Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.89 KB, 35 trang )

HỘI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN
KHU VỰC DUYÊN HẢI- ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

HỘI THẢO KHOA HỌC LẦN THỨ VIII
Chuyên đề:
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG NGHỊ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI ĐẶT
RA TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC

1


A.MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
1. Ý nghĩa lí luận:
1.1. Văn học là một môn học khá đặc biệt trong nhà trường vì có tính chất
hai mặt: vừa là môn nghệ thuật, vừa là môn học. Học sinh học văn để trau dồi vốn
sống, tư duy, bồi dưỡng cách cảm thụ thẩm mĩ, mặt khác cũng là để có các kĩ năng
liên quan đến ngôn ngữ và diễn đạt, cụ thể nhất là kĩ năng tiếp nhận và tạo lập văn
bản. Hiện nay, cả kĩ năng đọc và viết văn bản đều được coi trọng ngang nhau với
mục đích thực dụng nhất là ngay cả các em học sinh sau này không theo ngành văn
chương cũng có khả năng đọc, viết tốt trong lĩnh vực công việc và nghề nghiệp của
mình. Với mục đích thiết thực đó, việc dạy-học phân môn làm văn trong nhà
trường càng được đề cao. Mà nhiệm vụ chính của phân môn làm văn là giúp học
sinh hình thành kĩ năng cần thiết để tạo lập được nhiều kiểu văn bản. Vì thế, chúng
tôi nghĩ đề tài “Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm
văn học” có thể là một đóng góp trong việc hình thành phương pháp, kĩ năng viết
văn bản nghị luận cho học sinh.
1.2. Sách giáo khoa Ngữ văn THPT hiện nay được thiết kế tích hợp ba phân
môn: Đọc văn, Làm văn và Tiếng Việt. Ưu điểm của sự tích hợp này là học sinh có
thể kết nối bài học của từng phân môn: học ngữ để áp dụng vào đọc văn, viết văn,
đọc văn và ngược lại viết văn đề soi vào ngữ, vào các văn bản văn học. Theo


chúng tôi, dạng đề nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn họ là một
cách giúp học sinh củng cố sâu sắc hơn phần đọc văn trong chương trình và gián
tiếp rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản (cả văn bản mới) cho các em. Đặc biệt, viết về
một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học, các em còn rèn cách đọc sâu,
nghiềm ngẫm và sáng tạo, phát huy được ý kiến riêng của bản thân về tác phẩm và
có cơ hội để tiếp cận với những văn bản mới, kích thích khả năng cảm thụ văn học.
2. Ý nghĩa thực tiễn:
2.1. Hiện nay, trong phân môn làm văn, nghị luận xã hội là dạng bài đang
được coi trọng. Cấu trúc của các đề thi văn quốc gia (cả THPT quốc gia lẫn học
sinh giỏi văn quốc gia) đều xuất hiện dạng bài này. Một tạp chí thân thiết với giáo
viên và học sinh văn trên toàn quốc là Văn học và tuổi trẻ cũng bám sát dạng bài
2


trên và đã cho in 2 tập “Tuyển tập đề bài và bài văn nghị luận xã hội”… Học sinh
đang có nhu cầu rất lớn được rèn luyện, củng cố kĩ năng làm văn nghị luận xã hội.
Bản thân giáo viên dạy văn cấp THPT ngoài việc tự học, tự thiết kế bài giảng,
cũng rất cần nguồn tư liệu tham khảo về dạng bài này khi mà nguồn sách tham
khảo đang rất mông mênh, “vang thau lẫn lộn”… Vì thế, chúng tôi mong muốn
chuyên đề này có thể còn góp một tài liệu tham khảo về văn nghị luận xã hội cho
giáo viên và học sinh.
2.2. Sau mỗi kì thi văn cấp quốc gia, báo chí, dư luận đều quan tâm đặc biệt
đến câu nghị luận xã hội trong đề thi. Vì bản thân nghị luận xã hội là một dạng đề
văn mở (nếu xét mở theo nghĩa không thể có một đáp án chung tối ưu, người viết
có thể tự do và độc lập nêu lên suy nghĩ, quan điểm và thể hiện sự diễn đạt của
mình…) nên nó là cái phần hấp dẫn, phóng khoáng nhất trong cấu trúc đề thi. Bởi
thế, bên cạnh những đề bài đơn giản, truyền thống để hình thành kĩ năng cơ bản về
kiểu bài, việc ra đề hay, đề mới để học sinh (đặc biệt là học sinh giỏi) rèn luyện
luôn là thách thức với giáo viên. Theo chúng tôi, dạng bài nghị luận về vấn đề xã
hội đặt ra trong một tác phẩm văn học có thể coi là một “lối thoát”. Với sự phong

phú của các tác phẩm trong và ngoài sách giáo khoa, với sự đa nghĩa của văn bản
văn học và sự vận động không ngừng của văn bản trong sự tiếp nhận của người
đọc, chúng tôi nghĩ, dạng bài này sẽ luôn mới mẻ, hấp dẫn, kích thích học sinh. Vì
thế, chuyên đề này còn có mục đích nữa là giúp giáo viên và học sinh tạo ra những
đề bài và bài làm văn thực sự mới mẻ, sáng tạo.
II. Cấu trúc chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của chuyên đề bao gồm các mục:
I. Khái quát chung về văn nghị luận xã hội và dạng bài “Nghị luận về vấn đề
xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học”.
II. Các kiểu đề bài “Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn
học” và gợi ý về phương pháp làm bài.
III. Một số đề bài luyện tập.

3


B.NỘI DUNG
I. Khái quát chung về văn nghị luận xã hội và dạng bài “Nghị luận về vấn đề
xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học”
1.Văn nghị luận xã hội
1.1. Khái niệm và đặc trưng của văn nghị luận
“Nghị luận” theo cách giải thích của Từ điển Tiếng Việt hiện hành là bàn
bạc một vấn đề nào đó cho rõ phải trái, đúng sai. Từ đó, văn nghị luận có thể hiểu
là bài văn dùng phán đoán, lí lẽ, dẫn chứng, lập luận để đánh giá, bàn luận về vấn
đề nào đó một cách thuyết phục.
Đặc trưng cơ bản của văn nghị luận có thể nói ngắn gọn: là văn nói lí, nói lẽ.
Đây là loại văn bản thiên về trình bày các ý kiến lí lẽ, tác động mạnh vào lí trí, trí
tuệ của người đọc. Phương thức biểu đạt chủ yếu của bài văn là nghị luận: người
viết chỉ nhằm bàn bạc, đánh giá một luận đề chứ không nhằm phản ánh hiện thực
hay xây dựng hình tượng… Vì thế, việc viết văn bản nghị luận giúp học sinh hình

thành tư duy lí luận và kĩ năng lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục.
1.2. Khái niệm và vai trò của văn nghị luận xã hội trong nhà trường
Có nhiều tiêu chí để phân loại văn nghị luận. Cách phổ biến hiện nay là chia
theo đề tài (đối tượng) gồm: nghị luận xã hội và nghị luận văn học.
Nghị luận văn học là bài văn nghị luận bàn về các vấn đề văn chương nghệ
thuật. Còn nghị luận xã hội là bài văn bàn về các vấn đề xã hội, tức là các vấn đề
thuộc mọi quan hệ và hoạt động của con người trên tất cả các các bình diện của
xã hội như: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, đạo đức, môi trường… Tuy
nhiên, nghị luận xã hội trong nhà thường hiện nay chủ yếu hướng vào đề tài đạo
đức-nhân sinh, những vấn đề giúp học sinh hình thành quan niệm sống, thái độ
sống, lối sống đúng đắn để từ đó tự hoàn thiện nhân cách của bản thân và xác lập
được mối quan hệ tốt đẹp với xung quanh.
Nghị luận xã hội là một dạng bài văn khá quan trọng trong nhà trường vì
không phải học sinh nào rồi cũng sẽ theo con đường văn chương nhưng ai cũng
phải đối diện với những vấn đề xã hội. Trong nhiều công việc, nhiều trường hợp, ta
vẫn phải giải thích, chứng minh, phải thể hiện thái độ, tư tưởng trước một vấn đề
4


nào đấy và phải thuyết phục một đối tượng nào đó theo lẽ phải của mình. Vì thế,
với tác dụng rèn luyện tư duy logic, kĩ năng lập luận chặt chẽ, nghị luận xã hội là
một dạng bài mà học sinh nào cũng cần biết viết để thỏa mãn được những yêu cầu
của công việc và cuộc sống đặt ra sau này.
1.3.Yêu cầu của bài văn nghị luận xã hội trong nhà trường
Một câu hỏi cần đặt ra trước khi nêu lên yêu cầu đó là: nhìn đại thể, bài văn
nghị luận xã hội của học sinh đang ở mức độ chất lượng như thế nào? Chúng tôi
nghĩ rằng, từ góc độ đại trà, bài viết của học sinh vẫn là một bài tập làm văn- tức là
tập viết theo một yêu cầu, một quy cách, khuôn hình nào đó về bố cục, cấu trúc,
diễn đạt… Thêm nữa, không phải học sinh nào cũng có năng lực ngôn ngữ, khả
năng tư duy lí luận tốt nên bài viết của các em khó có thể trở thành một tác phẩm

văn học (nếu hiểu văn học theo nghĩa rộng). Tuy nhiên, trường hợp đặc biệt, các
em học sinh khá, giỏi khi gặp những đề bài khơi gợi hứng thú, chọn lựa những
hình thức sáng tạo để nghị luận: bức thư, trang nhật kí… thì hoàn toàn có thể coi
đó là một tác phẩm văn học nhỏ. Để đạt được mục đích là bàn bạc thuyết phục,
mỗi học sinh sẽ có cách viết khác nhau song cũng cần đặt ra một vài yêu cầu cần
đảm bảo với bài văn nghị luận xã hội đúng:
- Trước tiên, bài viết phải đảm bảo màu sắc của văn nghị luận như: có hệ
thống luận điểm, lí lẽ và cách lập luận thuyết phục, dẫn chứng xác đáng, vận dụng
đúng và linh hoạt các thao tác nghị luận, thể hiện rõ thái độ, cách đánh giá của
người viết về vấn đề.
-Sau đó, bài văn phải đảm bảo màu sắc xã hội như: thể hiện được hiểu biết
xã hội, lấy được những dẫn chứng thực tế, liên hệ với thực tế và bản thân…, từ ngữ
phải có tính xã hội, tính học thuật cao…
- Cuối cùng, bài viết phải đảm bảo được cách trình bày khoa học của một bài
văn nói chung với bố cục 3 phần: mở, thân, kết (ngay cả những bài viết sử dụng
hình thức trình bày sáng tạo như nhật kí, bức thư…).
1.4.Các dạng bài văn nghị luận xã hội:
Hiện nay nghị luận xã hội được chia thành 3 dạng nhỏ sau:

5


-Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí là bài văn bàn về một vấn đề thuộc lĩnh
vực tư tưởng, đạo đức, quan điểm nhân sinh. Các tư tưởng, đạo lí đó thường có
tính khái quát, tính quy luật cao.
-Nghị luận về một hiện tượng xã hội là kiểu bài văn bàn về một sự việc, hiện
tượng có thật trong đời sống xã hội, có vấn đề đáng suy nghĩ.
-Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là bàn về một
hiện tượng xã hội hoặc một tư tưởng, đạo lí có ý nghĩa, đáng suy ngẫm được gợi
mở từ một tác phẩm văn học.

2. Dạng bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
2.1. Thế nào là vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học?
Tác phẩm văn học là sản phẩm nghệ thuật bằng ngôn từ “thể hiện những
khái quát bằng hình tượng về cuộc sống con người và biểu hiện tâm tư, tình cảm,
thái độ của chủ thể trước thực tại” (Theo “Từ điển thuật ngữ văn học- Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên). Nó luôn là một chỉnh thể thẩm mĩ
được cấu thành từ nhiều yếu tố trong sự thống nhất giữa nội dung và hình thức.
Qua định nghĩa đó, có thể thấy, tác phẩm văn học là một sự mã hóa những
ấn tượng, nhận thức, tình cảm, tâm trạng của nhà văn về thế giới hiện thực khách
quan. Đó là nơi nhà văn kí thác, gửi gắm, khẳng định những quan điểm nhân sinh,
lí tưởng thẩm mĩ của mình. Khi nhà văn phản ánh, tái hiện hiện thực (mà điều cốt
lõi là thể hiện những khám phá về con người) dựa trên những quan niệm nhân sinh,
khả năng hình dung, tưởng tượng về thực tại thì đồng thời anh ta cũng bày tỏ thái
độ, tình cảm, tư tưởng, đưa ra những đánh giá đạo đức và thẩm mĩ nhất định về cái
mà mình phản ánh. Vì thế, tác phẩm văn học nào cũng có mối liên hệ với hiện thực
đời sống và chứa đựng những quan niệm, tư tưởng sâu sắc về con người, cuộc đời.
Như vậy, có hai cơ sở để nhận thấy vấn đề xã hội trong một tác phẩm văn
học: Một là, hiện thực khách quan được phản ánh trong tác phẩm luôn chứa đựng
những vấn đề bản chất nhất hoặc những hiện tượng phổ quát của đời sống xã hội.
Các vấn đề xã hội luôn hòa tan và tiềm ẩn trong hình tượng văn học, trong thế giới
nghệ thuật của tác phẩm. Hai là, sau thế giới hình tượng, ta luôn nhận được những
thông điệp nhất định ở tầng hàm nghĩa của văn bản chính là những tư tưởng, quan
niệm nhân sinh của nhà văn. Vì thế, bàn về một tác phẩm văn học, không thể
6


tránh các vấn đề xã hội dù bản chất nghệ thuật của văn học là sự hư cấu, tưởng
tượng.
Nhưng tác phẩm văn học không bao giờ là sự mã hóa có tính cố định, bất
biến. Sáng tạo tác phẩm là tác giả, song làm nên sự sống thực sự cho tác phẩm lại

là người đọc. Trong sự tiếp nhận của người đọc, tác phẩm văn học là một quá trình
vận động, biến đổi bởi sự cảm thụ của người đọc về tác phẩm là khác nhau ở mỗi
thời kì, giai đoạn lịch sử… Người đọc không hoàn toàn “thụ nghĩa” mà còn tham
gia tạo nghĩa cho tác phẩm bằng những tưởng tượng, suy tư, liên hệ của mình… Vì
thế, ngoài những vấn đề xã hội được nhà văn “đặt ra” trong tác phẩm, người đọc
còn có thể tự đặt ra hoặc liên hệ đến các vấn đề xã hội gần gũi khi tiếp nhận tác
phẩm. Hai chữ “đặt ra” không nên hiểu chỉ là sự “đặt để” của nhà văn mà còn là
những “đặt để” hoặc liên hệ của chính người đọc khi tiếp nhận tác phẩm. Tuy
nhiên, vì tác phẩm văn học vẫn có tính xác định nên sự cảm thụ của ngươi đọc luôn
phải phù hợp, hài hòa với tác phẩm, tránh áp đặt, khiên cưỡng.
Như vậy, từ góc độ lí luận văn học, ta thấy rằng mọi tác phẩm văn học đều
có thể trở trở thành nguồn đề tài cho văn nghị luận xã hội. Tác phẩm văn học nào
cũng là cũng chứa đựng ít nhiều những vấn đề xã hội, quan trọng là vấn đề xã hội
đó phải đáng suy ngẫm, có tính thời sự, tính giáo dục và phù hợp với tâm lý lứa
tuổi học đường.
Từ cơ sở trên, chúng tôi hiểu “vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học”
như sau:
-Một tư tưởng, quan niệm nhân sinh, một hiện tượng xã hội mà nhà văn đặt
ra, gửi gắm trong tác phẩm.
-Một tư tưởng, quan niệm nhân sinh, hiện tượng xã hội mà người đọc được
gợi mở hoặc có thể liên hệ khi tiếp nhận ý nghĩa của tác phẩm.
2.2. Mục đích và yêu cầu của dạng bài
Về mục đích, dạng bài này giúp học sinh:
-Tích hợp đọc-văn và làm văn, rèn cả kĩ năng đọc-hiểu văn bản văn học và
kĩ năng viết nghị luận xã hội.

7


- Hiểu sâu hơn tác phẩm văn học và liên hệ được với bản thân, với hoàn

cảnh thực tế.
- Hình thành những quan niệm thẩm mĩ và nhân sinh tích cực.
Về yêu cầu, chúng tôi tạm thời đặt ra một số yêu cầu sau:
-Yêu cầu về nội dung: xác định đúng vấn đề cần bàn từ tác phẩm văn học,
bày tỏ rõ ràng thái độ, cách đánh giá vấn đề trong bài viết, có những liên hệ xác
đáng và sâu sắc.
-Yêu cầu về kĩ năng:
+Có kĩ năng phân tích, cảm thụ văn bản/tác phẩm văn học và kĩ năng nghị
luận cơ bản. Tuy nhiên, đây không phải dạng bài nghị luận văn học nên học sinh
không được sa đà vào phân tích, cảm thụ tác phẩm mà phải hiểu đó chỉ là một thao
tác để xác định chính xác vấn đề nghị luận.
+ Diễn đạt lưu loát, biểu cảm, không sai ngữ pháp, chính tả.
2.3. Phương pháp chung triển khai vấn đề
Văn chương không chấp nhận công thức chung nhưng bài làm văn của học
sinh luôn cần có sự định hướng về các thao tác triển khai vấn đề. Vì thế, chúng tôi
xin được đưa ra cách thức chung triển khai vấn đề của dạng bài này như sau:
Bước 1: Phân tích (có kèm tóm tắt nếu cần) đoạn trích hoặc tác phẩm văn
học để rút ra vấn đề xã hội có ý nghĩa.
+Nếu đề văn nêu sẵn vấn đề xã hội thì chỉ cần phân tích qua vấn đề đó đã được thể
hiện như thế nào trong tác phẩm.
+Nếu đề văn chưa nêu sẵn vấn đề xã hội thì cần phân tích kĩ lưỡng để xác định
chính xác và đủ những vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm hoặc gợi mở từ
tác phẩm.
Bước 2: Bàn luận vấn đề
Theo chúng tôi, với dạng bài này, đề bài thường yêu cầu nêu suy nghĩ có
nghĩa là sự bàn luận sẽ sử dụng thao tác nghị luận hỗn hợp, trong đó, thao tác cơ
8


bản là phân tích, lí giải và bình luận, đánh giá… để người viết có thể làm sáng tỏ

vấn đề một cách thuyết phục.
-Nếu vấn đề xã hội là tư tưởng, đạo lí, học sinh tiến hành các thao tác sau:
+Giải thích khái niệm gắn với vấn đề (nếu cần)
+Phân tích, chứng minh biểu hiện của vấn đề (nếu cần)
+Lí giải cơ sở của tư tưởng, đạo lí cần bàn (với câu hỏi “Tại sao nói như vậy?”)
+Đánh giá tính đúng-sai, tích cực-tiêu cực và tác dụng, ý nghĩa của tư tưởng, đạo lí
với con người, với xã hội (với câu hỏi: tư tưởng, quan niệm ấy có đúng đắn, sâu
sắc không?, có ý nghĩa gì với tâm hồn, nhân cách con người, với xã hội…?).
+Mở rộng, liên hệ (đây cũng là một khâu của thao tác bình luận): xem xét tư
tưởng, đạo lí đó ở những phương diện, góc độ khác nhau (cần bổ sung gì? có mặt
nào chưa được? có thể đối chiếu với vấn đề tương đồng hoặc tương phản nào? có
thể liên hệ với thực tế nào hiện nay?...)
+Cuối cùng là rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân (ta có được nhận
thức sâu sắc nào? Bản thân cần phải có những hành động thiết thực, cụ thể ra sao?)
-Nếu vấn đề là hiện tượng đời sống, học sinh tiến hành các thao tác sau:
+ Giải thích khái niệm gắn với vấn đề (nếu cần).
+ Phân tích thực trạng và biểu hiện của hiện tượng.
+Phân tích nguyên nhân của hiện tượng.
+Đánh giá ảnh hưởng của hiện tượng với cá nhân, xã hội (nếu hiện tượng tiêu cực
thì nêu hậu quả, nếu hiện tượng tích cực thì nêu vai trò, tác dụng).
+Mở rộng bằng cách nêu giải pháp cho hiện tượng.
+Rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân.
Lưu ý với một số kiểu đề bài đặc biệt có sự giao thoa giữa tư tưởng, đạo lí
và hiện tượng đời sống thì sự bàn luận phải kết hợp linh hoạt cả hai cách triển khai
trên.
9


II. Các kiểu đề bài nghị luận về vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học và gợi ý
về phương pháp làm bài

1.Tiêu chí phân loại:
Chúng tôi đặt ra hai tiêu chí sau đề phân loại các kiểu đề bài của dạng bài
này:
-Thứ nhất, dựa vào nguồn gốc, phạm vi của vấn đề xã hội cần bàn, ta có:
+Bàn về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học trong nhà trường.
+Bàn về một vấn đề xã hội đặt ra trong một tác phẩm văn học mới (một bài
thơ, một câu chuyện ngắn gọn).
-Thứ hai, dựa vào cấu trúc nội dung của tác phẩm văn học, ta có:
+Bàn về ý nghĩa chung của tác phẩm văn học.
+Bàn về một ý nghĩa cụ thể của tác phẩm văn học.
+Bàn về một ý nghĩa được gợi mở từ tác phẩm văn học.
Chúng tôi tạm thời lựa chọn cách phân loại theo tiêu chí thứ hai.
2.Phương pháp triển khai vấn đề của từng kiểu đề bài:
2.1. Kiểu đề bài yêu cầu bàn về ý nghĩa chung của tác phẩm văn học
2.1.1. Nhận diện:
Kiểu đề này có thể gắn với tác phẩm văn học đã học hoặc với một tác phẩm
văn học mới. Tác phẩm văn học mới thường là một bài thơ ngắn giàu ý nghĩa triết
lí hoặc là một truyện ngụ ngôn, một truyện cực ngắn có dáng dấp ngụ ngôn- được
viết ra với mục đích gửi tới người đọc một thông điệp, một bài học giàu ý nghĩa.
Cần phân biệt truyện văn học với những câu chuyện thời sự, câu chuyện danh
nhân, ứng xử… bởi những câu chuyện như vậy không thể coi là tác phẩm văn học.
Còn với tác phẩm văn học đã học trong chương trình, đề bài không cần đưa
ra văn bản tác phẩm mà chỉ nêu yêu cầu trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của tác
phẩm. Có thể chọn một đoạn trích trong tác phẩm đề học sinh bàn về ý nghĩa của
nó.
10


Ý nghĩa tác phẩm ở đây trước tiên là tất cả những ý nghĩa mang tính xác
định mà nhà văn gửi gắm trog văn bản tác phẩm và sau nữa có thể là một ý nghĩa

nào đấy người đọc cung cấp cho văn bản với cách kiến giải thuyết phục.
Chúng tôi xin đưa ra một số đề văn tham khảo như sau:
“Một bài học sâu sắc với anh chị sau khi đọc bài thơ “Tôi yêu em” của nhà thơ
Nga Pu-skin.”
“Suy nghĩ về những thông điệp mà nhà văn Lưu Quang Vũ gửi đến người đọc qua
đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” .
“Anh chị có suy nghĩ gì về ý nghĩa của bài thơ “Tự do” của nhà thơ Pháp P.Ê-luya.
“ Suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của câu chuyện “Hai hạt mầm” (Có văn bản)
“Đọc bài thơ “Dặn con” của Trần Nhuận Minh (Có văn bản). Anh/chị suy nghĩ gì
về ý nghĩa của bài thơ?”
“Anh chị suy nghĩ như thế nào về ý nghĩa được gợi ra từ bài thơ sau:
“Mùa đông đang đến gần
Những bầy chim bắt đầu thấy lạnh
Rủ nhau bay về phương Nam lẩn tránh
Dù suốt mùa hè ca ngợi quê hương

Chỉ có đại bàng vẫn ngồi im
Lặng lẽ nhìn những hàng cây trút lá
Khi quê hương gặp những ngày băng giá
Đại bàng không bỏ bay đi”
(Raxun Gam-za-tốp)

11


2.1.2. Cách thức triển khai phần thân bài
a) Bước 1: Phân tích văn bản để tìm ra những ý nghĩa xã hội sâu sắc của tác
phẩm, từ đó khái quát chính xác vấn đề xã hội cần bàn.
Với tác phẩm mới, nếu là truyện, học sinh nên tóm tắt sơ lược rồi căn cứ vào
tình huống, sự việc, các chi tiết hành động, lời nói, tâm trạng… của nhân vật, nếu

là thơ, học sinh cần tìm ra bố cục, mạch luận lí, những hình ảnh, từ ngữ quan
trọng… để phát hiện ra ý nghĩa văn bản. Điều cần chú ý là một văn bản có thể có
chủ đề chính, phụ, tức là tồn tại nhiều ý nghĩa và mỗi văn bản đều có tính xác định
nên tránh gán ghép ý nghĩa không phù hợp.
b) Bước 2: Bàn luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm (theo cách triển khai ở
phần hướng dẫn chung).
Nếu văn bản đa nghĩa, ví như, học sinh tìm được hai vấn đề tư tưởng, đạo lí
trong văn bản thì nên tiến hành bàn song song, lồng ghép hai vấn đề sao cho linh
hoạt đúng theo các bước cơ bản của dạng bài mà ta đưa về.
Ví dụ, từ đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Lưu Quang Vũ), ta có
thể xác định được chủ đề, thông điệp chính của tác phẩm là: con người chỉ hạnh
phúc khi được sống là chính mình, sự tồn tại không gắn với bản ngã thực sự sẽ gây
ra những bi kịch tinh thần đau đớn, đồng nghĩa với cái chết. Nhưng bên cạnh đó,
có thể có một chủ đề khác liên quan đến quan niệm nghệ thuật về con người của
nhà văn, rằng: con người là một bản ngã đầy phức tạp, không thuần nhất, có phần
tầm thường, xấu xa, có phần thanh cao, thánh thiện… nên để sống cho ra sống, ta
cần phải không ngừng đấu tranh với cái tầm thường, dung tục, cái xấu xa trong con
người mình… Học sinh có thể bàn luận song song cả hai chủ đề này theo cách
thức: lí giải cho từng quan điểm, tư tưởng; gộp hai chủ đề vào một vấn đề lớn hơn
là thông điệp về lẽ sống để đánh giá xem tư tưởng của nhà văn có đúng đắn, sâu
sắc hay không và nó có ý nghĩa gì với tâm hồn, nhân cách của con người?... Sự liên
hệ, mở rộng có thể xuất phát từ một hoặc cả hai chủ đề… Nói chung, người viết
cần linh hoạt hơn với các văn bản không đơn nghĩa.
Thêm nữa,với văn bản đa nghĩa, ta nên chấp nhận việc học sinh có thể chỉ
phát hiện và bàn luận một vấn đề hoặc thậm chí có thể đưa ra cách hiểu riêng của
mình về ý nghĩa tác phẩm, miễn là sự bàn luận thuyết phục.
12


2.2. Kiểu đề bài yêu cầu bàn về một ý nghĩa cụ thể của tác phẩm văn học

2.2.1. Nhận diện:
Kiểu bài này thường gắn nhiều hơn với các tác phẩm văn học đã học. Đề bài
nêu lên một vấn đề xã hội cụ thể xuất phát từ một ý nghĩa của tác phẩm để người
viết bàn bạc. Tính mở của đề ít hơn bởi người viết đã có sẵn vấn đề nghị luận ở đề
bài.
Chúng tôi xin đưa ra một số đề tham khảo như sau:
“Bài ca dao hài hước “Cưới nàng anh toan dẫn voi…” (SGK Ngữ văn 10-Tập 1)
gợi cho anh chị suy nghĩ gì về lối sống cần có của con người?”
“Từ đoạn trích “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” (Thân Nhân Trung- SGK
Ngữ văn 10- tập 2), anh/chị hãy bàn về vai trò của người hiền tài với quốc gia?”
“Hãy bình luận về quan niệm “dại”, “khôn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ
“Nhàn” (SGK Ngữ văn 10, tập 2).
“Suy nghĩ về lối sống “trong bao” sau khi đọc xong truyện ngắn “Người trong
bao” (SGK Ngữ văn 11, tập 2) của Sê-khốp.”
“Từ bài thơ “Tôi yêu em” (SGK Ngữ văn 11, tập 2) của Pu-skin, hãy trình bày suy
nghĩ của anh/chị về cách ứng xử cao thượng trong tình yêu.”
“Hãy cùng Ta-go nói về những nghịch lí đầy bí ẩn của tình yêu từ “Bài thơ số 28”.
“Từ truyện ngắn “Vợ nhặt” (SGK Ngữ văn 12, Tập 2), anh/chị hãy bình luận về
sức mạnh của tình thương trong cuộc sống.”
“Suy nghĩ về giá trị của tự do sau khi đọc bài thơ “Tự do” (SGK Ngữ văn 12, tập
2) của nhà thơ Pháp P.Ê-luya.
“Đọc bài thơ “Quán hàng phù thủy” (có văn bản) và trình bày suy nghĩ về bài học:
Hạnh phúc phải do chính mình tạo ra.
“Đọc bài thơ “Dặn con” (có văn bản) của Trần Nhuận Minh và suy nghĩ về lòng
trắc ẩn trong cuộc sống.”

13


Theo chúng tôi, kiểu đề bài này có thể trích dẫn một đoạn trong tác phẩm và

yêu cầu học sinh suy ngẫm về nội dung, ý nghĩa cụ thể của đoạn trích:
Ví dụ: “Từ cảm nhận những câu thơ sau của Nguyễn Khoa Điềm: “Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình/Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân
cho dáng hình xứ sở/ Làm nên Đất Nước muôn đời” (Trích “Mặt đường khát
vọng”), anh/chị có suy nghĩ gì về mối quan hệ giữa mỗi con người với đất nước?”
Hoặc gần đây nhất là đề thi tốt nghiệp môn văn THPT năm 2014: người ra
đề cho một đoạn trích trong “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” yêu cầu học sinh cảm
nhận rồi sau đó trình bày suy nghĩ về khát vọng được sống là chính mình của nhân
vật hồn Trương Ba.
2.2.2. Cách thức triển khai phần thân bài:
a)Bước 1: Phân tích để thấy vấn đề xã hội nêu ở đề bài được thể hiện như thế nào
trong tác phẩm (hoặc đoạn trích).
Với tác phẩm đã học, chỉ cần phân tích ngắn gọn để thể hiện người viết hiểu
nguồn gốc của vấn đề trong tác phẩm.
Với đoạn trích trong một đoạn của tác phẩm thì học sinh cần phân tích kĩ
lưỡng hơn để rút ra nội dung, ý nghĩa của đoạn và khái quát thành vấn đề cần bàn.
Với tác phẩm mới, người viết cần tóm tắt, phân tích tình huông (với truyện),
nêu bố cục, mạch nội dung, phân tích hình ảnh (với thơ) để rút ra vấn đề xã hội cụ
thể mà đề bài nêu.
b)Bước 2: Bàn luận vấn đề theo hướng một tư tưởng, đạo lí hoặc một hiện tượng
xã hội (xem phần hướng dẫn chung).
2.3. Kiểu đề yêu cầu bàn về một ý nghĩa cụ thể được gợi mở từ tác phẩm văn
học
2.3.1. Nhận diện:
Với kiểu đề này, vấn đề xã hội được nêu cụ thể ở đề bài song nó không phải
là ý nghĩa đã xác định của tác phẩm mà là một ý nghĩa nào đó được gợi mở, liên hệ
từ tác phẩm. Vấn đề xã hội sẽ xuất phát từ mọi thành tố trong cấu trúc tác phẩm
như: nội dung của một đoạn, tư tưởng, cảm hứng của tác phẩm, một bức tranh đời
14



sống, một hình tượng thiên nhiên, con người, một chi tiết nghệ thuật giàu ý
nghĩa…
Đây là kiểu đề bài rất mở bởi người viết không minh họa lại nội dung, ý
nghĩa nào đó của tác phẩm mà phải mở rộng, liên hệ với các vấn đề xã hội gần gũi,
có liên quan.
Điều cần lưu ý là người ra đề tránh đặt ra những vấn đề xã hội xa rời với ý
nghĩa của yếu tố mà nó xuất phát vì sẽ khiên cưỡng, áp đặt và gây cảm giác hụt
hẫng, khó hiểu với học sinh. Ví như, từ hình tượng nhân vật Chí Phèo mà yêu cầu
học sinh bàn về sức sống tiềm tàng của con người, hay từ ý nghĩa của truyện ngắn
“Người trong bao” bàn về cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới…
Đặc biệt, nếu vấn đề xã hội xuất phát từ một cảnh tượng, một hình tượng,
chi tiết…trong tác phẩm thì cần nêu cụ thể ở đề bài để học sinh có thể khoanh vùng
nguồn gốc, hoàn cảnh xuất hiện vấn đề cần bàn. Ví dụ, theo chúng tôi, đề bài sau
chưa thật sự cụ thể, khoa học: “Từ truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu, anh/chị hãy bàn về nạn bạo hành gia đình”. Cách ra vấn đề
như thế tạo cảm giác khiên cưỡng, áp đặt bởi Nguyễn Minh Châu không viết
truyện này để tuyên truyền cho vấn đề bạo hành gia đình. Đề văn trên có thể sửa
lại như sau: “Từ cảm nhận về cảnh tượng người đàn bà hàng chài bị chồng đánh
trên bãi biển trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu,
anh/chị hãy bàn về nạn bạo hành gia đình”.
Chúng tôi xin đưa ra một số đề bài tham khảo như sau:
“Qua truyện cổ tích “Tấm Cám” (SGK Ngữ văn 10-Tập 1), anh/ chị có suy nghĩ gì
về cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong xã hội xưa và nay?”
“Qua bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” (SGK Ngữ văn 10- Tập 2) của Nguyễn Du, hãy
trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự tri âm trong cuộc sống?”
“Đọc bài thơ “Tiến sĩ giấy” (có văn bản) của Nguyễn Khuyến, anh/chị có suy nghĩ
gì về mối quan hệ giữa danh và thực trong cuộc sống hôm nay?”
“Từ cảm nhận về chi tiết nước mắt của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn “Chí
Phèo” (SGK Ngữ văn 11-Tập 1) của Nam Cao, anh/chị hãy viết bài văn bàn về

nước mắt trong cuộc sống.”
15


“Từ cảm nhận về hình tượng tiếng đàn trong bài thơ “Đàn ghi-ta của Lorca”
(Thanh Thảo) anh chị suy nghĩ gì về vẻ đẹp và sức mạnh của âm nhạc?”
“Từ cảm nhận về trận thủy chiến giữa sông Đà và người lái đò trong tùy bút
“Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, anh chị hãy trình bày suy nghĩ về mối
quan hệ giữa thiên nhiên và con người.”
“Từ việc cảm nhận hai câu thơ sau trong bài “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” của
Nguyễn Duy: “Ta đi trọn kiếp con người/ Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”,
anh/chị hãy phát biểu suy nghĩ của mình về tình mẫu tử trong xã hội hiện đại ngày
nay.”
Hay như một đề văn tham dự cuộc thi “Ra đề và viết văn theo hướng mở”
của ThS Phan Thị Mỹ Tiên trên “Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ” số tháng 3, năm
2013:
“Đọc đoạn thơ sau:
Với đôi cánh đẫm nắng trời
Bầy ong bay đến trọn đời tìm hoa
Không gian là nẻo đường xa
Thời gian vô tận mở ra sắc màu

Tìm nơi thăm thẳm rừng sâu
Bập bùng hoa chuối, trắng màu hoa ban
Tìm nơi bờ biển sóng tràn
Hàng cây chắn bão dịu dàng mùa hoa.
Tìm nơi quần đảo khơi xa
Có loài hoa nở như là không tên…

16



Bầy ong rong ruổi trăm miền
Rù rì đôi cánh nối liền mùa hoa
Nối rừng hoang với biển xa
Đất nơi đâu cũng tìm ra ngọt ngào

Chắt trong vị ngọt mùi hương
Lặng thầm thay những con đường ong bay
Trải qua mưa nắng vơi đầy
Men trời đất đủ làm say đất trời.
Bầy ong giữ hộ cho người
Những mùa hoa đã tàn phai tháng ngày
(Trích “Hành trình của bầy ong”- Nguyễn Đức Mậu)
Từ hình ảnh bầy ong trong đoạn thơ trên, em hãy viết một bài văn nghị luận nêu
suy nghĩ về những phẩm chất đáng quý của con người trong bài ca cống hiến cho
xã hội, đất nước.”
2.3.2. Cách triển khai phần thân bài:
a)Bước 1: Nêu và phân tích ý nghĩa của yếu tố trong tác phẩm gợi mở vấn đề xã
hội cần bàn (một bức tranh xã hội, một cảnh tượng, một hình tượng, một chi tiết,
nội dung của một đoạn hay của cả tác phẩm…).
Ví dụ: Với đề gắn với “Độc Tiểu Thanh kí” cần phân tích được mối tri âm của
Nguyễn Du với Tiểu Thanh và niềm khao khát được tri âm qua câu hỏi: “Bất tri
tam bách dư niên hậu/Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? ” rồi từ đó đặt ra vấn đề sự
tri âm giữa con người với con người trong cuộc sống.
Với đề gắn với “Đàn ghi-ta của Lorca”, người viết cần phân tích, cảm nhận
chung về hình tượng tiếng đàn và ý nghĩa của hình tượng này trong bài thơ rồi từ
đó khái quát v đề: vẻ đẹp, sức mạnh của âm nhạc trong cuộc sống.
17



b)Bước 2: Bàn luận vấn đề
-Nếu vấn đề xã hội được gợi mở từ một triết lý, quan niệm, thông điệp tư
tưởng trong tác phẩm… thì nên bàn luận, đánh giá ngắn gọn những nội dung đó rồi
mới đi vào bàn luận vấn đề mà đề bài yêu cầu.
-Nếu vấn đề xã hội được gợi mở từ một cảnh tượng, hình tượng, chi tiết…
trong tác phẩm thì sau khi phân tích, người viết đi vào bàn luận ngay.
III. Một số đề bài luyện tập
1. Kiểu đề yêu cầu bàn về ý nghĩa chung của tác phẩm văn học
Đề 1: Đọc câu chuyện sau:
Con lừa
Một ngày nọ, con lừa của một ông chủ trang trại xảy chân rơi xuống một cái
giếng. Con vật kêu la hàng giờ liền. Người chủ trang trại cố nghĩ xem nên làm gì.
Cuối cùng ông quyết định: con lừa đã già, dù sao cái giếng cũng cần được lấp lại
và không ích lợi gì trong việc cứu con lừa lên cả.
Ông nhờ vài người hàng xóm sang giúp mình. Họ xúc đất đổ vào giếng. Ngay từ
đầu, lừa đã hiêu chuyện gì đang xảy ra và nó kêu la thảm thiết. Nhưng sau đó lừa
trở nên im lặng. Sau một vài xẻng đất, ông chủ trang trại nhìn xuống giếng và vô
cùng sửng sốt. Mỗi khi bị một xẻng đất đổ lên lưng, lừa lắc mình cho đất rơi xuống
và bước chân lên trên. Cứ như vậy, đất đổ xuống, lừa lại bước lên cao hơn. Chỉ
một lúc sau mọi người nhìn thấy chú lừa xuất hiện trên miệng giếng và lóc cóc
chạy ra ngoài.
(Theo “Tài hoa trẻ”)
Suy nghĩ của em về ý nghĩa của câu chuyện?
A.Gợi ý chung:
-Vấn đề nghị luận: Cách thức tốt nhất vượt qua khó khăn trong cuộc sống là không
bao giờ đầu hàng trước số phận. Như vậy, vấn đề sâu xa cần bàn là ý chí, nghị lực
vượt lên nghịch cảnh của con người.
-Thao tác nghị luận hỗn hợp: bình luận, giải thích, phân tích, chứng minh…
18



B. Gợi ý triển khai vấn đề:
1.Giải thích ý nghĩa câu chuyện
-Hạt nhân của truyện là tình huống một con lừa vượt qua nghịch cảnh. Từ chỗ kêu
la thảm thiết khi bị rơi xuống giếng và có nguy cơ bị người chủ chôn sống, con lừa
đã ngừng kêu và tự cứu sống mình một cách dễ dàng: cứ một lớp đất đổ xuống, nó
lại dẫm lên trên và cuối cùng lên đến miệng giếng.
-Câu chuyện về con lừa ẩn chứa bài học: dù cuộc sống có đổ lên ta rất nhiều khó
khăn, có đẩy ta xuống vực thẳm của cái chết và sự tuyệt vọng thì ta vẫn có thể giải
quyết và thoát khỏi nó bằng cách thức vô cùng đơn giản là không bao giờ đầu hàng
và tìm cách biến khó khăn thành những bậc thang để vươn lên. Hàm nghĩa sâu hơn
của truyện là đề cao sức mạnh ý chí, nghị lực của con người.
2. Bàn luận:
2.1. Lí giải:
?Tại sao con người không bao giờ được phép đầu hàng trước nghịch cảnh?
-Đầu hàng đồng nghĩa với sự thất bại, với cái chết (hoặc thể xác, hoặc tinh thần). Ý
chí, nghị lực là một thứ sức mạnh tinh thần vô cùng kì diệu có thể giúp con người
“tìm ra tia sáng dưới đường hầm tăm tối”, thấy được cơ may, cơ hội trong những
hoàn cảnh ngặt nghèo nhất.
-Không có nghịch cảnh nào, khó khăn nào lại không có cách giải quyết nếu ta có
niềm tin, ý chí, nghị lực vượt qua.
2.1. Đánh giá ý nghĩa câu chuyện:
- Câu chuyện đem đến một bài học giản dị mà sâu sắc về cách thức vượt qua những
khó khăn, thử thách của cuộc sống đó là phải có niềm tin, ý chí, nghị lực.
-Câu chuyện cũng củng cố niềm tin của chúng ta vào sức mạnh tinh thần bên trong
của mỗi con người, nhất là trong hoàn cảnh xã hội hiện đại nhiều biến động, bất an
như hiện nay.
2.3. Mở rộng và liên hệ:


19


-Phê phán những con người yếu đuối, đầu hàng trước số phận; khẳng định những
con người giàu ý chí, nghị lực trong cuộc sống…
-Liên hệ đến lối sống thiếu ý chí, nghị lực của nhiều bạn trẻ ngày nay…
3. Bài học rút ra:
-Ý chí, nghị lực chính là sức mạnh giúp con người vượt qua mọi khó khăn, trở ngại
trong cuộc sống.
-Tìm ra thuận lợi trong từng khó khăn, biết đứng dậy, vươn cao sau những vấp ngã,
thất bại… là những hành động cần thiết để tôi rèn ý chí, nghị lực cho mỗi chúng ta.
Đề 2:
Thuốc chữa đau buồn
Chuyện kể về một người phụ nữ vừa mất con trai. Trong nỗi đau thương tột cùng,
bà tìm đến một nhà hiền triết. “Có lời cầu nguyện nào, câu thần chú nào mà ông
biết có thể làm con trai tôi sống lại không?”- lời của người mẹ thật sự tuyệt vọng.
Thay vì từ chối hoặc khuyên bà mẹ hãy nguôi ngoai, nhà hiền triết đáp: “Hãy tìm
về đây cho ta một hạt giống cây mù tạc từ gia đình nào chưa từng biết đến đau
khổ. Nó có thể dùng để xua tan đi nỗi đau của bà”.
Người phụ nữ cảm tạ và lập tức lên đường tìm hạt giống cây thần kì. Đầu tiên, bà
tìm đến một căn nhà lớn rất sang trọng, gõ cửa và hỏi: “Tôi đang tìm hạt giống
cây mù tạc từ ngôi nhà không bao giờ biết đến đau khổ. Có phải nơi này không?”
Họ trả lời rằng bà đã nhầm chỗ. Họ kể với bà những chuyện bi thảm đã đến với
mình. Nghe chuyện, bà ngồi lại và an ủi họ.
Rồi bà lại tiếp tục cuộc tìm kiếm gia đình hạnh phúc nhất. Nhưng bất cứ nơi nào
bà ghé vào, từ những căn nhà cao sang hay gác xép tồi tàn, bà đều được trả lời
bằng những câu chuyện buồn. Bà trở nên quan tâm và muốn giúp đỡ, chia sẻ nỗi
bất hạnh của người khác, đến nỗi sau cùng bà đã quên mất câu hỏi về hạt giống
cây mù tạc kia. Mà tự bao giờ, hạt giống cây mù tạc thần kì đó cũng đã mang nỗi
đau trước kia ra khỏi cuộc đời bà rồi”

(Theo “Thế giới trong ta”)
20


Suy nghĩ của anh chị sau khi đọc xong câu chuyện trên?
A.Gợi ý chung:
-Vấn đề cần bàn: sức mạnh của sự cảm thông, chia sẻ trong cuộc sống.
-Thao tác nghị luận hỗn hợp: bình luận, giải thích, phân tích, chứng minh…
B.Gợi ý triển khai vấn đề:
1.Giải thích, phân tích ý nghĩa câu chuyện:
-Câu chuyện kể về một người đàn bà đang đau buồn, tuyệt vọng vì mất con trai và
bà tìm đế một nhà hiền triết để xin một câu thần chú làm con trai mình sống lại.
Xin một điều không bao giờ có thể xảy ra, điều này vừa cho thấy nỗi khổ đau tột
cùng, vừa cho thấy niềm khao khát được giải thoát khỏi nỗi đau của người mẹ.
-Nhà hiền triết mách cho người mẹ một phương thuốc thần kì có thể chữa đau
buồn: hạt giống cây mù tạc ở một gia đình chưa từng biết đến đau khổ.
-Nhưng hành trình người mẹ đi tìm hạt giống thần kì ấy chính là hành trình nhận
thức của người mẹ về một thực tế thật khắc nghiệt của đời sống: nỗi buồn đau hiện
diện ở khắp nơi, từ những căn nhà cao sang hay những căn gác xép tồi tàn. Đó
cũng là hành trình để bà xua tan nỗi đau khổ: bà quên đi câu hỏi về hạt giống thần
kì mà chỉ còn sự quan tâm, mong muốn sẻ chia nỗi bất hạnh của người khác.
-Ý nghĩa câu chuyện: Chẳng có câu thần chú, phép màu nào có thể xua tan nỗi
buồn đau. Liều thuốc chữa đau buồn tốt nhất là mở rộng lòng để sẻ chia nỗi buồn
đau với những người xung quanh và ngược lại, đồng cảm, sẻ chia với nỗi buồn đau
của họ. Truyện khẳng định sức mạnh của sự cảm thông, chia sẻ trong cuộc sống.
2. Bàn luận:
2.1. Lí giải
?Vì sao sự cảm thông, chia sẻ có thể là liều thuốc chữa đau buồn?
-Khi ta mở rộng lòng chia sẻ nỗi buồn đau của mình với người khác, ta sẽ nhận
được sự đồng cảm, nỗi buồn tự khắc vơi đi.


21


-Khi ta chia sẻ, đồng cảm với nỗi buồn đau của người khác, ta sẽ quên đi, vượt qua
nỗi buồn đau của chính mình bởi nhận ra rằng buồn đau là một thuộc tính của cuộc
đời này, chẳng có ai hoàn toàn hạnh phúc… Ta sẽ hiểu hơn về mất mát và trân
trọng hơn sự sống của ta, những điều ta đang có…
2.2. Đánh giá
-Câu chuyện đem đến bài học vô cùng sâu sắc về cách ứng xử với nỗi buồn đau
trong cuộc sống, giúp ta hiểu hơn sức mạnh của tình yêu thương, sự đồng cảm, sẻ
chia. Nỗi đau sẽ vơi đi rất nhiều nếu con người biết nắm lấy tay nhau…
2.3. Mở rộng và liên hệ
-Tuy nhiên, sự sẻ chia, đồng cảm của người khác sẽ chỉ là vô nghĩa nếu ta không
có ý chí, nghị lực để chấp nhận và vượt qua nỗi buồn đau của mình. Người khác
không thể nâng ta dậy nếu ta không muốn đứng dậy.
-Sự đồng cảm, sẻ chia phải chân thành, xuất phát từ trái tim yêu thương nếu không
sẽ hời hợt, giả dối và chỉ gây thêm tổn thương cho người khác.
-Sự đồng cảm, sẻ chia đang ngày một hiếm hoi trong xã hội hiện đại khi căn bệnh
vô cảm đang trầm kha, lối sống thực dụng, ích kỉ lên ngôi.
3. Bài học rút ra:
-Sự đồng cảm, sẻ chia chính là một trong những động lực sống của con người, làm
cho mối quan hệ giữa người với người tốt đẹp, nhân văn hơn.
-Cần có những hành động sẻ chia thiết thực trong cuộc sống: với người thân, với
bạn bè, với những con người bất hạnh, kém may mắn trong xã hội.
2.Kiểu đề bài yêu cầu bàn về một ý nghĩa cụ thể của tác phẩm văn học
Đề 1: Đọc bài thơ sau:
Bản hợp đồng cuối cùng
Buổi sáng tôi đi trên con đường lát đá
Và rao lên: “Nào, ai thuê tôi thì đến thuê”

Ông vua ngồi trên xe đi tới,
22


kiếm cầm trong tay.
Ông nắm tay tôi và bảo
“Ta muốn thuê ngươi bằng quyền lực của ta”
Nhưng quyền lực của y thì có gì đáng kể,
và thế là y lại đi

Dưới trời trưa nóng bỏng
Những ngôi nhà đóng của đứng yên.
Tôi lang thang trên con đường nhỏ quanh co
Một ông già bước ra, mang một túi vàng.
Ông suy nghĩ rồi bảo:
“Ta sẽ thuê ngươi bằng tiền bạc của ta”.
Ông ta nhấc tiền lên, đồng này rồi đồng khác
nhưng tôi đã quay lưng.

Chiều đã xuống, khu vườn nở hoa đầy giậu.
Một cô gái xinh đẹp đến vào bảo
“Tôi sẽ thuê anh bằng một nụ cười”
Nụ cười của cô ta đã nhạt đi
và tan thành nước mắt,
và cô trở về trong bóng tối một mình

Ánh mặt trời long lanh trên cát
23



và sóng vỗ rì rào
Một cậu bé ngồi chơi với dăm vỏ ốc
Cậu ngẩng đầu lên và dường như cậu nhận ra tôi
rồi nói: “Tôi thuê anh với hai bàn tay trắng”
Và từ khi bản hợp đồng được kí chơi với cậu bé
tôi đã thành người tự do.
(Thơ Ta-go- Bản dịch của Đào Xuân Quý)
Từ ý nghĩa của “bản hợp đồng cuối cùng” trong bài thơ, anh/chị hãy bình
luận quan niệm về tự do của Ta-go.
A.Gợi ý chung:
-Vấn đề nghị luận: quan niệm về tự do của Ta-go: tự do nghĩa là sự giải thoát khỏi
ràng buộc của những dụng vọng, ham muốn tầm thường.
-Thao tác nghị luận hỗn hợp: bình luận, phân tích, giải thích, chúng minh…
B. Gợi ý triển khai vấn đề:
1.Phân tích ý nghĩa của bài thơ:
-Bài thơ có dáng dấp như một câu chuyện dân gian với tình huống đặc biệt:
một chàng trai ra giá thuê mình, đi tìm kiếm một bản hợp đồng. Lần lượt, nhà vua
thuê bằng quyền lực, ông già thuê bằng tiền bạc, cô gái xinh đẹp thuê bằng nhan
sắc… nhưng anh ta đều không đồng ý. Cuối cùng, chàng trai kí kết một bản hợp
đồng đặc biệt với một cậu bé, một thứ hợp đồng như trò chơi thuần túy tinh thần và
phi vật chất: chơi với cậu bé một ngày trên bãi biển, cậu bé chẳng có gì trả cho anh
và thực ra, anh không phải lao động đúng nghĩa. Chính lúc kí bản hợp đồng cuối
cùng này, anh cảm thấy “mình thành người tự do”.
-Ẩn sau mạch tự sự là mạch triết lí. Chàng trai ra giá thuê mình mà tại sao
lại không chấp nhận kí hợp đồng với người có quyền lực, có tiền bạc, có nhan sắc?
Là bởi vì những điều đó đều khiến anh ta thấy mất tự do. Bản hợp đồng với cậu bé
đã được kí kết vì anh thấy mình tự do. Như vậy, bài thơ là hành trình tìm kiếm tự
24



do, hành trình của một khát vọng. Từ đó, triết lí nảy ra: chỉ khi nào tâm hồn con
người được giải thoát khỏi sự cám dỗ, ràng buộc của quyền lực, tiền tài, sắc đẹp…
nghĩa là những ham muốn, dục vọng vật chất, thì mới có được sự tự do đích thực
trong tinh thần.
2.Bàn luận quan niệm về tự do của Ta-go
2.1. Giải thích khái niệm
-Tự do (của cá nhân) là trạng thái con người tự mình làm chủ mình, không lệ thuộc
vào người khác, không bị người khác chi phối và được nghĩ, được hành động theo
đúng những đòi hỏi của tâm hồn mình trên cơ sở nhận thức về lẽ phải.
-Tự do vừa là bản chất tự nhiên, vừa là khát vọng thường trực của mỗi con người.
Tìm kiếm tự do trở thành bản năng sống của mỗi người. Càng thiếu tự do, con
người càng khao khát tự do.
2.2. Lí giải quan niệm của Ta-go
?Vì sao giải thoát khỏi quyền lực, tiền bạc, sắc đẹp con người sẽ có tự do?
-Bản chất của con người khi sinh ra là tự do. Đó là quyền tự nhiên của mỗi con
người. Quyền lực, tiền bạc, sắc đẹp… là hiện thân cho những mong muốn, dụng
vọng vật chất có thể điều khiển, chi phối suy nghĩ, hành động của con người, khiến
con người không được sống đúng với mong muốn thực sự của mình, nghĩa là mất
tự do. Ngược lại, thoát khỏi cái nhà tù vô hình của dục vọng, con người sẽ có được
tự do trong tinh thần- một biểu hiện cao nhất, sâu sắc nhất của tự do.
?Vì sao tự do tinh thần là biểu hiện cao nhất, sâu sắc nhất của tự do?
-Tinh thần và thể xác của con người dù thống nhất nhưng luôn có sự độc lập tương
đối. Tự do thể xác đôi khi không đồng nghĩa với tự do tinh thần. Và tự do tinh thần
lại quyết định tự do thể xác. Tinh thần cảm thấy không tự do thì thể xác tự do cũng
vô nghĩa. Tinh thần tự do thì ngay cả khi thể xác bị cầm tù, con người vẫn thấy tự
do. Vì thế, tự do tinh thần là biểu hiện cao nhất và sâu sắc nhất của tự do.
-Tự do tinh thần đem đến sự thanh thản và cảm giác sung sướng thỏa nguyện, tức
là cảm giác hạnh phúc nên nó là thứ tự do cao nhất mà con người luôn khao khát,
kiếm tìm.
25



×