Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Thiết kế Website và ứng dụng thiết kế chương trình quản lý văn bản pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.21 KB, 52 trang )

LỜI CẢM ƠN
Sau hai năm học tập ở khoa Công nghệ thông tin trường đại học Bách Khoa
Hà Nội em đã thu hoạch được những kiến thức nhất định. Đợt thực tập này em
được phân công vào nhóm thực tập do thầy Tô Văn Nam phụ trách. Em được thầy
giao cho đề tài nghiên cứu việc “Thiết kế Website và ứng dụng thiết kế chương
trình quản lý văn bản pháp luật”. Mở đầu cho bài thực tập tốt nghiệp này, em
xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa và đặc biệt là tới thầy giáo là
người trực tiếp hướng dẫn em thực hiện bài thực tập tốt nghiệp này và đã cho em
những chỉ dẫn quý giá. Thiếu sự giúp đỡ của thầy em không có được kết quả như
ngày hôm nay. Tuy nhiên do khả năng có hạn và thời gian chuẩn bị còn hạn chế,
nên đề tài không tránh khỏi những nhầm lẫn, thiếu sót về mọi mặt. Em mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cũng như của bạn bè để bài thực tập tốt
nghiệp này được hoàn thiện hơn. Được như vậy em xin chân thành cám ơn


PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ INTERNET
I. Công nghệ internet
1. Internet và xuất xứ của nó
Internet là một mạng máy tính nối hàng triệu máy tính với nhau trên phạm vi
toàn cầu. Internet có lịch sử rất ngắn, nó có nguồn gốc từ một dự án của Bộ Quốc
Phòng Mỹ có tên là ARPANET vào năm 1969, dự án nhằm thực nghiệm xây dựng
một mạng nối các trung tâm nghiên cứu khoa học và quân sự với nhau. Đến năm
1970 đã có thêm hai mạng: Store-and-forwarrd và ALOHAnet, đến năm 1972 hai
mạng này đã được kết nối với ARPANET. Cũng trong năm 1972 Ray Tomlinson
phát minh ra chương trình thư tín điện tử E-mail. Chương trình này đã nhanh chóng
được ứng dụng rộng rãi để gửi các thông điệp trên mạng phân tán.
Kết nối quốc tế đầu tiên vào ARPANET từ University College of London
(Anh) và Royal Radar Establishment (Na Uy) được thực hiện vào năm 1973. Thành
công vang dội của ARPANET đã làm nó nhanh chóng được phát triển, thu hút hầu


hết các trường đại học tại Mỹ. Do đó tới năm 1983 nó đã được tách thành hai mạng
riêng: MILNET tích hợp với mạng dữ liệu quốc phòng (Defense Data Network)
dành cho các địa điểm quân sự và ARPANET dành cho các địa điểm phi quân sự.
Sau một thời gian hoạt động, do một số lý do kỹ thuật và chính trị, kế hoạch
sử dụng mạng ARPANET không thu được kết quả như mong muốn.
Vì vậy Hội đồng khoa học quốc gia Mỹ (National Science Foundation) đã
quyết định xây dựng một mạng riêng NSFNET liên kết các trung tâm tính toán lớn
và các trường đại học vào năm 1986. Mạng này phát triển hết sức nhanh chóng,
không ngừng được nâng cấp và mở rộng liên kết tới hàng loạt các doanh nghiệp,
các cơ sở nghiên cứu và đào tạo của nhiều nước khác nhau.
Cũng từ đó thuật ngữ Internet ra đời. Dần dần kỹ thuật xây dựng mạng
ARPANET đã được thừa nhận bởi tổ chức NSF, kỹ thuật này được sử dụng để
dựng mạng lớn hơn với mục đích liên kết các trung tâm nghiên cứu lớn của nước
Mỹ. Người ta đã nối các siêu máy tính (Supercomputer)thuộc các vùng khác nhau
bằng đường điện thoại có tốc độ cao. Tiếp theo là sự mở rộng mạng này đến các
trường đại học.
2. Cách thức truyền thông trên Internet
Trong những năm 60 và 70, nhiều công nghệ mạng máy tính đã ra đời nhưng mỗi
kiểu lại dựa trên các phần cứng riêng biệt. Một trong những kiểu này được gọi là
mạng cục bộ (Local Area Networks - LAN), nối các máy tính với nhau trong phạm
vi hẹp bằng dây dẫn và một thiết bị được cài đặt trong mỗi máy. Các mạng lớn hơn
được gọi là mạng diện rộng (Wide Area Networks - WAN), nối nhiều máy tính với
nhau trong phạm vi rộng thông qua một hệ thống dây truyền dẫn kiểu như trong các
hệ thống điện thoại.
Mặc dù LAN và WAN đã cho phép chia sẻ thông tin trong các tổ chức một
cách dễ dàng hơn nhưng chúng vẫn bị hạn chế chỉ trong từng mạng riêng rẽ Mỗi
một công nghệ mạng có một cách thức truyền tin riêng dựa trên thiết kế phần cứng
của nó. Hầu hết các LAN và WAN là không tương thích với nhau.
Internet được thiết kế để liên kết các kiểu mạng khác nhau và cho phép thông
tin được lưu thông một cách tự do giữa những người sử dụng mà không cần biết họ

sử dụng loại máy nào và kiểu mạng gì. Để làm được điều đó cần phải có thêm các
máy tính đặc biệt được gọi là các bộ định tuyến (Router) nối các LAN và các WAN
với các kiểu khác nhau lại với nhau. Các máy tính được nối với nhau như vậy cần
phải có chung một giao thức (Protocol) tức là một tập hợp các luật dùng chung qui
định về cách thức truyền tin.
Với sự phát triển mạng như hiện nay thì có rất nhiều giao thức chuẩn ra đời
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển. Các chuẩn giao thức được sử dụng rộng rãi nhất
hiện nay như giao thức TCP/IP, giao thức SNA của IBM, OSIISDN, X.25 hoặc
giao thức LAN to LAN netBIOS. Giao thức được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay
trên mạng là TCP/IP. Giao thức này cho phép dữ liệu được gửi dưới dạng các “gói
“ (packet) thông tin nhỏ. Nó chứa hai thành phần, Internet Protocol (IP) và
Transmission Control Protocol (TCP).
Giao thức TCP/IP đảm bảo sự thông suốt việc trao đổi thông tin giữa các máy
tính. Internet hiện nay đang liên kết hàng ngàn máy tính thuộc các công ty, cơ quan
nhà nước, các trung tâm nghiên cứu khoa học, trường đại học, không phân biệt
khoảng cách địa lý trên toàn thế giới. Đó là ngân hàng dữ liệu khổng lồ của nhân
loại.
Một số mạng máy tính bao gồm một máy tính trung tâm (còn gọi là máy chủ)
và nhiều máy trạm khác nối với nó. Các mạng khác kể cả Internet có quy mô lớn
bao gồm nhiều máy chủ cho phép bất kỳ một mạng máy tính nào trong mạng đều
có thể kết nối với các máy khác để trao đổi thông tin.
Một máy tính khi được kết nối với Internet sẽ là một trong số hàng chục triệu
thành viên của mạng khổng lồ này. Vì vậy Internet là mạng máy tính lớn nhất thế
giới hay nó là mạng của các mạng.
3. Các dịch vụ trên Internet
Internet là công nghệ thông tin liên lạc mới, nó tác động sâu sắc vào xã hội,
vào cuộc sống ở mức độ khá bao quát. Nó giúp chúng ta vào một thế giới có tầm
nhìn rộng lớn và chúng ta có thể làm mọi thứ như: viết thư, đọc báo, xem bản tin,
giải trí, tra cứu và hiện nay các công ty có thể kinh doanh thông qua Internet. Dưới
đây chỉ là một số dịch vụ trên Internet:

Thư điện tử (E-mail): Dịch vụ E-mail có thể dùng để trao đổi thông tin giữa
các cá nhân với nhau, các cá nhân với tổ chức và giữa các tổ chức với nhau. Dịch
vụ này còn cho phép tự động gửi nội dung thông tin đến từng địa chỉ hoặc tự động
gửi đến tất cả các địa chỉ cần gửi theo danh sách địa chỉ cho trước (gọi là mailing
list). Nội dung thông tin gửi đi dùng trong thư điện tử không chỉ có văn bản (text)
mà còn có thể ghép thêm (attack) các văn bản đã được định dạng, graphic, sound,
video. Các dạng thông tin này có thể hoà trộn, kết hợp với nhau thành một tài liệu
phức tạp. Lợi ích chính dịch vụ thư điện tử là thông tin gửi đi nhanh và rẻ.
• WWW (World Wide Web): Đây là khái niệm mà người dùng Internet quan tâm
nhiều nhất hiện nay. Web là một công cụ, hay đúng hơn là một dịch vụ của
Internet, Web chứa thông tin bao gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh và thậm chí cả
video được kết hợp với nhau... Web cho phép chúng ta chui vào mọi ngõ ngách
trên Internet, là những điểm chứa CSDL gọi là Website. Nhờ có Web nên dù không
phải là chuyên gia, mọi người có thể sử dụng Internet một cách dễ dàng. Phần mềm
sử dụng để xem Web gọi là trình duyệt (Browser). Một trong những trình duyệt
thông thường hiện nay là Navigator của Netcape, tiếp đó là Internet Explorer của
Microsoft.
• Dịch vụ truyền file (FTP - File Transfer Protocol): là dịch vụ dùng để trao đổi
các tệp tin từ máy chủ xuông các máy cá nhân và ngược lại.
• Gropher: Dịch vụ này hoạt động như viện Menu đủ loại. Thông tin hệ thống
Menu phân cấp giúp người sử dụng từng bước xác định được những thông tin cần
thiết để đi tới vị trí cần đến. Dịch vụ này có thể sử dụng để tìm kiếm thông tin trên
các FTPSite.
CHƯƠNG 2
LẬP TRÌNH TRÊN WWW - NGÔN NGỮ HTML
(HyperText Makeup Language)
1. Giới thiệu ngôn ngữ HTML
HTML là ngôn ngữ chuẩn để tạo lập các tài liệu cho WWW. HTML được sử
dụng trong các chương trình duyệt Web, Ví dụ như MS Internet Explorer, Nescape
Navigator. Một tài liệu HTML là một tệp văn bản chứa các phần tử mà các chương

trình duyệt sẽ sử dụng để hiện các văn bản, các đối tượng Multimedia, và các siêu
liên kết. Người sử dụng có thể dùng chuột để chọn các văn bản được format như
một siêu liên kết trong các tài liệu này. Sau khi liên kết này được chọn, tài liệu mà
nó trỏ tới sẽ được nạp vào máy và hiện lên màn hình.
Một phần tử là một đơn vị cơ sở của HTML. Nó bao gồm một thẻ khởi đầu
(start-tag), một thẻ kết thúc (end-tag), và các ký tự dữ liệu được đặt trong các thẻ
này. Một thẻ bắt đầu bằng một dấu nhỏ hơn (<) và kết thúc bằng một dấu lớn hơn
(>). Thẻ kết thúc phải có thêm một dấu sổ chéo (/) ngay trước tên thẻ. Có một số
thẻ phẩi luôn luôn kết thúc bằng một thẻ phù hợp, còn một số khác lại cho phép bỏ
qua thẻ kết thúc nếu kết quả là rõ ràng và không có sự mập mờ nào cả.
HTML không mô tả trang tài liệu theo như một số ngôn ngữ máy tính khác.
Có những ngôn ngữ mô tả từng phần tử đồ hoạ và vị trí của nó trên trang tài liệu,
bao gồm font chữ, kích cỡ... Ngược lại HTML lại không đưa ra bất cứ mô tả nào về
font, hình ảnh đồ hoạ và chỗ để đặt chúng. HTML chỉ “gán thẻ” cho nội dung tập
tin với những thuộc tính nào đó mà sau đó chúng được xác định bởi chương trình
duyệt để xem tập tin này. Điều này giống như người đánh dấu bằng tay một số
đoạn trên văn bản tài liệu để chỉ cho người thư kí biết những việc cần thiết như:
"chỗ này in đậm", "chỗ này in nghiêng"...
Ví dụ: các thẻ về kích thước chữ
<h1> </h1>
<h2> </h2>
các thẻ về kiểu chữ
<b> </b>
<p> </p>.
HTML gán thẻ cho kiểu chữ, chèn file ảnh đồ hoạ, âm thanh, video vào văn
bản tạo ra mối liên kết và hình thức gọi là siêu văn bản (Hypertext). Siêu văn bản là
đặc tính quan trọng nhất của HTML. Điều này có nghiã là một văn bản hay đồ hoạ
bất kỳ chỗ nào cũng có thể liên kết với một tài liệu khác.
2. Đặc điểm ngôn ngữ HTML
HTML được thiết kế ra để dùng cho Web : trong phần lớn các chương trình xử

lý văn bản khá rắc rối trong một số tiểu tiết -ví dụ như chọn font - HTML, được
thiết kế để dùng trên mọi kiểu máy tính. Nó được thiết kế vừa để dễ vận chuyển
trên internet, vừa thích hợp với các loại máy tính.
HTML là một chuẩn mở:ngoài các thẻ trong bộ chuẩn, HTML có thể được
mở rộng bằng nhiều cách như : Mở rộng thêm các thẻ HTML, sử dụng Javascript,
VBScript và các ngôn ngữ lập trình khác. . .
HTML dễ đọc, dễ hiểu, có chứa các liên kết và hỗ trợ Multimedia.
HTML là ngôn ngữ thông dịch : đây được coi là nhược điểm của ngôn ngữ bởi
vì nó sẽ làm giảm tốc độ thực hiện các ứng dụng khác trên Web đồng thời nó khó
đảm bảo tính an toàn, bảo mật.
3. Phương pháp thiết kế một trang Web
Khi nói đến xây dựng một trang Web cũng đồng nghĩa với việc xây dựng một
trang chủ. Theo quan niệm chung, trang chủ là một trang Web chứa liên kết đến
một hay nhiều trang khác và thường là trang cung cấp thông tin tổng quát nhất cho
người xem. Vì vậy việc thiết kế trang Web không chỉ là thiết kế một trang HTML
đơn lẻ, mà còn là thiết kế các mối liên kết tới các tài liệu trong HTML khác ( chưa
kể đến việc phải xây dựng nhiều trang Web liên kết với nhau)
Để xây dựng trang Web với các kết nối trước tiên chúng ta nên xác định xem
thiết kế nội dung gì, cho ai xem và môi trường thể hiện Web. Thông thường có các
bước sau:
o • Xác định chủ đề
o • Xác định nội dung
o • Thiết kế sơ đồ hoạt động
o • Thiết kế sơ đồ giao diện với người xem của trang chủ.
o • Thiết kế và xây dựng chi tiết
o Chi tiết các bước:
 Xác định chủ đề: Xác định chủ đề trang Web là bước đầu tiên giúp cho việc
định hướng cho các thao tác thiết kế và xây dựng sau này không đi chệch mục tiêu.
Chủ đề của trang Web tuy quan trọng song cũng dễ xác định bởi vì nó hoàn toàn
dựa vào mục đích thiết kế trang Web đó.

 Xác định nội dung: Xác định nội dung trang Web là bước quan trọng nhất. Nó
cho phép ta hình dung được công việc sẽ phải làm tiếp theo và xây dựng quy mô
trang chủ, qua đó quy định khuôn khổ công tác thiết kế giao diện và xây dựng trang
HTML. Khi xác định nội dung cần nhận rõ những điểm chính yếu phải giới thiệu
trên trang Web. Những thông tin sẽ giới thiệu phải phân loại theo hai tiêu chí: tính
kế thừa và mức độ quan trọng. Việc xây dựng nội dung cũng phải được định trước
phong cách khác nhau: trang nghiêm hay hài hước cứng rắn hay mềm mại.
 Thiết kế sơ đồ hoạt động: Sơ đồ hoạt động là mô hình sắp xếp các nội dung
(được xác định ở bước trên) trong bước này ta sẽ sắp xếp các thông tin cần giới
thiệu theo thứ tự ưu tiên như đã xác định. Công việc sắp xếp bao gồm thứ tự Trên -
Dưới, Trước - Sau, thông tin nào cần được nêu rõ trong một trang Web thành một
phần riêng, thông tin nào có thể mô tả ngay trên trang chủ.
 + Thiết kế giao diện với người xem: Sơ đồ giao diện với người xemlà sơ đồ khái
quát của những gì mà người đến thăm trang chủ của chúng ta sẽ thấy. Giao diện với
người xem được thiết kế theo sơ đồ này. Yêu cầu của giao diện là nêu bật được chủ
đề chính, bố trí các liên kết sao cho hợp lý, phân bố mạng thông tin, đồ hoạ sao cho
cân đối.
 Thiết kế và xây dựng chi tiết : công tác thiết kế và xây dựng chi tiết là phần việc
đồ sộ nhất khi xây dựng trang Web. Nó cũng là phần việc đưa ra kết quả cuối cùng,
vì vậy có thể nói đây là công tác quan trọng nhất. Trong công tác thiết kế xây dựng
chi tiết, việc lựa chọn các hình ảnh(để minh hoạ, để làm liên kết)là quan trọng. Đây
chính là cái sẽ gây ấn tượng mạnh nhất đến người xem. Vì vậy thiết kế và lựa chọn
hình ảnh cực kỳ quan trọng
4. Lập trình trang Web động
Khi duyệt các trang Web trên máy, chúng ta thấy rằng các trang Web làm việc
một cách thực sự sinh động, có thể trao đổi thông tin, dịch vụ mua hàng... với các
form nhập dữ liệu và nhận dữ liệu trở về sau khi bấm nút Submit, chúng ta có thể
bấm vào từng phần trong một bức tranh với các liên kết khác nhau, các con số hiển
thị các lần truy cập vào từng trang Web và đặc biệt hơn còn có dịch vụ để truy cập
dữ liệu, tìm kiếm thông tin theo một tiêu chuẩn nào đó. . . Để làm được điều đó

người ta xây dựng các CSDL trên Web Server để lấy thông tin đưa tới từ trình
duyệt, sau đó xử lý và trả lại kết quả cho trình duyệt. Tuy nhiên do bản thân Web
Server lại không có khả năng làm việc với CSDL vì vậy phải có một chương trình
thực thi được khả năng xử lý thông tin và làm việc được với Web Server. Chương
trình này đóng vai trò như một cổng giao tiếp giữa Web Server và trình duyệt
Đặc điểm nổi bật của chương trình này là tính đơn giản, bất cứ một người sử
dụng nào cũng có thể tạo ra một chương trình giao tiếp đơn giản mà không cần phải
có nhiều kinh nghiệm trong lập trình và khả năng thiết kế. Một chương trình giao
tiếp được gọi là kịch bản, chỉ khi nào cần một trang Web động thực sự với các tính
năng hoàn hảo thì chúng ta mới phải nắm vững các kỹ thuật lập trình này.
Ngày nay các chương trình giao tiếp đóng một vai trò rất lớn trong Web
Server, các chương trình giao tiếp chạy chung trên một Web Server có thể giao tiếp
được với nhau để tăng khả năng hoạt động của chúng. Với mô hình này, Web
Server có thể gọi một chương trình giao tiếp trong khi dữ liệu của người sử dụng
cũng được đưa trực tiếp cho chương trình, sau khi xử lý xong Web Server sẽ gửi
kết quả xử lý của chương trình cho trình duyệt. Chương trình giao tiếp thật đơn
giản ở chỗ chỉ có một vài kiểu vào ra đơn giản và một số luật cụ thể cộng với các
kỹ thuật đặc trưng của mô hình.
Khi trình duyệt yêu cầu một trang Web sử dụng chương trình giao tiếp trên
Web Server, Web Server truyền thông tin vừa nhận được từ gói tin HTTP yêu cầu
của trình duyệt cho chương trình giao tiếp xử lý. Chương trình giao tiếp sau khi xử
lý thông tin được yêu cầu nó sẽ trả lại kết quả cho Web Server, Server sẽ định
khuôn dạng gói tin theo chuẩn HTTP và truyền trực tiếp cho trình duyệt Web mà
không phải thông qua Web Server, cách này làm tốc độ tải trang Web sẽ nhanh
hơn.
Trước khi gửi dữ liệu cho Web Server, có thể trình duyệt cũng tiền xử lý dữ
liệu trước khi gửi dữ liệu nhằm giảm bớt gánh nặng cho Server. Những ngôn ngữ
có khả năng chạy trên trình duyệt gọi là front - end (VBScript, JavaScript...)
5. Xây dựng chương trình giao tiếp
Một chương trình giao tiếp thường có các bước thi hành sau:

• Khởi tạo: Truy cập để lấy các thông tin của hệ thống, lấy trong biến môi trường
của UNIX hoặc các hệ thống của Window (file *. ini, *. reg). Sau đó nó sẽ nhận
thông tin do Web Server gửi đến.
• Xử lý: quá trình này xử lý thông tin nhận được trên một CSDL
• Trả kết quả: Sau khi xử lý xong, chương trình gửi lại kết quả cho Web Server.
Chương trình kết thúc sau khi trả hết kết quả cho Server.
Có rất nhiều ngôn ngữ được sử dụng để xây dựng chương trình giao tiếp trên
các hệ điều hành hiện nay như UNIX, Maintosh, WindowNT, Window 9x... Tuy
nhiên chọn một ngôn ngữ để xây dựng chương trình giao tiếp ta nên căn cứ vào các
tiêu chuẩn sau:
• Có nhiều câu lệnh thao tác với xâu văn bản
• Khả năng làm việc với các thư viện và các phần mềm ứng dụng khác
• Khả năng truy cập được vào các biến môi trường của chương trình
Các biến môi trường của chương trình giao tiếp (Enviroment variables) các
biến môi trường của chương trình giao tiếp bao gồm các biến chứa thông tin về
máy chủ, máy khách, người sử dụng và một số thông tin phụ. . Dưới đây là liệt kê
một số biến chính sau:
Content - Length: Số byte dữ liệu do gửi đến cho CGI trong STDIN
Content - Type : Kiểu dữ liệu
Logon - User : Tên user login vào mạng
Query - String : Xâu câu hỏi
Gateway - Interface: Cung cấp phiên bản của giao diện
CGI trên Web Server, dạng thức : CGI/ <phiên bản > ví dụ CGI/1. 1
Remote - Addr: Địa chỉ IP của máy Client có yêu cầu
Remote - Host : tên máy yêu cầu
Request - Method : Phương thức yêu cầu POST/GET
URL : Uniform Resource Locator
Truy cập Form nhập dữ liệu : trình duyệt cho phép nhập dữ liệu và chọn các
kiểu thông tin trên Form, khi nhập xong dữ liệu người sử dụng bấm Submit để gửi
thông tin cho Web Server, Web Server có nhiệm vụ truyền các thông tin này cho

chương trình giao tiếp tương ứng.
6. Các phương pháp xây dựng chương trình giao tiếp
Có rất nhiều phương pháp nhằm mở rộng Web Server tuy nhiên mô hình hoạt
động của chúng đều hoàn toàn tuân theo mô hình vừa trình bày.
CGI (Common Gateway Interface) theo phương pháp CGI thì chương trình
ứng dụng CGI này như là một chương trình thực hiện được. Mỗi khi có yêu cầu
thực hiện CGI từ khách hàng thì máy chủ đều tạo ra một tiến trình (process) cho
chương trình đó và Web Server sẽ truyền thông tin của trình duyệt cho chương
trình thông qua các biến môi trường. Như vậy số lượng tiến trình làm việc song
song trên máy chủ chính bằng số yêu cầu của khách hàng. Như vậy chương trình
CGI sẽ chiếm rất nhiều tài nguyên của hệ thống làm cho chương trình chạy chậm
và giảm hiệu quả đồng thời khả năng tương thích với người sử dụng cũng bị hạn
chế do việc hỗ trợ ngôn ngữ.
ISAPI (Internet Server Application Programming Interface): Với các chương
trình viết theo phương pháp ISAPI thực chất là một thư viện liên kết động được xây
dựng sẵn trong hệ điều hành Window. Phương pháp này khắc phục được mặt hạn
chế của CGI ở chỗ khi có một yêu cầu mới thì máy chủ không taọ ra một tiến trình
mới mà đọc thư viện tại cùng một không gian địa chỉ với Web Server xử lý các yêu
cầu khác. Tức là thư viện này được dùng chung cho mọi tiến trình, mỗi khi được
gọi vào bộ nhớ thư viện có khả năng phục vụ cho nhiều tiến trình cùng một lúc.
Như vậy chương trình sẽ chiếm ít tài nguyên hệ thống làm tăng hiệu lực phục vụ
nhiều tiến trình đồng thời. Tuy nhiên yếu điểm của phương pháp này là phải xây
dựng một thư viện liên kết động, điều này không phải là dễ. Và phương pháp này
chỉ áp dụng trên hệ điều hành Window.
ASP (Active Server Pages): là một môi trường giúp ta sử dụng các ngôn ngữ
đặc tả để tạo ra các chương trình giao tiếp cho tính năng động, tương tác và có tính
hiệu quả cao cho Web Server. Các ngôn ngữ có thể sử dụng được là VBScript hoặc
JavaScript. Ưu điểm nổi bật của ASP là nó hỗ trợ ngay các ngôn ngữ đặc tả được
ứng dụng trong các trang HTML. Tức là trong một file bao gồm cả các thẻ chuẩn
HTML đồng thời chứa các câu lệnh của ASP. Khi có một khách hàng yêu cầu một

file có chứa chương trình ASP, ASP sẽ đọc nội dung file nếu gặp các thẻ chuẩn của
HTML nó sẽ không xử lý nhưng nếu gặp nó các dòng lệnh của ngôn ngữ đặc tả thì
nó sẽ xử lý. Sau quá trình xử lý nó sẽ trộn các kết quả vừa xử lý và các dòng lệnh
HTML chuẩn để gửi về cho chương trình duyệt như một file HTML bình thường
mà bất kỳ một trình duyệt nào cũng hiểu được. Tuy rằng các câu lệnh ASP giống
như một ngôn ngữ lập trình nhưng tính cấu trúc của nó lại không cao. Một ưu điểm
nổi bật của ASP là nó đã tích hợp sẵn các phương thức truy cập CSDL và ngôn ngữ
SQL trong chương trình. Như vậy đối với người lập trình chỉ cần am hiểu các ngôn
ngữ đặc tả thông thường và các khái niệm làm việc với CSDL đều có thể tạo ra
được các ứng dụng tốt. Một đặc điểm khác của ASP có thể tích hợp các ngôn ngữ
mạnh khác như Java, và cả chương trình CGI trong đó.
CHƯƠNG 3
CƠ SỞ DỮ LIỆU VÀ CÁCH TRUY XUẤT CƠ SỞ DỮ LIỆU
1. Khái niệm
Cơ sở dữ liệu là một lĩnh vực rất quan trọng của công nghệ thông tin mà nếu
thiếu nó nhiều vấn đề đặt ra sẽ khó giải quyết được. Cơ sở dữ liệu được định nghĩa
là kho thông tin về một chủ đề, được tổ chức hợp lý để dễ dàng quản lý và truy tìm.
Bất kỳ kho thông tin nào đáp ứng được yêu cầu này đều có thể coi là một cơ sở dữ
liệu.
2. Quản trị cơ sở dữ liệu là gì ?
Chương trình quản trị cơ sở dữ liệu là một chương trình ứng dụng trên máy
tính các công cụ để truy tìm, sửa chữa, xoá và chèn thêm dữ liệu. Các chương trình
này cũng có thể dùng để tạo lập một cơ sở dữ liệu và tạo ra các báo cáo, thống kê.
Các chương trình quản trị cơ sở dữ liệu liên quan khá thông dụng hiện nay tại Việt
Nam là Foxpro, Access cho ứng dụng nhỏ, MSSQL và Oracle cho ứng dụng vừa
và lớn.
Quản trị cơ sở dữ liệu quan hệ là một cách quản lý cơ sở dữ liệu trong đó dữ
liệu được lưu trữ trong các bảng dữ liệu hai chiều gồm các cột và các hàng, có thể
liên quan với nhau nếu các bảng đó có một cột hoặc một trường chung nhau.
Hệ quản trị cơ sở dữ liệu là một quá trình xử lý xoay quanh các vấn đề sau

đây:
+ Lưu trữ dữ liệu
+ Truy nhập dữ liệu
+ Bảo đảm tính toàn vẹn của dữ liệu
Ba vấn đề chính ở trên có mối quan hệ mật thiết, phụ thuộc lẫn nhau và chúng
được liệt kê theo thứ tự thực hiện mỗi ứng dụng.
Mô hình cơ sở dữ liệu quan hệ (Relationship Database Management System -
RDMS) được xây dựng làm đơn giản hoá quá trình lưu và đọc dữ liệu RDMS cung
cấp khả năng giao tiếp tốt với dữ liệu và giúp người lập trình tự do trong lĩnh vực
quản lý truy cập cơ sở dữ liệu Sau đây là các bước xây dựng một cơ sở dữ liệu theo
mô hình cơ sở dữ liệu quan hệ:
+ Tổ chức dữ liệu theo table
+ Xác định các mối quan hệ giữa các table
+ Tạo tập tin cơ sở dữ liệu và định nghĩa cấu trúc của các table trong cơ sở
dữ liệu.
+ Lưu dữ liệu
Hai bước đầu là hai bước thiết kế cơ sở dữ liệu và đây là hai bước cực kỳ quan
trọng. Nếu được thiết kế tốt, các khía cạnh khác sẽ được giải quyết dễ dàng hơn;
ngược lại việc khai thác cơ sở dữ liệu sẽ không hiệu quả và chương trình sẽ có
những lỗi rất khó phát hiện.
Các bước chính khi tiến hành thiết kế một cơ sở dữ liệu:
• Xác định dữ liệu cần trong ứng dụng
• Xác định nguồn gốc dữ liệu
• Tổ chức dữ liệu thành các table
• Tiêu chuẩn hoá dữ liệu và các mối quan hệ giữa chúng
• Xác định cách sử dụng các bảng
3. Chuẩn ODBC (Open Database Connectivity)
Trong mỗi hệ thống thông tin cách lưu trữ dữ liệu rất riêng biệt, thay đổi từ
các file đơn giản đến cơ sở dữ liệu có quan hệ và cấu trúcYêu cầu đặt ra là phải tích
hợp các hệ thống lưu trữ đó trong một môi trường mới.

Microsoft đã giải quyết vấn đề đó bằng chuẩn ODBC (Open Database
Connectivity). Phát triển ODBC, Microsoft muốn cung cấp một giao diện lập trình
của các ứng dụng (Application Programming Interface - API) duy nhất có thể sử
dụng để truy nhập dữ liệu trên nhiều hệ quản lý cơ sở dữ liệu khác nhauODBC có
hai ưu điểm tận dụng được là:
• ODBC cung cấp một giao diện duy nhất để truy cập đến nhiều cơ sở dữ liệu
khác nhau, nhờ đó giảm bớt thời gian nghiên cứu cơ sở dữ liệu mới cho ác nhà lập
trình và phát triển
• ODBC cho phép phát triển ứng dụng Client độc lập với Server
4. Cấu trúc của ODBC
Cấu trúc của ODBC gồm có bốn thành phần chính sau:
• Application (ứng dụng): là giao diện người sử dụnglàm việc với cơ sở dữ liệu.
Chúng sử dụng API với ODBC để xây dựng mối liên kết đến cơ sở dữ liệu và ứng
dụng các câu lệnh SQL để điều khiển dữ liệu.
• Driver Manager(trình quản lý điều khiển): là trung gian giữa ứng dụng và trình
điều khiển xác định được cần đến để truy cập từng loại cơ sở dữ liệu. Chúng ta hiểu
rằng ứng dụng không đòi hỏi một mối liên kết đến trình điều khiển, thay vì đó nó
đòi hỏi truy cập đến một thứ hợp lý hơn được gọi là
Application
Driver
Driver
Data source
Data Source. Trình điều khiển kết nối nó với một trình điều khiển vật lý và cơ
sở dữ liệu.
• Driver(trình điều khiển): Trình điều khiển thực sự bổ sung ODBC API cho một
hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu đặc biệt. Nó xây dựng mối liên hệ đến Server, chịu
sự điều khiển của các query SQL và trả về tập kết quả hay thông báo lỗi cho ứng
dụng.
• Data Source( Nguồn dữ liệu ): Nguồn dữ liệu là thành ngữ được Microsoft sử
dụng để mô tả sự liên kết của hệ quản trị cơ sở dữ liệu. Hệ điều hành từ xa và mạng

được yêu cầu để truy nhập cơ sở dữ liệu riêng nào đó.
5. Cấp độ tương thích
Chuẩn ODBC không cung cấp một chuẩn duy nhất cho các trình điều khiển,
nó phân các trình điều khiển tương thích thành hai loại:
+ Loại hỗ trợ cho ODBC API
+ Loại hỗ trợ cho SQL
6. Cấu hình ODBC
ODBC được bổ sung như là một chuỗi các file có thể thi hành được các thư
viện liên kết động (Dynamic Link Libary) và các file cấu hình INI như sau:
• ODBC Administrator( ODBC ADM. EXE): đây là chương trình thuộc nhóm
Control Panel cho phép chúng ta cài đặt các trình điều khiển ODBC mới và định
nghĩa Data Source mới. Chi tiết về các tự động hoá đã được cài đặt nằm trong
ODBCINST. INI, còn chi tiết về Data Source nằm ở ODBC. INI
• Driver Manager(ODBC. DLL): trình quản lý điều khiển chịu trách nhiệm kết
nối Data Source đến các trình điều khiển ODBC khác nhau và các khởi động kích
hoạt khác.
• Driver : Các trình điều khiển tự chúng bao gồm một hay nhiều thư viện liên kết
động cũng như hỗ trợ các file INI, tuỳ thuộc vào các trình bổ sung cho các nhà
cung cấp.
Trước khi truy cập một cơ sở dữ liệu thông qua ODBC chúng ta phải định
nghĩa Data Source để cho ODBC biết làm sao để xây dựng mối liên kết cho chúng
khi yêu cầu. Có thể sử dụng một trong hai cách sau:
- Tên Data Source
- Tên cơ sở dữ liệu.
- Mô tả về cơ sở dữ liệu có thể có hoặc không
Khi truy xuất cơ sở dữ liệu bằng ASP chúng ta sẽ sử dụng phương pháp thứ
nhất tức là sử dụng ODBC Administrator để định nghĩa một Data Source
CHƯƠNG 4
ASP VÀ VIỆC XÂY DỰNG CÁC ỨNG DỤNG TRÊN WEB
1. Khái niệm ASP (Active Server Page)

ASP là môi trường kịch bản trên máy chủ (Server - Side Scripting Enviroment
ASP ( active server page )
Giới thiệu về ASP: Microsoft Active Server Page là một ứng dụng giúp ta áp
dụng các ngôn ngữ Script để tạo những ưngs dụng động, có tính bảo mật cao và
làm tăng khả năng giao tiếp của chương trình ứng dụng. Các đoạn chương trình nhỏ
được gọi là Script sẽ được nhúng vào các trang của ASP phục vụ cho việc đóng mở
và thao tác với dữ liệu cũng như điều khiển các trang Web tương tác với người
dùng như thế nào. Một khái niệm sau đây liên quan đến ASP
Script: là một dãy các lệnh đặc tả (Script). Một Sript có thể :
• Gán một giá trị cho một biến. Một biến là một tên xác định để lưư giữ dữ liệu,
như một giá trị.
• Chỉ thị cho Web Server gửi trả lại cho trình duyệt một giá trị nào đó, như giá trị
cho một biến. Một chỉ thị trả cho trình duyệt một giá trị là một biểu thức đầu
ra( output expression).
• Tổ hợp của các lệnh được đặt trong các thủ tục. Một số thủ tục là tên gọi tuần tự
của các lệnh và khai báo cho phép hoạt động như một ngôn ngữ( unit)
Ngôn ngữ Script (Script language): là ngôn ngữ trung gian giữa HTML và
ngôn ngữ lập trình JAva, C++, Visual Basic. HTML nói chung được sử dụng để tạo
và kết nối các trang text. Còn ngôn ngữ lập trình được sử dụng để đưa ra dẫy các
lệnh phức tạp cho máy tính. Ngôn ngữ Scripting nằm giữa chúng mặc dù chức năng
của nó giống ngôn ngữ lập trình hơn là các trang HTML đơn giản. Sự khác nhau cơ
bản giữa ngôn ngữ Scripting và ngôn ngữ lập trình là các nguyên tắc của nó ít cứng
nhắc và ít rắc rối khó hiểu hơn. Do vậy, các đoạn chương trình script gọn nhẹ có
thể lồng ngay vào các trang Web.
Công cụ đặc tả (Scripting engine): Để chạy được các loại chương trình Script
thì phải có máy Script engine. Máy này có nhiệm vụ đọc mã nguồn của chương
trình và thực hiện các câu lệnh đó. Mỗi ngôn ngữ Script có một loại máy Script
riêng. VD: VBScript engine cho loại chương trình VBScript, JavScript engine cho
JavaScript.
Có hai ngôn ngữ Script mà ASP hỗ trợ chính là Visual Basic Script và Java

Script. Ngôn ngữ được ASP hỗ trợ mặc định là VBScript nên khi muốn dùng ngôn
ngữ Script mặc định là Java Script chẳng hạn thì phải có dòng khai báo sau:
<%@ Language = Javarscipt %>
ASP cung cấp một môi trường chình cho các công cụ đặc tả và phân tích các
script trong một file.ASP để các công cụ này xử lý. ASP còn cho phép viết hoàn
chỉnh các thủ tục để phát triển Web bằng nhiều ngôn ngữ Script mà trình duyệt có
thể hiểu được tất cả. Trên thực tế, vài ngôn ngữ Script được sử dụng trong một file
và nó được thực hiện bằng cách định nghĩa ngôn ngữ Script trong một trang của
HTML tại nơi bắt đầu thủ tục Script.
ASP xây dựng các file ở khắp nơi với phần đuôi mở rộng là .asp. File .asp là
một file text và có thể bao gồm các sự kết hợp sau:
• Text
• Các trang của HTML
• Các câu lệnh của Script
2. Mô tả của asp
Cách hoạt động của mô hình ASP được mô tả tóm tắt qua 3 bước sau:
• Một ASP bắt đầu chạy khi trình duyệt yêu cầu một file .asp cho Web
Server.
• File .asp đó được nạp vào bộ nhớ và thực hiện ( tại máy chủ). Các đoạn chương
trình Script trong file .asp đó có thể là mở dữ liệu, thao tác với dữ liệu để lấy những
thông tin mà người dùng cần đến. Trong giai đoạn này, file .asp đó cũng xác định
xem là đoạn script nào chạy trên máy người sử dụng.
• Sau khi thực hiện xong thì kết quả thực hiện của file .asp đó sẽ được trả về cho
Web Server Browser của người sủ dụng dưới dạng trang Web tĩnh.
Cú pháp của ASP: ASP không phải là ngôn ngữ Scripting mà thực ra nó cung
cấp một môi trường để xử lý các Script có trong trang HTML. Sau đây là một số
quy tắc và cú pháp của ASP.
Phân định ranh giới(Delimiter): Các trang của HTML được phân định với
text dựa vào các phân định ranh giới. Một phân định ranh giới là một ký tự hay các
thứ tự đánh dấu điểm bắt đầu và kết thúc của một đơn vị. Trong trường hợp của

HTML, các ký hiệu ranh giới(<) và(>). Tương tự, các lệnh của Script ASP và các
biểu thức đầu ra được phân biệt giữa text và các trang HTML bằng các phân định
ranh giới ASP sử dụng phân định ranh giới là< %...%> để chứa các lệnh ScriptVD:
<% Sport=”Football”%> tức là gán giá trị football cho biến sport. ASP sử dụng
phân định ranh giới là <%=...%> để chứa các biểu thức đầu ra. Như VD trên, biểu
thức đầu ra <%=Sport%> sẽ gửi giá trị football ( giá trị hiện thời của biến) cho
trình duyệt.
3. Câu lệnh của ASP
Trong VbScript và các ngôn ngữ Scripting, một câu lệnh là đơn vị cú pháp
hoàn chỉnh mô tả một loại của hành động, khai báo, hay định nghĩa.
Sau đây mô tả lệnh IF...Then...Else của VbScript.
<%
If Time>=#10:00:00 AM# And Time<# 12:00:00 PM then
Greeting=”Chào buổi sáng”
Else
Greeting=”Chào bạn”
End if
%>
<Font Face=”. VnTime” color=”Green”>
<%=Greeting %>
</Font>
Với đoạn Script trên, khi người sử dụng nó sẽ xem trước 10 giờ sáng thì trên
trình duyệt xuất hiện dòng: Chào buổi sáng, còn nếu sau 10 giờ thì sẽ thấy Chào
bạn...Các thủ tục trong file ASP: Một đặc tính hấp dẫn của ASP là khả năng kết
hợp chặt chẽ của các thủ tục ngôn ngữ Script trong cùng một file .asp đơn lẻ. Nhờ
vậy, ta có thể sử dụng các điểm cực mạnh của ngôn ngữ Scripting để thực hiện một
cách tốt nhất. Một thủ tục là một nhóm lệnh Script để thi hành một công việc cụ
thể. Ta có thể định nghĩa một thủ tục và gọi sử dụng chúng nhiều lần trong các
Script. Định nghĩa một thủ tục có thể xuất hiện trong Tag<Script>...</Script> và
phải tuân theo các quy tắc của ngôn ngữ Script được khai báo. Thủ tục này có thể

kéo dài tuỳ thích và phải đặt trong phân định Script là<%...%> nếu chúng cùng
trong một ngôn ngữ Scripting giống như script mặc định. Ta có thể đặt các thủ tục
trong chính các file ASP chung và sử dụng lệnh Include Name Server( đó là<!--#
Include file =...> để bao gồm cả nó trong file ASP gọi thủ tục. Hoặc có thể đóng
gói theo chức năng một ActiveX Server component.
4. Gọi các thủ tục trong ASP
Để gọi các thủ tục, bao gồm tên thủ tục trong lệnh. Đối với VbScript, ta có thể
dùng từ khoá Call để gọi thủ tục. Tuy nhiên, các thủ tục được gọi yêu cầu các biến
này phải đặt trong các dấu ngoặc đơn. Nếu bỏ qua từ khoá Call thì ta cũng phải bỏ
luôn cả dấu ngoặc đơn đi cùng bao quanh các biến. Nếu gọi thủ tục Java Script từ
VbScript thì ta phải sử dụng dấu ngoặc đơn sau tên thủ tục, nếu thủ tục không có
biến thì sử dụng dấu ngoặc đơn rỗng.
5. Các đối tượng của ASP(Object)
Một đối tượng là kết hợp giữa lập trình và dữ liệu mà có thể xem như là một
đơn vị. ASP có 5 đối tượng sau:
Đối tượng Nhiệm vụ
Đối tượng Request Lấy thông tin từ người dùng
Đối tượng Response Gửi thông tin cho người dùng
Đối tượng Server Điều khiển hoạt động của môi trường ASP
Đối tượng Session Lưu trữ thông tin từ một phiên (session) của
người dùng
Đối tượng Application Chia xẻ thông tin cho các người dùng của một
ứng dụng
Lấy thông tin từ người dùng: Đối tượng Request cho phép truy cập mọi
thông tin lấy được chuyển qua với một yêu cầu của HTML. Đối tượng Request có 5
thông tin sau:
• Query String: Mặc dù có thể sử dụng biến Server là QUERY_STRING để xử lý
thông tin QUERY_STRING từ yêu cầu của người dùng, ASP cung cấp
QUERY_STRING để thông tin đễ dàng. Nếu form sử dụng phương pháp POST,
các thông tin lấy được giống như một biến đặt sau đấu hỏi của URL.

• Form: thu nhặt tất cả các giá trị mà người sử dụng đã tạo ra vào Form khi nút
submit của nó được bấm, nó được truyền về Server với phương thức POST.
Gửi thông tin cho người dùng: Có thể dùng đối tượng Response để điều
khiển thông tin gửi cho Web Browser bằng cách sử dụng:
• Cách thức ResponseContent Type để điều khiển kiểu cả nội dung gửi.
• Cách thức Response. Cookies để thiết lập một giá trị của Cookies.
• Cách thức Response Buffer để đệm thông tin.
• Cách thức ResponseAddHeader để thêm một phần tiêu đề mới vào HTML
header với một số giá trị chọn lọc.
• Cách thức ResponseClear để xóa toàn bộ đệm ra của HTML, cách thức này
chỉ xoá phần thân của response chứ không xoá phần header.
• Cách thức Response. End để kết thúc việc xử lý ở file .asp và gửi cho Web
Browser kết quả thu được khi xảy ra phương thức này.
• Cách thức Response Flush: Khi thông tin được gửi ra bộ đệm kết quả thì nó
chưa được gửi ngay về Web Browser mà chỉ đến khi dùng phương thức này thông
tin mới được trả ngay về Web Browser. Tuy nhiên sẽ bị thông báo lỗi Run_Time
nếu ResponseBuffer chưa đặt giá trị true.
Server là đối tượng điều khiển môi trường hoạt động ASP, nó cung cấp các
phương thức cũng như thuộc tính của Server.
• Phương thức Server. CreatObject dùng để tạo ra các đối tượng mới trên Server.
• Phương thức Server. HTMLEncode cung cấp khả năng mã hoá địa chỉ URL.
• Phương thức Server. MapPath trả về địa chỉ vật lý tương ứng như địa chỉ thư
mục ảo trên máy chủ.
• Phương thức Server. URLEncode cung cấp khả năng mã hóa địa chỉ URL.
Các đối tượng Session và Application: được sử dụng ghi nhớ thông tin trạng
thái của các ứng dụng ASP. Ta có thể sử dụng ASP để duy trì 2 trạng thái:
• Trạng thái ứng dụng (Application State) bao gồm tất cả các thông tin trạng thái
của các ứng dụng có hiệu lực với tất cả người sử dụng ứng dụng. Đối tượng
Application được sử dụng để lưu trữ thông tin chung mà nó có thể chia sẻ cho tất cả
moị người dùng một ứng dụng ASP đơn giản.

• Trạng thái phiên (Session State) bao gồm thông tin chỉ có hiệu lực với một
người sử dụng cụ thể. Dùng đối tượng Session để quản lý thông tin của một người
đang sử dụng ứng dụng.
Trong mỗi ứng dụng ASP cơ bản có thể có file Global.asa. File này được lưu
giữ trong thư mục gốc của ứng dụng. ASP đọc file này khi: Web Server bắt đầu
nhận được yêu cầu bắt đầu khởi tạo ứng dụng. Điều này có nghĩa là sau khi Web
Server chạy, yêu cầu đầu tiên đến một file .asp sẽ làm là cho ASP tới đọc file
Global.asa gồm có:
• Các sự kiện bắt đầu ứng dụng Application_ OnStart, bắt đầu phiên
SessionOnEnd hoặc cả hai. Trong đó có các thủ tục Script mà mà ta muốn chạy
mỗi khi sử dụng một úng dụng hay một phiên. Nếu một ứng dụng và một phiên
khởi động vào cùng một thời điểm, ASP sẽ xử lý sự kiện ứng dụng trước khi nó xử
lý sự kiện bắt đầu phiên.
• Các sự kiện kết thúc ứng dụng Application_OnEnd, kết thúc phiên
Session_OnEnd hoặc cả hai. Cũng như các sự kiện này là các thủ tục trong file
Global. asa
• Ta có thể sử dụng Tag< object> để tạo các đối tượng trong file Global. asa.
ASP làm việc với ActiveX Server Component: ActiveX Server Component có
thể hiểu được theo cách thông thường là các tự động hóa của Server, được thiết kế
chạy trên Web Server như là một ứng dụng của Web cơ bản. Các thành phần đóng
gói thường là đặc trưng năng động như là cơ sở dữ liệu Acces, vì vậy ta không phải
tạo ra các chức năng này. ASP gồm có 5 ActiveX Server Component:
1. Thành phần cơ sở dữ liệu Access
2. Thành phần Ad Rotator
3. Thành phần tương thích với trình duyệt
4. Thành phần file Access
5. Thành phần kết nối động.

×