Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

BỐI CẢNH RA đời và NHỮNG GIÁO lí CHỦ yếu của đạo PHẬT và ẢNH HƯỞNG của đạo PHẬT vào VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.79 KB, 15 trang )

BỐI CẢNH RA ĐỜI VÀ NHỮNG GIÁO LÍ CHỦ YẾU CỦA ĐẠO
PHẬT VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO PHẬT VÀO VIỆT NAM

MỤC LỤC

I.

PHẦN MỞ ĐẦU

Ấn Độ là một trong những quốc gia có nền văn hóa, văn minh lớn và sớm trên thế
giới. Văn minh Ấn Độ phát triển rực rỡ, huy hoàng trên nhiều lĩnh vực như chữ viết, văn
học, toán học, nghệ thuật,… với những đóng góp to lớn cho nền văn minh nhân loại. Từ
thiên niên kỉ thứ III TCN, người Ấn đã tạo được nề văn minh của mình là nền văn minh
Harrappa và Mohenjo Daro. Từ khoảng 1500 năm TCN, do những biến động xã hội, Ấn
Độ đã chuyển sang một nền văn minh mới là nền văn minh Veda. Phật giáo đã được sinh
ra trong nền văn minh này. Đất nước Ấn Độ là nơi sản sinh ra rất nhiều tôn giáo, trong đó
quan trọng nhất là Đạo Bà La Môn mà về sau này là Hinđu Giáo và Đạo Phật. Ngoài ra


còn có một số tôn giáo khác như đạo Jaina, đạo Sikh. Ngày nay, ở Ấn Độ chỉ có đạo
Hinđu được coi là quốc giáo. Đạo Phật tuy không còn phát triển mạnh ở cái nôi đã sinh ra
nó nhưng lại lan tỏa rộng rãi và có ảnh hưởng tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học – tôn giáo lớn nhất trên thế giới, tồn
tại rất lâu đời với hệ thống giáo lý đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo được phân bố rộng
khắp. Đạo Phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã
nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến
đời sống tinh thần của người Việt, bên cạnh đạo Nho, đạo Lão và đạo Thiên Chúa.

I.

PHẦN NỘI DUNG



1. Bối cảnh ra đời và những giáo lý chủ yếu của đạo Phật
1.1.

Bối cảnh ra đời

Vào giữa thiên niên kỷ I TCN, Ở Ấn Độ đã xuất hiện một số dòng tư tưởng chống đạo
Bàlamôn . Đạo phật là một trong những dòng tư tưởng ấy.
Xã hội Ấn Ðộ từ 2500 năm trước đây là một trong những xã hội có một chế-độ xã-hội
và chính-trị bất công nhất. Dân chúng Ấn Ðộ thời bấy giờ bị phân chia rất nhiều giai-cấp
khác nhau: Bà-la-môn (Brhmanes), Thu-Ðà-La(Souđras) , Vệ-Xa (Vaisyas), Sát-đế-ly
(Kastryas) , Ngoài bốn giai-cấp trên, còn có một hạng người hà-tiện nhất là giống Ba-ri-a
(Pariahs) giống dân tộc mọi rợ, bị coi như sống ngoài lề xã hội loài người, bị các giai cấp
trên đối xử như thú vật, vô cùng khổ nhục, tối tăm. Về phương-diện tôn-giáo, Triết-học,
tư-tưởng thì xã-hội Ấn Ðộ thời bấy giờ cũng diễn ra một cảnh-tượng vô-cùng hỗn-tạp
Tóm lại, xã-hội Ấn Ðộ lúc bấy giờ là một xã-hội về vật-chất thì đang rên-siết dưới ách
bất công, áp-bức, về tinh-thần thì đang quay-cuồng, điên-đảo trong những luồng tư-tưởng
lỳ thuyết rối-reng, tà-vay. Xã-hội ấy đang khao-khát tình thương và bình đẳng, đang
mong chờ được chói rạng dưới ánh sáng của trí-huệ. Trong hoàn-cảnh ấy, Ðức Phật
Thích-Ca đã xuất-hiện đúng lúc để cứu vớt cõi đời sầu khổ.
Theo truyền thuyết, người sáng lập đạo Phật là hoàng tử Xitđácta Gôtama (Siddharta
Gautama), sau khi thành Phật được đệ tử tôn xưng là Xakia Muni Thích ca Mâu ni , con
vua Sutđôđana nước Capilavaxtu ở chân núi Hymalaya, miền đất bao gồm một phần
miền Nam nước Nêpan và một phần của Ấn Độ ngày nay.
Năm 29 tuổi, hoàng tử Xitđácta xuất gia đi tu để tìm kiếm con đường cứu vớt những
nõi khổ của loài người. Đến năm 35 tuổi, Xitđácta đã nghĩ ra được cách giải thích bản
chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau, do đó cho rằng đã tìm được con đường cứu
vớt . Từ đó, ông được gọi là Buddha, ta quen gọi là Phật hoặc Bụt, nghĩa là “ người đã
giác ngộ”, “người đã hiểu được chân lí”.



Sau khi thành đạo trong khoảng thời gian bốn mươi chín năm (Có tài liệu chép là bốn
mươi lăm năm) đức Phật chu du khắp các khu vực ở lưu vực sông Hằng, đem đạo vô
thượng của ngài giáo hóa chúng sinh, không phân biệt già trẻ, nam nữ, giàu nghèo, sang
hèn, màu da, chủng tộc, trí thức hay ngu si. Nhờ lòng từ bi không bờ bến, đức hy sinh
rộng lớn vô biên, Ngài đã giảng nói pháp trên năm trăm hội, hóa độ vô số quần sinh,
thoát vòng mê mờ khổ não. Và do đó, đạo Phật được thành lập trên cõi đời.
Về niên đại của đạo Phật, hiện nay đang có những ý kiến khác nhau. Tín đồ Phật giáo
lấy năm 544 TCN làm năm mở đầu kỷ nguyên Phật giáo.
1.2.

Những giáo lý chủ yếu của đạo Phật

Đạo Phật là con đường giải quyết khổ đau (Tứ diệu đế). Giáo lý của Phật hướng tới
giải thoát và chấm dứt đau khổ cho con người, đem lại hạnh phúc cho loài người và tất cả
sự sống trên hành tinh. Đạo đức căn bản của con người được Đức Phật dạy bao gỗm năm
giới đức làm người ngũ giới (Giới đức hiếu sinh - yêu thương sự sống,Giới đức thành
thật, Giới đức chung thủy, giới đức ly tham, giới đức minh mẩn sáng suốt) và mười điều
lành - thập thiện (sống thuần thiện đến từng việc làm, lời nói, và ý nghĩ). Tiến xa hơn
trong hạnh phúc giữa cuộc sống thế gian là làm chủ và chấm dứt Sanh - Lão - Bệnh - Tử,
thông qua con đường bát chánh đạo - giới định tuệ và các pháp hành 37 phẩm trợ đạo làm
phát huy năng lực làm chủ tự thân của con người để triển khai các trí tuệ siêu việt (trí tuệ
tam minh), tăng cường sức đề kháng bệnh tật, làm chủ các hoạt động của cơ thể (như
dừng hơi thở làm chủ sự sống chết - tứ thần túc),sự tư duy hiểu biết thấu đáo tận cùng để
không còn làm các hành động tạo đau khổ nữa.
Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật giáo được tóm tắt trong câu nói sau đây của
Phật Thích Ca : “Trước đây và ngày nay, ta chỉ lí giải và nêu câu ra cái chân lí về nỗi đau
khổ”. “ Cũng như nước đại dương chỉ có một vị là vị mặn , học thuyết của ta chỉ có một
vị là cứu vớt”. Cái chân lí về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ ấy được thể
hiện trong thuyết “tứ thánh đế” hoặc còn được gọi là “Tứ diệu đế”, “tứ chân đế”, “tứ đế”,

nghĩa là bốn chân lí thánh. Đó là Khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.
Khổ đế là chân lý về các nỗi khổ tâm gồm: Theo Phật, con người có tám nỗi khổ: Sinh,
lão , bệnh, tử, sống chung với người mình không ưa, xa lìa người thân yêu, mong muốn
mà không được, chấp vào thân ngũ uẩn. Khổ đau là một hiện thực, không nên trốn chạy,
không nên phớt lờ, cũng không nên cường điệu hóa. Muốn giải quyết khổ đau trước tiên
phải thừa nhận nó.
Tập đế là chân lí về sự phát sinh của các nỗi khổ: khổ đau đều có nguyên nhân thường
thấy do tham ái, sân hận, si mê, chấp thủ. Cần truy tìm đúng nguyên nhân sinh ra khổ,


nguồn gốc sâu xa sinh ra khổ trong sinh tử luân hồi là do vô minh và ái dục, những mắt
xích liên quan nằm trong 12 nhân duyên.
Diệt đế là chân lí về sự chấm dứt các nỗi khổ: là trạng trạng thái không có đau khổ, là
một sự an vui giải thoát chân thật, là một hạnh phúc tuyệt vời khi chấm dứt lòng ham
muốn, và có sự hiểu biết của trí tuệ chấm dứt vô minh. Nguyên nhân của khổ đau là luân
hồi, vì vậy muốn diệt khổ thì phải chấm dứt luân hồi. Muốn chấm dứt luân hồi thì phải
trừ bỏ hết mọi ham muốn. Đó là một món nợ truyền từ kiếm này sang kiếp khác do lòng
ham muốn tạo nên. Do đó, nói văn tắt, muốn chấm dứt luân hồi, thi phải trừ bỏ hết mọi
ham muốn.
Đạo đế là chân lí về con đường diệt khổ tức là phương pháp thực hiện việc diệt khổ. Con
đường đó gọi là “Bát chính đạo” ( 8 con đường đúng đắn).
• Chính kiến: phải hiểu biết, nhìn nhận đúng đắn, phù hợp với đạo.
• Chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn, không thái quá, không bất cập
• Chính ngữ: giữ lời nói chân chính, không ác khẩu, bịa đặt gây mất hòa khí.
• Chính mệnh: tự mình phải rèn mình, tiết dục, làm nhiều việc thiện để tạo
chính nghiệp.
• Chính nghiệp: nghiệp có tà nghiệp và chính nghiệp. Nếu là tà nghiệp thì
phải tu sửa, cải tạo; nếu là chính nghiệp thì phải giữ lấy, không để nghiệp
xấu chi phối.
• Chính niệm: luôn luôn hằng nhớ, ghi nhớ những điều Phật dạy và tâm niệm

những điều đó.
• Chính tinh tiến: có ý chí, khát vọng vươn lên chính đáng, hăng hái học tập
và truyền bá những giáo lí Phật pháp.
• Chính định: tập trung tư tưởng cao độ, kiên trì theo đuổi mục đích chính
đáng tới cùng.
Khi con người theo giáo lí Phật đi ccon đường “Bát chánh đạo” tức là đã đi theo con
đường để thoat khỏi bể khổ cuộc đời, từ đó để được giải thoát và tới được cõi Niết Bàn.
Chung quy, “bát chính đạo” là suy nghĩ, nói năng và hành động đúng đắn.
Về giới luật, tín đồ Phật giáo chủ yếu phải kiêng năm thứ (ngũ giới): Không sát sinh,
không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của học thuyết Phật giáo là thuyết Duyên Khởi.
Duyên khởi là chữ nói tắt câu “chư pháp do nhân duyên nhi khởi” nghĩa là “các pháp đều
do nhân duyên mà có”. Do quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ
trương” vô tạo giả” tức là không có vị thần linh tối cao tạo ra vũ trụ, đây là một nội dung
cơ bản mà đạo Phật nêu ra dể chống lại đạo BàLamôn và cũng là một sự khác biệt quan
trọng giữa đạo Phật và nhiều tôn giáo khác.


Bên cạnh thuyết “vô tạo giả”, đạo Phật còn nêu ra các thuyết “vô ngã”, “vô thường”.
Vô ngã là không có những thực thể vật chất tiinf tại một cách cố dịnh . Con người cũng
chỉ là sự tập hợp của 5 uẩn sắc, thụ, tưởng, thành, thức chứ không phải là một thực thể
tồn tại lâu dài. Đây là nội dung thứ hai mà đạo Phật nêu ra để chống lại đạo BàLamôn , vì
đạo BàLamôn chủ trương có bản ngã.
Vô thường là mọi sự vật đều ở trong quá trình sinh ra , biến đổi, tiêu diệt chứ không bao
giờ được ổn định.
Như vậy, về thế giới quan, tuy đạo Phật ban đầu chủ trương vô thần ( vô tạo giả ) nhưng
chung quy vẫn là duy tâm chủ quan .
Về mặt xã hội, đạo Phật không quan tâm đến chế độ đẳng cấp, đồng thời, dạo Phật mong
muốn có một xã hội trong đó, vua thì có đạo đức và phải dựa vào pháp luật dể trị nước,
không dược chuyên quyền độc đoán, còn nhân dân thì được an cư lập nghiệp.

Như vậy, đạo Phật ban dầu là một học thuyết khuyên người ta phải từ bỏ ham muốn,
tránh điều ác, làm điều thiện để được cứu vớt chứ không thừa nhận thượng đế và các vị
thần bảo hộ, do đó không cần nghi thức cúng bái và cũng không có tầng lớp thầy cúng(1).
2. Sự ảnh hưởng của đạo Phật vào Việt Nam
2.1.

Bối cảnh lịch sử truyền bá đạo Phật vào Việt Nam

Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công nguyên với
truyện cổ tích Chử Đồng Tử (ở Hưng Yên ngày nay) học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy
Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo
quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện
cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189.
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm
trực tiếp thành "Bụt" (1), từ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo
Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, Bụt được coi như một vị thần tiên chuyên
cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng của Đại
thừa đến từ Trung Quốc mà từ "Bụt" bị mất đi và được thay thế bởi từ "Phật". Trong tiếng
Hán, từ Buddha được phiên âm thành "Phật đà", "Phật đồ" rồi được rút gọn thành "Phật".
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo
phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc
sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai
đoạn suy thoái. Đến đầu thế kỷ 17, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh
đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20,
mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh


mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh
Hòa và Thiện Chiếu [2].
Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:




Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát
triển rộng khắp;

thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh;



từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.

Phật giáo Bắc Tông có ba tông phái được truyền vào Việt Nam là Thiền tông, Tịnh Độ
tông và Mật tông.

2.2.

Sự ảnh hưởng của đạo Phật đến Việt Nam

Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng thực hiện hai
điều đó là khế lý và khế cơ. Nếu thiếu đi một trong hai yếu tố này Phật giáo sẽ chẳng còn
là Phật giáo nữa. Duy trì và phát triển hai yếu tố này, Phật giáo được truyền vào Việt Nam
và các nước khác.
Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư người Việt bản địa hóa,
khiến Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt
Nam. Phật giáo đã cùng sinh tồn cùng dân tộc. Điểm này dễ dàng nhận thấy trong những
thời đại hưng thịnh của đất nước như Đinh, Lê, Lý Trần đều là những lúc Phật giáo cũng
song hành hưng thịnh và các vị thiền sư có vị trí quan trọng trong các triều đại đó. Dù
được bản địa hóa để quyện mình vào lòng dân tộc nhưng tam tạng kinh điển Phật giáo

Việt Nam vẫn được truyền thừa trong suốt hơn 2000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam[3].
Đạo Phật kể từ khi truyền vào Việt Nam đến nay trải hơn 2000 năm đã dần dần đi
vào tâm thức, ảnh hưởng nhiều đến cách nghĩ, cách sống của phần đông người Việt. Tuy
có nhiều thịnh suy do những nguyên nhân bên trong cũng như bên ngoài nhưng đạo Phật
từ lâu đã có vai trò quan trọng trong đời sống người Việt, góp phần không nhỏ trong di
sản lịch sử và văn hóa của đất nước Việt Nam.
2.2.1. Ảnh hưởng của đạo Phật về mặt tư tưởng, đạo lý
a. Về Tư tưởng

Sự ảnh hưởng căn bản và khởi nguyên nhất của đạo Phât đến Việt Nam là về
mặt tư tưởng. Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ


Diệu Đế và Bát chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật
giáo, nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Đạo lý Duyên Khởi là một cái nhìn khoa học và khách quan về thế giới hiện tại.
Duyên khởi nghĩa là sự nương tựa lẫn nhau mà sinh tồn và tồn tại. Không những các
sự kiện thuộc thế giới con người như thành, bại, thịnh, suy mà tất cả những hiện tượng
về thế giới tự nhiên như cỏ, cây, hoa, lá cũng điều vâng theo luật duyên khởi mà sinh
thành, tồn tại và tiêu hoại. Có 4 loại duyên cần được phân biệt:

Thứ nhất là Nhân Duyên. Có thể gọi là điều kiện gần gũi nhất, như hạt lúa là
nhân duyên của cây lúa.

Thứ hai là Tăng Thượng Duyên tức là những điều kiện có tư liệu cho nhân
duyên ví như phân bón và nước là tăng thượng duyên cho hạt lúa.

Thứ ba là Sở Duyên Duyên tức là những điều kiện làm đối tượng nhận thức

Thứ tư là Đẳng Vô Gián Duyên tức là sự liên tục không gián đoạn, cần thiết

cho sự phát sinh trưởng thành và tồn tại.
Luật nhân quả cần được quán sát và áp dụng theo nguyên tắc duyên sinh mới có thể
gọi là luật nhân quả của Đạo Phật, theo đạo lý duyên sinh, một nhân đơn độc không
bao giờ có khả năng sinh ra quả, và một nhân bao giờ cũng đóng vai trò quả, cho một
nhân khác. Về giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của Đạo Phật đã được
truyền vào nước ta rất sớm. Giáo lý này đương nhiên đã trở thành nếp sống tín ngưỡng
hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ. Người ta biết lựa
chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm của lý nghiệp
báo, nó chẳng những thích hợp với giới bình dân mà còn ảnh huởng đến giới trí thức.
Có thể nói mọi người dân Việt điều ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý này. Vì thế, lý
nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương bình dân, trong văn học chữ
nôm, chữ hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm
trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp đem lại hòa bình an
vui cho con người. Mặt khác họ hiểu rằng nghiệp nhân không phải là định nghiệp mà
có thể làm thay đổi, do đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải ác tùng thiện. Sống ở đời, đột
nhiên những tai họa, biến cố xảy ra cho họ, thì họ nghĩ rằng kiếp trước mình vụng
đường tu nên mới gặp khổ nạn này. Không than trời trách đất, cam chịu và tự cố gắng
tu tỉnh để chuyển hóa dần ác nghiệp kia. Nguyễn Du đã thể hiện ý này trong truyện
Kiều rằng:
Cho hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Nếu ta nắm vững nguyên tắc nhân quả nghiệp báo như trên, thì chúng ta có thể
chuyển nghiệp ngay trong hiện kiếp. Cái đích của việc chuyển nghiệp, tái tạo cá nhân
là đến được trí tuệ tối hậu. Khởi đầu của việc chuyển nghiệp là bắt đầu thay đổi hành
nghiệp thiện và ác từ ba nghiệp Thân, Khẩu và Y của chính mỗi cá nhân. Chứ không
ngồi một chỗ tưởng tượng đến những kết quả tốt đẹp sẽ đến với mìn. Từ những hành



nghiệp thiện, giảm bớt điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta có một cuộc
sống yên vui cho hiện tại và mai sau.
b.
Về đạo lý:
Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của phật
giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. Đều này ta
thấy rõ qua con người và tư tưởng của Nguyễn Trải (1380-1442), một nhà văn, nhà
chính trị, nhà tư tưởng việt Nam kiệt xuất, ông đã khéo vận dụng đạo lý Từ Bi và
biến nó thành đường lối chính trị nhân bản đem lại thành công và rất nổi tiếng trong
lịch sử nước Việt. Ông nói điều đó trong Bình Ngô Đại Cáo rằng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Bằng cách:
Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Đem chí nhân để thay cường bạo
Cho nên khi đại thắng quân xâm lược, đối với tù binh nhà Minh, chúng ta
không những không giết hại mà còn cấp cho thuyền bè, lương thực để họ về nước.
Thần vũ chẳng giết hại
Thuận lòng trời ta mở đất hiều sinh
Tinh thần thương người như thể thương thân này đã biến thành ca dao tục ngữ
rất phổ biến trong quần chúng Việt Nam như "lá lành đùm lá rách", hay
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Đó là những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng điều thấm
nhuần và thuộc nằm lòng, nói lên lòng nhân ái vị tha của dân tộc Việt Nam.
Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý khác
của đạo phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân
chúng sanh. Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với bước phát
triển của tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt. Tình thương ở mọi người bắt đầu từ
thân đến xa, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong các mối

quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào quê hương đất nước và mở rộng đến quê
hương cao cả đối với cuộc sống của nhân loại trên vũ trụ này. Đặc biệt trong đạo lý
tứ ân, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo
lý của người Việt. Vì đạo phật rất chú trọng đến hiếu hạnh, và được Đức Phật đã
thuyết giảng đề tài này trong nhiều kinh khác nhau như Kinh Báo Phụ Mẫu Ân,
kinh Thai Cốt, kinh Hiếu Tử, kinh Đại Tập, kinh Nhẫn Nhục, kinh Vu Lan.. nhắc
đến công lao dưỡng dục của cha mẹ, Phật dạy: "muôn việc ở thế gian, không gì hơn
công ơn nuôi dưỡng lớn lao của cha mẹ" (Kinh Thai Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục
dạy: "cùng tốt điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tốt điều ác không gì hơn bất
hiếu". Bởi Phật Giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu như thế nên thích hợp với nếp
sống đạo lý truyền thống của dân tộc Việt.


Nhìn chung, đạo lý hiếu ân trong ý nghĩa mở rộng có cùng một đối tượng thực
hiện là nhắm vào người thân, cha mẹ, đất nước, nhân dân , chúng sanh, vũ trụ, đó là
môi trường sống của chúng sanh gồm cả mặt tâm linh nữa. Đạo lý Tứ Ân còn có
chung cái động cơ thúc đẩy là Từ Bi, Hỷ Xã khiến cho ta sống hài hòa với xã hội,
với thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc chân thực và miên trường. Từ cơ sở tư tưởng
triết học và đạo lý trên đã giúp cho Phật Giáo Việt Nam hình thành được một bản
sắc đặc thù rất riêng biệt của nó tại Việt Nam, góp phần làm phong phú và đa dạng
hóa nền văn hóa tinh thần của dân tộc Việt.
2.2.2. Ảnh hưởng của Đạo Phật đếnvăn hóa xã hội Việt Nam
a.
Ảnh hưởng Phật Giáo qua ngôn ngữ:
Trong đời sống thường nhật cũng như trong văn học Việt Nam ta thấy có nhiều từ
ngữ chịu ảnh hưởng ít nhiều của Phật Giáo được nhiều người dùng đến kể cả
những người ít học. Tuy nhiên không phải ai cũng biết những từ ngữ này được phát
xuất từ Phật Giáo, chẳng hạn như khi ta thấy ai bị hoạn nạn, đau khổ tỏ lòng
thương xót, người ta bảo "tội nghiệp quá". Mọi người điều nói tội nghiệp nhưng
không phải nhiều người biết được đó là một từ ngữ nói lên một chủ thuyết rất căn

bản của Phật :"thuyết nhân quả báo ứng" thuyết này cũng đi sâu vào nhận thức dân
gian với những cách như "ở hiền gặp lành, gieo gió gặp bão" Hoặc khi muốn diễn
tả một vật gì đó quá nhiều, người ta dùng danh từ "hằng hà sa số". Nếu hỏi hằng hà
sa số là cái gì chắn chắn ít ai hiểu chính xác, họ chỉ biết đó là nói rất nhiều, bởi khi
xưa Đức Phật thường thuyết pháp gần lưu vực sông Hằng (Gange) ở Ấn Độ, cho
nên khi cần mô tả một con số rất nhiều, ngài thí dụ như số cát sông Hằng. Còn
nghiều từ ngữ khác như từ bi, hỷ xã, giác ngộ, sám hối đã được người dân Việt
Nam quen dùng như tiếng mẹ đẻ mà không chút ngượng ngập lạ lùng. Sự ảnh
hưởng phật giáo không ngừng ở phạm vi từ ngữ mà nó còn lan rộng, ăn sâu vào
những ca dao dân ca và thơ ca của người dân Việt Nam nữa
b.
Ảnh hưởng ủa Phật giáo qua ca dao và thơ ca
Ca dao dân ca là một thể loại văn vần truyền khẩu, dễ hiểu trong dân gian, được lưu
truyền từ đời này sang đời khác. Ca dao dân ca phổ biến dưới dạng thơ lục bát bao gồm
nhiều đề tài khác nhau, tư tưởng đạo lý của phật giáo cũng thường được ông cha ta đề cập
đến trong ca dao dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở, khuyên răng dạy
bảo, với mục đích xây dựng một cuộc sống an vui phù hợp với truyền thống đạo đức của
dân tộc Việt Nam.
Đất vua, chùa làng là một hình ảnh gần gũi với dân, với làng, vơí nước như vậy, nếu ai
xúc phạm đến chùa, phật thì cũng có thể hiểu là xúc phạm đến đạo lý, đến quốc gia.
Trên tinh thần đó người dân Việt Nam quyết một lòng bảo vệ ngôi chùa quê hương của
mình:
“Bao giờ cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền”


Cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt có nhiều lễ hội, mà lễ hội chùa là chiếm tỷ lệ
cao hơn hết:
“Nhớ ngày mùng bảy tháng ba
Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy”

“Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu”
Dân gian Việt Nam vốn có cách định thời gian bằng đêm năm canh, ngày sáu khắc hoặc
bằng tiếng gà, tiếng chim nhưng thường khi lại là tiếng chuông, tiếng trống của chùa:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông linh Mụ canh gà thọ Xương
Trên chùa đã động tiếng chuông
Gà Thọ Xương đã gáy, chim trên nguồn đã kêu”
Là người Việt Nam không thể không hiếu kính cha mẹ, niềm tri ơn và báo ơn ấy đã trở
thành bản tính tự nhiên, ăn sâu vào tâm khảm của người dân Việt. Đạo phật là đạo hiếu,
lời dạy của phật về việc nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là những cảm giác suy tư in đậm trong
lòng của người Việt, và đã thể hiện linh động và triền miên ngang qua ca dao dân ca, mà
chúng ta thấy tràn ngập khắp dân gian Việt Nam:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Về sự ảnh hưởng quan niệm nhân quả: Người Việt Nam thường nhắn nhủ nhau
chớ có vì danh lợi phù hoa, làm ác hại người để rồi chuốc lấy đau khổ. Hãy ăn ở cho
lương thiện rồi thế nào cũng gặp điều tốt lành, may mắn và hạnh phúc:
Ai ơi hãy ở cho lành
Kiếp này chẳng gặp đề dành kiếp sau.
Các bậc cha mẹ lại càng tu nhân tích đức cho con cháu về sau được nhờ:
Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Ngang qua các câu ca dao của Việt Nam về hình ảnh của ngôi chùa, về quan niệm
hiếu hạnh, quan niệm nhân quả, ta thấy sự ảnh hưởng của phật giáo đã ăn sâu vào đời
sống của dân tộc Việt Nam. Sự ảnh hưởng sâu sắc đó không thể hiện qua ca dao bình dân
mà còn chiếm nhiều trong loại hình thơ ca, văn vần, văn xuôi, nói chung là văn chương
bác học trong nền văn học Việt Nam.



Ảnh hưởng phật giáo qua các tác phẩm văn học:
Bên cạnh ca dao bình dân, trong các tác phẩm văn học của các nhà thơ, nhà văn
chúng ta cũng thấy có nhiều bài thơ, tác phẩm chịu ảnh hưởng nhiều hay ít của phật
giáo.
Tác phẩm chữ nôm nổi tiếng trong thế kỷ thứ mười tám là Cung Oán Ngâm Khúc của
nhà thơ Việt Nam Nguyễn Gia thiều (1741-1798). Nội dung tác phẩm chịu nhiều ảnh
hưởng của phật giáo, nhất là triết lý ba pháp ấn Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Khi diễn tả
thân phận con người vốn khổ đau và mang tính vô thường Theo cái nhìn của phật giáo,
khi mô tả nỗi khổ chúng sanh thường được dùng ẩn dụ như khỗ ải (bể khổ).
c.

Qua thế kỷ thứ mười chín, với thi hào Nguyễn Du (2765-1820) ta có được một án
văn bất hủ là Truyện Kiều. Trong truyện, ta thấy nổi bật nhất là thuyết về Khổ Đế, một
phần quan trọng của giáo lý Tứ Diệu Đế, kế đó là tinh thần về hiếu đạo và thuyết về nhân
quả và nghiệp báo. Ngoài ra, Mạnh Chu Trinh (1862-1905) một nhà thơ VN người làng
Phú Thị, huyện Khoái Châu, tỉnh Hải Hưng, ông đậu tiến sĩ năm 1902. Là một người tài
hoa về thơ, giỏi và thích kiến trúc, ông đã từng vẽ kiểu và trùng tu chùa Thiên Trù ở
Hương Tích. Cũng trong thời gian (giữa những năm 1891-1892) xây dựng chùa này mà
ông đã sáng tác nhiều bài thơ độc đáo về phong cảnh Hương Tích và tất nhiên thơ của
ông cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần của Phật Giáo
Còn nhiêu nhà thơ nổi tiếng khác như Hàn Mạc Tử, Vũ Hoàng Chương, Chu
Mạnh Trinh cũng chịu nhr hưởng sâu sắc của tư tưởng Phật giáo.
Điểm qua một số thơ văn Việt nam có những ảnh hưởng của Phật Giáo như trên ta
thấy tư tưởng, triết học Phật Giáo đã để lại dấu ấn của mình sâu đậm trên diễn đàn tư
tưởng của Việt Nam. Không chỉ ảnh hưởng trên mặt văn chương xuất bản mà Phật
Giáo còn có mặt trong nhiều phong tục tập quán ở Việt Nam.

d. Ảnh hưởng Phật Giáo qua phong tục, tập quán :

Phong tục tập quán thể hiện đặc sắc và tính đặc thù về văn hóa của mỗi dân tộc.
Thông qua việc tìm hiểu phong tục tập quán, người ta tìm lại được những giá trị văn
hóa mang bản chất truyền thống của các dân tộc. Đối với người Việt Nam, những
phong tục tập quán chịu ảnh hưởng phật giáo khá nhiều. Song ở đây người viết chỉ đề
cập đến những tập tục phổ biến trong đời sống hằng ngày của người Việt, như: tập tục
ăn chay, thờ phật, phóng sanh và bố thí, tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa, nghi
thức ma chay, cưới hỏi ,đốt vàng mã, tập tục coi ngày giờ, cúng sao hạn , tập tục xin
xăm, bỏi quẻ
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển đã chịu nhiều
tác động của trào lưu văn hóa khác nhau. Nhất là từ Trung Quốc. Trong đó Phật giáo
đã dự phần quan trọng trong việc định hình và duy trì không ít các tập tục dân gian mà
chúng ta thấy vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Tuy nhiên, không phải các tập tục có sự


ảnh hưởng của Phật giáo là tốt tất cả, mà trong đó có tập tục cần phải chắc lọc lại để
phù hợp với chánh pháp. Đó là nhiệm vụ nặng nề của các nhà truyền giáo trong thời
hiện đại. Bên cạnh sự ảnh hưởng trong các phong tục tập quán của dân tộc. Phật giáo
còn ảnh hưởng qua các loại hình nghệ thuật như, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật sân
khấu cải lương...
d.
Ảnh hưởng của Phật giáo qua các loại hình nghệ thuật
Phật giáo thể hiện qua nghệ thuật sân khấu (Hát bội, hát chèo, cải lương và kịch nói).
Nghệ thuật sân khấu cũng là một loại hình văn hóa, nhất là các chủng loại này thuộc về di
sân mang tính bản sắc của văn hóa dân tộc song song với những phần đã nêu ra ở trên.


Tính triết lý "nhân quả báo ứng" của Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong các
bài ca tuồng, vở diễn phù hợp với đạo lý phương đông và nếp sống truyền thống
của dân tộc. Nổi bật là các vở chèo cổ vở chèo "Quan Âm Thị Kính" , vở "Trương
Viên", "Lưu Bình Dương Lễ", "Kim Nhan", "Chu Mãi Thần"...


Thứ hai, hát bội ban đầu đi vào nếp sống cung đình, khác với chèo cổ, nghệ
thuật này trở nên một loại hình giải trí cao cấp dành cho vua chúa và giới thượng lưu,
một phía khác là nó dành cho những ai có trình độ thưởng thức nghệ thuật, tương đối
thì mới có thể xem và cảm nhận được chủng loại độc đáo này. Có thể nói xuyên suốt
thế kỷ thứ 19 là thời đại hoàng kim của nghệ thuật hát bội. Các vở "San Hậu"; "Tam
Nữ Đồ Vương"; "Diễn Võ Đình", "Nghiêu Sò Ốc Hến"... là những vở mang tính chất
dân tộc chính thống và chứa đựng toàn vẹn triết lý "nhân quả báo ứng" và hướng thiện
một cách cao đẹp.
 Sau cùng là kịch nói. Kịch nói chưa có đóng góp gì đáng kể cho Phật giáo như các
loại hình nghệ thuật khác. Tuy nhiên nội dung cũng hàm chứa nhiều căn ban đạo
đức dân tộc trong đó có ảnh hưởng Phật giáo.


Ảnh hưởng Phật giáo qua nghệ thuật tạo hình :

Về kiến trúc : Khi Phật giáo truyền vào Việt Nam, cố nhiên đã đem theo các
kiểu kiến trúc chùa tháp, lầu chuông gác trống theo mô hình kiến trúc của Ấn Độ,
Miến Điện và Trung Hoa. Tuy nhiên theo thời gian, tinh thần khai phóng của Phật giáo
phối hợp cung với lối tu duy tổng hợp của dân tộc Việt đã tạo ra một mô hình kiến trúc
rất riêng cho Phật giáo ở Việt Nam. Chùa tháp ở Việt nam thường được xây dựng với
lối kiến trúc đặc biệt, mái chùa bao giờ cũng ẩn dấu sau lũy tre làng, dưới gốc cây đa
hay ở một nơi có cảnh trí thiên nhiên đẹp hoặc thanh vắng. Phật giáo để lại nhiều quần
thể kiến trúc độc đáo và danh lam thắng cảnh cho nước Việt, nhiều ngôi chùa nổi tiếng
như ở miền Bắc có chùa Một Cột, chùa Tây phương, chùa Hương, ở miền Trung có
chùa Thiên Mụ, chùa Từ Hiếu, chùa Báo Quốc, và ở miền Nam có các chùa Giác Lâm,
chùa Vĩnh Tràng...


Chùa Bút Tháp ( Bắc Ninh )

Đền Bà chúa kho

Về điêu khắc : Phật giáo có ản hưởng khá lớn trong lĩnh vực. Tiêu biểu ta thấy
có các tác phẩm như tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay . Chùa Hạ (Vĩnh Phú, Bắc
Việt, cao 3,2m), 16 pho tượng tổ gỗ của chùa Tây Phương (Hà Tây, Bắc Việt), Bộ
tượng Thập Bát La Hán chùa Phước Lâm (Hội An, Quảng Nam Đà Nẵng), Bộ tượng
Thập Bát ở chùa Tràng (Mỹ Tho), tượng Tuyết Sơn chùa Trăm Gian (Hà Tây).

Tượng phật Quan âm nghìn mắt
nghìn tay ( chùa Bút Tháp )

Tượng Phật

Về hội họa : Mái chùa cổ kính giữa núi non tĩnh mịch hay các lễ hội viếng chùa
ngày đầu xuân hoặc tư tưởng độc đáo của triết học, của thiền học Phật giáo luôn là đề
tài gây nhiều cảm hứng cho các nghệ nhân và họa sĩ Việt Nam. Nhiều trang lụa, tranh
màu nước, sơn dầu, sơn mài đề cập đến Phật giáo đã được các họa sĩ, nghệ nhân lên
tuổi ở Việt Nam thể hiện một cách sống động và tinh tế qua các tác phẩm như "chùa
Thầy" của Nguyễn Gia Trí sáng tác năm 1938, "Lễ Chùa" của Nguyễn Siêu, "Bức
Tăng" của Đỗ Quang Em, "Đi Lễ Chùa" của Nguyên Khắc Vịnh. Đặc biệt từ thập niên
tám mươi trở lại đây, có "Thiền Quán", "Quan Âm Thị Hiện"; "Bích Nhãn", "Rừng
Thiền" của họa sĩ Phượng Hồng, "Hồi Đầu Thị Ngạn" của Huỳnh Tuần Bá; "Nhất Hoa
Vạn Pháp" của Văn Quan...



Bức tranh Chùa Thầy
( Nguyễn Gia Trí )

Đến đây, chúng ta có thể kết luận rằng những tư tưởng và hình ảnh của Phật giáo

đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong phong tục tập quán, trong văn học và nghệ thuật
của người Việt Nam trong lịch sử và nó sẽ tiếp tục tỏa sáng cái tinh hoa độc đáo của
mình cho dân tộc Việt nói riêng và cả nhân loại nói chung trong tương lai.

II.

KẾT LUẬN

Đạo Phật được hình thành và phát triển từ rất sớm ở Ấn Độ và lan rộng sang các
quốc gia, nền văn minh khác trên toàn thế giới. Đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam từ
những kỷ nguyên Tây lịch, rồi tồn tại, phát triển và chan hòa với cộng đồng xã hội cho
đến tận hôm nay. Nếu thời gian là thước đo của chân lý thì với bề dày lịch sử đó, Đạo
Phật đã khẳng định chân giá trị của nó trên mãnh đất này. Trong các lĩnh vực xã hội,
văn hóa, chính trị đặt biệt là xét trên khía cạnh hệ thống tư tưởng, thì Đạo Phật đã trực
tiếp hoặc gián tiếp góp phần hình thành một quan niệm sống và sinh hoạt cho con
người Việt Nam. Tạo nên sự đa dạng, phong phú cùng với những nét riêng biệt, đặc
trưng của đời sống văn hóa, tinh thần của con người. của xã hội Việt Nam qua các thời
kỳ lịch sử.

Chú Thích:
[], [3]
[2]

Lê mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB Thuận Hóa 1999, tập I

Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo Sử luận, NXB Văn học 1979, tập III

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Dương Minh, Lịch sử văn minh Thế giới, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012
2. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999

3. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB Thuận Hóa, 1999, tập 1


4. Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam, bài của Trong Bang trên: Diễn dàn trung
tâm mic
5. Almanach những nền văn minh thế giới, NXB Văn hóa Thông tin Hà Nội, 2006
6. Vũ Dương Ninh, Phan Văn Ban, Nguyễn Công Khanh, Đinh Trung Kiên: Lịch sử Ấn Độ, NXb Giáo
dục, Hà Nội, 1996
7. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo Sử luận, NXB Văn học 1979, tập III
8. />9. />10. />11. trithc-hay-la-mt-ton-giao.html
12. />


×