21
Ngay sau Cách mạng thángMỎ
TámĐẦU
thành công, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà ra đòi, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã đặt việc "diệt
giặc dốt" ngang hàng với "diệt giặc đói và giặc ngoại xâm". Từ đó đến nay,
nền giáo dục nước nhà vẫn luôn được chú trọng và ngày càng phát triển.
1. Lý do chọn đề tài
Nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước chỉ đạo và định hướng phát triển sự
nghiệp giáo dục đã khẳng định: "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng",
"Nhà nước và nhân dân cùng làm giáo dục". Văn kiện đại hội Đang toàn quốc
"Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt", là nhân tố đảm bảo cho
lần thứ VIII đã chỉ rõ: "Xuất phát từ nhận thức chăm lo cho con người, cho
sự tồn tại và phát triển xã hội. Giáo dục là chìa khoá tiến tới một xã hội tốt
cộng đồng xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi đơn vị, của từng gia
đẹp, là điều kiện tiên quyết đê thực hiện quyền bình đăng, dân chủ, hợp tác trí
đình là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, chúng ta chủ trương
tuệ và tôn trọng lẫn nhau. Đây là một trong những động lực quan trọng để
giải quyết các vấn đề xã hội theo tinh thần xã hội hoá " [21, tri 14]. Điều 11,
thúc đẩy sự nghiệp CNH. HĐH đất nước, là điều kiện để phát huy lợi thế cạnh
Luật giáo dục đã ghi: "Mọi tổ chức, gia đình và công dân đều có trách nhiệm
tranh quốc tế của Việt Nam về nguồn nhân lực trong quá trình toàn cầu hóa,
chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo
là tiền đề quan trọng để phát triển nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để xã
dục lành mạnh, phối họp vói nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục. Như
hội phát triển nhanh và bền vững. Chính vì vậy mà Đảng ta đã khẳng định:
vậy Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục: thực
“Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu
hiện đa dạng hoá các loại hình nhà trường và các hình thức giáo dục: khuyến
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn lực, bồi dưỡng nhân tài”.
khích, huy động và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế sự nghiệp giáo dục" [32, tr2]. Nghị quyết TW 4 (khoá VII) đã chỉ rõ: "Đẩy
xã hội, giáo dục là sự nghiệp “trồng người”. Vai trò của giáo dục lớn đến
mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là
mức, nó có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong của cả một dân tộc, bởi giáo dục
quốc sách hàng đầu đế phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự
chính là trụ cột của một quốc gia để tạo dựng, giữ gìn và phát triển hệ giá trị
phát triển, đổi mới nhanh cơ chế quản lý giáo dục - đào tạo, khoa học công
xã hội. Nhà trưòng là thiết chế của xã hội, nhà trường có nhiệm vụ giáo dục
nghệ phù họp với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, gắn chặt sự
toàn diện, là yếu tố hết sức quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách
phát triển các lĩnh vực này với sản xuất và các mục tiêu kinh tế khác, có chính
của học sinh, song bên cạnh tầm quan trọng của nhà trường thì học sinh còn
sách để toàn dân và các thành phần kinh tế cùng làm và đóng góp vào sự
chịu sự tác động của gia đình và xã hội. Do đó, tạo môi trường thống nhất,
nghiệp này" [19].
đồng bộ giữa nhà trường, gia đình và xã hội là mục tiêu của nền giáo dục Việt
Có thể khẳng định: Xã hội hoá giáo dục là một tư tưởng chiến lược lớn
Nam. Nen giáo dục có tốt thì mới góp phần tạo dựng, bảo vệ được một hệ giá
của Đảng và Nhà nước ta, coi sức mạnh của toàn xã hội là điều kiện không
trị nhân bản phù họp vói đặc trung tốt đẹp của dân tộc và vì vậy đủ sức mạnh
làm nên nền tảng cho xã hội phát triển hưng thịnh; ngược lại, nền giáo dục
kém và hệ quả đi kèm vói nó là hệ giá trị yếu thì dân tộc đó khó có sức bật đi
lên
3
thể thiếu để phát triển có chất lượng và hiệu quả cho sự nghiệp giáo dục. Đó
là sự đúc kết từ những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng nền giáo
dục cách mạng, truyền thống hiếu học, đề cao sự học và chăm lo việc học
hành của nhân dân ta suốt hàng ngàn năm lịch sử. Tư tưởng đó còn là sự tiếp
thu sáng tạo kinh nghiệm xây dựng và phát triển giáo dục của các nước trên
thế giới.
Giáo dục tiểu học là cấp học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân,
là cấp học hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu
dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh
tiếp tục học ở các cấp học tiếp theo. Đầu tư cho giáo dục tiểu học là đầu tư
cho tương lai, chuẩn bị lực lượng lao động mới phục vụ cho sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
Thành phố Vinh đang từng bước trở thành trung tâm kinh tế, chính trị,
xã hội của vùng Bắc Trung Bộ, nền kinh tế của thành phố chủ yếu là phát
triển dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp. Trong những năm qua đang có sự tăng
trưởng nhanh trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, sự nghiệp giáo
dục luôn được các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền từ Thành phố đến các
phường, xã đặc biệt quan tâm, công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh
và duy trì hàng năm. Trong đó, đối với công tác xã hội hóa giáo dục ở bậc tiểu
học Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đang có những chuyển biến mạnh mẽ,
từng bước nâng cao chất lượng công tác dạy và học, đã đạt được những một
số thành tựu nhất định. Hàng năm số trẻ trong độ tuổi tiểu học đến trường
khoảng gần 19.000 em, đạt tỉ lệ 99,98%, còn lại là số trẻ không đến trường
được do tật nguyền bẩm sinh hoặc trí tuệ phát triển không bình thường không
học tập hoà nhập cộng đồng được.
Tuy nhiên, thực tế trong quá trình thực hiện công tác xã hội hóa giáo
dục, đặc biệt là ở bậc tiểu học vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, còn bộc lộ những
4
yếu kém và hiệu quả chưa cao, chưa có tính bền vững như: nhận thức ở một
số cấp ủy, cơ quan, đơn vị về vai trò của giáo dục còn chưa đầy đủ; các biện
pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức về nội dung xã hội hóa giáo dục trong
nhân dân tuy rộng nhưng chưa có chiều sâu, sự đồng thuận trong nhân dân và
xã hội về công tác xã hội hóa chưa cao, hệ thống văn bản tạo hành lang pháp
lý cho công tác xã hội hóa giáo dục chưa rõ ràng, hoàn thiện. Trước thực
trạng đó, chúng tôi nhận thấy rằng việc tìm ra giải pháp quản lý công tác xã
hội hoá giáo dục là vấn đề bức xúc, một việc làm cần thiết đối với phong trào
giáo dục của thành phố nói chung và đặc biệt là cấp tiểu học nói riêng. Xuất
phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Một số giải pháp
quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường tiểu học Thành phố Vinh,
tỉnh Nghệ An” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp quản
lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường tiêu học
trên địa bàn Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
3. Khách thể và đối tượng nghiến cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường tiểu học.
3.2. Đối tưọng nghiên cứu
Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường tiếu
học Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
4. Giả thuyết khoa học
Hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường tiểu học Thành phố
Vinh sẽ được nâng cao nếư các đề xuất và thực hiện các giải pháp quản lý có
tính khoa học và khả thi.
5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tìm hiểu cơ sở lý luận của công tác xã hội hóa giáo dục ở các
trường tiểu học.
5.2. Tìm hiểu thực trạng quản lý công tác xã hội hóa giáo dục giáo dục
ở các trường tiểu học Thành phố Vinh.
5.3. Đề xuất và thăm dò một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa
giáo dục ờ các trường tiểu học Thành phố Vinh.
G. Riạm vi nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu ở các trường tiểu học trên địa bàn Thành phố
Vinh, tỉnh Nghệ An.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phương pháp phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp, khái quát nhằm
xác lập cơ sở lý luận của đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Điều tra bằng anket.
-Phỏng vấn.
- Lấy ý kiến chuyên gia.
-Tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
7.3. Phương pháp thống kê toán học: để xử lý các số liệu.
8. Đóng góp của luận văn
- Xây dựng các cơ sở lý luận của quản lý công tác xã hội hóa giáo dục
ở các trường tiểu học.
- Trên cơ sở nêu lên các thực trạng quản lý công tác xã hội hóa giáo
dục ở các trưòng tiểu học Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, đề tài sẽ xây dựng
một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này tại các
trường tiểu học.
6
- Đề tài luận văn sẽ là tài liệu tham khảo đối với những người làm công
tác quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường tiểu học.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần I11Ở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của quản lý công tác xã hội hoá giáo dục ở các
trường tiểu học.
Chương 2. Thực trạng quản lý công tác XHHGD ở các trường tiểu học
Thàrhphố Vĩnh, tỉnh Nghệ An.
Chương 3. Một số giải pháp quản lý công tác XHHGD ở các trường
tiểu học Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
7
CHƯƠNG 1
Cơ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ CÔNG TÁC
XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giáo dục luôn là vấn đề trung tâm của đời sống xã hội vì nó quyết định
tương lai của mỗi người và của cả xã hội. Ngay từ những ngày đầu cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”,
Người kêu gọi : "Toàn dân tham gia diệt giặc dốt", đồng thòi vạch rõ phương
pháp, lực lượng tiến hành: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân
liệu cũng xong". Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp giáo dục và đào tạo
luôn được xác định là sự nghiệp của toàn dân. Như vậy, bản chất xã hội hoá
đã được xác lập từ lâu. Trên nền tảng tư tưởng này, trong suốt quá trình lãnh
đạo đấu tranh cách mạng, Đảng ta luôn coi việc vận động lực lượng toàn dân,
toàn xã hội xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo như việc
thực hiện đường lối quần chúng của Đảng nhằm đạt đến mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình đôi mới sự nghiệp cách mạng, tư tưởng xã hội hoá đã
được Đảng, nhân dân ta kế thừa và phát huy. Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khoá VIII) khẳng định: "Giáo dục - đào tạo là sự
nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Mọi người đi học, học
thường xuyên, học suốt đòi. Mọi người chăm lo giáo dục. Các cấp uỷ và tổ
chức Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể, các tô chức kinh tế, xã hội, các
gia đình và các cá nhân đều có trách nhiệm tích cực góp phần phát triển sự
nghiệp giáo dục - đào tạo, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo
dục đào tạo" [20, trl7]. Chính phủ đã thông qua Nghị quyết số 90/CP về
"Phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn
8
hóa". Theo đó, xã hội hoá hoạt động giáo dục được hiểu như là một cuộc vận
động quần chúng rộng rãi nhằm làm cho mỗi ngưòi được hưởng đầy đủ quyền
lợi, đồng thời nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình đối với hoạt động
GO&ĐT.
Thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, hàng loạt các đề án, đề tài
về xã hội hoá giáo dục đã được các nhà khoa học, quản lí, các tổ chức quan
tâm nghiên cứu. Bên cạnh những đề án lớn mang tầm cỡ quốc gia do Văn
phòng Chính phủ chủ trì nhu "Cơ sở lí luận của xã hội hoá giáo dục", "Kinh
nghiệm thế giới trong việc xã hội hoá giáo dục" của Viện nghiên cứu phát
triển giáo dục, còn có nhiều tác giả viết về hoạt động này như: "Xã hội hoá
giáo dục là một tu tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một
con đường phát triển giáo dục ở nước ta" của GS.TS Phạm Minh Hạc. Trong
đó tác giả đã cung cấp nhiều thông tin cần thiết và bổ ích cho các cấp quản lí,
các tổ chức và đoàn thể, nhà trường, gia đình về mục đích, ý nghĩa, nội dung
hoạt động, phương thức tiến hành công tác quản lí và những kinh nghiệm để
nâng cao chất lượng xã hội hoá công tác giáo dục.
Năm 1999 Viện khoa học giáo dục cũng đã xuất bản tài liệu "Xã hội
hoá công tác giáo dục - nhận thức và hành động". Nội dung tài liệu cụ thể hoá
và hoàn thiện những quan niệm cơ bản mà mọi người cần biết về xã hội hoá
giáo dục đồng thời chỉ ra vai trò và trách nhiệm của từng lực lượng trong xã
hội hoá công tác giáo dục, những nét chính về cách tiến hành xã hội hoá công
tác giáo dục ở địa phương và cơ sở trường học.
Trong tài liệu "Xã hội hoá giáo dục nhìn từ góc độ pháp luật" (NXB Tư
pháp - Hà Nội 2004), TS. Lê Quốc Hùng đã chỉ ra những hạn chế trong quản
lí nhà nước về công tác xã hội hoá giáo dục đồng thòi đưa ra những giải pháp
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước đối vói hoạt động này.
Các nhà nghiên cứu như GS.TSKH. Thái Duy Tuyên, Nguyễn Mậu Bành;
9
Các tác giả Phạm Tất Dong, Phạm Minh Hạc... đã có nhiều bài viết về XHH
GD. Viện khoa học giáo dục nhiều năm qua đã tiến hành hệ thống các đề tài
nghiên cứu về XHH GD. đúc kết kinh nghiệm đế phát triển lý luận và đề xuất
chính sách nhằm hoàn thiện nhận thức lý luận, ban hành một số văn bản
hướng dẫn các địa phương, các đon vị giáo dục thực hiện và xây dựng các đề
án về công tác XHH GD.
Thời gian gần đây, một số đề tài khoa học, luận văn thạc sĩ chuyên
ngành QLGD cũng đã đề cập đến công tác XHH GD ở các trường phố thông,
phần nhiều là THPT. Tuy nhiên vấn đề đẩy mạnh công tác XHH GD ở các
trường tiểu học trên địa bàn Thành phố Vinh chưa có công trình nghiên cứu
nào thực hiện. Chính vì lẽ đó, đề tài của luận văn và những kết quả nghiên
cứu đạt được sẽ là những đóng góp dù nhỏ bé nhưng thiết thực cho việc tăng
cường quản lý công tác XHHGD ở các trường tiêu học trên địa bàn Thành
phố Vinh nói riêng và trường tiểu học tỉnh Nghệ An nói chung.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
,
L21. Xã hội hóa xã hội hóa giáo dục
- Xã hội hóa
Xã hội theo nghĩa rộng nhất là một bộ phận của giói tự nhiên, là hình
thức cao của sự vận động vật chất, là hình thức phát triển lịch sử của hoạt
động sống của con người. Xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn là một kiểu hệ
thống tố chức cộng đồng người cụ thế trong lịch sử [26, trl2]
Thuật ngữ "xã hội" là một thuật ngữ rất thông dụng để chỉ một tập hợp
người có những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa... chặt chẽ với nhau. Thuật
ngữ "xã hội" hiểu với nghĩa là "các tổng thể xã hội", "các mối quan hệ xã
hội".. . nói chung là xét chúng về mặt thể chế hoặc về mặt quan hệ [26, tr3].
Xã hội hoá là một trong những vấn đề cơ bản của xã hội học, xã hội hoá
được hiểu theo hai góc độ: xã hội hoá cá nhân và xã hội hoá một hoạt độnơ.
10
Xã hội hoá cá nhân:
Xã hội hoá cá nhân là quá trình con người tiếp thu nền văn hóa của xã
hội trong đó con người được sinh ra, quá trình mà nhờ nó con người đạt được
những đặc trưng xã hội của bản thân, học được cách suy nghĩ và ứng xử được
coi là thích hợp trong xã hội.
Xã hội hoá cá nhân là quá trình tiếp thu và tái tạo những kinh nghiệm
xã hội của cá nhân thông qua hoạt động và giao lưu. Xã hội hoá cho phép con
người nhận thức toàn diện hiện thực xã hội xung quanh, chiếm lĩnh những kỹ
năng hoạt động của cá nhân và tập thể.
Xã hội hóa cá nhân là quá trình liên tục, quá trình đó còn gọi là quá
trình học hỏi xã hội, tiếp thu xã hội, thích ứng xã hội [44, trl8].
Xã hội hoá hoạt động:
Xã hội hoá được nghiên cứu ở đây chính là sự tham gia rộng rãi của xã
hội (các cá nhân, nhóm, tổ chức, cộng đồng,...) vào một hoạt động hoặc một
số hoạt động mà trước đó chỉ một đơn vị, bộ phận hay một ngành chức năng
nhất định thực hiện [44].
Xa hội hoá theo nghĩa này thường được dùng một cách thông dụng
trong xã hội. Đây chính là quá trình phối họp hoạt động một cách có kế hoạch
của các lực lượng trong xã hội theo một định hướng, một chiến lược quốc gia
đề giải quyết một vấn đề nào đó của xã hội.
Xã hội hoá hoạt động cần được coi là một tư tưởng chiến lược có tính
lâu dài toàn diện, là một giải pháp xã hội có tính liên ngành cao nhằm huy
động các lực lượng xã hội tham gia một cách tích cực đê giải quyết một vấn
đề xã hội nào đó.
Xã hội hoá hoạt động dưới góc nhìn của các nhà lãnh đạo, quản lý là một
quá trình tổ chức, quản lý và huy động nhiều lực lượng xã hội cũng tham gia để
giải quyết một vấn đề của xã hội theo một chiến lược xác định và có kế hoạch.
11
Đối với từng lực lượng xã hội, xã hội hoá được hiểu là một quá trình
phối họp, lồng ghép các hoạt động của mình vói hoạt động của các lực lượng
khác trong xã hội có liên quan đế tạo ra hoạt động có tính liên ngành cao,
trong đó có sự phân công rõ trách nhiệm của từng lực lượng.
Đối với mỗi cộng đồng, mỗi gia đình, mỗi người dân, xã hội hoá hoạt
động được hiểu là một quá trình trong đó cần huy động sự tham gia hưởng
ứng của nhiều người, của cộng đồng vào các cuộc vận động nhằm động viên,
thúc đẩy họ hành động một cách chủ động, tích cực vì mục đích mở rộng và
nâng cao chất lượng một hoạt động xã hội nào đó.
Xã hội hoá hoạt động còn được hiểu như là việc biến một nhiệm vụ,
một công việc thuộc trách nhiệm của một chủ thể thành nhiệm vụ, công việc
của một số chủ thể, của nhiều chủ thể hay của toàn bộ xã hội. Xã hội hoá vói
nghĩa này tương đồng với việc huy động sức lực, trí tuệ (nguồn lực) của cả
cộng đồng cho việc hoàn thành một nhiệm vụ xã hội nào đó. Ở đây, huy động
sức người, sức của, tài chính, phương tiện, vật chất,... là những cái cần huy
động, tổng hợp, phân bổ và sử dụng cho việc hoàn thành nhiệm vụ. Xã hội
hoá theo nghĩa này như một phương thức huy động xã hội, thông qua công tác
tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động xã hội là chính. Mà trong nhiều
trường họp xã hội hoá theo cách này đã huy động được không nhỏ sức lực, trí
tuệ của cả xã hội cho việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ xã hội.
Thực tế ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
cách mạng của mình đã không ít lần triển khai thành công xã hội hoá các
nhiệm vụ trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Chính nhờ xã hội hoá mà chúng ta đã có những phong trào quần
chúng rầm rộ trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa,
phòng chống tệ nạn ma tuý, mại dâm, phòng chống HIV/AIDS, đảm bảo
ATGT, an toàn cộng đồng, giữ vững an ninh trật tự xã hội, quốc phòng toàn
12
dân, đối ngoại nhân dân,...
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, xã hội hoá các hoạt động không chỉ
nghĩa là tăng cường huy động cộng đồng mà coi nhẹ trách nhiệm Nhà nước
hoặc trách nhiệm các chủ thể chính mà ngược lại, đây chính là quá trình kết
họp chặt chẽ giữa trách nhiệm của Nhà nước, của các co quan chủ quản vói
cộng đồng, làm cho các nguồn lực được huy động đến mức tối đa và sử dụng
có hiệu quả nhất. Đây mới là mục tiêu thực chất của xã hội hoá các hoạt động.
Như vậy, xã hội hoá hoạt động được đề cập ở đây chính là biến nhiệm
vụ của một ngành, một chủ thể thành nhiệm vụ của nhiều ngành, nhiều chủ thể
xã hội hay của toàn xã hội bằng cách thông qua hoạt động tuyên truyền, giáo
dục, thuyết phục nhằm nâng cao nhận thức về trách nhiệm của từng đối tượng,
sự điều hành quản lý của các nhà lãnh đạo nhằm tăng cường sự phối hợp chặt
chẽ giữa các lực lượng xã hội đẻ thực hiện nhiệm vụ xã hội đang đặt ra.
Xã hội hoá hoạt động con người rõ ràng khác biệt với xã hội hoá cá
nhân. Bởi lẽ nếu xã hội hoá cá nhân là nhằm biến con người cá nhân thành
con người xã hội thì xã hội hoá hoạt động là quá trình biến một hay một số
nhiệm vụ của một chủ thể thành nhiệm vụ của nhiều chủ thể hay của toàn xã
hội [261; [44].
- Giáo dục
Giáo dục hiểu theo nghĩa rộng: "Là một lĩnh vực của hoạt động xã hội
nhằm truyền đạt những kinh nghiệm xã hội, lịch sử chuẩn bị cho thế hệ trẻ trở
thành lực lượng tiếp nối sự phát triển xã hội, kế thừa và phát triển nền văn hóa
của loài ngưòi và dân tộc. Đây là một bộ phận của quá trình sư phạm tông thể.
Trong đó, bằng tác động chủ đạo của nhà giáo dục, nhằm phát huy tính tích
cực tự giác ở học sinh, để hình thành và phát triển ở họ ý thức tình cảm và
hành vi đạo đức phù họp với các chuẩn mực của xã hội đã quy định" [43 , tr2].
Hiếu theo nghĩa hẹp đó là: "Quá trình hoạt động có mục đích, có tổ
13
chức và có kế hoạch của thầy và trò, để sao cho dưới tác động chủ đạo của
thầy, học sinh tự giác tích cực và độc lập, hình thành những quan điểm, niềm
tin, định hướng giá trị, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những động cơ, thái độ, kỹ
năng, kỹ xảo và các thói quen của các hành vi đúng đắn trong các quan hệ
chính trị, đạo đức, pháp luật. .. thuộc các lĩnh vực đòi sống xã hội" [43, lr2] .
- Xã hội hoá giáo dục
Bản chất mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội, nhà trường và cộng
đồng giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, xuất hiện cùng với sự xuất
hiện của con người trên trái đất. Có con người là có giáo dục, ngoài xã hội
loồi người, ngoài mối quan hệ giữa con người vói con ngưòi thì không có
hiện tượng giáo dục. Giáo dục có ở tất cả các chế độ xã hội, chế độ chính trị
và trong mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử,... Vì thế, giáo dục được xem là
một hiện tượng phố biến và vĩnh hằng [26, tr3]. Xã hội muốn tồn tại và phát
triển phải có quy trình chuyển giao kinh nghiệm của những thế hệ đi trước
cho thế hệ sau đó. Điều này thể hiện tính chất truyền thụ và lãnh hội kinh
nghiệm xã hội của giáo dục. Từng giai đoạn lịch sử, giáo dục một mặt phản
ánh trình độ phát triển xã hội, bị quy định bởi trình độ phát triển của xã hội.
Mặt khác nó lại tác động tích cực vào sự phát triển xã hội. Trong xã hội có
giai cấp, giáo dục được sử dụng như một công cụ đế duy trì và bảo vệ quyền
lợi cho giai cấp lãnh đạo [37]. Giai cấp lãnh đạo thực hiện quyền của mình
đối với giáo dục thông qua mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện
dạy học trong các nhà trường. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa
riêng, cho nên nền giáo dục mỗi nước có những nét độc đáo, sắc thái riêng thể
hiện trong mục tiêu, nội dung, phương tiện và phương pháp giáo dục.
Xã hội đóng vai trò quyết định đối với giáo dục, ngược lại giáo dục có tác
dụng to lớn đối vói xã hội. Nhò- có giáo dục mà kho tàng tri thức, kinh nghiệm
cuộc sống của xã hội loài người được bảo tồn và ngày càng bổ sung phát triển.
14
Giáo dục theo nghĩa hẹp là tạo ra nguồn nhân lực có trình độ, kỷ luật,
phâm chất cung cấp cho mọi ngành nghề, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội. Ngược lại, khi nền kinh tế - xã hội phát triển sẽ tạo điều
kiện thuận lợi (đầu tư ngân sách, phương tiện kỹ thuật,...) thúc đầy giáo dục
phát triển. Như vậy giữa giáo dục và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, tác động
qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ cùng tồn tại này là do con người và vì con
người. Với ý nghĩa đó, đường lối và chiến lược phát triển kinh tế -xã hội của
Đảng tại Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ IX đã khăng định: "Phát triển giáo
dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
GNH- HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố CO' bản để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" [22, ti9].
Nhà trường phải gắn liền vói cộng đồng, phát triển vì mục tiêu của
cộng đồng, chính vì thế phương châm giáo dục của chúng ta gắn nội dung
giáo dục của nhà trường phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, giải quyết tốt mối
quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng, huy động tối đa các nguồn lực cộng
đồng để xây dựng và phát triển nhà trường.
Văn kiện hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành TW Đảng khoá VII nêu rõ:
Xã hội hoá công tác giáo dục "Là huy động xã hội làm giáo dục, động viên
mọi tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản
lý của nhà nước" [19].
Nghị quyết 90-CP của Chính phủ do Thủ tướng kí ngày 21/8/1997 đã
xác định khái niệm xã hội hoá giáo dục như sau, đó là:
- Là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn
xã hội vào sự phát triển sự nghiệp giáo dục;
- Là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lóp nhân dân và
Đảng bộ, HĐND, UBND, các cơ quan nhà nước, các đoàn thê quần chúng,
các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp đóng tại địa phương và của từng người
15
dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế xã hội lành mạnh
thuận lợi cho hoạt động giáo dục.
- Là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực,
vật lực và tài lực trong xã hội (kể cả từ nước ngoài): phát huy và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực này.
Cuộc vận động xã hội hoá giáo dục có 3 nội dung chủ yếu:
Một là, tạo ra phong trào học tập sâu rộng trong toàn xã hội theo nhiều
hình thức, vận động toàn dân, trước hết là những người trong độ tuổi lao động
thực hiện học tập suốt đời để làm việc tốt hơn, thu nhập cao hơn và có cuộc
sống tốt đẹp hơn, làm cho xã hội ta trở thành xã hội học tập.
Hai là, vận động toàn dân chăm sóc thế hệ trẻ, tạo môi trường giáo dục
tốt lành phối họp chặt chẽ giữa giáo dục trong nhà trường với giáo dục ở gia
đình và ngoài xã hội; tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ đảng, HĐND, ƯBND,
các đoàn thế quần chúng, các doanh nghiệp.. . đối với sự nghiệp giáo dục.
Ba là, nâng cao ý thức trách nhiệm và sự tham gia của toàn dân, của
mỗi người đối với giáo dục nhằm củng cố, tăng cường hiệu quả của hệ thống
giáo dục để phục vụ tốt việc học tập của nhân dân.
Xã hội ngày một phát triển, cũng như giáo dục qua các thời đại lịch sử
ngày càng tiến xa bản chất xã hội vốn có từ ban đầu. Trải qua các quá trình
thay đổi về mối quan hệ sản xuất, tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyên môn hoá,
giai cấp hoá, nhà nước hoá đi đến độc quyền và đơn độc. Chất lượng giáo dục
thấp, cơ sở vật chất cho giáo dục còn nhiều bất cập, có nhiều nguyên nhân từ
những vấn đề này. Những vấn đề còn tồn tại của giáo dục sẽ dần được khắc
phục khi giải quyết tốt bản chất xã hội liên quan mật thiết tới giáo dục. Đảng
ta đã khẳng định quan điểm "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng". Hội
nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã chỉ rõ: "Toàn
Đảng, toàn dân, toàn ngành giáo dục cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt
16
những định hướng chiến lược về giáo dục trong Nghị quyết TW 2 (Khoá
VIII) “...Đẩy mạnh XHHGD nhằm tạo nguồn nhân lực có số lượng và chất
lượng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá..." [23] .
Qua đó chúng ta thấy rằng, XHHGD không chỉ đơn thuần là huy động
sức mạnh tổng họp của các ngành các cấp vào sự phát triển sự nghiệp giáo
dục mà còn có chiều ngược lại: Giáo dục tạo ra nguồn nhân lục có số lượng
và chất lượng đáp ứng yêu cầu của xã hội trong thời kỳ mới. Thực ra có thể
coi xã hội hoá giáo dục là một cách làm giáo dục được xác định bởi những
đặc điểm cơ bản sau:
-Huy động toàn xã hội đóng góp nhân lực, tài lực, vật lực, thực hiện đa
dạng hoá các nguồn đầu tư cho giáo dục.
-Các lực lượng xã hội tham gia phát triển quy mô - số lượng giáo dục.
-Các lực lượng xã hội tham gia vào việc đa dạng hoá các hình thức học tập.
-Các lực lượng xã hội tham gia vào đa dạng hoá các loại hình trường lóp.
- Huy động toàn xã hội tham gia xây dụng môi trường thuận lợi cho
việc giáo dục thế hệ trẻ.
- Thu hút các lực lượng xã hội tham gia vào quá trình giáo dục của rhà
trường.
Các đặc diêm trên cho chúng ta thấy XHHGD sẽ làm cho giáo dục càng
gắn bó với cộng đồng, do cộng đồng và thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu của
cộng đồng, của người dân.
1.2.2. Xã hội hóa giáo dục ở cấp tiểu học
Giáo dục trẻ em, trước hết là trẻ em ở tiểu học là giúp hình thành một
con người. Con người đi từ thòi thơ ấu đến lúc bước vào đòi. Cũng tương tự
như nhân loại đi từ con ngưòi nguyên thuỷ đến con người văn minh. Trong
toàn bộ sự hình thành của con người thì giai đoạn từ lứa tuổi mẫu giáo đến
tiểu học là giai đoạn cơ bản nhất. Những gì có được ở lứa tuổi này sẽ đặt nền
17
tảng cho toàn bộ sự phát triển về sau của một con người. Vì vậy đối với giáo
dục tiểu học cái chuẩn rất quan trọng. Chuẩn ở đây không phải là những giáo
điều mà là những chuẩn mực tiêu biểu cho sự hoàn thiện, tính nghiêm túc, thể
hiện cả trong các trí thức được dạy trong những yêu cầu về nhân cách đồi với
học sinh, thậm chí cả trong hành vi của thầy cô giáo, trong nếp sống, lối sinh
hoạt của nhà trường.
Khái niệm phát triển con người ngày nay được hiểu là phát triển toàn
diện cho mỗi con người và điều đó có nghĩa là họ phải nhận được sự giáo dục
toàn diện trong một môi trường tốt. Ở Việt Nam, không ít người quan niệm
rằng ngôi trường chỉ là nơi dạy học sinh mà không biết rằng đất đai và các cơ
sở vật chất khác của ngành giáo dục không chỉ là phương tiện hay công cụ
giáo dục, mà còn là môi trường để tạo ra nhân cách con ngưòi, giúp cho các
em hoàn thiện mọi mặt. Sự quản lý thiếu tầm nhìn đối với sự nghiệp trồng
người như vậy tạo ra những môi trường đào tạo kém chất lượng và không ổn
định vì trên thực tế, nhiều trường học chưa được quan tâm thích đáng về cơ sở
vật chất nên phải thuê địa điểm, hoặc thường xuyên chuyển địa điểm. Mấy
chục năm qua, mặc dù điều kiện kinh tế - xã hội còn nghèo nàn và lạc hậu,
chúng ta đã thực hiện được chương trình phô cập tiểu học, bảo đảm cho hàng
chục triệu trẻ em đến tuổi được đến trường. Đó là một nỗ lực và thành tích rất
lớn. Nhưng cũng chính vì phải lo cho một số lượng lớn trẻ em đi học, vượt
quá khả năng hậu cần của Nhà nước và của từng hộ gia đình, lại bị bó buộc
trong những quan điểm tư tưởng hạn hẹp nên trong giáo dục tiểu học ở nước
ta cũng còn rất nhiều điều bất cập, nhất là so với đòi hỏi của hoàn cảnh mới.
Xã hội hóa giáo dục không chỉ là đa dạng hóa hình thức và các nguồn
đầu tư cho giáo dục đào tạo, mà quan trọng nhất là đa dạng hóa nội dung hay
đa dạng hóa, hiện đại hóa chương trình giáo dục thích ứng với những đòi hỏi
của xã hội. Nó cũng là một trong những tiêu chí xác định giá trị của mỗi
18
trường tiểu học. Trường nào nắm bắt đòi hỏi của xã hội tốt, trường đó sẽ xây
dựng một chương trình giảng dạy họp lý, cung cấp cho học sinh những kiến
thức hữu dụng. Một chương trình giảng dạy họp lý đương nhiên phải bao gồm
cả các môn học trang bị cho học sinh, nhận thức xã hội cơ bản và kỹ năng
sống với một tỷ lệ, thòi lượng, học trình họp lý. Phần còn lại làm nên yếu tố
cạnh tranh của trường học là các kiến thức tự nhiên, kiến thức xã hội -các yếu
tố cấu thành tư duy nhận thức toàn diện. Đó cũng là một trong số những cách
thiết thực nhất để khắc phục tình trạng phân biệt đối xử giữa khu vực giáo dục
nhà nước và khu vực giáo dục tư nhân.
Xã hội hóa giáo dục có ý nghĩa là nhà nước phải tạo ra không gian xã
hội, lưật pháp và chính trị cho việc hình thành một khu vực giáo dục mà ở đó
ai cũng có quyền đóng góp vì sự nghiệp giáo dục, thực hiện sự cạnh tranh về
chất lượng giáo dục. Do đó, Xã hội hóa giáo dục cần phải chỉ ra vai trò của xã
hội trong sự nghiệp xã hội hóa giáo dục. Nói cách khác, xã hội phải tham gia
vào việc hình thành chương trình giáo dục đặc biệt là ở Tiểu học, thông qua
chương trình xã hội hóa giáo dục. Trong bối cảnh của Việt Nam, hệ thống
giáo dục đào tạo cần phải chuẩn bị lực lượng lao động có năng lực hội nhập,
năng lực họp tác, năng lực chung sống hòa bình với những nền văn hóa khác
nhau. Nói cách khác, hệ thống giáo dục đào tạo trong đó cơ sở là cấp liêu học
cần phai hoàn thành hai sứ mệnh, đó là dạy người và dạy nghề, dạy nghề để
người lao động có đủ kỹ năng làm việc và được thị trường chấp nhận còn dạy
người đê người lao động có thê làm chủ chính mình trên các thị trường lao
động khác nhau.
1.2.3. Quản lý, quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường
tiêu học
- Quản lý
về nội dung thuật ngữ “Quản lý” có nhiều cách hiểu:
19
Trcrg sádi giáo trình Khoa học quản lý (Tập 1 .NXB Khoa học kỹ
thuật. Hà Nội. 1999) đã ghi rõ:
Quản lý là các hoạt động được thực hiện nhằm đảm bảo sự hoàn thành
công việc qua nỗ lực của người khác.
Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những
người cộng sự khác trong cùng chung một tổ chức.
Quản lý là một hoạt động thiết yếu đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực
cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm.
Có tác giả lại quan niệm:
Quản lý là tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật tác
động vào hệ thống con người, nhằm đạt các mục tiêu kinh tế -xã hội.
Quản lý là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý
lên đối tượng và khách thể quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm
năng, cơ hội của tổ chức đế đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động
của môi trường.
Như vậy, có thể khái quát: Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển,
hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt
tới mục đích đã đề ra. Sự tác động của quản lý phải bằng cách nào đó để đối
tượng quản lý luôn phấn khởi, đem hết năng lực và trí tuệ để tạo ra lợi ích cho
bản thân, tô chức và xã hội.
-Quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường tiêu học
Theo PGS.TS Đặng Quốc Bảo: "Quản lý GD là hoạt động điều hành,
phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo
nhu cầu phát triển xã hội" [39] .
GS Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý giáo dục là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của các chủ thể quản
lý, nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý GD của Đảng,
20
thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà
tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo
dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất. Quản lý giáo dục là
sự tác động của hệ thống quản lý giáo dục của nhà nước từ Trung ương đến
địa phương, đến khách thể quản lý và hệ thống giáo dục quốc dân và sự
nghiệp giáo dục của mỗi địa phương nhằm đưa hoạt động giáo dục đến kết
quả mong muốn " [39, tr 38].
Xét từ phương diện quản lý giáo dục theo hướng XHH thì có thể hiểu
đây chính là quản lý XHHGD.
Quản lý công tác XHHGD được hiểu là quá trình chỉ đạo, điều hành
công tác XHHGD, là hệ thống những tác động có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch, hợp với quy luật của chủ thể quản lý đến các lực lưọng trong và ngoài
ngarh giáo dục nhằm thực hiện có chất lượng và có hiệu quả mục tiêu gáo
dục.
Quản lý công tác XHHGD đòi hỏi phưong pháp mềm dẻo, linh hoạt,
tạo được những phong trào, định hướng được phong trào, phát huy dân chủ
trong nhân dân, tăng cường nguồn lực của xã hội và cộng đồng nhằm thực
hiện mục tiêu giáo dục: "Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tồi".
Quản lý công tác XHHGD không phải là công việc của riêng ngành
GD&ĐT. Vói chức năng của mình, ngành GD&ĐT chủ yếu làm công tác
tham mưu, vận động tuyên truyền để xã hội nhận thức đầy đủ hon về giáo
dục, chia sẻ khó khăn với giáo dục, cộng đồng trách nhiệm và tham gia vào
quá trình phát triển GD&ĐT, trực tiếp chỉ đạo và quản lý hoạt động XHH
trong các nhà tnrờng để giúp cho công tác XHHGD đi đúng hưóng và đạt
được kết quả thuận lợi.
Xét một cách tổng quát, quản lý công tác XHHGD là quản lý mục tiêu,
21
nội dung, phương pháp, hình thức XHHGD, bảo đảm quá trình XHHGD được
tiến hành một cách khoa học, đồng bộ, hiệu quả, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục nói chung.
1.2.4. Giải pháp, giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở
các trường tiếu học
1.2.4.1.
Giải pháp
Theo từ điển Tiếng Việt do NXB Thống kê, Thành Phố Hồ Chí Minh
xuất bản: "Giải pháp là cách giải quyết một vấn đề nào đó" [34, tr265Ị.
Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, NXB Từ điển bách khoa
(2010) nêu: "Giải pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể" [30,
trl58].
Như vậy, có thể nói "giải pháp" là những cách thức tác động nhằm thay
đối, chuyển biến một đối tượng, một vấn đề nhất định nào đó nhằm đạt mục
đích hoạt động. Giải pháp có tính phù hợp tương đối với đối tượng. Giải pháp
càng phù hợp thì vấn đề giải quyết càng hiệu quả và nhanh chóng. Đê đạt
được điều đó thì các giải pháp đưa ra phải có cơ sở lý luận và thực tiễn tin
cậy.
1.2.4.2.
Giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường
tiêu học
Công cuộc vận động XHHGD nói chung và XHHGD tiểu học nói riêng
muốn đạt được những kết quả cao nhất, đòi hỏi các nhà quản lý phải đề ra
được các giải pháp sát đúng, phù hợp với đặc điểm của từng địa phương, từng
giai đoạn cụ thể. Giải pháp quản lý công tác XHHGD chính là xây dựng các
cơ chế, chính sách tạo các hành lang pháp lý thuận lợi đê thực hiện công tác
XHHGDỎ các trường tiểu học đạt kết quả.
Quản lý công tác XHHGD là triển khai các giải pháp quản lý nhà nước,
tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục theo định hướng của nhà nước về
22
cctTíj; tác XHHCD
1.3. Một số vấn đề về công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường tiếu
học trong giai đoạn hiện nay
1.3.1. Vị trí, nhiệm vụ của trường tiêu học
Điều 2, Điều lệ trường tiểu học được ban hành theo Thông tư số
41/2010/QĐ-BGD& ĐT ngày 30/12/2010của Bộ trưởng Bộ giáo dục đào tạo
đã qui định vị trí của trường tiểu học: Trường tiểu học là cơ sở giáo dục phổ
thông của hệ thống giáo dục quốc dân, có tư cách pháp nhân, có tài khoản và
con dấu riêng.
Điều 3, Điều lệ trường tiểu học đã quv định nhiệm vụ của trường tiểu
học:
Một là, tổ chức giảng dạy, học tập và hoạt động giáo dục đạt chất lượng
theo mục tiêu, chương trình giáo dục tiêu học do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban
hành
ì-Ềã là, huy động trẻ em đi học đúng độ tuổi, vận động trẻ em tàn tật,
khuyết tật, trẻ em đã bỏ học đến trường, thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục
và chống mù chữ trong cộng đồng. Nhận bảo trợ và quản lý các hoạt động
giáo dục của các cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo dục tiêu học
theo sự phân công của cấp có thẩm quyền. Tổ chức kiểm tra và công nhận
hoàn thành chương trình tiếu học của học sinh trong nhà trường và trẻ em
trong địa bàn quản lý của trường.
Ba là, q.iản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh.
Bốn là, quản lý, sử dụng đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài chính
theo quy định của pháp luật.
Năm là, phối hợp vói gia đình, các tổ chức và cá nhân trong cộng đồng
thực hiện hoạt động giáo dục.
23
Sáu là, tổ chức cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh
tham gia các hoạt động xã hội trong cộng đồng.
Bảy là, thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của
pháp luật.
1.3.2. Tầm quan trọng của công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường
tiếu học trong giai đoạn hiện nay
Bậc tiểu học có vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ thống đào tạo quốc
dân, đây chính là giai đoạn tạo "nền", "móng" của giáo dục phố thông. Góp
phần quyết định hình thành nhân cách tốt đẹp cho học sinh tiểu học, đặt nền
tảng cho việc phát triển đúng mục đích đào tạo của các cấp học sau. Bậc học
này nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các chức năng cơ
bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở. Giai đoạn nối "tiền học đưòng"
vói giáo dục trung học.
Chính vì vai trò quan trọng như vậy nên công tác huy động các lực
lượng xã hội đầu tư cho giáo dục tiểu học, tạo môi trường thuận lợi cho các
em phát triển tốt là một trong những nhiệm vụ hết sức cần thiết, nhất là trong
giai đoạn hiện nay khi nguồn ngân sách Nhà nước chưa thc đáp ứng được hết
nhu cầu cho giáo dục tiểu học. Bởi vì, nếu huy động được các nguồn lực xã
hội sẽ góp phần đa dạng hóa các loại hình, có điều kiện thuận lợi trong việc
tiếp cận và áp dụng các phương pháp dạy học hiện đại, làm thay đổi mạnh mẽ
csvc, nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục bậc tiểu học.
1.3.3. Nội dung công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường tiếu học
- Quản lý công tác xã hội hóa giáo dục nhằm nâng cao nhận thức toàn
xã hội về nội dung, bản chất của xã hội hoá và sự cần thiết của xã hội hoá đối
vói giáo dục tiêu học.
- Các cấp chính quyền, trường học phối hợp đề ra nhiều giải phát tuyên
24
truyền vận động cộng đồng tham gia vào quá trình giáo dục thông qua việc tổ
chức đại hội giáo dục các cấp, thực hiện dân chủ hoá nhà trường.
-Trong điều kiện hiện nay, nguồn ngân sách nhà nước còn khó khăn,
mới chỉ đáp ứng được những nhu cầu cơ bản về csvc, vì vậy rất cần sự huy
động xã hội đầu từ các nguồn lực cho giáo dục tiểu học thông qua các hoạt
động đóng góp tài chính, vật chất, công sức để xây dựng các điều kiện chăm
sóc giáo dục trẻ tốt nhất ờ nhà trường tiểu học.
- Tăng cường sự chỉ đạo của lãnh đạo các cấp. Nâng cao vai trò và
trách nhiệm của nhà trường, của hiệu trưởng trường tiểu học trong việc huy
động các lực lượng xã hội tham gia xã hội hoá giáo dục.
- Xây dựng các giải pháp tổng thê nhằm huy động xã hội tham gia xây
dựng môi trường giáo dục thống nhất thể hiện ở các hoạt động chủ yếu là: huy
động trẻ trong độ tuổi ra lóp và duy trì sĩ số, thực hiện phổ cập giáo dục tiểu
học đúng độ tuổi và xoá mù chữ trên địa bàn, phối hợp cùng nhà trường tạo ra
môi trường giáo dục trẻ thống nhất, hình thành nhân cách và phẩm chất tốt
đẹp cho trẻ góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện.
1.3.4. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác xã hội hóa giáo
dục
Xã hội hoá giáo dục là quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta để
làm giáo dục. Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhiều văn
bản của Đảng và Nhà nước ta về chỉ đạo sự nghiệp giáo dục đã khẳng định:
"Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng", "Nhà nước và nhân dân cùng làm
giáo dục".
Sắc lệnh số 146/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 10/8/194ốđã
khẳng định 3 nguvên tắc căn bản của nền giáo dục nước nhà là: "Đại chúng
hoá, dân tộc hoá, khoa học hoá và theo tôn chỉ phụng sự lí tưởng Quốc gia và
dân chủ'.
25
Đe án cải cách giáo dục lần thứ nhất được Hội đồng Chính phủ thông
qua tháng 7/1950 khẳng định: "Tính chất nền giáo dục của ta là nền giáo dục
của dân, do dân và vì dân, được xây dựng trên nguyên tắc: Dân tộc, khoa học,
đại chúng".
Văn kiện Hội nghị lần thứ 12 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá II
(3/1957) nói về giáo dục đã khẳng định: "Lấy việc nâng cao chất lượng làm
chính, phải kết hợp và phục vụ sản xuất, phục vụ việc xây dựng kinh tế quốc
dân. Chú ý dựa vào dân mà phát huy công tác văn hóa - giáo dục".
Chi thị về nhiệm vụ công tác giáo dục ở miền núi, ngày 3/9/1946 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng đã chỉ rõ phưong châm: "Thầy tìm trò,
trường gần dân, quy mô nhỏ, Nhà nước và nhân dân phối hợp quyết tâm mở
rộng cửa nhà trường XHCN cho các dân tộc".
Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 11/1/1979c ủa Bộ Chính trị về cải cách
giáo dục đã khẳng định: "Phối hợp những cố gắng đầu tư của Nhà nước vói sự
đóng góp của nhân dân, của các ngành, các cơ sở sản xuất và sức lao động
của thầy trò trong việc xây dựng trường sở, phòng thí nghiệm, xưởng trường,
vườn trường,...".
Chủ trương của Đảng, Nhà nước về XHHGD được chỉ rõ hơn tại Đại
hội lần thứ VII (tháng 1 - 1991): "Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục đào
tạo...một mặt Nhà nước tăng cường đầu tư, mặt khác có chính sách để toàn
dân, các thành phần kinh tế làm và đó nơ góp vào sự nghiệp này" [18, trl21].
Văn kiện Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng khoá VII đã nhấn
mạnh: "Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn cho giáo dục, nhưng vấn đề rất quan
trọng là phải quán triệt sâu sắc và tiến hành tốt việc xã hội hoá các nguồn đầu
tư mở rộng phong trào xây dựng, phát triển giáo dục trong nhân dân, coi giáo
dục là sự nghiệp của toàn xã hội" [19] .
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ "Các vấn đề về
26
chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai
trò nòng cốt đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp các tổ
chức trong xã hội, các cá nhân và các tổ chức nước ngoài cùng tham gia và
giải quyết những vấn đề xã hội". Đây là giải pháp để hoạch định hệ thống các
chính sách xã hội, trong đó có chính sách phát triển giáo dục đào tạo. Văn
kiện hội nghị lần thứ 2 BCH TW Đảng khóa VIII (tháng 12/1996) khẳng định
rõ hơn: "Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của
toàn dân. Mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Phê phán thói
lười học. Mọi người chăm lo cho giáo dục. Các cấp uỷ và tô chức kinh tế, xã
hội, các gia đình và cá nhân đều có trách nhiệm tích cực góp phần phát triển
sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho
giáo dục - đào tạo. Ket hợp giáo dục nhà trưòng, giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội, tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong cộng
đồng, trong tập thể..."; "Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các
tầng lóp nhân dân giúp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưói sự quản lý
của Nhà nước". Với phương châm này, MTTQ, các đoàn thể nhân dân. các tổ
chức xã hội, mọi gia đình và mọi cá nhân cùng với ngành giáo dục đào tạo
chăm lo xây dụng sự nghiệp giáo dục theo phưong châm "Nhà nước và nhân
dân cùng làm", "xây dựng môi trường giáo dục nhà ừường, gia đình và xã
hội" [20]; [21].
Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) khắng định: "Thực hiện xã hội hoá
giáo dục. Huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo
sự nghiệp giáo dục. Phối họp chặt chẽ giữa ngành giáo dục với các ban,
ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp... để mở mang giáo
dục, tạo điều kiện học tập cho mọi thành viên trong xã hội " [24].
Chính phủ đã có Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997 về phương
hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa; Nghị