Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tìm hiểu một số quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.87 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nhượng quyền thương mại (franchising) là một trong những khái niệm khá
mới mẻ trong khoa học pháp lý Việt Nam. Mặc dù nhượng quyền thương mại tại
các thị trường khác trên thế giới thì lại hết sức sôi động. Người tiêu dùng trên toàn
thế giới bây giờ đã không còn xa lạ gì với những chuỗi cửa hàng McDonald’s,
Lotteria hay hệ thống siêu thị Metro – đây là những thương hiệu sử dụng nhượng
quyền thương mại làm phương thức kinh doanh. Theo ước tính, nhượng quyền
kinh doanh thương hiệu ở châu Á đã đạt 50 tỷ USD/năm. Chi phí tính riêng ở
Trung Quốc sau thời điểm gia nhập WTO đã có 50 ngành hàng thực hiện kinh
doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại, tốc độ tăng trưởng lên đến
40%/năm. Đối với Việt Nam, trên con đường hội nhập WTO, việc nghiên cứu,
xem xét, đánh giá những phương thức kinh doanh thương mại đặc biệt như nhượng
quyền thương mại là rất quan trọng, góp phần hoàn thiện pháp luật về thương mại
ở Việt Nam.
Chính vì vậy, trong bài tập cuối kì này em đã quyết định lựa chọn đề bài:
“Tìm hiểu một số quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại” để có thể
hiểu rõ hơn về khái niệm mới mẻ này.
I. Khái quát chung về nhượng quyền thương mại.
1. Khái niệm nhượng quyền thương mại.
Nhượng quyền thương mại là một phương thức kinh doanh đã được hầu hết
các quốc gia trên thế giới biết đến và đặc biệt phát triển ở các quốc gia có nền kinh
tế thị trường phát triển. Mỗi quốc gia có hoàn cảnh và điều kiện khác nhau thì sẽ có
góc độ nhìn nhận về khái niệm nhượng quyền thương mại khác nhau. Trên thế giới
đã có một số định nghĩa về nhượng quyền thương mại, còn riêng ở Việt Nam thì
Điều 284 Luật Thương mại năm 2005 đã đề cập đến khái niệm này: “Nhượng
quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép
và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ theo cac điều kiện sau: 1. Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được
1



tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và
được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu
kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; 2. Bên
nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều
hành công việc kinh doanh”.
Như vậy nhượng quyền thương mại là một phương thức kinh doanh hiệu quả
của các thương nhân trong hoạt động thương mại. Ở góc độ kinh doanh thì hoạt
động nhượng quyền thương mại chính là sự kết hợp có hiệu quả nhất của hai hoạt
động thương mại là đại lý thương mại và xúc tiến thương mại. Nhượng quyền
thương mại giúp cho thương nhân có thể phát triển công việc kinh doanh của mình
dưới một tên thương mại mà đã được đầu tư, xúc tiến bởi vốn và tài sản của một
thương nhân khác. Việc mua, bán “sự nổi tiếng” chính là cách hiểu thông thường
của hoạt động nhượng quyền thương mại. Song nó không là đích cuối của mối
quan hệ mà các bên bằng trực hay gián tiếp hướng đến một khoản lợi nhuận khổng
lồ từ việc phân phối thành công một khối lượng lớn hàng hóa, dịch vụ đặc thù dưới
một tên thương mại chung.
Xét ở góc độ pháp lý, nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương
mại nhằm mở rộng hệ thống kinh doanh của các thương nhân thông qua việc chia
sẻ quyền kinh doanh của các thương nhân thông qua việc chia sẻ quyền kinh doanh
trên một thương hiệu, quy trình, bí quyết kinh doanh cho một thương nhân khác.
Các bên trong quan hệ ràng buộc với nhau bởi một thỏa thuận, nổi bật nhất là bên
nhượng quyền đồng ý trao cho bên nhận quyền một “quyền kinh doanh” gồm
quyền sử dụng mô hình, kỹ thuật kinh doanh sản phẩm, dịch vụ dưới tên thương
mại của mình và bù lại nhận được một khoản chi phí hay phần trăm doanh thu
trong một thời gian nhất định. Bên nhận quyền sẽ phải sử dụng một các hợp pháp
tất cả các dấu hiệu nhận biết thương nhân hay sản phẩm của thương nhân do bên
nhượng quyền làm chủ sở hữu để tiến hành hoạt động kinh doanh dưới sự cho phép

2



của bên nhượng quyền. Ngược lại, bên nhận quyền sẽ phải đồng ý chấp thuận một
số điều kiện mà bên nhượng quyền đưa ra.
2. Đặc điểm nhượng quyền thương mại.
Từ khái niệm nhượng quyền thương mại đã trình bày ở trên, có thể thấy hoạt
động nhượng quyền thương mại có những nét đặc trưng riêng biệt, cụ thể sau:
Thứ nhất, hoạt động nhượng quyền thương mại được thực hiện bởi các
thương nhân, gồm có bên nhượng quyền và bên nhận quyền thương mại có tư cách
pháp lý hoàn toàn độc lập với nhau. Và sau khi nhận quyền thương mại thì bên
nhận quyền được tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên
cơ sở sự cho phép của bên nhượng quyền để khai thác lợi ích cho chính mình.
Thứ hai, hoạt động nhượng quyền thương mại chính là sự chuyển giao
“quyền thương mại” gắn liền với quyền sở hữu trí tuệ (nhãn hiệu hàng hóa, tên
thương mại, bí quyết kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo…) của bên
nhượng quyền cho bên nhận quyền, thể hiện ở chỗ bên nhượng quyền được nhận
một khoản tiền do bên nhận quyền chi trả cho chi phí tham gia mạng lưới kinh
doanh theo nhượng quyền, chi phí đào tạo, hỗ trợ…
Thứ ba, trong quan hệ nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền và bên
nhận quyền luôn tồn tại quyền kiểm soát và trợ giúp gắn bó và mật thiết. Đây là
một đặc điểm nổi bật của nhượng quyền thương mại với các hoạt động khác. Trong
quan hệ nhượng quyền thương mại, do tính chất của nhượng quyền thương mại là
mở rộng quy mô kinh doanh bằng cách chia sẻ kinh doanh cho các thương nhân
nhận quyền nên luôn phải đối mặt với những nguy cơ, rủi ro do bên nhận quyền
thực hiện không đúng cam kết. Chính vì vậy, để đảm bảo tính hệ thống cho hệ
thống nhượng quyền, không có cách nào khác là phải đặt ra quyền kiểm soát và trợ
giúp của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền, khiến bên nhận quyền phải
tuân thủ chặt chẽ mô hình kinh doanh của bên nhượng quyền, thông qua đó giúp
bên nhượng quyền bảo vệ được thương hiệu của mình.
3. Ý nghĩa của hoạt động nhượng quyền thương mại.
3



Nhượng quyền thương mại hiện nay thực sự đã có chỗ đứng khá vững trên
thị trường hoạt động thương mại ở Việt Nam và trên trường thế giới. Xét về mặt
bản chất, nhượng quyền thương mại có tính ưu việt cao nên nó thực sự mang lại ý
nghĩa to lớn đối với các bên tham gia quan hệ nhượng quyền nói riêng cũng như sự
phát triển nền kinh tế quốc gia nói chung
3.1. Đối với bên nhượng quyền.
Thứ nhất, bên nhượng quyền sẽ được thu một nguồn phí nhượng quyền.
Thông qua việc chuyển giao, hay còn gọi là “bán” cho bên nhận quyền một “quyền
thương mại” thì bên nhượng quyền sẽ được trả một khoản tiền nhất định hay phần
trăm doanh thu mà bên nhận quyền thu được từ hoạt động kinh doanh mà bên
nhượng quyền trao cho.
Thứ hai, bên nhượng quyền được mở rộng hệ thống bán hàng bằng tiền của
người khác, tức là bên nhận quyền. Theo đó thì bên nhượng quyền không phải tiêu
tốn nhiều khoản vốn đầu tư mà cũng có thể nhanh chóng mở rộng được hệ thống
kinh doanh, thâm nhập thị trường và thiết lập được một mạng lưới kinh doanh rộng
lớn không chỉ trên toàn quốc mà có thể phát triển trên quy mô toàn cầu. Đây là
việc thông thường mọi nhà đầu tư ở các phương thức kinh doanh khác thì phải bỏ
ra chi phí ban đầu rất lớn, trong khi đó nhượng quyền thương mại lại có nét ưu việt
riêng, giảm thiểu chi phí đáng kể.
Thứ ba, bên nhượng quyền sẽ được kích cầu hàng hóa do mình sản xuất. Bởi
bên nhận quyền là một cơ sở kinh doanh độc lập về mặt pháp lý và tài chính với
bên nhượng quyền nên bên nhận quyền sẽ có thêm động lực đem hết khả năng của
mình mang lại chất lượng hành hóa, dịch vụ tốt nhất, mang lại uy tín chi khách
hàng. Như vậy, vô hình chung bên nhượng quyền sẽ không mất nhiều chi phí và
công sức để kích cầu hàng hóa mà trái lại bên nhận quyền sẽ có tác động tích cực
và mang lại vị thế cho bên nhượng quyền, quy mô tiêu thụ hàng hóa sẽ được mở
rộng trên quy mô lớn.
3.2. Đối với bên nhận quyền.

4


Thứ nhất, bên nhận quyền sẽ hạn chế được rủi ro trong kinh doanh khi gia
nhập thị trường. Thực vậy, một khi một doanh nghiệp lựa chọn một hình thức kinh
doanh đều phải lường trước những rủi ro trong kinh doanh. Khi thành lập một
doanh nghiệp mới với hình thức kinh doanh độc lập, tạo dựng cơ sở từ đầu thì ít
nhiều cũng hàm chứa nhiều khả năng rủi ro, thất bại. Song, lựa chọn hình thức
nhượng quyền thương mại sẽ giảm thiểu tối đa những rủi ro trong kinh doanh.
Xuất phát từ tính chuyển giao “quyền thương mại” cho bên nhận quyền thì bên
nhượng quyền sẽ chuyển giao cả về quyền sử dụng mô hình, kỹ thuật kinh doanh
sản phẩm, dịch vụ dưới tên thương mại của bên nhượng quyền… Khi đó thì
thương hiệu đó vốn đã có chỗ đứng trên thị trường, có uy tín đối với khách hàng
nên việc nhận quyền phát triển trên thị trường đã có nền tảng nhất định. Và dưới sự
kiểm soát và trợ giúp của bên nhượng quyền thì bên nhận quyền vô hình chung sẽ
có một mạng lưới bảo vệ, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
Thứ hai, bên nhận quyền sẽ giảm được chi phí gia nhập thị trường. Thực
vậy, sau khi được nhượng quyền thì bên nhận quyền sẽ không phải tốn kém nhiều
chi phí và thời gian trong việc xây dựng mô hình kinh doanh mới. “Sự nổi tiếng”
trên thị trường, chỗ đứng trong kinh doanh là một yếu tố quan trọng trong quá trình
kinh doanh, song với hình thức nhượng quyền thương mại thì nó đã được tạo lập
trước khi mô hình kinh doanh mà bên nhận quyền tạo lập. Đồng thời, bên nhận
quyền cũng sẽ được chuyển giao bí quyết kinh doanh, chiến lược, phương pháp
xây dựng, đào tạo nhân viên… Nếu một doanh nghiệp mới thành lập thì chi phí
cho những yếu tố trên chiếm một khoản chi phí khá lớn. Đây là ưu thế cao mà hình
thức nhượng quyền thương mại mới có được.
Như vậy nhượng quyền thương mại mà phương thức kinh doanh mang lại
nhiều ý nghĩa thiết thực cho cả bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Đây là mối
quan hệ hợp tác kinh doanh mang lại lợi nhuận cho cả bên đầu tư và đối tác kinh
doanh. Bên cạnh đó, chính hoạt động nhượng quyền cũng có tác động tích cực đến

nền kinh tế của đất nước theo hướng hiện đại hóa và toàn cầu hóa, giúp cho nền
5


kinh tế quốc gia xâm nhập và hòa chung vào xung hướng chung của kinh tế thế
giới, tạo nên nền kinh tế thị trường năng động, nâng cao đời sống dân cư trong
nước…
II. Quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại.
Tại Việt Nam, hình thức nhượng quyền thương mại hình thành vào những
năm 90 của thế kỉ XX và mang tính tự phát rất cao. Cà phê Trung Nguyên có thể
coi là nhà tiên phong tại Việt Nam áp dụng hình thức kinh doanh này bằng cách
phát triển hệ thống đại lý của mình theo hình thức nhượng quyền. Và trong xu thế
đó, để điều chỉnh lĩnh vực nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, Luật Thương
mại 2005 tại mục 8 đã quy định khá chi tiết các vấn đề liên quan đến hoạt động
nhượng quyền thương mại. Ngoài ra để hướng dẫn chi tiết các vấn đề liên qaun đến
hoạt động nhượng quyền thương mại, Chính phủ đã ban hành Nghị định
35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều về nhượng quyền thương mại và Bộ
Thương mại ban hành Thông tư 09/2006/TT-BTM hướng dẫn chi tiết đăng kí hoạt
động nhượng quyền thương mại. Có thể thấy những cơ sở pháp lý trên đây đã
cung cấp một cách khá đầy đủ khái niệm, các nguyên tắc và hướng dẫn cho việc
tiến hành hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam.
Trong phạm vi bài viết này, em chỉ xin phân tích một số quy định cơ bản,
mang tính chất then chốt liên quan đến hoạt động nhượng quyền thương mại của
các thương nhân.
1. Chủ thể của nhượng quyền thương mại.
Trong quan hệ nhượng quyền thương mại tồn tại hai chủ thể quan trọng đó
là bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Pháp luật đề nhượng quyền thương mại ở
Việt Nam đã có những quy định cụ thể về điều kiện đặt ra đối với thương nhân
thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại. Theo Điều 5, Điều 6 Nghị định
35/2006/NĐ-CP của Chính phủ thì thương nhân nhượng quyền thương mại chỉ

được phép cấp quyền thương mại khi đáp ứng đủ các điều kiện:

6


- Hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã hoạt động được
ít nhất 1 năm (nếu thương nhân Việt Nam là bên nhận quyền sơ cấp từ bên nhượng
quyền nước ngoài thì thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo phương thức
nhượng quyền thương mại ít nhất 1 năm ở Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại
quyền thương mại);
- Đã đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại với cơ quan có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật (Sở thương mại, Sở thương mại – du lịch cấp
tỉnh đối với hoạt động nhượng quyền thương mại mang tính nội địa, Bộ thương
mại đối với hoạt động nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài).
- Hàng hoá, dịch vụ được phép kinh doanh nhượng quyền thương mại là
hàng hoá, dịch vụ không thuộc Danh mục hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh.
Trường hợp hàng hoá, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hoá, dịch vụ hạn chế kinh
doanh, Danh mục hàng hoá, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp chỉ
được kinh doanh sau khi được cơ quan quản lý ngành cấp Giấy phép kinh doanh,
giấy tờ có giá trị tương đương hoặc có đủ điều kiện kinh doanh.
Theo các quy định này thi điều kiện đặt ra đối với thương nhân nhượng
quyền khá khắt khe và phức tạp. Trong khi đó, đối với thương nahan nhận quyền,
điều kiện chủ thế này dường như đơn giản hơn và nhiều khi, pháp luật chỉ quy định
thương nhân nhận quyền được phép nhận quyền thương mại khi có đăng kí ngành
nghề kinh doanh phù hợp với hoạt động nhượng quyền thương mại.
2. Hợp đồng nhượng quyền thương mại.
2.1. Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại là một tập hợp các thỏa thuận của các
bên chủ thể, trong đó các bên phải đề cập đến ít nhất một số vấn đề chủ yếu liên
quan đến: thứ nhất, sự chuyển giao các yếu tố của quyền sở hữu công nghiệp, sở

hữu trí tuệ từ bên nhượng quyền sang bên nhận quyền nhằm khai thác thu lợi
nhuận, thứ hai, sự hỗ trợ của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền trong suốt
quá trình thực hiện hợp đồng, thứ ba, nghĩa vụ tài chính cũng như các nghĩa vụ đối
7


ứng khác của bên nhận quyền đối với bên nhượng quyền. Với khái niệm này hợp
đồng nhượng quyền thương mại đã thể hiện được đúng bản chất pháp lý của hoạt
động nhượng quyền thương mại, giúp cho công chúng có thể dễ dàng phân biệt
được loại hợp đồng thương mại đặc biệt này với một số loại hợp đồng khác có
cùng hoặc một số tính chất nhất định.
Ở Việt Nam, pháp luật không đưa ra định nghĩa về hợp đồng nhượng quyền
thương mại mà chỉ quy định về hình thức của loại hợp đồng này tại Điều 285 Luật
thương mại 2005. Như vậy, có thể hiểu, trên phương diện pháp luật, hợp đồng
nhượng quyền thương mại là một loại hợp đồng được các thương nhân ký kết trong
quá trình thực hiện hoạt động thương mại, mà cụ thể ở đây chính là thực hiện hoạt
động nhượng quyền thương mại. Vì vậy, hợp đồng này phải có những đặc điểm
chung của hợp đồng được quy định ở chương VI của Bộ luật Dân sự và đáp ứng
đầy đủ các điều kiện mà pháp luật dân sự đặt ra dưới góc độ một loại giao dịch dân
sự. Thêm vào đó, về cơ bản, nó phải thể hiện được bản chất của giao dịch nhượng
quyền thương mại đã được định nghĩa tại Điều 284 Luật thương mại năm 2005.
2.2. Đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Đối tượng của nhượng quyền thương mại chính là các lợi ích mà các bên
trong quan hệ nhượng quyền thương mại hướng tới, cụ thể là “quyền thương mại”
theo quy định tại khoản 6 Điều 3 Nghị định 35/2006/NĐ-CP. Quyền thương mại
được hiểu là quyền tiến hành kinh doanh hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo cách
thức tổ chức kinh doanh của bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn
hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu
tượng kinh doanh, quản cáo… của bên nhượng quyền. Như vậy, thực chất của
nhượng quyền thương mại đó là việc bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền

được sử dụng quyền thương mại của mình để kinh doanh trên danh nghĩa của
chính mình. Việc bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền được sử dụng
quyền thương mại của mình như thế nào phụ thuộc vào sự thỏa thuận cụ thể của
các bên trong hợp đồng nhượng quyền thương mại. Các bên có thể chỉ thỏa thuận
8


chuyển giao quyền phân phối sản phẩm với quyền sử dụng tên thương mại, nhãn
hiệu hàng hóa để phục vụ cho hoạt động phân phối, các bên cũng có thể thỏa thuận
chuyển giao thêm cả quyền sử dụng đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ
và chuyển giao công nghệ như quy trình sản xuất, bí quyết kinh doanh.
Tại Điều 11 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP cũng đã quy định về nội dung cần
có của một hợp đồng nhượng quyền thương mại tương đối đầy đủ và không có
nhiều sự khác biệt so với quy định của các nước trên thế giới. Song cũng cần lưu ý
về các nội dung này chỉ có thể xuất hiện trong hợp đồng nhượng quyền thương mại
của các bên nếu các bên lựa chọn áp dụng luật Việt Nam cho quan hệ hợp đồng
của mình.
2.3. Hình thức và thời hạn hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Điều 285 Luật Thương mại 2005 quy định: “Hợp đồng nhượng quyền
thương mại phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp
lý tương đương”. Hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam là hoạt động
mới mẻ. Dưới góc độ pháp lý, trước năm 2005, chưa có một văn bản pháp luật nào
đề cập một cách trực tiếp tới nhượng quyền thương mại nên việc quy định rõ ràng
về mặt hình thức hợp đồng như trên cũng là cách thức để bảo vệ thương nhân trong
lĩnh vực nhượng quyền thương mại.
Theo Điều 13 Nghị định 35/2006/NĐ-CP thì “thời hạn hợp đồng nhượng
quyền thương mại do các bên thỏa thuận”. Việc quy định về thời hạn đối với hợp
đồng nhượng quyền thương mại có ý nghĩa làm giảm rủi ro trong một mức độ nhất
định đối với các bên trong hợp đồng này. Trong khi trên thế giới các nước thường
quy định những thời hạn cụ thể cho hợp đồng nhượng quyền thương mại tư hai đến

hai mươi năm hoặc có thể là vĩnh viễn như Úc… nhưng pháp luật Việt Nam lại
không có giới hạn nào như thế. Nguyên nhân là do các lĩnh vực cung cấp các dịch
vụ ăn uống hoặc sản xuất nhỏ nên thời gian để các bên tối đa hóa lợi ích của mình
trong quan hệ không cần thiết là một thời gian dài.
3. Quyền và nghĩa vụ của các bên nhượng quyền thương mại.
9


Quyền và nghĩa vụ của các bên trong nhượng quyền thương mại thường là
do các bên tự thỏa thuận và nó sẽ có hiệu lực pháp luật nếu nó không trái với các
quy định của pháp luật. Song để bảo vệ một cách tốt nhất quyền lợi chính đáng của
các bên khi tham gia vào các quan hệ thương mại, nhất là những quan hệ mang
tính chất phức tạp như quan hệ nhượng quyền thương mại thì các nhà làm luật đã
đưa ra những “khung” quy định để giới hạn quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp
đồng, tạo ra một hành lang pháp lý giới hạn và bảo vệ hoạt động nhượng quyền
được phát triển. Luật Thương mại 2005 đã cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của các
bên chủ thể trong các Điều từ Điều 286 đến Điều 289. Theo quy định của Luật này
thì quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên khi tham gia quan hệ nhượng quyền
thương mại là khá rõ ràng.
- Về quyền của bên nhượng quyền, nếu giữa hai bên không có thỏa thuận
khác thì bên nhượng quyền có các quyền sau: một là nhận tiền nhượng quyền, hai
là tổ chức quảng cáo cho hệ thống nhượng quyền thương mại và mạng lưới
nhượng quyền thương mại, ba là kiểm tra định kì hoặc đột xuất hoạt động của bên
nhận quyền nhằm đảm bảo sự ổn định về chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên
việc giới hạn quyền của bên nhượng quyền như phạm vi kiểm soát, cách thức kiểm
soát… thì pháp luật lại chưa quy định rõ ràng, dễ dẫn đến trường hợp bên nhượng
quyền lạm dụng quyền trong hoạt động kinh doanh.
- Về nghĩa vụ của bên nhượng quyền, xuất phát từ bản chất của quan hệ
nhượng quyền thương mại, hầu hết pháp luật về nhượng quyền thương mại đều
quy định rằng nếu giữa hai bên không có thỏa thuận khác thì bên nhượng quyền có

các nghĩa vụ: một là cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống nhượng quyền
thương mại cho bên nhận quyền, hai là đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ
thuật thường xuyên cho thương nhân nhận quyền để điều hành hoạt động theo
đúng hệ thống nhượng quyền thương mại, ba là thiết kế và sắp xếp địa điểm bán
hàng, cung ứng dịch vụ bằng chi phí của thương nhân nhận quyền, bốn là bảo đảm
quyền sở hữu trí tuệ đối với đối tượng được ghi trong hợp đồng nhượng quyền,
10


năm là đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền trong hệ thống nhượng
quyền thương mại. Ngoài các nghĩa vụ này, trong Điều 8 Nghị định 35/2006/NĐCP còn quy định thêm về trách nhiệm cung cấp thông tin của bên nhượng quyền.
Những nghĩa vụ này nhìn chung hầu như cũng không có khác biệt gì đáng kể so
với pháp luật các nước khác.
- Về quyền của bên nhận quyền, trong quan hệ hợp đồng nhượng quyền
thương mại thì bên nhận quyền phải chịu khá nhiều ràng buộc từ phía nhượng
quyền ở mọi thời điểm. Tuy nhiên bên cạnh đó bên nhận quyền cũng có những
quyền như sau: một là yêu cầu thương nhân nhượng quyền cung cấp đầy đủ trợ
giúp kỹ thuật có liên quan đến hệ thống nhượng quyền thương mại, hai là yêu cầu
thương nhân nhượng quyền đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền
khác trong hệ thống nhượng quyền thương mại. Hai quyền cơ bản nói trên của bên
nhận quyền chỉ được quy định trong Luật Thương mại 2005 mang tính chất định
hướng mà không có những quy định vạch ra giới hạn cụ thể hay những điều kiện
cụ thể để thực hiện quyền này.
- Về nghĩa vụ của bên nhận quyền, nghĩa vụ của bên nhận quyền đối với
bên nhượng quyền chính là những điều kiện mà bên nhận quyền phải đáp ứng khi
chấp nhận them gia quan hệ hợp đồng nhượng quyền thương mại. Cụ thể là: một là
trả tiền nhượng quyền và các khoản thanh toán khác theo hợp đồng nhượng quyền
thương mại, hai là đầu tư đủ cơ sở vật chất, nguồn tài chính và nhân lực để tiếp
nhận các quyền và bí quyết kinh doanh mà bên nhượng quyền chuyển giao, ba là
chấp nhận sự kiểm soát, giám sát và hướng dẫn của bên nhượng quyền; tuân thủ

các yêu cầu về thiết kế, sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ của thương
nhân nhượng quyền, bốn là giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng
quyền, kể cả sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại kết thúc hoặc chấm dứt,
năm là ngừng sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh,
biểu tượng kinh doanh và các quyền sở hữu trí tuệ khác (nếu có) hoặc hệ thống của
bên nhượng quyền khi kết thúc hoặc chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương
11


mại, sáu là điều hành hoạt động phù hợp với hệ thống nhượng quyền thương mại,
bảy là không được nhượng quyền lại trong trường hợp không có sự chấp thuận của
bên nhượng quyền.
Trong đó thì trong một hợp đồng nhượng quyền thương mại, các bên trong
quan hệ lần lưu ý về những quyền và nghĩa vụ sau để giảm thiểu rủi ro:
- Thứ nhất là giá cả và phương thức thanh toán bao gồm phí chuyển
nhượng ban đầu, các khoản phí khác và các phương thức thanh toán hiệu quả,
nhanh chóng và phù hợp.
- Thứ hai là xác định rõ nội dung lãnh thổ nhượng quyền thương mại để
giảm đi sự cạnh tranh về thị trường và tăng lợi nhuận cho các bên chủ thể trong
quan hệ nhượng quyền.
Bên cạnh đó cũng cần chú ý xây dựng rõ các quyền và nghĩa vụ liên quan đề
tiêu chuẩn về nguyên liệu, nguồn nguyên liệu, việc kiểm tra và giám sát chất lượng
hàng hóa, dịch vụ, việc đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật, trao đổi thông tin… nhằm đảm
bảo và tăng cường hơn nữa chất lượng hàng hóa dịch vụ đảm bảo quyền lợi cho
khách hàng, uy tín của bên nhượng quyền và toàn bộ hệ thống, tăng thêm sức
mạnh cạnh tranh trên thị trường.
III. Thực tiễn áp dụng quy định về nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.
1. Thực tiễn áp dụng.
Việc áp dụng hình thức nhượng quyền thương mại vào Việt Nam so với thế
giới là khá mới mẻ, chỉ được chú trọng phát triển từ khoảng từ mười năm trở lại

đây. Song các hoạt động nhượng quyền thương mại đã mang lại khá nhiều hiệu quả
thiết thực, làm thay đổi và phát triển cho hệ thống kinh tế Việt Nam, hòa nhập
chung vào phong trào phát triển kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên các quy định của pháp luật dù đã đề cập đến đầy đủ các vấn đề
như chủ thế, đối tượng, hợp đồng, quyền và nghĩa vụ các bên tham gia hoạt động
nhượng quyền thương mại nhưng lại thiếu các quy định hướng dẫn, các quy định
của Luật Thương mại mới chỉ là mang tính định hướng, khá là chung chung. Mặt
12


khác đặt trong hệ quy chiếu với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ cũng như tính
phức tạp của hoạt động nhượng quyền thương mại thì những quy định của pháp
luật chưa đủ mạng và điều chỉnh được đầy đủ lĩnh vực này.
Các khái niệm trong quy định của Luật thì chưa thống nhất là đồng bộ. Ví dụ
như về khái niệm “hợp đồng nhượng quyền thương mại”. Các nhà làm luật không
đưa ra định nghĩa cụ thể về hợp đồng thương mại nói chung, nhưng Nghị định số
35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 của Chính phủ lại nêu định nghĩa về các dạng đặc
biệt của hợp đồng nhượng quyền thương mại như “hợp đồng phát triển quyền
thương mại”, hoặc “hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp”. Đây là các dạng
biến thể của hợp đồng thương mại, thể hiện sự đa dạng về hình thức và phương
thức nhượng quyền thương mại nên việc đưa ra định nghĩa cụ thể về những loại
hợp đồng này trong luật là rất đúng đắn. Tuy nhiên, khi giải thích về nghĩa của cả
hai loại hợp đồng nói trên các nhà làm luật vẫn sử dụng thuật ngữ “hợp đồng
nhượng quyền thương mại” để làm cầu nối. Như vậy, việc pháp luật thương mại
không đưa ra định nghĩa về hợp đồng thương mại mà lại dùng chính thuật ngữ này
để giải thích cho các thuật ngữ khác có liên quan là chưa đảm bảo tính hệ thống và
tính chính xác cần phải có đối với các quy định pháp luật trong bối cảnh hiện nay.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật.
Đầu tiên chúng ta phải hoàn thiện quy định về khái niệm nhượng quyền
thương mại, từ cơ sở đó cần phải xây dựng một khái niệm nhượng quyền thương

mại chuẩn trong khoa học pháp lý, đặt chủ thế trong một vị thế bình đẳng hơn.
Sau đó về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nhượng quyền cũng
cần quy định chi tiết hơn. Quyền kiểm soát của bên nhượng quyền cần phải có một
giới hạn đề hạn chế trường hợp lạm quyền hoặc là bên nhận quyền phục thuộc quá
mức vào bên nhượng quyền mà làm mất đi tính sáng tạo của mình trong kinh
doanh. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nhượng quyền thực sự cần
thiết và có ý nghĩa ràng buộc các bên chủ thế. Vì vậy, cần hoàn thiện các quy định

13


này thì cần bổ sung thêm một số quy định sát thực hơn nhằm góp phần giúp các
bên tự hạn chế được rủi ro trong khi tham gia vào một số hoạt động thương mại.
Thêm vào đó, song song với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thì cũng ta
cũng phải nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật vào thực tế. Ở Việt Nam hiện nay,
việc phát triển mô hình nhượng quyền thương mại chủ yếu là các doanh nghiệp
Việt Nam với vai trò là người nhận quyền từ người nhượng quyền là doanh nghiệp
nước ngoài. Với vai trò đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần nắm rõ các thông tin
của nhà nhượng quyền như tình hình kinh doanh, thương hiêu có thực sự có uy tín,
ưu điểm nổi bật… Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần đặt câu hỏi thương hiệu mà
mình sắp “nhận” có thực sự có thể phát triển ở Việt Nam và phù hợp với quy mô
của công ty mình… Và điều quan trọng nhất là doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên
cứu kĩ hợp đồng, nghiên cứu cả những quy định của pháp luật điều chỉnh vấn đề
này để tránh trường hợp hợp đồng vô hiệu…
Ngoài ra đối với các cơ quan nhà nước thì chúng ta cần phải xây dựng một
mô hình quản lý có hiệu quả đối với nhượng quyền thương mại. Bộ Công thương
cần có sự quan tâm, khuyến khích đầu tư đúng mức đối với các doanh nghiệp có
mong muốn tham gia hoạt động nhượng quyền thương phải, còn Chính phủ phải có
Ngân sách trợ giúp phát triển bước đầu cho các doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong
việc áp dụng và triển khai mô hình này.


14


KẾT LUẬN
Nhượng quyền thương mại là một công cụ hữu hiệu để các thương nhân có
thể thâm nhập vào những thị trường mới mẻ. Phương thức này sẽ giúp doanh
nghiệp tiết kiệm được chi phí và rủi ro khi đầu tư trực tiếp, lập chi nhánh, khảo sát
và nghiên cứu thị trường… Ngày nay trên thế giới khu vực kinh tế dịch vụ đang
chứng kiến hàng loạt các doanh nghiệp sử dụng phương thức này. Việt Nam là
quốc gia được đánh giá có nhiều tiềm năng cũng như nguồn lực để phát triển ở tầm
cao mô hình nhượng quyền thương mại.
Chính vì thế việc hoàn thiện và bổ sung những quy định pháp luật về hợp
đồng nhượng quyền thương mại để bảo vệ bên trong quan hệ nhượng quyền. Sự ra
đời của Luật Thương mại 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật đã khắc
phục và hạn chế được tối đa các rủi ro trong quá trình kinh doanh nhượng quyền
cũng như các tranh chấp có thể xảy ra.
Do tính chất mới mẻ nên song song với quá trình phát triển thì việc hoàn
thiện pháp luật về nhượng quyền thương mại cần được đặc ra cấp thiết hơn bao giờ
hết. Pháp luật có quy định cụ thể, chặt chẽ thì việc áp dụng trên thực tiễn mới thực
sự có hiệu quả. Thước đo để đánh giá sự phát triển và hiệu quả của phương thức
kinh doanh nhượng quyền thương mại thì yếu tố pháp luật điều chỉnh chính là yếu
tố tiên quyết.

15


DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Trường đại học Luật Hà Nội – Giáo trình Luật thương mại tập II


(NXB Công an nhân dân – Hà Nội/2006).
- Luật Thương mại Việt Nam 2005.
- Nghị định 35/2006/NĐ-CP của Chính phủ về hoạt động nhượng

quyền thương mại.
- Vũ Đặng Hải Yến – Một số vấn đề pháp lý về chủ thể của hợp

đồng nhượng quyền thương mại (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
số 4/2008).

16



×