhận xét :Qua đây ta thấy được quy mô đầu tư bằng NSNN ngày càng tăng, chi
thường xuyên ngày càng lớn, chi đầu tư phát triển ngày càng giảm.
2.3.
Cơ cấu vốn đầu tư:
2.3.1. Vốn đầu tư NSNN theo ngành:

Ngành công nghiệp, xây dựng , dịch vụ vẫn là ngành thu hút lượng đầu tư lớn nhất
của toàn xã hội. Vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản vẫn ở mức thấp.
Bảng: cơ cấu đầu tư theo ngành giai đoạn 2007-2014 ( đơn vị %)
2007
100

Tổng
nguồn
vốn
XH
Nông- 14
Lâm –

Ngư
nghiệp
Công
40
nghiệpXây
dựng
Dịch
46
vụ

2008
100

2009
100

2010
100

2011
100

2012
100

2013
100

2014
100


9

6

6

7

12

14.5

15

44

45

47

47

48

47,5

45

47


49

47

46

40

38

40

Nguồn: tổng cục thống kê
Từ bảng số liệu trên ta thấy trong thời gian qua, nguồn vốn cho đầu tư phát triển chủ
yếu tập trung cho lĩnh vực công nghiệp-xây dựng (45%) và dịch vụ (40%), lĩnh vực
nông nghiệp có xu hướng tăng dần.

14


Đầu tư bằng NSNN
Nhà nước tăng cường đầu tư từ NSNN cho nông nghiệp, nông thôn và liên tục được
mở rộng, tốc độ chi NSNN cho nông nghiệp, nông thôn cơ bản được duy trì cao hơn
tốc độ tăng chi NSNN chung những năm gần đây. Vì nước ta hiện nay nông dân vẫn
chiếm tỷ lệ lớn và nông nghiệp nông thôn chiếm vị trí rất quan trọng trong quá trình
phát triển.
Trong giai đoạn 2009-2013, tổng số vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn đạt
520.441 tỷ đồng, bằng 51,67% tổng vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN và trái phiếu
chính phủ (TPCP), tăng 2,62 lần so với 5 năm trước.Cùng với vốn đầu tư từ NSNN và

TPCP, vốn tín dụng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn cũng luôn duy trì được tăng
với tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng chung cho nền kinh tế, bình quân đạt
21%/năm. Tổng dư nợ năm 2014 ước đạt gần 760 nghìn tỷ đồng...
Từ đó, nền nông nghiệp của đất nước tiếp tục phát triển theo hướng đẩy mạnh sản xuất
hàng hóa với năng suất và chất lượng ngày càng cao.
Tuy nhiên ở đây vẫn còn có những hạn chế như: sự phân bổ nguồn vốn cho các ngành
và trong nội bộ ngành còn chưa thật hiệu quả, thất thoát và lãng phí trong quá trình
phân bổ nguồn vốn, vấn đề quản lý còn yếu kém.
2.3.2. Vốn đầu tư NSNN theo địa phương, vùng lãnh thổ:

Bảng: cơ cấu đầu tư theo vùng kinh tế ( đơn vị: nghìn tỷ đồng)
Loại vùng
Trung du và miền
núi phía Bắc
Đồng bằng Bắc Bộ
Bắc trung bộ và
Duyên hải miền
Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng Bằng song
Cửu Long

2001-2008
7.1

2008-2014
7.3

2001-2014

7.2

27.7
17.4

29.8
18.6

28.75
18

4
31
13.2

5
32.1
15

4.5
31.55
14.1
Nguồn: tổng cục thống kê

Qua bảng trên ta có thể nhận thấy rõ sự bất cân đối về đầu tư giữa các vùng.Hai
vùng Đồng bằng Bắc Bộ và Đông Nam Bộ là thu hút vốn đầu tư nhiều nhất kể cả
nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài và hai vùng này cũng là hai vùng
đóng góp GDP cao (60-65%). Về nguyên tắc, sự phát triển đồng đều giữa các vùng là

15



Đầu tư bằng NSNN
càn thiết,nhưng trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, việc phát triển tập trung,
có trọng tâm , trọng điểm sẽ hợp lý hơn , đem lại hiệu quả cao hơn.
Trong cơ cấu vốn đầu tư tại các vùng kinh tế trọng điểm, phần từ trung ương ( thông
qua ngân sách và tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ) chỉ chiếm khoảng 30%.
Phần còn lại,bên cạnh các nguồn khác như ODA, FDI, cần phải coi các chính sách, cơ
chế tạo hành lang cho vùng kinh tế trọng điểm phát triển cũng là nguồn vốn quan trọng
vì chính bằng những hành lang pháp lý có được từ cơ chế chính sách đó, các vùng kinh
tế trọng điểm có thể thu hút thêm nhiều vốn nhàn rỗi trong dân ,kiều hối…
2.4.

Quản lý đầu tư NSNN:

Quản lý vốn đầu tư từ NSNN được hiểu là quá trình Nhà nước điều khiển và
hướng dẫn hoạt động đầu tư từ nguồn vốn NSNN để đạt được mục tiêu Nhà nước đề
ra. Mối quan hệ giữa quản lý vốn đầu tư từ NSNN được biểu diễn bằng các chính sách
mang tầm quốc gia, nhất là chính sách kinh tế vĩ mô sẽ làm căn cứ xác định mục tiêu
NSNN.
2.4.1.

Quản lý đầu tư của cấp Bộ, ngành và các địa phương:

Quốc hội quyết định tổng số thu, tổng số chi, mức bội chi và các nguồn bù đắp bội
chi; phân tổ ngân sách nhà nước theo từng loại thu, từng lĩnh vực chi và theo cơ cấu
giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, chi trả nợ. Quốc hội giao cho Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quyết định phương án phân bổ ngân sách trung ương cho từng bộ,
ngành và mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương. Như vậy, Quốc hội quyết định những vấn đề then chốt nhất về ngân sách

nhà nước, đảm bảo cơ cấu thu, chi ngân sách nhà nước hợp lý và cân đối ngân sách
nhà nước tích cực, đồng thời giám sát việc phân bổ ngân sách trung ương và ngân sách
của các địa phương.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ của Quốc hội giao
về quyết định phương án phân bổ ngân sách trung ương, giám sát việc thi hành pháp
luật về ngân sách nhà nước.
Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội các dự án luật, pháp lệnh và
các dự án khác về ngân sách nhà nước; ban hành các văn bản pháp quy về NSNN; lập
và trình Quốc hội dự toán và phân bổ ngân sách nhà nước, dự toán điều chỉnh ngân
sách nhà nước trong trường hợp cần thiết; giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng
bộ, ngành; thống nhất quản lý ngân sách nhà nước đảm bảo sự phối hợp chăth chẽ giữa
các cơ quan quản lý ngành và địa phương trong việc thực hiện ngân sách nhà nước; tổ
chức kiểm tra việc thực hiện ngân sách nhà nước; quy định nguyên tắc, phương pháp

16


Đầu tư bằng NSNN
tính toán số bổ sung nguồn thu từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới; quy định
chế độ quản lý quỹ dự phòng ngân sách nhà nước và quỹ dự trữ tài chính; kiểm tra
nghị quyết của Hội đồng nhân dân về dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước; lập
và trình Quốc hội quyết toán ngân sách nhà nước và quyết toán các công trình cơ bản
của Nhà nước.
Bộ tài chính chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về ngân sách nhà
nước trình chính phủ; ban hành các văn bản pháp quy về ngân sách nhà nước theo
thẩm quyền; chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng thống nhất quản lý
ngân sách nhà nước; hướng dẫn kiểm tra các bộ, cơ quan khác ở trung ương và địa
phương xây dựng dự toán ngân sách nhà nước hàng năm; đề xuất các biện pháp nhằm
thực hiện chính sách tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách nhà nước; chủ trì phối hợp với
các bộ, ngành trong việc xây dựng các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà

nước; thanh tra, kiểm tra tài chính với tất cả các tổ chức, các đơn vị hành chính, sự
nghiệp và các đối tượng khác có nghĩa vụ nộp ngân sách và xử dụng ngân sách; quản
lý quỹ ngân sách nhà nước và các quỹ khác của Nhà nước; lập quyết toán ngân sách
nhà nước trình Chính phủ.
Bộ kế hoạch và đầu tư có nhiệm vụ trình Chính phủ dự án kế hoạch phát triển
kinh tế, xã hội của cả nước và cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, trong đó có
cân đối tài chính tiền tệ, vốn đầu tư xây dựng cơ bản làm cơ sở cho việc xây dựng kế
hoạch tài chính, ngân sách; phối hợp với bộ tài chính lập dự toán và phương án phân
bổ ngân sách nhà nước trong lĩnh vực phụ trách; phối hợp với bộ tài chính và các bộ
ngành hữu quan kiểm tra đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư các công trình xây dựng cơ
bản.
Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ phối hợp với bộ tài chímh trong việc lập dự
toán ngân sách nhà nước đối với kế hoạch và phương án vay để bù đắp bội chi ngân
sách nhà nước; tạm ứng cho ngân sách nhà nước để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân
sách nhà nước theo quyết định của thủ tướng Chính phủ.
Các bộ, ngành khác có nhiệm vụ phối hợp với bộ tài chính, UBND cấp tỉnh để lập,
phân bổ, quyết toán ngân sách nhà nước theo ngành, lĩnh vực phụ trách ; kiểm tra theo
dõi tình hình thực hiện ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách; báo cáo tình hình
thực hiện và kết quả sử dụng ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách; phối hợp với
bộ tài chính xây dung định mức tiêu chuẩn chi ngân sách nhà nước thuộc ngành, lĩnh
vực phụ trách.
Hội đồng nhân dân (HĐND) có quyền quyết định dự toán và phân bổ ngân sách
địa phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định các chủ trương,

17


Đầu tư bằng NSNN
biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương; quyết định điều chỉnh dự toán
ngân sách địa phương trong thời gian cần thiết; giám sát việc thực hiện ngân sách đã

quyết định. Riêng đối với HĐND cấp tỉnh, ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên
còn được quyền quyết định thu, chi lệ phí, phụ thu và các khoản đóng góp của nhân
dân theo quy định của pháp luật.
Uỷ ban nhân dân( UBND) lập dự toán và phương án phân bổ ngân sách địa
phương (NSĐP), dự toán điều chỉnh NSĐP trong trường hợp cần thiết trình HĐND
cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. Kiểm tra nghị
quyết của HĐND cấp dưới về dự toán ngân sách và quyết toán ngân sách. Tổ chức
thực hiện NSĐP và báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định. Riêng đối với cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBND còn có nhiệm vụ lập và trình HĐND
quyết định việc thu phí, lệ phí, phụ thu, huy động vốn trong nước cho đầu tư xây dựng
cơ bản thuộc địa phương quản lý.
Như vậy, luật đã quy định tương đối rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan, chính quyền Nhà nước trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. đặc biệt đối với
HĐND và UBND các cấp đã có sự đổi mới theo hướng tăng tính tự chủ, sáng tạo
của địa phương trong việc phát huy tiềm năng hiện có, bồi dưỡng và tăng thu cho
ngân sách cấp mình, từ đó chủ động bố trí chi tiêu hợp lý, có hiệu quả theo kế hoạch
phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, phù hợp với quy hoạch tổng thể và chế độ
thu, chi thống nhất của Nhà nước. Điều này cơ bản cũng phù hợp với phương hướng
đổi mới chức năng, nhiệm vụ của HĐND và UBND được Quốc hội và Chính phủ đề ra
trong kỳ hội nghị HĐND và UBND toàn quốc.
2.4.2.

Quản lý đầu tư ở cấp cơ sở:

-Xây dựng các chiến lược kế hoạch về huy động vốn, thực hiện tiến trình đầu tư, kế
hoạch thu chi của các công trình đầu tư..
- Tổ chức lập dự án đầu tư ngay khi xây dựng ý tưởng dự án cho đến khi dự án tiền
khả thi và khả thi.
- Tổ chức đấu thầu để chọn nhà thầu, kí kết các hợp đồng, quản lí tiến trình hoạt động,
vốn đầu tư, chất lượng , rủi ro….

- Điều phối, kiểm tra và đánh giá các hoạt động đầu tư NSNN ở cấp cơ sở, của từng dự
án.

2.5.

Hiệu quả vốn đầu tư:

18


Đầu tư bằng NSNN
Thực tế là hiệu quả đầu tư từ vốn NSNN tại Việt Nam còn rất thấp, đối với các dự
án đầu tư công còn dàn trải, phân tán khiến đầu tư chậm, thiếu đồng bộ, gây lãng phí
và kém hiệu quả. Cụ thể, trong năm 2010 có 25 nghìn dự án với 180 nghìn tỷ đồng,
nhưng trung bình mỗi dự án chỉ được cấp khoảng 7 tỷ đồng và kéo dài khoảng 3 năm.
Hơn nữa, nhiều dự án sau khi hoàn thành không đi vào sử dụng. Qua đó, có thể nhận
thấy hiệu quả đầu tư công còn thấp.
2.5.1.

Hiệu quả kinh tế:

Quy mô đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước trong thời gian qua duy trì tăng trưởng
ở mức 2 con số và có sự chậm lại trong những năm gần đây (mức tăng trung bình giai
đoạn 2001 – 2005 đạt 12,68%/ năm, giai đoạn 2006 – 2010 là 11,54%/năm và xuống
khoảng 6% trong năm 2011 - 2012).
Qua các số liệu ở trên có thể thấy, trong tổng vốn đầu tư của khu vực nhà nước từ năm
2005 - 2012, vốn đầu tư từ NSNN luôn chiếm tỷ khối lượng lớn nhất so với các nguồn
vốn khác. Điều này phản ánh thực tế gia tăng chi tiêu công của Nhà nước cho phát
triển kinh tế - xã hội. Tuy vậy, nếu so sánh với những nỗ lực cắt giảm chi tiêu công qua
NSNN thì mục tiêu này chưa đạt được hiệu quả khi năm 2012, tỷ trọng vốn đầu tư từ

NSNN vẫn lên tới 54,8%.
Mô hình tăng trưởng của Việt Nam dựa quá nhiều vào vốn đầu tư phát triển và phát
triển theo chiều rộng. Các nhân tố phát triển theo chiều sâu ngày càng bị lấn át. Trong
toàn bộ giai đoạn 2001-2010, sự đóng góp của vốn vào tăng trưởng chiếm tỷ trọng
trung bình tới 55,65%, tỷ trọng đóng góp cao nhất vào năm 2009 với 72,37%.
Trong khi đó, sự đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng chiếm trung bình
25,21% trong giai đoạn 2001-2010, cao nhất vào năm 2009 với 34,02%. Mức độ đóng
góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng chiếm tỷ trọng
nhỏ nhất với 19,15%. Đóng góp của yếu tố TFP này không ổn định, biểu hiện qua sự
“biến động” của nền kinh tế thế giới trong năm 2008 - 2009 với mức độ đóng góp
tương ứng là 7,29% và -6,39%.
Trong giai đoạn 2000-2006, TFP đóng góp vào tăng trưởng kinh tế 11,6%, trong đó
khu vực KTNN đóng góp 4,5%; kinh tế ngoài Nhà nước: 5,4% và kinh tế có vốn FDI
chỉ đạt 1,7%.
Đến giai đoạn 2007-2012, yếu tố TFP chỉ đóng góp vào tăng trưởng 6,4%. Trong đó,
khu vực KTNN đóng góp 2,2%, ngoài Nhà nước: 3,0% và kinh tế có vốn FDI: 1,2%.
Như vậy, sự đóng góp của TFP vào nền kinh tế theo các phân tích này đều nhỏ, trong
đó có khu vực KTNN, chứng tỏ tính hiệu quả chưa cao của khu vực này.

19


Đầu tư bằng NSNN
Bức tranh tổng thể về ĐTPT trong những năm vừa qua ở nước ta có biểu hiện chưa
tích cực, trong đó ĐTPT của khu vực KTNN có một vị trí, vai trò rất quan trọng.
Nguồn vốn này góp phần thu hút được nhiều nguồn lực trong nước và ngoài nước cho
ĐTPT, góp phần tạo nên những thành tựu phát triển kinh tế quan trọng. Bên cạnh
những thành tích đã đạt được, hiệu quả đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước trong thời
gian qua chưa cao.
Chỉ số ICOR của kinh tế Việt Nam từ mức 3,3 giai đoạn 1991 - 1995 đã tăng lên đến

mức 7,04 giai đoạn 2001 - 2005 và mức 6,18 giai đoạn 2006 - 2010. Nhờ vào những
biện pháp tái cơ cấu, tập trung vào nâng cao hiệu quả đầu tư, hệ số ICOR trong hai
năm 2011 - 2012 đã giảm đáng kể, đạt mức khoảng 4,6. Xét về từng dự án, còn không
ít dự án đầu tư có hiệu quả thấp, không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế và xã
hội, cá biệt có những dự án, nội dung đầu tư trùng lắp, chồng chéo, hoặc gây cản trở,
làm mất hiệu quả của các dự án đã được đầu tư trước đó.
Qua các số liệu tính toán trên, ta thấy hiệu quả đầu tư từ khu vực Nhà nước có thể
được chia thành hai thời kỳ:
Từ 2005-2009, hệ số ICOR tăng dần. Mặc dù tỷ lệ đầu tư từ khu vực Nhà nước so với
GDP khu vực Nhà nước không tăng mà còn giảm đi trong giai đoạn này nhưng việc
tạo ra giá trị gia tăng đã giảm sút, dẫn tới giá trị hệ số ICOR khu vực này tăng lên
nhanh chóng, bất chấp nỗ lực cắt giảm, hạn chế đầu tư công của khu vực Nhà nước.
Trong đó, vốn đầu tư từ NSNN có tỷ trọng lớn nhất cũng chính là một trong những
nguyên nhân dẫn tới sự kém hiệu quả của đầu tư khu vực nhà nước nói chung.
Từ 2010-2012, ICOR có xu hướng giảm dần, chứng tỏ được hiệu quả đầu tư của khu
vực KTNN đã dần được cải thiện theo hướng tích cực. Tuy nhiên, tính chung cho giai
đoạn 2005-2012, hiệu quả đầu tư của khu vực KTNN vẫn rất thấp khi giá trị hệ số
ICOR là 8,58.
Nhìn chung trong cả giai đoạn 2000-2012, ĐTPT từ nguồn vốn NSNN không hiệu
quả nếu xét theo khía cạnh tạo việc làm cho lao động. Tuy nhiên, điều này có thể được
giải thích như sau: theo xu hướng thì khu vực Nhà nước cần giảm dần về tỷ trọng
trong GDP, vốn và lao động do tính mở của cơ chế thị trường và các quy tắc ràng buộc
khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Khu vực Nhà nước vốn mang đặc
trưng kém hiệu quả, linh hoạt. Vì vậy, lao động được rút ra khỏi khu vực này chưa hẳn
là một dấu hiệu tiêu cực.
2.5.2.

Hiệu quả xã hội:

20



Đầu tư bằng NSNN
Giảm nghèo là một trong những mục tiêu ưu tiên ở nước ta. Đầu tư bằng NSNN cho
đầu tư phát triển có hiệu quả thể hiện ở việc giảm tỷ lệ hộ nghèo qua các năm được
xem xét qua hệ số co giãn (HSCG)
Để đo lường sự tác động của đầu tư phát triển vào giảm đói nghèo có thể xem xét
mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước và tốc
độ giảm tỷ lệ hộ nghèo. Qua số liệu trên, HSCG giữa đầu tư của khu vực kinh tế nhà
nước và giảm nghèo mang giá trị âm, điều này chứng tỏ đầu tư của khu vực này có tác
động tích cực tới giảm nghèo. Giá trị tuyết đối của hệ số này đã tăng lên từ 1,19 tới
1,67 chứng tỏ tác động tích cực của vốn đầu tư phát triển tới giảm nghèo của giai đoạn
sau so với giai đoạn trước.
3. Ưu điểm, hạn chế của đầu tư bằng NSNN:
3.1.
Ưu điểm, hạn chế:
3.1.1. Ưu điểm:
- Nguồn vốn NSNN là nguồn vốn quyết định và chủ động, mang tính ổn định và bền

vững ,có thể chủ động trong việc huy động vốn.
- Góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành
công nghiệp , tăng dần và cơ cấu lại ngành dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông lâm
nghiệp.

- Đầu tư mạnh cho cơ sở hạ tầng góp phần tích cực cải thiện môi trường đầu tư, thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế, xử lý bất hợp lý vùng miền; chú trọng đầu tư cho các ngành
nghề có lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế. Ngân sách nhà nước đã tập trung nhiều
hơn cho đầu tư phát triển con người, nâng cao trình độ lực lượng lao động.


21


Đầu tư bằng NSNN
- Nhiều dự án đầu tư từ nguồn vốn NSNN đã hoàn thành và được huy động vào quá

trình sản xuất góp phần tăng thêm năng lực sản xuất và năng lực phục vụ cho nền
kinh tế. Ngành dầu khí, điện, bưu chính viễn thông, công nghiệp nhẹn là những
ngành mũ nhọn, các khu công nghiệp phát triển mạnh ở các địa phương đã góp phần
rất lớn làm thay đổi cơ cấu kinh tế, phát triên sản xuất, giải quyết việc làm và tăng
thu ngân sách tạo nguồn vốn tái đầu tư.
3.1.2. Hạn chế:
a. Trong chính sách và khung pháp lý:
- Nhiều văn bản Luật điều chỉnh hoạt động đầu tư công chưa thật cụ thể, rõ ràng, đồng
bộ và đầy đủ
- Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa xác định rõ yêu cầu quản lý nhà
nước về hoạt động đầu tư công, đối tượng và nội dung quản lý trong các khâu quy
hoạch, kế hoạch, chuẩn bị đầu tư, triển khai thực hiện dự án, quản lý sử dụng vốn,
quản lý khai thác dự án,…
- Thiếu các chế tài cụ thể để đảm bảo việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật trong đầu tư
công, để khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, kém hiệu quả.
b. Trong cơ chế thực hiện:

- Cơ chế phân bổ nguồn vốn của Việt Nam tuy đã theo xu hướng phân quyền như hầu
hết các quốc gia trên thế giới theo đuổi hiện nay nhưng lại không tạo ra được sự cân
bằng giữa vốn đầu tư NSNN giải ngân với sự đóng góp vốn ở cấp địa phương. Cơ chế
hiện tại cho phép các tỉnh được phê duyệt các dự án đầu tư sau đó trình lên chính
quyền trung ương để xin ngân sách. Điều này vô hình chung khuyến khích các địa
phương “vẽ” ra nhiều dự án để có thể xin được càng nhiều ngân sách càng tốt. Hệ quả
là đầu tư công liên tục tăng cao  dễ dẫn đến bội chi NSNN.

- Quy hoạch trung ương không được tốt cũng là nguyên nhân khiến cho các chính
quyền địa phương dễ dàng xây dựng các dự án đòi hỏi vốn từ trung ương.
- Việc thực thi các dự án của Việt Nam phần lớn là vẫn theo hình thức Nhà nước sở
hữu 100% vốn. Với các dự án có thời gian ngắn, đơn giản thì hình thức sở hữu này
đem lại hiệu quả. Nhưng với các dự án có thời gian dài hơn và phức tạp thì các nhà
thầu dễ dàng qua mặt cơ quan quản lý cũng như các cơ quan giám sát nhằm đẩy giá
thành dự án lên cao. Tình trạng các dự án đầu tư công của Việt Nam thường bị đội vốn
lên rất nhiều lần là một minh chứng cho vấn đề này.
- Vốn ngân sách mà trung ương cấp cho địa phương thiếu cơ chế giám sát. Quốc hội
giám sát các dự án cấp quốc gia. Với các dự án cấp địa phương thì khâu giám sát thuộc

22


Đầu tư bằng NSNN
về Hội đồng nhân dân các cấp. Do các cơ quan phê duyệt, thực thi và giám sát đều trực
thuộc địa phương trong khi vốn cấp lại thuộc trung ương nên rất khó tránh khỏi việc
các cấp này cấu kết với nhau để “làm đẹp” kết quả dự án thay vì đảm bảo có được dự
án có hiệu quả nhằm có thể xin được nhiều ngân sách hơn cho các dự án trong tương
lai. Việc thiếu cơ chế giám sát độc lập bên ngoài khiến cho dự án đầu tư công ở các địa
phương trở nên kém hiệu quả.
- Cơ chế giám sát hiện nay thiếu những bộ phận chuyên trách.
c. Trong phân cấp quản lý đầu tư:

Việc phân cấp đầu tư công được thực hiện mạnh mẽ ở Việt Nam kể từ năm 2000. Về
nguyên tắc, phân cấp quản lý đầu tư công được thực hiện đồng bộ với phân cấp quản
lý kinh tế - xã hội và tổ chức bộ máy hành chính các cấp từ trung ương tới địa phương.
Đặc thù của phân cấp đầu tư của Việt Nam là phân cấp đồng bộ và phân cấp theo địa
giới hành chính, nghĩa là phân cấp cùng các chức năng, nhiệm vụ nhất định đối với
từng cấp quản lý nhà nước theo địa giới hành chính mà chưa chú ý tới đặc thù về quy

mô, trình độ phát triển, các yếu tố tự nhiên của từng địa phương, cũng như đặc thù
về phạm vi, hiệu quả của một số dịch vụ công. Cùng với hệ thống quản lý đầu tư còn
nhiều bất cập, đầu tư theo phong trào đã diễn ra rầm rộ, dẫn đến vấn đề “tỉnh hóa các
cảng biển”, “tỉnh hóa khu công nghiệp”, “tỉnh hóa các khu kinh tế”, “tỉnh hóa các
trường đại học”.
Hệ quả tất yếu của những vấn đề trên là áp lực đầu tư địa phương lớn, là đầu tư dàn
trải, manh mún và lãng phí. Phân cấp đồng loạt và đại trà.
d. Hiệu quả đầu tư thấp:

Bên cạnh những thành tích đã đạt được, hiệu quả đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà
nước chưa cao. Do tình trạng đầu tư dàn trải, sai đối tượng hay cùng lúc triển khai quá
nhiều các dự án vượt quá khả năng cân đối của nền kinh tế... nên rất nhiều công trình
đầu tư dở dang, thời gian hoàn thành và đưa vào sử dụng bị kéo dài.... dẫn đến tình
trạng đầu tư bằng NSNN kém hiệu quả.
e. Trong cơ cấu đầu tư:

Hiện nay nguồn vốn đầu tư công quá chú trọng vào lĩnh vực kinh tế. Tỷ trọng đầu
tư cho kinh tế chiếm gần 80% và có xu hướng tăng lên trong các giai đoạn, trong khi
đầu tư vào lĩnh vực xã hội – con người chiếm tỷ lệ khiêm tốn và đang có xu hướng
giảm đi. Sự bất cập này thể hiện sự lấn át của kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân ở
nhiều lĩnh vực tư nhân có thể tham gia mà chưa thể hiện được vai trò xã hội và dịch vụ

23


Đầu tư bằng NSNN
công cộng đúng với mục tiêu hàng đầu của đầu tư công là đầu tư ở những lĩnh vực mà
tư nhân không làm được hoặc không muốn làm nhưng lại giải quyết vấn đề công bằng
và an sinh xã hội. Bên cạnh đó, đầu tư công cho lĩnh vực quản lý nhà nước có xu
hướng tăng lên, từ 6,2% của giai đoạn 1995 – 2000 lên 9,3% giai đoạn 2011-2012, cho

thấy công tác cải cách hành chính đạt hiệu quả chưa cao.
3.2.

Đánh giá chung:

Thực tiễn những năm qua cho thấy, đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước vào các
chương trình, dự án có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội, tạo động
lực thúc đẩy phát triển đất nước. Vốn nhà nước bao gồm: Vốn ngân sách nhà nước
(NSNN), vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước và các nguồn vốn khác do Nhà
nước quản lý.
Quy mô đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước nói chung và đầu tư sử dụng nguồn vốn
NSNN nói riêng ,trong thập niên qua duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức 2 con số và đã
giảm tốc trong thời gian gần đây
Thứ nhất, đầu tư sử dụng vốn nhà nước tập trung cho đầu tư phát triển các hệ thống
kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, đã làm thay đổi cơ bản về năng lực của các hệ thống
này ở cấp quốc gia, vùng và lãnh thổ; góp phần quan trọng tạo ra sự tăng trưởng cao
và ổn định về kinh tế trong nhiều năm qua. Đặc biệt, đầu tư sử dụng vốn nhà nước là
nhân tố chủ chốt tạo nên những nền tảng quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thứ hai, bên cạnh những thành tích đã đạt được, hiệu quả đầu tư sử dụng nguồn vốn
nhà nước trong thời gian qua chưa cao.
Thứ ba, hiệu quả đầu tư sử dụng vốn nhà nước chưa cao như trên có nguyên nhân
khách quan từ ảnh hưởng của những biến động kinh tế thế giới và trong nước, như
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, các đặc điểm của một nền kinh tế
đang chuyển đổi có trình độ thấp, dễ bị tổn thương; nhưng chủ yếu là do những
nguyên nhân chủ quan liên quan đến cơ chế chính sách kinh tế và đầu tư phát triển và
do những khuyết điểm trong quản lý và điều hành.
Đầu tư bằng NSNN là nguồn vốn quyết định và chủ động, mang tính ổn định và
bền vững, đóng vai trò định hướng cho dòng đầu tư nước ngoài chảy vào những
ngành, lĩnh vực cần thiết, tạo cơ sở hạ tầng cho việc chủ động tiếp nhận nguồn vốn đầu

tư nước ngoài, là nguồn chi trả các khoản vay nước ngoài và giảm áp lực nợ nước
ngoài cho nền kinh tế…

24


Đầu tư bằng NSNN

4.

Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư NSNN trong thời gian tới:

Bên cạnh những kết quả tích cực mang lại, thực tế đầu tư từ nguồn vốn Ngân sách
Nhà nước vẫn mang tính kém hiệu quả, dàn trải, chưa đồng đều, do đó kết quả mang
lại chưa như mong đợi… Để có thể khắc phục được hạn chế này, tác giả đề xuất một
số vấn đề sau:
Thứ nhất, khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải và chậm tiến độ trong đầu
tư xây dựng: Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan đã được phân cấp trong quản lý,
phân bổ vốn đầu tư. Ban hành các quy định cụ thể, có chế tài ràng buộc trách nhiệm
bảo đảm vốn và phê duyệt dự án đầu tư. Nâng cao trình độ xây dựng, phân tích, thẩm
định và quản lý dự án của cán bộ các cấp. Xây dựng các tiêu chí lựa chọn dự án đầu tư
để hạn chế việc can thiệp, chi phối, đưa ra quá nhiều dự án, không phù hợp với khả
năng nguồn vốn. Tổ chức tốt công tác giải phóng mặt bằng để đảm bảo tiến độ xây
dựng. Đơn giản hóa thủ tục đầu tư và đấu thầu.
Thứ hai, nâng cao hiệu suất, hiệu quả của công trình, dự án: Nâng cao chất lượng
của báo cáo nghiên cứu khả thi của các dự án đầu tư; thuê các tư vấn giỏi để hỗ trợ
trong các khâu tư vấn dự án, tư vấn thiết kế, lập tổng dự toán. Nghiên cứu, khảo sát kỹ
trước khi quyết định đầu tư. Quy định rõ trách nhiệm của người quyết định đầu tư đối
với kết quả thực hiện dự án; Thực hiện tốt công tác chuẩn bị thực hiện dự án; tính toán
đầy đủ các yếu tố và điều kiện khai thác, sử dụng để có thể vận hành, đưa công trình

vào sử dụng ngay sau khi hoàn thành.
Thứ ba, tăng cường công tác theo dõi, đánh giá và kiểm tra, thanh tra đầu tư từ
NSNN: Thực hiện theo dõi, đánh giá dựa trên kết quả đối với các dự án đầu tư. Các
bộ, ngành, địa phương thực hiện giám sát ngay từ khâu lập dự án, thẩm định, bố trí
vốn đầu tư, đảm bảo tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch được duyệt.
Khẩn trương triển khai công tác giám sát cộng đồng đối với đầu tư bằng nguồn vốn
nhà nước để góp phần làm nguồn vốn này được quản lý và sử dụng một cách công
khai, minh bạch, chống được thất thoát, lãng phí và tham nhũng; Thực hiện có hiệu
quả công tác giám sát, phối hợp sự tham gia của các bên hữu quan đối với các dự án
đầu tư công, đầu tư có nguồn từ NSNN đảm bảo công khai, minh bạch cao. Điều này
sẽ có tác động tích cực tới không chỉ đầu tư của khu vực công, NSNN mà còn có tác
động tới hiệu quả của đầu tư tư nhân; Có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên
quan trong thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, trong giám sát và kiểm soát các dòng lưu
chuyển vốn.

25


×