Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích vai trò của hoạt độnggiám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trongquản lí hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.52 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................2
NỘI DUNG.................................................................................................................................3
I. khái niệm và yêu cầu đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước.....................3
1. Khái niệm đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước..................................3
2. Yêu cầu đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước......................................3
II. Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước........................................................4
1. Hoạt động giám sát của Quốc hội..................................................................................4
2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân...................................................................6
III. Vai trò của hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo
pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước..........................................................................8
1. Vai trò hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí
hành chính nhà nước...........................................................................................................9
2. Vai trò hoạt động giám của hội đồng nhân dân đối với việc đảm bảo pháp chế trong
quản lí hành chính nhà nước.............................................................................................10
IV. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước.............................11
KẾT LUẬN...............................................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................14

1


MỞ ĐẦU
Đảm bảo pháp chế được củng cố, tăng cường và hoàn thiện là yêu cầu khách
quan của quá trình xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân và cũng là yêu
cầu của quá trình hoàn thiện con người và các quyền của họ trong xã hội, đặc biệt
trong quá trình quản lí hành chính nhà nước. Trong các biện pháp pháp lí đảm
bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước, hoạt động giám sát của cơ quan
quyền lực nhà nước giữ một vai trò quan trọng. Thông qua hoạt động giám sát cơ
quan quyền lực nhà nước trực tiếp chỉ đạo cũng như kiểm tra mọi mặt công tác


của cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, giúp cho cơ quan hành chính nhà
nước thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lí hành chính nhà nước trên tất cả
các mặt của đời sống xã hội, đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và
thống nhất… Chính vì, vậy em đã chọn đề tài: “Phân tích vai trò của hoạt động
giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong
quản lí hành chính nhà nước” để làm bài tập lớn lần này.

2


NỘI DUNG
I. khái niệm và yêu cầu đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính
nhà nước
1. Khái niệm đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp luật
mà còn chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội và con người. Nội dung của
pháp chế rất phong phú, trong đó nội dung cơ bản nhất là sự triệt để tôn trọng
pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân. Chính từ nội
dung này mà pháp chế là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất trong quản lí
hành chính nhà nước. Nói đến pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước là
nhấn mạnh đến trật tự pháp luật nhằm bảo vệ và phát triển quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, củng cố duy trì địa vị pháp lí hành chính của cơ quan nhà
nước và tổ chức xã hội.
Đảm bảo pháp chế tức là phải củng cố việc xây dựng cơ chế, phương tiện,
phương pháp và cách thức làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong
thực tế đem lại lợi ích cho Nhà nước, cho xã hội và cho người lao động.
Đảm bảo pháp chế là tổng thể các biện pháp, phương tiện, tổ chức - pháp lí do
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân áp dụng nhằm thực hiện chức
năng, quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và các tổ chức ấy cũng như
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân.

Việc đảm bảo pháp chế có ý nghĩa to lớn trong quản lí nhà nước nói chung,
trong quản lí hành chính nhà nước nói riêng, nếu: pháp chế được đảm bảo thông
qua đường lối chính trị của đảng cầm quyền, thông qua các biện pháp xã hội và
đạo đức, thông chế độ kinh tế của xã hội và sau cùng là pháp chế được đảm bảo
thông qua các chế độ pháp lí.
2. Yêu cầu đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
Đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước có nghĩa là bằng những
cơ chế và hoạt động pháp lí là cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong
thực tế và hoạt động của bộ máy nhà nước mà trước hết là hoạt động của bộ máy
hành chính nhà nước phải thực sự vì dân, khơi dậy trí tuệ và tinh thần, ý trí tự lực
tự cường của nhân dân, đem lại những tiện ích và thủ tục thực sự dễ hiểu, dễ làm
và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân theo một trật tự nhất định. Vì
thế đảm bảo pháp chế chúng ta phải:
Xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tạo cơ sở pháp lí đầy đủ để Nhà
nước pháp quyền Việt Nam hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình và nhân dân
lao động được bảo vệ. Xây dựng bộ máy tổ chức điều hành tinh gọn, đủ năng lực.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ năng lực đáp ứng yêu cầu của
việc thực hiện nhiệm vụ và công vụ được giao. Có nguồn kinh phí đáp ứng đầy
3


đủ yêu cầu của công cuộc đổi mới để thực hiện pháp luật, để xây dựng xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh...Nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của
nhân dân, xử lí nghiêm minh mọi trường hợp vi phạm pháp luật, tiến hành nhiều
hình thức, phương pháp và biện pháp khác nhau tạo lên sức mạnh tổng hợp để
thực hiện pháp luật trong phạm vi cả nước hay ở từng địa phương.
II. Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
Giám sát tức là theo dõi, kiểm tra, nhận định về một việc làm nào đó đúng hay
sai với những điều kiện đã quy định. Giám sát được tiến hành trên cơ sở những
quy định cụ thể. Giám sát là hoạt động có mục đích của một hay nhiều chủ thể

nhất định – là nội dung của hoạt động quản lí nhà nước và cũng là một hình thức
kiềm chế, đối trọng trong việc thực thi quyền lực nhà nước hiện nay. Thực hiện
tốt công tác giám sát là đòi hỏi cấp thiết của nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Ở nước ta khái niệm giám sát dùng để chỉ quyền của nhân dân lao động thông
qua hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước. Khoản 1 Điều 2 luật hoạt động
giám sát của Quốc hội năm 2003 đã quy định: “1. Giám sát là việc Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ
quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.”
1. Hoạt động giám sát của Quốc hội
Hoạt động của Quốc hội vừa là chức năng, vừa là nhiệm vụ và quyền hạn
của Quốc hội . Quyền đó được khẳng định cụ thể tại khoản 2 Điều 84 Hiến pháp
năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) và khoản 2 Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội
năm 2001: “Quốc hội …thực hiện quyền giám sát đối với toàn bộ hoạt động của
nhà nước”. Hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau, có thể định kì tại các kì họp của Quốc hội nhưng cũng có thể
được thực hiện thường xuyên thông qua Ủy ban thường vụ Quốc hội , các Ủy ban
của Quốc hội , các hội đồng của Quốc hội cũng như các đại biểu Quốc hội. Theo
đó đối tượng giám sát chỉ có thể là cơ quan và cá nhân do Quốc hội thành lập,
bầu hoặc phê chuẩn như Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, những người đứng đầu
của các cơ quan này và các thành viên của Chính phủ.
- Hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội: “Điều 15 Luật… Các
hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Ủy ban thường vụ Quốc hội
giám sát thông qua các hoạt động sau đây: 1. Xem xét báo cáo công tác của
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời
gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; 2. Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
4



dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; 3. Xem xét việc trả lời chất vấn
của người bị chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; 4. Xem xét báo
cáo hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; xem
xét nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có
dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội; 5. Xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân; 6. Tổ chức Đoàn giám sát.”
- Hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội: Điều 27
Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003: Hội đồng dân tộc, Ủy ban
của Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau đây: 1. Thẩm tra báo cáo
công tác của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
thuộc lĩnh vực Hội đồng, Ủy ban phụ trách hoặc theo sự phân công của Ủy ban
thường vụ Quốc hội; 2. Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước
có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội có dấu hiệu
trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy
ban thường vụ Quốc hội và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước
cấp trên; 3. Trong trường hợp cần thiết, yêu cầu Chính phủ, bộ, cơ quan ngang
bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo về hoạt động
thuộc lĩnh vực Hội đồng, Ủy ban phụ trách; 4. Tổ chức Đoàn giám sát; 5. Cử
thành viên đến cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét, xác minh về vấn đề mà
Hội đồng, Ủy ban quan tâm; 6. Tổ chức nghiên cứu, xử lý và xem xét việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
- Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội: “Điều
37 Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003: “1. Đại biểu Quốc hội

giám sát thông qua các hoạt động sau đây: a) Chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch
Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính
phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; b) Giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc thi hành pháp luật ở
địa phương; c) Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. 2. Đại
biểu Quốc hội tự mình tiến hành hoạt động giám sát hoặc tham gia hoạt động
giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội; tham gia Đoàn giám sát của Ủy ban thường
vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tại địa phương khi có yêu
cầu. Điều 38. Các hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội: Đoàn đại biểu
Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau đây: 1. Tổ chức Đoàn giám sát
của Đoàn đại biểu Quốc hội và tổ chức để các đại biểu Quốc hội trong Đoàn giám
sát việc thi hành pháp luật ở địa phương; giám sát văn bản quy phạm pháp luật
của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
2. Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân mà đại biểu Quốc hội,
5


Đoàn đại biểu Quốc hội đã chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
giải quyết; 3. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương trả lời về những
vấn đề mà Đoàn đại biểu Quốc hội quan tâm; 4. Cử đại biểu Quốc hội trong Đoàn
tham gia Đoàn giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy
ban của Quốc hội tại địa phương khi có yêu cầu.”
2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Căn cứ vào những quy định của Hiến pháp, điều 1 Luật tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 và nội dung hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân có thể xác định như sau: “giám sát của Hội đồng nhân dân
là quyền của Hội đồng nhân dân thực hiện theo dõi, xem xét và đánh giá hoạt
động của thường trực hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; các cơ quan nhà nước , tổ chức nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa

phương trong việc thực thi các nghi quyết của Hội đồng nhân dân; tuân theo
hiến pháp và pháp luật. Theo Điều 57 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân năm 2003: “Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân được
tiến hành thường xuyên, gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do
pháp luật quy định. Giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm: Giám sát của
Hội đồng nhân dân tại kì họp; giám sát của thường trực Hội đồng nhân dân;
giám sát của các ban của Hội đồng nhân dân và giám sát của đại biểu Hội đồng
nhân dân”. Điều 58 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm
2003: “Hội đồng nhân dân giám sát thông qua các hoạt động sau đây: 1. Xem
xét báo cáo công tác của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân,
Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; 2. Xem xét việc trả lời
chất vấn của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, các
thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc
Uỷ ban nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Toà án nhân
dân cùng cấp; 3. Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân
cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp khi phát hiện
có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp; 4.
Thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết; 5. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu.”
-Hoạt động giám sát của thường trực hội đồng nhân dân: theo Điều 66
luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 : “Thường trực
Hội đồng nhân dân có quyền giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân và các
cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, hoạt động của Toà án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
6


tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến

pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và các nghị quyết của
Hội đồng nhân dân cùng cấp. Theo điều 66 luật tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân năm 2003: “Thường trực Hội đồng nhân dân giám sát việc thi
hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo; tổ chức Đoàn giám sát hoặc giao cho các
Ban của Hội đồng nhân dân giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại địa
phương. Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Thường trực
Hội đồng nhân dân yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng
các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét trách
nhiệm, xử lý người vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm, đồng thời yêu cầu người có thẩm
quyền xem xét, giải quyết; nếu không đồng ý với việc giải quyết của người đó
thì yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp xem xét, giải
quyết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu
của Thường trực Hội đồng nhân dân và phải báo cáo Thường trực Hội đồng
nhân dân trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định giải quyết”. Điều
70 luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003: “Thường
trực Hội đồng nhân dân trình Hội đồng nhân dân xem xét các văn bản quy
phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân
dân cấp dưới trực tiếp trong trường hợp có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật,
các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết
của Hội đồng nhân dân cùng cấp”. Điều 71 luật tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân năm 2003: “Thường trực Hội đồng nhân dân trình Hội đồng
nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân
bầu theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp hoặc khi có
ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân yêu cầu”. Điều 72 luật
tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003: “Thường trực Hội
đồng nhân dân có trách nhiệm tiếp nhận kiến nghị, chất vấn của đại biểu Hội
đồng nhân dân để chuyển đến người bị chất vấn; thông báo cho người bị chất
vấn thời hạn và hình thức trả lời chất vấn”. Điều 73 luật tổ chức Hội đồng nhân

dân và Ủy ban nhân dân năm 2003: “Thường trực Hội đồng nhân dân điều hòa,
phối hợp hoạt động giám sát của các Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu
Hội đồng nhân dân; tổng hợp kết quả giám sát, trình Hội đồng nhân dân xem
xét, quyết định xử lý theo thẩm quyền”.
- Hoạt động giám sát của các ban của Hội đồng nhân dân: Điều 74 luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 quy định: “Trong hoạt
động giám sát, các Ban của Hội đồng nhân dân có những nhiệm vụ sau đây: 1.
Giúp Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân, các cơ quan
chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân và hoạt động của Toà án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp; 2. Giúp Hội đồng nhân dân giám sát cơ quan nhà
7


nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân
trong việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.” Theo
Điều 75 luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003: “Các
Ban của Hội đồng nhân dân giúp Hội đồng nhân dân giám sát thông qua các
hoạt động sau đây: 1. Thẩm tra các báo cáo, đề án do Hội đồng nhân dân hoặc
Thường trực Hội đồng nhân dân phân công; 2. Xem xét văn bản quy phạm
pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân
cấp dưới trực tiếp trong trường hợp có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, các
văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của
Hội đồng nhân dân cùng cấp; 3. Trong trường hợp cần thiết, yêu cầu Uỷ ban
nhân dân, các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp báo cáo về những vấn đề thuộc lĩnh vực Ban
phụ trách; 4. Tổ chức Đoàn giám sát; 5. Cử thành viên đến cơ quan, tổ chức
hữu quan để xem xét, xác minh về vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ban;
6. Tổ chức nghiên cứu, xử lý và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân.”


III. Vai trò của hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
Cơ quan quyền lực nhà nước giám sát hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước cùng cấp. Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp thực hiện quyền lực nhà nước một cách thường xuyên và trực tiếp chỉ đạo
cũng như kiểm tra mọi mặt công tác của cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp.
Cũng thông qua hoạt động giám sát các cơ quan quyền lực nhà nước có thể phát
hiện những yếu kém, những khuyết điểm trong công tác tổ chức và hoạt động
cũng như những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật và
thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định đối với các cơ quan hành chính nhà
nước. Trên cơ sở đó cơ quan quyền lực nhà nước kịp thời đề ra những thời gian
cụ thể và biện pháp thích hợp khắc phục những khó khăn và tồn tại. Đồng thời
cũng thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có
dịp kiểm nghiệm tính hợp lí và hợp pháp của các văn bản pháp luật do chính
mình ban hành, nếu phát hiện thấy khuyết điểm về hình thức hay nội dung thì các
cơ quan quyền lực nhà nước nói trên phải đưa ra những biện pháp khắc phục.
Thông qua đó những cơ quan này đưa yêu cầu những biện pháp cải tiến chế độ,
quy trình lập pháp, quy trình nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước. Thông qua hoạt
động giám sát Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phát hiện ra những vi
phạm pháp luật xâm phạm đến trật tự và lợi ích nhà nước, xã hội và công dân của
cán bộ nhà nước, từ đó kịp thời xử lí hoặc yêu cầu các cấp, các ngành xử kí
nghiêm minh những vi phạm đó để củng cố pháp chế. Các hình thức, phương
8


pháp giám sát được triển khai đem lại kết quả khá tốt, góp phần vào việc thực
hiện nhiệm vụ, mục tiêu của công cuộc đổi mới, tăng cường hiệu quả hoạt động
của bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân.
Cụ thể vai trò hoạt động giám sát của từng cơ quan quyền lực nhà nước đối với

việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước nhưu sau:
1. Vai trò hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc đảm bảo
pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước

Mọi hoạt động quản lý hành chính nhà nước đều phải thực hiện trong khuôn
khổ pháp luật và trên cơ sở quy định của pháp luật; pháp luật là yếu tố có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng và hiệu quả của quản lý nhà
nước. Hoạt động giám sát có tác động tới chất lượng của hệ thống pháp luật.
Thông qua hoạt động giám sát công tác xây dựng pháp luật, giám sát thực tiễn
việc thi hành pháp luật mà Quốc hội nắm được lĩnh vực nào của đời sống xã hội
cần phải xây dựng văn bản để điều chỉnh và mức độ cần thiết để ban hành đến
đâu để lập dự kiến chương trình xây dựng pháp luật. Đồng thời, thông qua hoạt
động giám sát mà Quốc hội có cơ sở để thẩm tra, xem xét một cách kỹ lưỡng và
thực tế các dự kiến chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật được trình Quốc
hội để quyết định thông qua. Như vậy, thông qua giám sát việc thi hành pháp
luật, Quốc hội có cơ sở vững chắc để thẩm tra, xem xét, cho ý kiến đối với dự án
pháp luật; đồng thời cũng chính là thực hiện tốt công tác giám sát đối với lĩnh
vực xây dựng pháp luật của các cơ quan quản lý các cấp. Thực hiện tốt công tác
giám sát, Quốc hội có điều kiện thuận lợi để xây dựng một hệ thống pháp luật
hoàn thiện, có hiệu lực và tính khả thi cao, làm cơ sở và tiền đề vững chắc cho
hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Qua đó, góp phần quan trọng nâng cao
hiệu lực quản lý hành chính nhà nước.
Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội nắm bắt được những vấn đề thuộc về
quản lý hành chính nhà nước cần giải quyết, trong đó có những vấn đề thuộc
thẩm quyền giải quyết bằng các quyết định của Quốc hội. Kết quả hoạt động
giám sát là cơ sở thực tiễn quan trọng nhằm bảo đảm cho các quyết định của
Quốc hội thực sự khách quan, có cơ sở thực tiễn và bảo đảm tính khả thi. Đồng
thời, thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội nắm bắt được việc triển khai thi
hành các quyết định của Quốc hội trên thực tế như thế nào để có biện pháp xử lý
kịp thời và bảo đảm để các quyết định đó phải được các cơ quan nhà nước có

trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh. Qua đó, hoạt động giám sát góp phần nâng
cao chất lượng việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước của Quốc hội,
tạo tiền đề cần thiết và thuận lợi cho các cơ quan quản lý hành chính nhà nước
căn cứ vào đó mà triển khai thực hiện.
Thông qua hoạt động giám sát, hoạt động của Hội đồng nhân dân, Quốc hội,
mà trực tiếp là Uỷ ban thường vụ Quốc hội có vai trò rất quan trọng trong việc
bảo đảm hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân. Từ đó mà bảo đảm cho hiệu
9


quả hoạt động chung của cả bộ máy chính quyền địa phương, bảo đảm cho việc
thi hành pháp luật tại các địa phương trên cả nước được thống nhất và có hiệu
quả cao.
Hoạt động giám sát của Quốc hội góp phần năng cao hiệu quả quản lí hành
chính nhà nước thông qua việc giám sát trực tiếp các hoạt động quản lí hành
chính nhà nước. Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, đứng đầu
hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Thông qua việc xem xét các báo cáo của
Chính phủ, Quốc hội thực hiện được sự giám sát một cách toàn diện các hoạt
động của Chính phủ, trong đó tập trung vào những vấn đề quan trọng nhất, đồng
thời cũng thông qua xem xét các báo cáo của Chính phủ mà Quốc hội nắm bắt
được tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Từ đó, Quốc hội có cơ sở thực tiễn
để tiếp tục đề ra những chủ trương, định hướng mới để Chính phủ tổ chức thực
hiện, điều chỉnh kịp thời những chủ trương, biện pháp chưa phù hợp và uốn nắn
những sai sót trong tổ chức thực hiện của Chính phủ. Việc Quốc hội xem xét các
báo cáo của Chính phủ thực sự có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc không
những tạo cơ sở pháp lý để Chính phủ tổ chức triển khai các biện pháp quản lý
hành chính nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại… mà còn góp phần bảo đảm cho các chủ trương, biện pháp quản lý hành
chính nhà nước của Chính phủ được điều chỉnh phù hợp hơn, có tính khả thi hơn
trong thực tiễn. Qua công tác giám sát trực tiếp việc thực hiện các nhiệm vụ kinh

tế - xã hội của Chính phủ, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu
Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đã góp phần rất quan trọng trong việc kiểm
tra, đôn đốc các hoạt động nhằm tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật của Chính
phủ, các cơ quan chịu sự chỉ đạo của Chính phủ. Qua đó, Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội trực tiếp góp phần
phát hiện và kiến nghị những biện pháp về mặt quản lý hành chính nhà nước giúp
Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình, uốn
nắn kịp thời những sai phạm xảy ra trong hoạt động quản lý hành chính nhà
nước.
2. Vai trò hoạt động giám của hội đồng nhân dân đối với việc đảm
bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước

Trong quản lí hành chính nhà nước hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân
được xem là biện pháp bảo về hữu hiệu. Có thể thấy rằng trong những năm gần
đây đặc biệt từ khi luật tổ chức hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003
đã có hiệu lực pháp luật, thì hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân ngày
càng được quan tâm và có hiệu quả hơn. Bởi vì, hoạt động giám sát của hội đồng
nhân dân trong quản lí hành chính nhà nước mang ý nghĩa rất quan trọng.
Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân trong thời gian qua đã kịp thời
phát hiện những điểm chưa hợp lí trong quản lí hành chính nhà nước của các cơ
quan nhà nước, kiến nghị những biện pháp khắc phục một cách có hiệu quả
10


những điểm chưa hợp lí đó sao cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Thông qua
hoạt động giám sát, hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền lực nhà nước một
cách thường xuyên và trực tiếp chỉ đạo cũng như kiểm tra mọi mặt công tác của
các Cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp. Hoạt động giám sát của hội đồng
nhân dân đảm bảo cho mọi hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát phải
thực hiện đúng và đầy đủ những quy định của hiến pháp và pháp luật, nghị quyết

của hội đồng nhân dân. Thông qua hoạt động giám sát, hội đồng nhân dân có thể
phát hiện những khuyết điểm những yếu kém trong công tác tổ chức và hoạt động
cũng như những khó khăn vưỡng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật và thực
hiện nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định đối với các Cơ quan hành chính nhà
nước.
Trong lĩnh vực ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì hoạt động giám sát,
kiểm tra của hội đồng nhân dân là một nội dung của hoạt động quản lí nhà nước
mà biểu hiện rõ nét nhất là cơ quan giám sát. Thông qua hoạt động giám sát của
hội đồng nhân dân có dịp kiểm nghiệm tính hợp lí và hợp pháp của các văn bản
pháp luật do chính mình ban hành. Nếu phát hiện những khuyết điểm về hình
thức hay nội dung thì hội đồng nhân dân phải đưa ra những biện pháp khắc phục
kịp thời.
Thông qua hoạt động giám sát Hội đồng nhân dân các cấp phát hiện ra những
vi phạm pháp luật xâm hại đến trật tự và lợi ích nhà nước, xã hội và công dân của
cán bộ nhà nước, từ đó kịp thời xử lí nghiêm minh những vi phạm đó để củng cố
pháp chế.
Tóm lại, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân góp phần tích cực vào
việc phát hiện những sai trái của cơ quan, tổ chức cơ sở trong việc chấp hành
pháp luật, trên cơ sở đó có kiến nghị với cấp có thẩm quyền giải quyết, xử lí kịp
thời những sai phạm đó. Đôn đốc các cơ quan, tổ chức hữu quan thực hiện nghị
quyết của Hội đồng nhân dân và của cấp trên, cũng như quyết định các vấn đề
bức xúc ở địa phương, đảm bảo thi hành có hiệu quả các quy định của pháp luật
và nghị quyết của hội đồng nhân dân địa phương, góp phần ngăn chặn, phòng
ngừa và xử lí nghiêm minh, kịp thời đối vớ hành vi phạm pháp luật, đảm bảo
pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có hiệu lực, hiệu quả,
bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể, cá nhân cũng như toàn xã hội.
IV. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của cơ
quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí
hành chính nhà nước
Việc tăng cường hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước là một

biện pháp đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước, tức là đảm bảo
cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật. Vì vậy, đối với cơ quan quyền lực nhà nước phải có biện pháp hoạt động
thích hợp, có hiệu quả để nhanh chóng phát hiện, làm sáng tỏ các vụ việc tiêu
11


cực, vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp xử lí nghiêm minh, chính xác,
đúng quy định của pháp luật, có như vậy thì hoạt động quản lí hành chính nhà
nước mới phát huy được hiệu quả của nó là một biện pháp đảm bảo pháp chế
trong quản lí hành chính nhà nước, là cơ sở đảm bảo cho hoạt động của bộ máy
hành chính nhà nước được nhịp nhàng, đồng bộ, phát huy hiệu lực của nhà nước
và đảm bảo công bằng xã hội.
Hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước trong quản lí hành chính nhà nước, tạo cơ sở đầy đủ để cơ quan quyền lực
nhà nước hoàn thành tốt hoạt động giám sát của mình trong quản lí nhà nước nói
chung và quản lí hành chính nhà nước nói riêng.
Cơ quan quyền lực nhà nước phải tăng cường hoạt động giám sát trong quản lí
hành chính nhà nước hơn nữa phải làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả
trong thực tế cuộc sống muốn vậy hoạt động giám giám sát của cơ quan quyền
lực nhà nước trong quản lí hành chính nhà nước phải phù hợp với mục đích nội
dung và yêu cầu của quy phạm pháp luật, phải nằm trong khuôn khổ và phạm vi
thẩm quyền cũng như chức năng mà pháp luật đã quy định và hoạt động giám sát
của cơ quan quyền lực nhà nước phải thực sự vì dân, khơi dậy trí tuệ và tinh thần,
ý trí tự lực, tự cường của nhân dân, đem lại những tiện ích và thủ tục thực sự dễ
hiểu, dễ làm và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân theo một trật tự
nhất định…không ngừng tạo điều kiện thuận lợi cả về vật chất và cơ chế để
người lao động không phân biệt địa vị xã hội, có thể thực hiện tốt các quyền và
lợi ích hợp pháp của họ, đặc biệt là các quyền tự do mà hiến pháp và pháp luật đã
quy định.


12


KẾT LUẬN
Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước thực sự là một công cụ
hữu hiệu để đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước, góp phần vào
việc thực hiện nhiệm vụ mục tiêu của công cuộc đổi mới, tăng cường hiệu quả
hoạt động của bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
Do kiến thức còn hạn hẹp, bài tập của em vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong
thầy cô thông cảm và bổ sung để em có thể có những hiểu biết hơn về vấn đề
này. Em xin chân thành cảm ơn!

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật hành chính, Trường đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội 2011
2. Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, Trường đại học luật Hà Nội, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội 2010
3. Hiến pháp việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992), Nxb Lao động – Xã hội.
4. Luật tổ chức Quốc hội năm 2001
5. Luật về hoạt động giám sát của quốc hội 2003
6. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003
7. Vũ Lan Phương – Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Một số gải
pháp nhằm đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước, Bộ tư pháp
trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội 2010
8. Đặng Thị Bích Huệ - Vai trò của đại biểu Quốc hội với vieecjt hực hiện

chức năng giám sát của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay, Bộ tư pháp trường
Đại học luật Hà Nội, Hà Nội 2010
9. Nguyễn Thị Ngọc - Hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hộithực trạng và giải quyết, Bộ tư pháp trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội 2011
10. Mai Thị Mai – Vai trò của hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực
của Quốc hội đối với việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội trong giai
đoạn hiện nay, Bộ tư pháp trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội 2010

14



×