Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Đổi mới sự lãnh đạo của đảng bộ tỉnh đối với mặt trận tổ quốc tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.56 KB, 135 trang )

TIỂU LUẬN:

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
đối với Mặt trận Tổ quốc tỉnh Phú
Thọ hiện nay


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị là nhu cầu tất yếu của mỗi quốc gia
trong quỏ trỡnh thực thi quyền lực của cỏc đảng cầm quyền, là bức thiết để giữ vững ổn định
chớnh trị - xó hội trên con đường phát triển, nhất là ở các nền kinh tế bỏ qua giai đoạn TBCN
định hướng lên CNXH và đang chuyển đổi như Việt Nam hiện nay.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta dưới sự lónh đạo của Đảng trong hơn 20 năm qua đó làm
thay đổi sâu sắc diện mạo đất nước trên mọi phương diện có tính bước ngoặt: nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN tăng trưởng khá, dân chủ XHCN ngày một tăng cường, chính trị - xó
hội ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày một cải thiện, quan hệ quốc tế
giữa nước ta với các nước trên thế giới ngày một tăng cường ... Điều đó có nguyên nhân bắt
nguồn từ xây dựng và kiện toàn hệ thống chính trị nói chung, đổi mới sự lónh đạo của Đảng với
các thành tố của hệ thống chính trị nói riêng.
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản cầm quyền và lónh đạo cách mạng. Mặt trận Tổ quốc
(MTTQ) Việt Nam và các đoàn thể nhõn dõn là cỏc tổ chức chớnh trị - xó hội đại diện cho
quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân. Đảng Cộng sản cũng vừa là thành viên của MTTQ
vừa là người lónh đạo của Mặt trận. Do đó nội dung và phương thức lónh đạo của Đảng đối với
Mặt trận là vấn đề mang tính quyết định quá trỡnh phát huy dân chủ đối với MTTQ Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân trong tiến trỡnh xõy dựng đất nước, xây dựng Đảng và Nhà nước, phỏp
quyền XHCN của dõn, do dõn và vỡ dõn ở nước ta hiện nay.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội (1991) đó xỏc
định: MTTQ Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trũ rất quan trọng trong sự nghiệp đoàn
kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên, thực
hiện dân chủ và đổi mới xó hội, giỏo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ


công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX nêu rừ: “MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, góp
sức xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh…”.


Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản là đảng duy nhất cầm
quyền và lónh đạo cách mạng, Đảng cần thiết phải phỏt huy vai trũ của Mặt trận Tổ quốc để
MTTQ thật sự là tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân, là cơ sở chính trị của Đảng và Nhà
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Đảng lónh đạo phát huy dân chủ của MTTQ tham gia xây
dựng Đảng và Nhà nước là phương thức hữu hiệu nhất để khắc phục chính những khiếm khuyết
của hệ thống độc đảng cầm quyền.
Tuy nhiên, trên thực tiễn, bên cạnh những kết quả hoạt động của MTTQ và các đoàn thể
nhân dân dưới sự lónh đạo của các cấp bộ đảng, trên nhiều vấn đề Đảng lónh đạo MTTQ và các
đoàn thể nhân dân cũn nhiều hạn chế, dẫn đến hạn chế trong phát huy vai trũ của MTTQ và
cỏc đoàn thể nhân dân. Điều đó đũi hỏi MTTQ phải đổi mới, sự lónh đạo của Đảng với MTTQ
phải đổi mới. Trước tỡnh hỡnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đặt ra những yêu cầu
đổi mới sự lónh đạo của Đảng với MTTQ, nhằm “Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của
Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng, nhằm khắc phục tỡnh trạng hành chớnh
hoá, phô trương, hỡnh thức” của MTTQ cỏc cấp, nhất là ở các địa phương và ở cơ sở.
Trước yêu cầu nhiệm vụ mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đũi hỏi Mặt
trận phải tăng cường hơn nữa nhiệm vụ củng cố, xây dựng về tổ chức, đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động, khắc phục những biểu hiện của tính hỡnh thức, hành chớnh hoá trong
một số hoạt động của Mặt trận các cấp. Trong công tác tham gia xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền trong sạch, vững mạnh, Mặt trận cần làm tốt hơn nữa vai trũ phỏt huy quyền làm
chủ của nhõn dõn, đóng góp xứng đáng vào việc xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật.
Mặt trận cần phải thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xó hội, tham gia giải quyết
khiếu nại, tố cỏo hiện chưa có nhiều hiệu quả. Tại Đại hội Mặt trận Tổ quốc lần thứ VII nhiệm
kỳ 2009-2014, ngày 28/09/2009, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nhấn mạnh: "Trong cơ chế
Đảng lónh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý hiện nay, muốn tiếp tục đổi mới nội dung

và phương thức hoạt động của Mặt trận, trước hết Đảng phải đổi mới phương thức lónh đạo
của mỡnh đối với công tác Mặt trận theo yêu cầu của thời kỳ mới".
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi lựa chọn vấn đề “Đổi mới sự lónh đạo của
Đảng bộ tỉnh đối với Mặt trận Tổ quốc tỉnh Phú Thọ hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc
sĩ, chuyên ngành Chính trị học tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.


2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liên quan đến đề tài
Về Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là vấn đề trong những năm gần đây cú
rất nhiều cụng trỡnh khoa học nghiờn cứu kể cả ở cấp Nhà nước và cấp Bộ. Vấn đề Đảng
lónh đạo Mặt trận cũng được nghiên cứu, tuy nhiên chưa được quan tõm nhiều. Cú thể kể
một số cụng trỡnh nghiờn cứu chủ yếu cú liờn quan đến đề tài này:
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX. 05. 06: Đặc điểm, nội dung phương thức lónh
đạo của Đảng trong HTCT, mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn thể, tổ chức
xó hội, PGS Vũ Hữu Ngoạn làm chủ nhiệm đề tài (1993). Đề tài nghiên cứu vấn đề Đảng
trong HTCT, Đảng lónh đạo HTCT, vấn đề đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng đối với
HTCT ở Việt Nam trong những năm đổi mới.
- Các cụng trỡnh nghiờn cứu của: Hoàng Chí Bảo, về Đảng Cộng sản cầm quyền
lónh đạo nhà nước và xó hội trong sự nghiệp đổi mới- một số vấn đề đặt ra, Tạp chí Cộng
sản số 17, tháng 9 năm 2006; Trần Đỡnh Nghiờm, Phạm Ngọc Quang, về: Đổi mới phương
thức lónh đạo của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002; Tiến sĩ Đặng Đỡnh Tõn
(Chủ biờn) về: Thể chế đảng cầm quyền - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị
Quốc gia, H.2004; PGS, TS Trần Đỡnh Hoan (Chủ biờn), về: Quan điểm và nguyên tắc đổi
mới hệ thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2008; Nguyễn Văn Giang, về: Vị trớ và vai trũ lónh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong hệ thống chính trị Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Chính trị học. Hà Nội 1999…Cỏc
cụng trỡnh nghiờn cứu trên đây tập trung vào cứu lý luận về hệ thống chính trị, các mối
quan hệ trong hệ thống chính trị nói chung và ở Việt Nam những năm đổi mới. Trong nội
dung, các công trỡnh này cũng đề cập ở một mức độ nhất định vấn đề Đảng lónh đạo HTCT
nói chung và Đảng lónh đạo Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở nước ta. Đây cũng là

những giá trị để tiếp tục nghiên cứu.
- Một loạt cụng trỡnh của các nhà khoa học: TS Đặng Đỡnh Tõn: (chủ biờn) Nhân
dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, HN, 2006;
Về giỏm sỏt và phản biện xó hội của MTTQ trong giai đoạn hiện na (Tạp chí Mặt trận, số
12/2007; Một số suy nghĩ về phỏt huy vai trũ Mặt trận trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí
Mặt Trận, 1/2009; Lại bàn về giám sát và phản biện xó hội của MTTQ, Tạp chí Dân vận, 8/


2008; Cần nhận thức đỳng vị trớ, vai trũ, nhiệm vụ của Mặt trận, Tạp chí Điện tử Đảng
Cộng sản, ngày 31/88/200 và bài của Th S. Nguyễn Thọ Ánh: Lại bàn về chức năng giỏm
sỏt và phản biện xó hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tạp chí Mặt trận, số 6/2009. Đõy
là cỏc cụng trỡnh nghiờn cứu sõu về vị trớ, vai trũ, những thành tựu, hạn chế trong tổ chức
và hoạt động của MTTQ Việt Nam, nhất là về phản biện và giám sát Đảng và Nhà nước.
Cỏc cụng trỡnh cũng đó đưa ra những giải pháp để tiếp tục củng cố Mặt trận trên các
phương diện hoạt động. Các cụng trỡnh cũng đề cập đến vấn đề Đảng lónh đạo Mặt trận,
nhưng cũn rất hạn chế.
- Phan Xuân Sơn (chủ biên): Các đoàn thể nhân dân với việc đảm bảo dân chủ ở cơ
sở hiện nay. Nxb CTQG, HN 2002. Đây là tác phẩm của tập thể các nhà khoa học của Viện
Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Tác phẩm làm rừ
những vấn đề hỡnh thành, nội dung và phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân ở
nước ta hiện nay. Đặc biệt cuốn sách đề cập nhiều đến MTTQ Việt Nam - Một tổ chức
chính trị - xó hội đúng vai trũ cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là cơ sở chính trị
của Đảng và Nhà nước ta. Cuốn sách chỉ ra những thành tựu, hạn chế của Mặt trận, đoàn thể
hiện nay và đưa ra các giải pháp đổi mới Mặt trận, đoàn thể nhân dân. Đây là những đúng
gúp quan trọng về lý luận và thực tiễn để tiếp tục nghiên cứu Đảng lónh đạo Mặt trận.
- TS Đỗ Quang Tuấn (chủ biên, 2006): Đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng đối
với Mặt trận Tổ Quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ mới. Nxb CTQG, HN. Đây là
sản phẩm của đề tài KX 03-09. Nội dung tỏc phẩm trỡnh bày những vấn đề về lý luận của
Chủ nghĩa Mỏc - Lờnin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những đặc điểm về phương thức lónh đạo
của Đảng với Mặt trận, các đoàn thể nhân dân; những quan điểm chỉ đạo đổi mới phương

thức lónh đạo của Đảng đối với MTTQ và các đoàn thể nhõn dõn. Cuốn sỏch cũng dành
một phần quan trọng trỡnh bày chủ trương, phương hướng, giải pháp đổi mới sự lónh đạo
của Đảng với MTTQ trong giai đoạn mới.
Đõy là cụng trỡnh khoa học của tập thể tác giả cung cấp những lập luận mới về
phương thức lónh đạo của MTTQ, là tài liệu tham khảo quan trọng để nghiên cứu cũng vấn
đề này ở tỉnh Phú Thọ.


Các công trỡnh nghiờn cứu của: TS Thang Văn Phúc, TS Nguyễn Minh Phương
(đồng chủ biên): Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xó hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2007; Nguyễn Thị Lan, Vai
trũ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện quy chế dõn chủ ở
xó tại Nghệ An hiện nay, Luận văn thạc sĩ Chính trị học, 2002; Nguyễn Thọ Ánh, về: Đoàn
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong hệ thống chính trị Viện Nam hiện nay, Luận văn
thạc sĩ Chính trị học, 2004; Vừ Hồng Huy: Đổi mới sự lónh đạo của Đảng đối với công tác
thanh niên ở thành phố Thái Bỡnh hiện nay, Luận văn thạc sỹ Chính trị học, 2005…Đây là
những công trỡnh nghiờn cứu riờng về vai trũ của một số thành viên trong Mặt trận. Cỏc
cụng trỡnh này cũng đề cập đến đối mới sự lónh đạo của Đảng với Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân ở mức độ hạn chế trong phần giải pháp.
Tóm lại, trong các cụng trỡnh nghiờn cứu trờn đây, các nhà khoa học đó đề cập tới
những vấn đề lý luận, thành tựu, hạn chế về những phương diện nhất định trong sự lónh đạo
của Đảng đối với HTCT nói chung và với hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
thành viên trên phạm vi toàn quốc, nhưng chưa có công trỡnh nào nghiờn cứu về sự lónh
đạo của Đảng với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên ở cấp địa phương và cơ sở.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rừ những vấn đề lý luận về sự lónh đạo của Đảng đối với MTTQ,
luận văn phân tích thực trạng, nguyên nhân về sự lónh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với MTTQ
ở tỉnh Phú Thọ và đề xuất những giải pháp cơ bản đổi mới sự lónh đạo của Đảng bộ tỉnh đối
với Mặt trận Tổ quốc tỉnh Phú Thọ những năm tới.

3.2. Nhiệm vụ
- Làm rừ cơ sở lý luận về vai trũ lónh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị ở Việt
Nam nói chung và đối với MTTQ nói riêng.
- Phân tích thành tựu, hạn chế, nguyên nhân về sự lónh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với
MTTQ ở tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu đổi mới sự lónh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với MTTQ
ở tỉnh Phú Thọ trong những năm tới.


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là hoạt động lónh đạo của các cấp uỷ đảng tỉnh Phú Thọ đối
với MTTQ các cấp trong tỉnh.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn trong thời gian từ khi tách tỉnh (năm 1997) đến
nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận chủ đạo thực hiện đề tài là học thuyết Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trũ của nhõn dõn lao
động, vai trũ của MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp chớnh trị và xõy dựng
CNXH. Kế thừa cỏc giỏ trị khoa học của cỏc cụng trỡnh đó được công bố có liên quan.
- Phương pháp luận và phương pháp thực hiện đề tài: Vận dụng tổng hợp các
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; sử dụng các phương pháp nghiên
cứu liên ngành và chuyên ngành như: phương pháp lịch sử, lôgíc, phương pháp phân tích, so
sánh và tổng hợp. Ngoài ra đề tài cũng sử dụng một số phương pháp khác: thống kê; điều tra
xó hội học; nghiờn cứu, tổng kết thực tế…
6. Đóng góp chủ yếu của luận văn
- Hệ thống hoá về những vấn đề lý luận cơ bản trong vai trũ lónh đạo của Đảng đối
với MTTQ.
- Làm rừ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động lónh đạo của
Đảng bộ tỉnh đối với MTTQ ở tỉnh Phú Thọ trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản tiếp tục tăng cường, đổi mới sự lónh đạo của Đảng

đối với hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân dân ở tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
7. í nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài có thể dùng tham khảo cho các cấp uỷ đảng tỉnh Phú Thọ và có thể sử dụng để
tham khảo cho các hệ đào tạo, bồi dưỡng lý luận chớnh trị tại trường chính trị tỉnh Phú Thọ.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, 9 tiết.


Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1. MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM - THÀNH VIÊN QUAN TRỌNG CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
Hệ thống chính trị với tư cách là một chỉnh thể, được cấu trúc từ nhiều yếu tố, có các
mối quan hệ, liên hệ tương tác với nhau và chịu tác động của các yếu tố bên ngoài (môi
trường), nhằm hướng tới các mục tiêu chính trị chung. Việc xuất hiện các hệ thống chính trị
trong thế giới đương đại hiện nay và việc nghiên cứu hệ thống chính trị là một vấn đề mới
được các nhà khoa học chính trị tập trung nghiên cứu từ nửa cuối thế kỷ XX trở lại đây.
Phạm trù hệ thống chính trị ở Việt Nam cũng mới xuất hiện và được nghiên cứu
trong gần 20 năm nay, nhưng dù vậy, vấn đề xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở nước
ta, bao hàm những thành tố và các mối quan hệ chính trị quan trọng nhất đó cho thấy, đây là
vấn đề hàm chứa các thành tố và các mối quan hệ chính trị vô cùng hệ trọng, có tác động
đến toàn bộ sự vận động của công cuộc đổi mới chính trị, kinh tế, xó hội ở Việt Nam hiện
nay.
Tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (tháng 3 năm 1989),
lần đầu tiên Đảng ta sử dụng phạm trù hệ thống chính trị thay cho phạm trù chuyên chính
vô sản. Việc sử dụng phạm trù hệ thống chính trị không chỉ đơn giản là sự thay đổi tên gọi
mà cũn hàm chứa những nội dung có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sõu sắc. Chớnh vỡ vậy,
Đảng đó đề ra chủ trương phải đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng đối với hệ thống

chính trị, mở rộng dân chủ…
Hệ thống chính trị là một phạm trù quan trọng của khoa học chính trị, được nhiều
nhà khoa học Việt Nam để tâm nghiên cứu, và do đó, cũng có nhiều cỏch lý giải khỏc nhau.
Theo Trần Khánh Sơn, có thể phân thành 4 nhóm quan niệm về hệ thống chính trị, đó là: 1/.
Xem hệ thống chính trị là một chỉnh thể chính trị mang bản chất của giai cấp cầm quyền; 2/.
Xem hệ thống chính trị là một chỉnh thể chính trị, bao hàm đảng chính trị, nhà nước và cỏc
tổ chức chớnh trị - xó hội hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; 3/. Xem hệ thống chính trị


là một chỉnh thể chính trị cụ thể ở Việt Nam, bao hàm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước
cộng hoà XHCN Việt Nam và cỏc tổ chức chớnh trị - xó hội; 4/. Hệ thống chính trị ở Việt
Nam là hệ thống chính trị XHCN, hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH [40,
tr.11-13].
Theo tôi, các nhà khoa học đó khái quát thành hai nhóm quan niệm như sau:
Nhóm quan niệm thứ nhất, hệ thống chính trị là một hệ thống chỉ bao gồm cỏc tổ
chức chớnh trị và chớnh trị - xó hội hợp phỏp, được xó hội thừa nhận bằng phỏp luật và cú
cựng bản chất với giai cấp cầm quyền. Quan niệm này đi tới khẳng định hệ thống chính trị
có cùng bản chất với hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền, cỏc tổ chức chớnh trị
và chớnh trị - xó hội đối lập không nằm trong hệ thống này [10, tr.45-46, 48]. Đồng quan
niệm này, nhóm nhà khoa học khác trong Học viện Kỹ thuật quân sự Việt Nam cho rằng,
trong hệ thống chính trị chỉ bao gồm: Đảng cầm quyền, nhà nước và các tổ chức chính trị có
cùng chí hướng với đảng cầm quyền, "là một hệ thống cỏc thiết chế chớnh trị - xó hội và các
mối quan hệ giữa chúng, hợp thành cơ chế chớnh trị của một xó hội, nhằm thực hiện quyền
lực của giai cấp thống trị, duy trỡ và phỏt triển chế độ chính trị hiện tại" [52, tr.19]; hoặc
theo PGS, TS Phan Xuân Sơn, hệ thống chính trị là một phạm trù quan trọng của khoa học
chính trị, được hiểu là
Tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính trị (các cơ quan quyền lực nhà
nước, các đảng chính trị, các tổ chức và phong trào xó hội v.v…) được xây dựng
trên các quyền và chuẩn mực xó hội, phõn bổ theo một kết cấu chức năng nhất
định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi

quyền lực chính trị [64, tr 262].
Với quan niệm như trên, các nhà khoa học chính trị đó khỏi quỏt được những nét phổ
biến nhất của chính trị với tư cách là một hệ thống: Đó là các nhân tố cấu trúc của hệ thống, các
mối liên hệ của hệ thống và định hướng vận động của cả hệ thống chính trị nhằm củng cố và
mở rộng quyền lực chính trị.
Nhóm quan niệm thứ hai, về cụ thể hệ thống chính trị Việt Nam, các nhà khoa học
chính trị đều cho rằng, cấu trúc của hệ thống chính trị Việt Nam về cơ bản được tổ chức gần
giống như hệ thống chính trị của các nước dân chủ nhân dân định hướng lên CNXH trên thế


giới. Hệ thống chính trị Việt Nam cũng là một chỉnh thể (hệ thống) về cấu trúc theo quan hệ
ngang bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chớnh trị - xó hội và hệ thống chính trị cấu trúc theo
quan hệ dọc. Các nhân tố trong hệ thống chính trị cấu trúc theo quan hệ dọc bao gồm các
mối quan hệ trong hệ thống được thành lập giống nhau ở cả 4 cấp hành chính: Trung ương,
tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương), huyện (quận, thị) và xó (phường) [66, tr.138]. Đây
là quan niệm rất thực tế và đó được Đảng ta khẳng định trong các văn kiện của Đảng từ sau
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6, khoá VI (tháng 3 năm 1989) cho đến nay. Theo
quan niệm này, các thành tố của hệ thống chính trị Việt Nam chỉ gồm các tổ chức chính trị
(Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền), Nhà nước, MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chớnh
trị - xó hội và cỏc mối quan hệ giữa chỳng trong việc phỏt huy quyền làm chủ của nhõn dõn,
xõy dựng khối đại đoàn kết toàn dõn trong quỏ trỡnh thực hiện quyền lực của nhõn dõn theo
định hướng XHCN.
Theo nhóm quan niệm thứ hai này, hệ thống chính trị nước ta là một phạm trù thể
hiện được tính tổng quát nhất của cơ chế thực hiện quyền lực chính trị ở trên cả 4 cấp hành
chính là “Đảng lónh đạo, Nhà nước quản lý, nhõn dõn làm chủ” trong điều kiện xây dựng
và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Hệ thống chính trị xét cả chiều ngang, và chiều dọc (cấp quyền lực), cơ cấu gồm có:
- Đảng lónh đạo hệ thống chính trị thông qua các tổ chức đảng ở cấp Trung ương,
bao gồm Đại hội Đảng toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư, Bộ Chính trị,

Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và gắn với các cơ quan này là các ban chuyên
môn của Đảng, các Đảng uỷ khối Trung ương, các Ban cán sự đảng, Đoàn Trung ương, các
cơ quan báo chí (theo nghĩa rộng) và xuất bản cấp Trung ương của Đảng. Ở cấp địa phương
đến cấp cơ sở, Đảng lónh đạo hệ thống chính trị nói chung và với Mặt trận Tổ quốc nói
riêng thông qua các tổ chức đảng, Đại hội các cấp của Đảng, cấp uỷ đảng, Bí thư, Thường
vụ, Ban Kiểm tra đảng và đảng viên.
Đảng lónh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng
liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ
hiến pháp và pháp luật.


- Các cơ quan nhà nước là công cụ của Đảng, thực hiện chức năng quản lý mọi mặt
đời sống xó hội. Trong đó bao gồm: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp
(Toà án và Viện Kiểm sát nhân dân) và hệ thống chính quyền từ địa phương từ tỉnh (thành)
đến cơ sở xó (phường, thị trấn), bao gồm Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và hệ thống
tư pháp.
Vai trũ Nhà nước quản lý được thể hiện thông qua hệ thống quy phạm pháp luật,
bằng hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước từ các bộ ngành Trung ương đến các địa
phương, cơ sở; trong đó không loại trừ các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thực hiện sự
nghiêm minh của pháp luật. Nhà nước thực hiện quản lý toàn diện trờn mọi lĩnh vực, quản
lý theo ngành hoặc lónh thổ, theo cấp vi mô hoặc vĩ mô. Nhà nước thực hiện sự quản lý
bằng cả chớnh sỏch và các công cụ đũn bẩy khỏc để thực hiện quyền lực của nhõn dõn,
phõn bổ cỏc giỏ trị xó hội…nhằm phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo cho nhân dân được làm tất cả những gỡ mà phỏp luật
khụng cấm, phỏt huy sức mạnh tổng hợp của cỏc thành phần kinh tế để phát triển đất nước.
- Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở cả 4 cấp hành chính, bao gồm cỏc tổ chức
chớnh trị - xó hội, tổ chức xó hội - nghề nghiệp và tổ chức xó hội. Đây là các tổ chức đại
diện cho các quyền và các lợi ích chính đáng của nhân dân, tham gia xây dựng và bảo vệ
Đảng, Nhà nước dưới sự lónh đạo của Đảng trong tiến trỡnh xõy dựng nền dõn chủ XHCN
ở Việt Nam (phụ lục 1).

Sự lónh đạo của Đảng với hệ thống chính trị nói chung, với MTTQ nói riêng là điều
kiện, đồng thời là một đảm bảo cho thành công của cách mạng Việt Nam nói chung và công
cuộc đổi mới nói riêng ở Việt Nam.
Trong cơ chế thực hiện quyền lực chính trị này, Đảng Cộng sản vừa là bộ phận của
hệ thống chính trị, vừa là “hạt nhân” lónh đạo hệ thống ấy; hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật. Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, không chấp nhận đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập. Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vỡ dõn thực hiện chức
năng quản lý xó hội đặt dưới sự lónh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nước có chức
năng thể chế hoá đường lối và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng về quản lý
đất nước. MTTQ Việt Nam là liên minh chính trị của các tổ chức chớnh trị - xó hội, các


đoàn thể nhân dân và các cá nhõn tiờu biểu của cỏc giai cấp và tầng lớp xó hội, các dân tộc,
các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân
trong xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong cấu trúc của hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam với hai vị
trí: vừa là thành viên của cả hệ thống, đồng thời là hạt nhân lónh đạo Nhà nước, lónh đạo
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị. Đối với MTTQ, Đảng Cộng sản
Việt Nam cũng với hai vị trí, vừa là thành viên của MTTQ, vừa lónh đạo MTTQ. Ở vị thế
thứ nhất, Đảng độc lập tương đối và bỡnh đẳng với Nhà nước và Mặt trận. Vị thế đó của
Đảng cũng giống như vị thế của các đảng cầm quyền khác trên thế giới. Ở vị thế thứ hai,
Đảng lại là người lónh đạo, dẫn dắt Nhà nước và Mặt Trận. Ở vị thế này - vị thế lónh đạo lại là điểm khác biệt với các đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị không XHCN.
Trong các nền chính trị dân chủ tư sản, đảng đa số cầm quyền đặt trong mối quan hệ với
các đảng đối lập, thiểu số. Đó là một rào cản không cho phép chủ quan, chuyên quyền,
suy thoái, nếu không sẽ bị mất quyền. Trái lại, ở Việt Nam, Nhà nước ta là công cụ của
Đảng; Mặt trận và các đoàn thể nhân dân do Đảng lập ra là cánh tay nối dài của Đảng;
Đảng giữ địa vị độc tụn lónh đạo, duy nhất, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng, không
chấp nhận có đảng đối lập. Và do đó rất khó tạo lập có các lực lượng phản biện tích cực
cả ở trong các mối quan hệ của hệ thống chính trị xét theo chiều ngang và cả đối với các
hệ thống chính trị xét theo chiều dọc (trên, dưới), trên tất cả các cấp của hệ thống chính

trị nói chung và ở cấp tỉnh nói riêng.
Đây là điểm rất đáng lưu ý trong tổ chức và vận hành của hệ thống chính trị nước ta nói
chung và hệ thống chính trị cấp tỉnh nói riêng. Khắc phục nhược điểm này, không có cách nào
khác nếu Đảng không biết dựa vào dân, dựa vào Mặt trận, phát huy vai trũ dân chủ của Mặt trận
và các đoàn thể nhân dân.
1.2. MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM CÁC CẤP LÀ CƠ SỞ CHÍNH TRỊ
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HI ỆN NAY
Hiện nay, MTTQ Việt Nam có 44 thành viên (xem phụ lục 1), trong đó bao gồm:
- Tổ chức chính trị: duy nhất có Đảng Cộng sản Việt Nam.


- Các tổ chức chính trị - xó hội gồm: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt
Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
- Cỏc tổ chức xó hội bao gồm: Hội chữ thập đỏ, Hội người cao tuổi, Hội Luật gia,
Hội Nhà báo, Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật.v.v…
- Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Các cá nhân là người Việt Nam tiêu biểu, các nhân sĩ, trí thức ở trong và ngoài
nước có uy tín, có quan hệ và ảnh hưởng tốt, đại diện cho một giai cấp, một dân tộc hay tôn
giáo, một cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc các cấp là tổ chức chính trị - xó hội khụng cú đoàn viên mà chỉ có
thành viên, được pháp luật Việt Nam thừa nhận, có địa vị pháp lý trong hệ thống chính trị. Điều
9, Hiến pháp 1992 đó nờu rừ: MTTQ Việt Nam là tổ chức liờn minh chớnh trị, liờn minh tự
nguyện của tổ chức chớnh trị, cỏc tổ chức chớnh trị - xó hội, tổ chức xó hội và cỏc cỏ nhõn tiờu
biểu trong cỏc giai cấp, cỏc tầng lớp xó hội, cỏc dõn tộc, cỏc tụn giỏo và người Việt Nam định
cư ở nước ngoài. Do đó, MTTQ là khối đại đoàn kết toàn dân. Chức năng của MTTQ là hoạt
động xây dựng cuộc sống vật chất- tinh thần, kinh tế- văn hoá - xó hội ở cộng đồng, tham gia
xây dựng Đảng và chính quyền nhân dân. Mặt trận Tổ quốc "là cơ sở chính trị của nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam".
MTTQ là tổ chức liên minh chính trị hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, hiệp

thương và thống nhất hành động. Địa vị chớnh trị phỏp lý của MTTQ Việt Nam không
những được quy định trong Hiến pháp và pháp luật mà địa vị này cũn do yờu cầu khỏch
quan của đất nước đũi hỏi phải cú một tổ chức liờn minh rộng rói để đoàn kết tất cả các lực
lượng trong toàn dân, dưới sự lónh đạo của Đảng Cộng sản để đấu tranh giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, phát huy được mọi nguồn lực thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Do đó, tính chất liên minh chính trị - xó hội của Mặt trận là sự liờn
kết cỏc lực lượng, các thành viên thành một khối thống nhất. Tính chất đó thể hiện Mặt trận
không phải là một đoàn thể, một tổ chức đại diện cho riêng một giai cấp, tầng lớp nào đó
trong xó hội.


Các tổ chức thành viên gia nhập Mặt trận đều có đặc điểm, tính chất, đối tượng tập
hợp riêng, song đều có chung một mục tiêu là thực hiện: “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xó
hội, xõy dựng một nước Việt Nam, dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn
minh”. Đó chính là điểm tương đồng, là mẫu số chung, là cái đích hướng tới để các tổ chức
thành viên tự nguyện gia nhập Mặt trận. Tính chất tự nguyện đó đó được thể hiện trong
nguyên tắc hoạt động của Mặt trận là: hiệp thương, dân chủ, phối hợp và thống nhất hành
động.
Mặt trận là một pháp nhân, được pháp luật thừa nhận các quyền:
- Mặt trận đúng vai trũ hiệp thương tuyển cử cán bộ các cơ quan dân cử trong bộ máy
quyền lực nhà nước ở Trung ương và ở địa phương.
- Mặt trận có đại diện trong các cơ quan quyền lực dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp). Các đại diện ấy do các thành viên của Mặt trận chọn và cử để được bầu.
- Mặt trận có quyền thực hiện các chức năng tư vấn và phản biện, giám sát đối với Nhà
nước và cả đối với Đảng, nhất là với các tổ chức đảng và chính quyền, cán bộ, đảng viên ở khu
dân cư theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và
tinh thần trong nhân dân.
- Tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật.

- Giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công
chức nhà nước, tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ảnh kiến nghị với Đảng,
Nhà nước.
- Tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
- Chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Tham gia phỏt triển tỡnh hữu nghị, hợp tỏc giữa nhõn dõn Việt Nam với nhõn dõn
cỏc nước trong khu vực và trên thế giới [29].
Về nghĩa vụ các thành viên, Điều 2- Điều lệ MTTQ Việt Nam nêu rừ:
- Thực hiện Điều lệ và chương trỡnh MTTQ Việt Nam.


- Tuyên truyền, vận động hội viên, đoàn viên, nhân dân thi hành Hiến pháp và pháp
luật.
- Đôn đốc các thành viên của tổ chức mỡnh thực hiện đúng, chính sách đại đoàn kết
toàn dân, tham gia công tác Mặt trận ở nơi cư trú.
- Đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ các tổ chức, cá nhân hưởng ứng, ủng hộ, thực hiện
chương trỡnh hành động của MTTQ Việt Nam.
Vấn đề đặt ra trong hoạt động của Mặt trận là phát huy năng lực hoạt động xó hội, tổ
chức vận động, phối hợp các thành viên trong MTTQ để có tiếng nói chung, bảo vệ các
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân trên tất các các vấn đề kinh tế, chính trị, xó hội.
Đây là vấn đề rất khó khăn, phức tạp, đũi hỏi hoạt động tuyên truyền, vận động, phối hợp
giữa các thành viên là đặc biệt quan trọng, quyết định hiệu quả hoạt động của MTTQ. Đây
cũng là những đũi hỏi mang tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận: là tổ chức
không có đoàn viên, chỉ có thành viên, hội viên, tiếng nói của MTTQ là tiếng nói của sự
hiệp thương, đồng thuận của tất cả các thành viên.
Mặt trận thực hiện những nhiệm vụ trên là nhằm thực hiện chủ trương đoàn kết rộng
rói mọi thành viờn trong xó hội cú thể đoàn kết được, không phân biệt đối xử về quá khứ,
thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ở trong nước hay ở nước ngoài; đoàn kết chặt chẽ,
chân thành trên cơ sở mục tiêu chung là: giữ vững độc lập, thống nhất, vỡ: “dân giàu, nước
mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh”.

MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị
và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà
nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện
quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ
quan nhà nước, đại biểu dân cử và các tổ chức đảng, cán bộ viên chức nhà nước và đảng
viên.
Thông qua các phong trào thi đua trên mọi lĩnh vực của nhiều tổ chức, nhiều lứa tuổi,
hoạt động phong phú dưới nhiều hỡnh thức, Mặt trận trở thành tổ chức chớnh trị - xó hội
gần dõn hơn mọi tổ chức chính trị và các đoàn thể nhân dân khác. Mặt trận không phải chỉ


gần dân, sát với một bộ phận nhân dân mà là với đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, tạo được
tiếng nói chung của nhiều giai tầng xó hội. Do đó, Mặt trận rất hiểu hiểu Đảng, hiểu chính
quyền; Mặt trận có thể đánh giá đúng cán bộ, đảng viên ở khu dân cư - nơi cán bộ cư trú.
Điều đó làm cho tiếng nói của Mặt trận mang tính khách quan, có độ tin cậy cao; làm cho
Mặt trận trở thành cầu nối giữa dân với Đảng và với Nhà nước. Và do đó, tiếng nói của
Mặt trận, việc tham gia tư vấn, đóng góp, giới thiệu cho Đảng, cho cơ quan công quyền
những người có đức, có tài vào các cơ quan quyền lực chính trị; những ý kiến của Mặt trận
thay mặt nhiều giai tầng xó hội phản ỏnh cho Đảng, các cơ quan nhà nước về những bức
xúc trong việc sử dụng, đề bạt cán bộ và về những biểu hiện thoái hoá, biến chất của một
bộ phận cán bộ là hết sức quan trọng để Đảng xem xét, giải quyết là vấn đề quan trọng.
Đó chính là những cơ sở chính trị - xó hội để Mặt trận có đủ tư cách tham gia có hiệu
quả vào công tác cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
phát hiện những người có đức, có tài để Đảng và Nhà nước tuyển dụng, cũn những người
không có đủ đức, tài trong các cơ quan đảng và Nhà nước để xử lý.
Trong chế độ chính trị nước ta, nhân dân là chủ thể chính trị, chủ thể quyền lực nhà
nước. Quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho các đại
biểu của mỡnh và trực tiếp giỏm sỏt cỏc đại biểu đó trong quỏ trỡnh thực thi quyền lực nhà
nước.

Nhân dân thực hiện quyền dân chủ ở 2 hỡnh thức: dân chủ trực tiếp và dân chủ gián
tiếp (thông qua các đại biểu, các cơ quan dân cử, các đoàn thể nhân dân, trong đó có MTTQ
các cấp). Quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta được đảm bảo bằng Hiến pháp, pháp luật.
Quyền dân chủ trực tiếp thể hiện dân có quyền quyết định lỏ phiếu của mỡnh trong cỏc cuộc
tuyển cử bầu cỏc cơ quan công quyền, trưng cầu dõn ý, cú thể thụng qua tổ chức Mặt trận
của mỡnh tham gia trực tiếp vào các quỏ trỡnh hoạch định chủ trương của Đảng, cơ chế,
chính sách của Nhà nước, bằng việc giám sát cán bộ, đảng viên ở khu dân cư, bằng việc
thực hiện các quyền dân chủ ở cơ sở (Dân được biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra)…Nhân dân thực hiện các quyền dân chủ gián tiếp thông qua cơ quan quyền lực đại diện
(Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp), qua các hệ thống truyền thông, các phương tiện
thông tin đại chúng,…


Như vậy, là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị nước ta, MTTQ Việt Nam
có nhiệm vụ liên minh, kết hợp các lực lượng toàn dân thành một khối thống nhất để thực
hiện mục tiêu chính trị chung là giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước, quyền lực xó hội
nhằm xõy dựng và bảo vệ Tổ quốc, phỏt huy quyền làm chủ của nhõn dõn trong mọi lĩnh
vực kinh tế, văn hoá, xó hội.v.v…
Ngay từ những ngày cũn đang đi tỡm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đó sớm nhận
thức rừ vai trũ của quần chỳng nhõn dõn, vai trũ của cỏc tổ chức chớnh trị - xó hội của nhõn
dõn, Người đó cho rằng:
Cách mạng giải phóng dân tộc là sự vùng dậy của cả một dân tộc để đánh đổ
ách thống trị của nước ngoài. Giai cấp vô sản lónh đạo không thể tự một mỡnh làm
nổi mà phải liờn minh với các lực lượng yêu nước trong dân tộc. Cuộc cách mạng
trong một nước thuộc địa là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Để đưa cuộc cách
mạng đó đến thắng lợi, có thể và cần phải thành lập một Mặt trận dõn tộc thống
nhất rộng rói đoàn kết tất cả các giai cấp và tầng lớp xó hội mong muốn được giải
phóng khỏi ách thuộc địa [30, tr.651].
Từ quan điểm đó, sau khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh và Đảng ta rất quan tâm đến
thành lập Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, và các tổ chức đó lần lượt ra đời.

Bản chất tốt đẹp của MTTQ Việt Nam luôn được chính nhân dân, chính lịch sử thừa
nhận. Thắng lợi huy hoàng của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 gắn liền với sự nghiệp
Mặt trận Việt Minh. Thành tích của Mặt trận Việt Minh chính là sự kế tục sự nghiệp cách
mạng đó được chuẩn bị từ trước của Hội Phản đế Đồng Minh (1930 - 1936) và Mặt trận
Dân chủ Đông Dương (1936 - 1939). Tiếp theo Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt đó góp
phần đưa cuộc kháng chiến thực dân Pháp đến thắng lợi. Kế tục Mặt trận Liên Việt, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam ra đời đó đoàn kết tập hợp các tầng lớp nhân dân tiến hành cách mạng
XHCN ở miền Bắc, làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đó cựng với Mặt trận dõn
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và liên minh các lực lượng dân chủ và hoà bỡnh Việt Nam
đoàn kết nhân dân cả nước làm trũn sứ mệnh lịch sử vẻ vang: giải phúng miền Nam, bảo vệ
miền Bắc, hoàn thành cuộc cỏch mạng dõn tộc dõn chủ nhõn dõn trong cả nước. Từ khi đất


nước thống nhất, MTTQ Việt Nam giữ vai trũ quan trọng trong việc củng cố và tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bước vào thời kỳ đổi mới, quá độ lên CNXH ở nước ta là quá trỡnh lõu dài trải qua
nhiều chặng đường với nhiều thành phần kinh tế mà đại diện cho mỗi thành phần kinh tế là
một bộ phận trong dân cư, một lực lượng xó hội. Cựng với cạnh tranh kinh tế là sự phân hoá
giàu nghèo. Nhiều tổ chức xó hội nghề nghiệp ra đời. Quá trỡnh hội nhập ngày một sõu hơn
về kinh tế và văn hoá giữa nước ta và thế giới đó, đang và sẽ tác động sâu sắc đến lối sống
và cách nghĩ của mỗi người và của mọi tầng lớp trong xó hội. Mặt khỏc, cỏc thế lực thự
địch đang thực hiện chiến lược diễn biến hoà bỡnh với nhiều õm mưu nhằm chia rẽ khối đại
đoàn kết dõn tộc, hũng phỏ hoại sự nghiệp cỏch mạng của nhõn dõn. Đặc biệt, trong điều
kiện nước ta hiện nay, chỉ có Đảng Cộng sản tồn tại, đang gánh vác sứ mệnh lónh đạo công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận là một tổ chức chớnh trị xó hội tập hợp quần
chỳng rộng rói do Đảng lónh đạo sẽ là một đảm bảo quan trọng để phát huy dân chủ, tránh
khỏi bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, góp phần củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân.
Nhờ “thâu phục quảng đại quần chúng nhân dân”, MTTQ Việt Nam thực sự trở

thành ngôi nhà chung của toàn dân tộc, trong đó mọi người cùng nhau chung sống, đoàn
kết, đấu tranh vỡ mục tiờu chung của sự nghiệp cỏch mạng cao cả, xõy dựng đất nước ta
ngày một giàu mạnh.
Do đó, vấn đề rất quan trọng hiện nay là phải khẳng định đúng vị trí chính trị của
MTTQ trong việc phỏt huy vai trũ của Mặt trận cỏc cấp.
Trên các văn bản đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đều đánh giá rất cao
vị trớ, vai trũ của Mặt trận. Song trên thực tế, không ít cán bộ, đảng viên, và ngay bản thân
Mặt trận cũng cũn rất nghi ngờ về vai trũ, khả năng của Mặt trận. Họ cho rằng, thực tế Mặt
trận chỉ là cái loa của Đảng, chỉ là cánh tay nối dài của Đảng. Vị trớ, vai trũ của Mặt trận chỉ
trờn hỡnh thức. Cụ thể là chưa thấy hết ý nghĩa của việc phỏt huy vai trũ tham chớnh của
MTTQ, đặc biệt là vai trũ thực hiện chức năng phản biện, giám sát quyền lực Đảng, và
quyền lực nhà nước là một vấn đề quan trọng, tất yếu trong tiến trỡnh xõy dựng nền dõn chủ
XHCN ở nước ta hiện nay.


Vấn đề giành quyền lực, nắm quyền lực, mở rộng quyền lực là khát vọng không có
giới hạn của giai cấp cầm quyền, của mỗi tổ chức quyền lực và người cầm quyền. Ở đâu có
sự buông lỏng kiểm soát, giám sát quyền lực nhà nước thỡ ở đó, hoặc dẫn đến tập trung
quyền lực quá mức, độc tài, hoặc chính trị rối loạn, kỷ cương bị buông lỏng, hiệu lực nhà
nước suy yếu. Kiểm soát quyền lực nhà nước trong các xó hội dõn chủ là để chống lại sự
lạm quyền, chuyên quyền, lấn quyền, làm hạn chế những mưu toan nhằm biến quyền lực
của nhân dân, của xó hội thành thứ quyền lực riêng, để mưu lợi ích riêng cho cá nhân, cho
một tổ chức. Do đó, kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, phản biện, giám sát quyền lực
nhà nước nói riêng trở thành vấn đề mang tính phổ biến trong tổ chức và vận hành quyền
lực chính trị, càng đặc biệt quan trong đối với các nhà nước dân chủ, các nhà nước pháp
quyền.
Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vỡ dõn, hệ thống
chớnh trị được tổ chức và vận hành theo nguyên tắc nhất nguyên, độc đảng cầm quyền, thỡ bờn
cạnh những mặt tớch cực trong hệ thống chớnh trị hiện nay, vẫn cũn nhiều khiếm khuyết như
những căn bệnh duy ý chớ, vi phạm phỏp luật, lạm quyền, vi phạm các quyền công dân, vi phạm

dân chủ, tham nhũng, quan liêu…Những hạn chế, khiếm khuyết đó có nguyên nhân xuất phát từ
chính bên trong của hệ thống nhất nguyên, một đảng duy nhất cầm quyền.
Do đó, phản biện, giám sát đảng cầm quyền; phản biện, giám sát quyền lực nhà nước
trở thành một thành phần hữu cơ trong sử dụng quyền lực nhà nước, giúp cho việc quản lý,
điều chỉnh các hoạt động của nhà nước một cách khoa học, khắc phục các hành vi vượt quá
giới hạn pháp luật trong thực thi quyền lực của mỗi chủ thể trong hệ thống chính trị, mặc dù
bên cạnh hỡnh thức kiểm soỏt này cũn cú sự kiểm soỏt từ bờn trong nội bộ của Đảng và của
Đảng đối với Nhà nước, cũng như sự kiểm soát từ bên trong nhà nước bằng quyền lực nhà
nước. Việc tham chính, phản biện, giám sát của MTTQ đối với Đảng và Nhà nước từ dưới
lên, từ ngoài vào - Một đặc trưng riêng trong các xó hội dõn chủ núi chung và trong chế độ
ta nói riêng - có thể nói là một phương thức hữu hiệu để khắc phục những khiếm khuyết
trong tổ chức và vận hành của cả hệ thống chính trị, đặc biệt trong điều kiện duy nhất chỉ có
một Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền [42, tr.40-41].


Cần phải khẳng định vị thế chính trị chính đáng, mang tính hợp pháp trong chức
năng tham chính của Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị nước ta (đó được khẳng định
thông qua quan điểm, đường lối của Đảng và Luật MTTQ). Những chức năng, nhiệm vụ đó
khẳng định MTTQ là tổ chức mang bản chất nhân dân, tiếng nói của Mặt trận là tiếng nói
đồng thuận của nhân dân, mang trong mỡnh sức mạnh nhõn dõn, vỡ lợi ớch của nhõn dõn.
Thông qua MTTQ, nhõn dõn thực hiện cỏc quyền dõn chủ của mỡnh. Do đó Mặt trận Tổ
quốc trở thành cơ sở chính trị của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Việc nhận thức đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận là cần thiết, khách quan, có
tính chính đáng và tính hợp pháp, là cơ sở chính trị của Đảng và Nhà nước, để từ đó mới
xây dựng nên niềm tin, lý tưởng, hoài bóo, bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ Mặt trận
[46]; đảm bảo cho mỗi tổ chức, mỗi cán bộ Mặt trận thực hiện tốt, hiệu quả những trọng
trách của mỡnh trong từng lĩnh vực hoạt động của công tác Mặt trận.
Vỡ cú những nhận thức chưa đầy đủ về tính chất của Mặt trận là một tổ chức chớnh
trị - xó hội nờn thực tiễn cú nhiều biểu hiện: Lẫn lộn chức năng và phương thức hoạt động
dẫn đến nhiều biểu hiện MTTQ hoạt động mang tính hành chính hoá, công chức hoá.

MTTQ không phải là tổ chức chớnh trị cú vai trũ lónh đạo như Đảng cầm quyền. Mặt trận
cũng không phải là cơ quan quyền lực công, thực hiện các chức năng công quyền, chức
năng quản lý nhà nước mà Mặt trận chỉ là tổ chức chính trị - xó hội cú tớnh chất đại diện.
Với tính chất là tổ chức liên minh chính trị, MTTQ Việt Nam là sự liên minh kết hợp các
lực lượng của toàn dân thành một khối thống nhất để thực hiện mục tiêu chính trị chung của
nhân dân là giành giữ và sử dụng quyền lực nhà nước, quyền lực xó hội nhằm xõy dựng và bảo
vệ Tổ quốc, phỏt huy quyền làm chủ của nhân dân trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xó hội.
Đó là sự liờn minh cú ý nghĩa chiến lược đối với các tổ chức và cá nhân tiêu biểu trong xó hội.
1.3. ĐẢNG LÃNH ĐẠO MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM CÁC CẤP LÀ
MỘT TRONG NHỮNG NHÂN TỐ ĐẢM BẢO THÀNH CÔNG CỦA SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI
1.3.1. Sự cần thiết Đảng lónh đạo Mặt trận các cấp
- Đảng lónh đạo Mặt trận xuất phát từ chính vị trớ, vai trũ của Mặt trận (như đó
trỡnh bày ở phần trờn).


Đảng cầm quyền là đảng đó giành được quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực đó
cùng bộ máy nhà nước Mặt trận và các đoàn thể nhân dân do Đảng lập ra để làm cho mục
tiêu, đường lối, chính sách của đảng được thực hiện trên quy mô toàn xó hội.
Mặt trận và các đoàn thể nhõn dõn cú vai trũ rất lớn trờn cỏc mặt: tham gia bảo vệ và
phỏt triển xó hội; tự chăm lo lợi ích cho các thành viên, hội viên; vai trũ tự giỏo dục; vai trũ
điều tiết xó hội (thụng qua phản biện, giỏm sỏt xó hội) và vai trũ thoả thuận xó hội [37,
tr.68-71].
Tiếng nói Mặt trận là tiếng nói của nhân dân, là sự thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân,
sức mạnh nhân dân. Đảng muốn phỏt huy sức mạnh của nhõn dõn, của toàn xó hội thỡ đảng
phải biết dựa vào Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân. Cho nên cùng với vấn đề Đảng lónh
đạo xây dựng thể chế nhà nước; Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta đặc biệt quan tõm củng cố
sự lónh đạo của Đảng đối mới Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trên tất cả các phương
diện trong hoạt động của Mặt trận, sao cho Đảng thực sự là cơ quan lónh đạo ở tầm chiến

lược và Mặt trận là tổ chức liên hiệp tự nguyện, đại diện cho lợi ích chính đáng, hợp pháp
của các tầng lớp nhân dân.
- Đảng lónh đạo Mặt trận xuất phát từ yêu cầu xõy dựng nền dõn chủ xó hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xó hội dõn chủ và văn
minh.
Yêu cầu về phát triển dân chủ và xây dựng nền dân chủ Việt Nam hiện đại nhằm phát
huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân là yêu cầu khách quan của đất nước hiện nay.
MTTQ Việt Nam dưới sự lónh đạo của Đảng có nhiệm vụ phát huy một cỏch cao nhất vai
trũ làm chủ của cỏc tầng lớp nhõn dõn, động viên nhân dân vào công cuộc đổi mới, thực
hiện công nghiệp hóa, dânn đại hoá đất nước. Hơn nữa, công cuộc đổi mới hiện nay cần
phải có sự định hướng chính trị đúng đắn. Nếu thiếu một quan điểm chớnh trị trong quỏ
trỡnh phỏt triển kinh tế, rất cú thể đưa đất nước phát triển chệch hướng, tụt hậu, không đảm
bảo quyền lực chính trị của nhân dân. Đường lối, quan điểm chính trị đúng đắn sẽ góp phần
hỡnh thành một nền kinh tế với một hệ thống các quan hệ sản xuất đa dạng trong đó kinh tế
nhà nước đúng vai trũ chủ đạo gắn với một trỡnh độ sản xuất tiên tiến, hiện đại. Điều đó sẽ


góp phần to lớn vào sự tăng trưởng kinh tế, giải phóng sức sản xuất, lành mạnh hoá cỏc mối
quan hệ xó hội - chớnh trị. Và nếu ngược lại, thỡ tất yếu chớnh trị và quyền lực chớnh trị sẽ
biến thành lực cản đối với sự phát triển kinh tế - xó hội.
Trong thời kỳ hội nhập và phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, muốn khơi dậy được sức mạnh toàn dân, phải phát huy dân chủ trên các lĩnh vực,
trong đó có lĩnh vực chính trị. Dân là chủ và dân làm chủ là vấn đề có ý nghĩa quyết định.
Để xây dựng được một nền dân chủ hiện đại, thực sự của dân, do dân và vỡ dõn, Đảng lónh
đạo MTTQ và các đoàn thể nhân dân nhằm mục tiêu làm tốt công tác vận động các tầng lớp
nhân dân phát huy sức sáng tạo và mọi tiềm năng to lớn trong dân thực hiện đầy đủ mọi chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt chức năng đại diện bảo
vệ các quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của nhân dân, thực hành dân chủ, củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân tộc tạo sự đồng thuận trong xó hội. Muốn vậy sự lónh đạo của Đảng
đối với MTTQ cần phải được tiếp tục đổi mới theo hướng: "kết hợp thực hiện tập trung dân

chủ trong đảng với hiệp thương dân chủ trong hệ thống Mặt trận để làm phong phú thêm
nền dân chủ ở nước ta" [20, tr.57], Đảng phải luụn luụn tụn trọng, lắng nghe ý kiến của cỏc
cơ quan nhà nước, các đoàn thể chính trị - xó hội, lấy đó làm cơ sở để hoạch định và tổ chức
thực hiện các quyết định của mỡnh. Đường lối, chính sách được hoạch định trên cơ sở đó là
một biểu hiện quan trọng quyền lực nhân dân đối với sự phát triển xó hội. Hơn nữa, Đảng
biết: “dựa vào dân để sửa chính sách”, “sửa cán bộ” của mỡnh, tạo điều kiện để nhân dân
trực tiếp tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Trên ý nghĩa đó, Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân có vai trũ là những thiết chế cơ bản, thông qua đó nhân dân thực hiện quyền làm
chủ của mỡnh.
Tăng cường lónh đạo của Đảng đối với MTTQ là nhằm góp phần thực hiện mục tiêu
lớn của đất nước trong thời kỳ mới. Đó là “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”,
đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Phát huy vai trũ Mặt
trận là phỏt huy vai trũ năng động, sáng tạo của con người, vai trũ quần chỳng nhõn dõn động lực của sự phát triển, đổi mới đất nước. Những mặt tớch cực trong việc phỏt huy vai
trũ chủ động, tớch cực, sỏng tạo của Mặt trận, vai trũ quần chỳng nhõn dõn là một trong
những nguyên nhân chủ yếu đưa đến thành tựu đổi mới ở nước ta trong những năm qua..


Song cũng chớnh những khiếm khuyết, hạn chế trong phỏt huy vai trũ Mặt trận, vai trũ quần
chỳng nhõn dõn đó làm cản trở những thành tựu cú thể đạt được cao hơn trong công cuộc
đổi mới trong những năm qua.
MTTQ Việt Nam là bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống chính trị nước ta:
"MTTQ Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị nước Cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt
Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lónh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”
[29, tr.5]. Do đó,
Mặt trận Tổ quốc với tư cách là một bộ phận của hệ thống chính trị trong
những chủ thể tổ chức thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Sự tập
hợp của nhân dân thông qua các đoàn thể và cỏ nhõn rộng rói trong toàn xó hội
trong một thực thể tổ chức là MTTQViệt Nam để trở thành bộ phận của hệ thống
chính trị. MTTQ Việt Nam là nhân dân có tổ chức, đứng ra tổ chức thực hiện và
phát huy quyền làm chủ của mỡnh. Đó là điểm quan trọng nhất trong Luật MTTQ

Việt Nam đảm bảo tính dân chủ và cơ sở pháp lý cho việc triển khai và đổi mới các
hoạt động của MTTQ các cấp [34, tr.17].
Việc tự nhân dân đứng ra tổ chức thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mỡnh
thụng qua MTTQ với tư cách là một bộ phận của hệ thống chính trị thể hiện ở bản chất và
tính nhân dân của MTTQ, ở nhiệm vụ và chức năng của MTTQ trong hệ thống chính trị và
ở quan hệ của MTTQ với Nhà nước.
Như vậy, MTTQ với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, là một
trong những chủ thể chính trị - xó hội cú tổ chức nhằm thực hiện và phỏt huy quyền làm chủ
của nhân dân. MTTQ là tổ chức có tính nhân dân, mang bản chất nhân dân, do nhân dân
đứng ra tổ chức, nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Sức mạnh của Mặt trận là
sức mạnh của nhân dân, là tiếng nói của nhân dân. Đó là đặc điểm quan trọng nhất được
Luật MTTQ khẳng định, đảm bảo cho Mặt trận Tổ quốc có tính chính đáng trong vai trũ
phỏt huy dõn chủ, tập hợp sức mạnh đoàn kết toàn dân trong xây dựng Đảng và Nhà nước,
là cơ sở pháp lý cho việc triển khai và đổi mới các hoạt động của MTTQ các cấp. Đây chính
là cái cốt vật chất đầy sức hút để MTTQ cú thể chuyển hoỏ ý chớ của nhõn dõn và truyền
thống đại đoàn kết dân tộc thành sức mạnh tinh thần và sức mạnh vật chất để hiện thực lý


tưởng cao cả của nhân dân, quyền lực của nhân dân dưới sự lónh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Trong điều kiện chúng ta rất cần có các tổ chức và cơ chế phản biện chính trị tích
cực, nếu phát huy được vị thế, vai trũ của MTTQ trong tham gia xây dựng Đảng và Nhà
nước, thỡ đây là giải pháp hữu hiệu nhất để khắc phục những hạn chế trong cơ chế tổ chức
và vận hành của hệ thống chính trị nói chung, cũng như tiểm ẩn những khả năng dẫn đến sự
tha hoá quyền lực trong thể chế độc đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay [42, tr.111]. Và nếu
thực hiện tốt vai trũ, vị thế của mỡnh, MTTQ, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xó hội
sẽ tồn tại với tư cách là giá đỡ vững chắc về mặt chính trị, xó hội trong sự nghiệp đổi mới
kinh tế - chính trị - xó hội theo định hướng XHCN dưới sự lónh đạo của Đảng ở nước ta
hiện nay.
1.3.2. Nội dung, phương thức Đảng lónh đạo Mặt trận

a. Nội dung Đảng lónh đạo Mặt trận
Nội dung lónh đạo của Đảng đối với Mặt trận trước hết là định hướng chính trị, giúp
MTTQ xác định mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ, xây dựng các nguyên tắc tổ chức, định ra
các chương trỡnh hoạt động trong mỗi thời kỳ. Đồng thời Đảng phân công đảng viên, cấp
uỷ hoạt động trong công tác Mặt trận, quy định chế độ làm việc giữa cấp uỷ đảng với lónh
đạo Mặt trận, định kỳ nghe báo cáo và cho ý kiến về chương trỡnh hoạt động, về tiếp thu
những kiến nghị của các đoàn thể, giúp Mặt trận và các đoàn thể giải quyết những khó khăn
vướng mắc về tổ chức và các điều kiện hoạt động.
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của MTTQ và vị trí, vai trũ lónh đạo của Đảng với
Mặt trận, Đảng lónh đạo Mặt trận trên những nội dung chủ yếu sau đây:
Một là: Đảng lónh đạo Mặt trận các cấp tập hợp, động viên các thành viên tổ chức
tốt các phong trào thi đua phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hoá, tham gia giải quyết
tốt những vẫn đề xó hội trong phạm vi của mỡnh, thụng qua các phong trào thi đua, lồng
ghép trong thực hiện các dự án đầu tư phỏt triển bằng nhiều hỡnh thức đa dạng, phong phú,
thích hợp với yêu cầu thực tế khách quan.
Đảng lónh đạo Mặt trận các cấp tập trung vào thực hiện các nhiệm vụ: động viên các
đoàn viên của mỗi tổ chức chăm lo xây dựng đời sống, tham gia đổi mới cơ cấu kinh tế,


phát triển kinh tế, nâng cao đời sống văn hoá tại cộng đồng dân cư; đóng góp vào các hoạt
động xó hội uống nước nhớ nguồn, giúp đỡ những gia đỡnh cú cụng, gia đỡnh liệt sĩ,
thương bệnh binh, đồng bào các vùng khó khăn, thiờn tai, bóo lụt và nhõn dõn một số nước
trên thế giới gặp thiên tai hiểm nghèo qua hoạt động đối ngoại nhân dân; góp phần tích cực vào
giáo dục truyền thống cách mạng; tham gia phong trào giữ gỡn trật tự an toàn xó hội, xõy dựng
nền quốc phũng toàn dõn, gúp phần giữ vững ổn định xó hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công
cuộc xây dựng phát triển kinh tế - văn hoá.
Hai là: Đảng lónh đạo Mặt trận các cấp tham gia công việc xây dựng Đảng và Nhà
nước trong sạch, vững mạnh.
Đây là một nhiệm vụ thường xuyên và là hoạt động trọng tâm của Uỷ ban Mặt trận
các cấp nhằm góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực,

hiệu quả. Cụ thể, Đảng lónh đạo Mặt trận trên các nội dung:
- Đảng lónh đạo Uỷ ban Mặt trận và các tổ chức thành viên các cấp nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân về tỡnh hỡnh thực hiện cỏc chủ trương, chính sách,
pháp luật tại địa phương để phản ánh, kiến nghị với Đảng, chính quyền và những ngành có
liên quan.
- Đảng lónh đạo Mặt trận các cấp tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân
dân, nhất là tham gia các cuộc bầu cử các cơ quan dân cử ở các cấp, tạo điều kiện để cử tri
có cơ hội giới thiệu những người có tài, đức, đúng cơ cấu ra ứng cử và lựa chọn bầu làm đại
biểu Quốc hội, HĐND theo quy định của Luật pháp; tổ chức các cuộc tiếp xúc giữa đại biểu
dân cử với cử tri, góp phần quan trọng vào kết quả của cuộc bầu cử đại biểu HĐND các cấp
và đại biểu Quốc hội.
- Đảng lónh đạo Mặt trận các cấp tích cực tham gia xây dựng các chủ trương, chính
sách, pháp luật như: tham gia xây dựng báo cáo chính trị Đại hội Đảng các cấp; chủ trỡ dự
thảo các dự án luật, pháp lệnh liên quan đến Mặt trận và các thành viên của Mặt trận; tham
gia chỉnh sửa Luật dân sự, Luật lao động, Luật hỡnh sự, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội,
Luật bầu cử đại biểu HĐND, Luật quốc tịch, Luật khiếu nại tố cáo...tham gia xây dựng
nhiều pháp lệnh, văn bản pháp quy thuộc nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xó hội, an ninh,
quốc phũng...


×